Nội dung và phương pháp nghiên cứu
Địa điểm nghiên cứu
Đề tài thực hiện nghiên cứu trên địa bản tỉnh An Giang nằm ở miền Tây
Nam Bộ có diện tích 3.536,76 km², chủ yếu là đồng bằng phẳng, với hai con sông lớn là sông Tiền và sông Hậu cung cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất Nước ngầm cũng rất quan trọng cho sự phát triển của tỉnh, với sáu tầng nước ngầm bao gồm Holocen, Pleistocen thượng, Pleistocen trung-thượng, Pleistocen hạ, Pliocen trung và Pliocen hạ Tuy nhiên, do khai thác quá mức, trữ lượng nước ngầm đang giảm nhanh chóng Trước đây, Liên đoàn Địa chất thủy văn 8 đã tính toán trữ lượng nước ngầm bằng phương pháp tĩnh, vì vậy cần phát triển một mô hình toán để mô phỏng và đánh giá trữ lượng nước ngầm nhằm đảm bảo phát triển bền vững cho tỉnh.
Thời gian nghiên cứu
- Thời gian thực hiện đề tài: từ tháng 12/2015 đến tháng 10/2016;
- Thời gian thu thập số liệu: tháng 12/ 2015, tháng 1/2016.
Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tập trung vào tài nguyên nước ngầm tại tỉnh An Giang, bao gồm các yếu tố như điều kiện thủy văn và khí tượng, tình hình sử dụng và khai thác nước ngầm, cũng như đặc điểm địa chất thủy văn của các tầng nước ngầm trong khu vực.
Nội dung nghiên cứu
- Điều kiện tự nhiên tỉnh An Giang;
- Tình hình sử dụng đất tỉnh An Giang;
- Nhu cầu sử dụng nước tỉnh An Giang.
- Lịch sử thành tạo địa chất tỉnh An Giang;
- Lỗ khoan thăm dò trên địa bàn tỉnh An Giang;
- Mô tả địa chất tỉnh An Giang.
Phân tầng địa chất thủy văn bao gồm 6 tầng nước ngầm và 6 tầng cách nước, cụ thể là: tầng cách nước Holocen, tầng nước ngầm Holocen, tầng cách nước Pleistocen thượng, tầng nước ngầm Pleistocen thượng, tầng cách nước Pleistocen trung-thượng, tầng nước ngầm Pleistocen trung-thượng, tầng cách nước Pleistocen hạ, tầng nước ngầm Pleistocen hạ, tầng cách nước Pliocen trung, tầng nước ngầm Pliocen trung, tầng cách nước Pliocen hạ và tầng nước ngầm Pliocen hạ.
- Tình hình khai thác nước ngầm tỉnh An Giang.
Phần mềm Visual MODFLOW 4.2 sử dụng phương trình Darcy và phương pháp sai phân hữu hạn để mô phỏng dòng chảy nước ngầm ba chiều tại An Giang Mô-đun MODFLOW đóng vai trò quan trọng trong việc tính toán cân bằng nước trong mô hình.
Trong đó Kxx, Kyy, Kzz là hệ số dẫn nước; S là hệ số nhả nước trọng lực và
W là lượng nước khai thác hoặc bổ sung Ý nghĩa các đại lượng trong phương trình trên cũng đã được trình bày ở mục 2.2.1.
Mô hình địa chất được cấu trúc dựa vào điểm địa tầng liên quan đến lịch sử kiến tạo, với các đơn vị tầng đá gốc chủ yếu là đá trước Cenozoic Bên cạnh đó, các tầng nước ngầm từ Holocen, Pleistocen và Pliocen cũng được phân tích, bao gồm giá trị phân bố độ dày và các thông số địa chất thủy văn Đặc điểm của các vùng bổ cập nước ngầm cũng được xem xét để hiểu rõ hơn về hệ thống nước ngầm trong khu vực.
Điều kiện biên bao gồm biên không có dòng chảy, nằm giáp tầng đá mẹ và ranh giới vùng núi, cũng như biên áp lực nước ngầm từ các giếng khoan quan trắc ở các tỉnh lân cận.
- Dữ liệu các giếng khoan khai thác trong địa bàn tỉnh.
- Bản đồ số độ cao (DEM), bản đồ mạng lưới sông ngòi và giao động mực nước
- Số liệu khí tượng về mưa, bốc hơi nước.
3.4.4.3 Thiết lập mô hình cấu trúc 3D
Tiến hành thiết lập một mô hình cấu trúc 3D bằng công cụ ArcHydro
Groundwater trong ArcMap trước khi thiết lập mô hình nước ngầm MODFLOW.
Mô hình 3D cung cấp cái nhìn trực quan về cấu trúc địa tầng trong khu vực nghiên cứu, cho phép kiểm tra trực quan dữ liệu về cấu trúc địa chất thủy Nhờ đó, chúng ta có thể phân tích và xác định ranh giới các tầng nước ngầm với độ tin cậy cao hơn.
3.4.4.4 Thiết lập mô hình nước ngầm MODFLOW
Sử dụng phần mềm Visual MODFLOW phiên bản 4.2 để thiết lập mô hình số tại An Giang, nghiên cứu này tập trung vào việc xây dựng mô hình cấu trúc 3D và kiểm tra ranh giới các địa tầng Qua đó, xác định các biên và thông số đặc trưng cho từng địa tầng, đồng thời nhập dữ liệu từ các giếng quan trắc và giếng bơm trong khu vực tỉnh An Giang.
3.4.4.5 Hiệu chỉnh và kiểm chứng mô hình
Điều chỉnh giá trị thông số của từng tầng địa chất nhằm giảm thiểu sự chênh lệch giữa kết quả mô phỏng và số đo quan trắc là rất quan trọng.
3.4.5 Tính toán cân bằng nước tỉnh An Giang
Tính toán cân bằng nước tại tỉnh An Giang là cần thiết để xây dựng các kịch bản khai thác nước ngầm Điều này giúp đánh giá và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên nước ngầm, mang lại lợi ích lâu dài và bền vững cho khu vực.
3.4.6 Tính toán cân bằng nước theo các kịch bản phát triển nguồn nước
Từ kết quả mô hình, thực hiện các kịch bản khai thác nước ngầm để đảm bảo tính ổn định của nguồn tài nguyên.
Phương pháp nghiên cứu
3.5.1 Phương pháp thu thập, tổng hợp tài liệu, số liệu
Thu thập các thông tin về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh An Giang.
Kế thừa bản đồ, bản vẽ địa chất thủy văn khu vực nghiên cứu.
Kế thừa số liệu độ cao của các tầng nước ngầm và các tầng cản nước khu vực nghiên cứu.
Kế thừa giá trị các thông số địa chất thủy văn của các tầng nước ngầm.
Thu thập các thông tin, thừa kế số liệu về hệ thống các lỗ khoan khu vực nghiên cứu.
3.5.2 Phương pháp xử lý số liệu với GIS và Excel
1) Trên cơ sở dữ liệu điều tra thu thập được, nghiên cứu này sử dụng Arc Map và Map Info để:
Sử dụng ứng dụng Arc Map 10.2.2 để thiết lập các điều kiện biên cho mô hình, bao gồm việc xác định giới hạn mô hình, ranh giới khu vực nghiên cứu, ranh giới tỉnh và ranh giới quốc gia.
Sử dụng ứng dụng MapInfor Professional 9.0 xuất dữ liệu các lỗ khoan từ các bản vẽ đuôi *.TAB và * WOR
2) Dùng Excel xử lý dữ liệu giếng khai thác.
3.5.3 Phương pháp xây dựng mô hình cấu trúc 3D
Công cụ ArcHydro Groundwater của ESRI cho phép thiết lập mô hình 3D để thể hiện ranh giới các địa tầng trong khu vực nghiên cứu, giúp kiểm tra trực quan cấu trúc địa tầng bằng cách sử dụng nhiều nguồn tài liệu khác nhau Mô hình 3D cung cấp cái nhìn rõ ràng về cấu trúc địa chất thủy văn, đồng thời cho phép đánh giá độ tin cậy của dữ liệu từ các giếng khai thác và quan trắc nước ngầm, bao gồm việc kiểm tra độ sâu giếng và độ sâu của tầng khai thác.
Việc thành lập mô hình 3D trực quan là xu hướng mới trên thế giới về nghiên cứu mô phỏng nước ngầm trong thập kỷ qua.
3.5.4 Phương pháp xây dựng mô hình bằng phần mềm Visual MODFLOW
Nghiên cứu này áp dụng mô hình Visual MODFLOW để xây dựng mô hình nước ngầm cho tỉnh An Giang Phần mềm Visual MODFLOW, được phát triển bởi công ty Waterloo Hydrogeologic tại Canada và ra mắt vào năm 1994, đã được sử dụng phổ biến trên toàn cầu Thông tin chi tiết về phần mềm này được trình bày trong phần Tổng quan, trang 13.
Quá trình lập mô hình số bao gồm nhiều giai đoạn và quyết định quan trọng để đạt được kết quả đáng tin cậy Trong suốt quá trình này, việc tham khảo tài liệu là cần thiết để thực hiện các bước và lựa chọn trong mô hình hóa, đặc biệt chú trọng đến việc xử lý dữ liệu Dưới đây là danh sách các bước theo quy trình đã được thực hiện trong quá trình thiết lập mô hình.
- Thảo luận về mục tiêu của mô hình và quyết định giải pháp số phù hợp nhất với dữ liệu sẵn có, chất lượng và mục tiêu;
- Kiểm tra ban đầu các nguồn dữ liệu thu thập;
- Hiểu rõ được tình trạng địa chất và thiết lập một mô hình cấu trúc địa chất thủy văn;
Tổng hợp các thông số cần thiết và xác định điều kiện biên là bước quan trọng trong quá trình chuẩn bị dữ liệu đầu vào cho mô hình số Việc này đảm bảo rằng các điều kiện biên được thiết lập chính xác, từ đó nâng cao độ tin cậy và hiệu quả của mô hình.
- Tìm kiếm hoặc yêu cầu thông tin bổ sung và xử lý nếu có thể;
- Kiểm chứng mô hình và kiểm tra về độ nhạy các thông số;
- Xử lý dữ liệu và kết quả.
3.5.5 Phương pháp đánh giá tiềm năng nước ngầm
Chạy mô hình đã được kiểm định cho nhiều kịch bản sử dụng nước khác nhau giúp xác định rằng các kịch bản này không ảnh hưởng đáng kể đến áp suất của các tầng nước ngầm.
Nguyên lý bền vững trong khai thác nước ngầm yêu cầu tổng lượng khai thác phải tương đương với lượng nước bổ sung cho các tầng nước ngầm Để đạt được điều này, cần sử dụng mô hình để xác định các kịch bản khai thác khác nhau về số lượng và phân bố theo thời gian, không gian Qua đó, mô hình sẽ giúp xác định các kịch bản không làm giảm áp lực nước ở các tầng chứa nước ngầm.
Phương pháp xây dựng kịch bản:
- Điều tra khảo sát tình hình khai thác nước ngầm
- Tính toán nhu cầu nước để tính nhu cầu nước trong tương lai theo kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội
- Xây dựng kịch bản khai thác nước ngầm.
Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Khu vực nghiên cứu
An Giang là một tỉnh thuộc miền Tây Nam Bộ, nằm trong đồng bằng sông Cửu Long và một phần của vùng Tứ giác Long Xuyên Tỉnh này có đường biên giới giáp với Campuchia, đồng thời là nơi sinh sống của nhiều dân tộc và tôn giáo đa dạng.
An Giang có diện tích tự nhiên 3.537,40km 2 , dân số 2.155.800 người (số liệu thống kê đến 21/7/2014).
Hình 4.1 Bản đồ địa giới hành chính tỉnh An Giang
Nguồn: www.angiang.gov.vn
Tỉnh An Giang, nằm ở phía bắc-tây bắc, giáp với Campuchia trên chiều dài 104km theo Hiệp ước biên giới VN-CPC ký ngày 27/12/1985 Phía tây nam tỉnh giáp tỉnh Kiên Giang với chiều dài 69,78km, phía nam giáp TP Cần Thơ dài 44,73km, và phía đông giáp tỉnh An Giang dài 107,63km Điểm cực bắc của tỉnh nằm ở vĩ độ 10°57 (xã Khánh An, huyện An Phú), cực nam ở vĩ độ 10°12 (xã Thoại Giang, huyện Thoại Sơn), cực tây tại kinh độ 104°46 (xã Vĩnh Gia, huyện Tri Tôn), và cực đông ở kinh độ 105°35 (xã Bình Phước Xuân, huyện Chợ Mới).
Chiều dài nhất theo hướng bắc nam 86km và đông tây 87,2km Giới hạn tọa độ địa lý như sau:
Từ 10 o 10’40” đến 10 o 58’00” Vĩ độ bắc.
Từ 104 o 46’00” đến 105 o 35’00” Kinh độ đông.
Theo Sở Tài nguyên tỉnh An Giang (2010), khí hậu nơi đây mang đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, với hai mùa rõ rệt: mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau.
Các yếu tố khi tượng thủy văn của vùng nghiên cứu:
Mưa tại tỉnh An Giang chủ yếu do ảnh hưởng của áp thấp nhiệt đới và gió mùa Tây Nam từ vịnh Beigan, mang theo lượng hơi nước lớn.
Do nhiệt độ mặt đất tăng cao tạo ra các dòng đối lưu, lượng mưa trong các trận mưa chiều thường chỉ đạt từ 15-20 mm trong diện hẹp Tuy nhiên, vẫn có những trận mưa giông với lượng mưa vượt quá 100 mm Một nguyên nhân khác gây ra mưa lớn và kéo dài là sự di chuyển của dải hội tụ nhiệt đới trên đồng bằng Nam Bộ.
Lượng mưa trung bình hàng năm tại An Giang dao động từ 1200 đến 1600 mm, với khu vực đồi núi là nơi nhận mưa nhiều nhất Mỗi năm, An Giang trải qua khoảng 140-180 ngày mưa, bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào tháng 10.
11 Tổng lượng mưa mùa mưa chiếm 80-85% tổng lượng mưa năm Lượng mưa mùa mưa lớn lại trùng vào mùa nước lũ của sông Mê Công dồn về hạ lưu nên đã gây ra tình trạng úng tổ hợp với ngập lụt, chi phối đến nhiều hoạt động sản xuất và đời sống.
Bảng 4.1 Tổng lượng mưa tại An Giang qua một số năm
Trong mùa khô, với nắng gắt và độ ẩm không khí thấp, lượng bốc hơi trung bình đạt 110mm/tháng, có thể lên tới 160mm vào tháng 3 Ngược lại, trong mùa mưa, lượng bốc hơi giảm xuống còn 85mm/tháng, với mức thấp nhất khoảng 52mm/tháng vào tháng 9 hoặc tháng 10, khi có mưa nhiều và độ ẩm cao.
4.1.2.3 Độ ẩm Ở An Giang, mùa có độ ẩm thấp (nhỏ hơn 80%) thường bắt đầu từ tháng 12 và kéo dài đến tháng 4 năm sau Nghĩa là mùa có độ ẩm thấp trùng với mùa khô. Mùa khô độ ẩm ở thời kì đầu là 82% , giữa 78%, và cuối còn 72% Mùa mưa ở đây thật sự là một mùa ẩm ướt Độ ẩm trung bình trong những tháng mùa mưa đều 84%, cá biệt có tháng đạt xấp xỉ 90%.
Nhiệt độ trung bình ở An Giang rất cao và ổn định, với chênh lệch nhiệt độ giữa các tháng trong mùa khô chỉ khoảng 1,5° đến 3° và trong mùa mưa chỉ khoảng 1° Tháng 4 thường ghi nhận nhiệt độ cao nhất trong năm, dao động từ 36° đến 38°, trong khi tháng 10 là tháng có nhiệt độ thấp nhất, dưới 18°, như đã thấy vào các năm 1976 và 1998.
Chế độ gió ở An Giang đặc trưng với hai mùa gió rõ rệt: từ tháng 5 đến tháng 10 là gió mùa Tây Nam, mang theo độ ẩm và mưa với tốc độ gió trung bình từ 1,5 đến 3,0m/s; trong khi từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau là gió mùa Đông Bắc, có đặc điểm lạnh và khô với tốc độ gió trung bình từ 1,0 đến 2,5m/s An Giang ít bị ảnh hưởng trực tiếp bởi bão, mặc dù có hiện tượng lốc xoáy xảy ra trong mùa mưa nhưng tần suất thấp nên mức độ tác động không lớn.
An Giang có điều kiện khí hậu thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp với nhiệt độ cao ổn định quanh năm, nhiều nắng và ít bão Điều này tạo điều kiện cho việc thâm canh, tăng vụ và nâng cao năng suất cây trồng một cách hiệu quả.
4.1.3 Thổ nhưỡng và sử dụng đất
Theo Sở Tài nguyên và Môi trường An Giang (2013), khu vực nghiên cứu có ba nhóm đất chính: đất phèn, đất phù sa và đất đồi núi Đất phèn, chứa nhiều gốc sunphat (SO42-) và có độ pH rất thấp (2-3), chủ yếu phân bố ở huyện Tri Tôn, Tịnh Biên và một phần Châu Phú, với tổng diện tích khoảng 30.136 ha, trong đó Tri Tôn chiếm 67% Nhóm đất này hình thành từ quá trình biển tiến cách đây 6.000 năm, đặc biệt trong môi trường vũng vịnh biển nông, nơi rừng ngập mặn phát triển mạnh mẽ Đất phèn ở An Giang được phân loại theo nguồn gốc hình thành và mức độ nhiễm phèn, bao gồm các loại tầng đất sinh phèn (phèn tiềm tàng), tầng đất than bùn chứa phèn, đất nhiều phèn và đất bị nhiễm phèn.
Nhóm đất phèn tiềm tàng ở An Giang chủ yếu tập trung tại các xã như Vọng Thế, Vọng Đông (Thoại Sơn), Ô Long Vĩ, Thạch Mỹ Tây (Châu Phú), Tân Tuyến, Tà Đảnh (Tri Tôn) và Tân Lợi (Tịnh Biên) Đặc điểm của đất phèn tiềm tàng phụ thuộc vào địa hình, độ dày của lớp phủ và mức độ sinh phèn, với tầng sinh phèn ở một số xã như Vĩnh Phú, Thoại Giang, Tây Phú, Vọng Thê nằm ở độ sâu 80-100cm so với mặt đất Khi di chuyển về hướng tây nam, độ dày lớp phủ giảm và tầng phèn xuất hiện gần bề mặt hơn Thành phần chủ yếu của đất phèn tiềm tàng bao gồm 40,83% sét, 45,13% bột và 4,15% cát mịn.
Đất phèn nhiều là loại đất chưa phát triển với hoạt động phèn mạnh mẽ, nằm trên tầng sinh phèn Loại đất này chủ yếu phân bố ở các thung lũng hẹp phía tây và đông của vùng Thất Sơn (Bảy Núi), tạo thành vành đai gần như khép kín quanh vùng đồi núi Đặc điểm địa lý của nó bắt đầu từ kênh Vĩnh Tế, đi qua An Nông, vòng qua thung lũng giữa Lạc Quới và núi Phú Cường đến kênh mới, tiếp tục chạy dọc theo kênh Tám Ngàn nối thông qua Tri Tôn Thành phần hạt của đất phèn nhiều chủ yếu là sét (41,31%), bột (36,68%) và cát (4,75%).
Địa chất
4.2.1 Lịch sử thành tạo địa chất
Theo Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Nam (2007), lịch sử phát triển kiến tạo tỉnh An Giang được phân chia thành hai vĩ kỳ chính: vĩ kỳ tạo vỏ lục địa Tiền Cambri và vĩ kỳ phá hủy vỏ cổ, dẫn đến hình thành địa máng Paleozoi Các quá trình này đã được cố kết vào Paleozoi muộn – Mesozoi sớm, nơi phát triển các thành tạo núi lửa Mesozoi muộn kiểu rìa lục địa tích cực cùng với lớp phủ Mesozoi muộn – Cenozoi Vĩ kỳ sau được chia thành bốn giai đoạn phát triển kiến tạo chủ yếu.
Trong thời kỳ Paleozoi và Mesozoi sớm, khu vực phía tây nam đứt gãy Sông Hậu đã bị ảnh hưởng bởi hoạt động địa máng, dẫn đến sự hình thành vỏ lục địa mới theo kiểu địa máng tại Châu Đốc.
Vào thời kỳ Mesozoi muộn, khu vực Long Xuyên nằm ở phần tây nam của đới rìa lục địa tích cực kiểu Anđes, nổi bật với các di chỉ của thành hệ núi lửa Pluton dãy kiềm vôi.
Giai đoạn Cenozoi sớm: vùng bị tách giãn, tạo nên các địa hào được lấp đầy bởi các trầm tích Miocen thượng.
Giai đoạn Cenozoi muộn, đặc biệt là vào đầu Pliocen, chứng kiến một đợt biển tiến lớn tạo ra trầm tích Pliocen hạ Sau đó, biển dần rút lui, hình thành chế độ vũng vịnh và cửa sông ven biển tại Long Xuyên, dẫn đến sự hình thành trầm tích Pliocen Đây là giai đoạn kết thúc thời kỳ đầu của quá trình tân kiến tạo.
Thời kỳ Đệ Tứ chứng kiến sự sụt lún và ba đợt biển tiến trong Pleistocen giữa, cuối Pleistocen muộn và Holocen giữa, tạo ra các trầm tích Pleistocen hạ, Pleistocen trung-thượng, Pleistocen thượng và Holocen hạ-trung Giữa các đợt biển tiến là những pha ngưng nghỉ hoặc biển lùi Sau đợt biển tiến cuối cùng vào Holocen giữa, biển đã rút khỏi Long Xuyên, hình thành nên đặc điểm địa mạo hiện tại.
Theo báo cáo của Phòng Tài nguyên và Môi trường An Giang vào năm 2007, tính đến tháng 6 năm 2008, tỉnh An Giang có khoảng 4.746 lỗ khoan khai thác nước ngầm phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất tại 154 phường, xã, thị trấn.
Các lỗ khoan khai thác nước ngầm không đồng đều trên toàn tỉnh, với sự phân bố phụ thuộc vào mức độ phát triển kinh tế của từng khu vực và khả năng tài nguyên nước ngầm hiện có.
Mật độ lỗ khoan (lỗ khoan/km 2 ) của toàn tỉnh là 1,34 lỗ khoan/km 2
Kết quả điều tra hiện trạng và thu thập tài liệu cho thấy phần lớn trong số
154 phường, xã trong tỉnh An Giang đều có lỗ khoan khai thác nước ngầm phục vụ cho nhu cầu sinh họat và sản xuất.
Theo Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Nam
(2007), đặc điểm các tầng địa chất tỉnh An Giang được mô tả như sau:
4.2.3.1 Trầm tích hình thành trong giới Cổ Sinh (Paleozoic)
Hệ Devon – Carbon hạ, hệ tầng Hòn Chông
Các trầm tích không lộ ra trên bề mặt, nhưng được phát hiện qua các lỗ khoan (LK) ở khu vực Tri Tôn với độ sâu từ 75m (TR25) đến 87,5m (TK1) Tại khu vực Châu Đốc, độ sâu dao động từ 222m (204-IV-NB, Châu Thành – An Giang) đến 136,5m (LK 203-II-NB) Khu vực Long Xuyên ghi nhận độ sâu từ 346m (LK674) đến 406m (LK672) trở xuống.
Thành phần trầm tích chủ yếu bao gồm sét kết, sét bột kết và cát kết với màu sắc chủ đạo là xám xanh và xám xi măng Những loại trầm tích này có độ cứng chắc, ít nứt nẻ và phần trên thường bị phong hóa.
Trầm tích tại khu vực Tri Tôn, Châu Đốc và Long Xuyên có xu hướng hạ thấp dần từ Tri Tôn xuống Long Xuyên Ranh giới dưới của các trầm tích này chưa được xác định rõ, trong khi ranh giới trên tại Tri Tôn được phủ bởi các trầm tích Pliocen, khu vực Châu Đốc là các trầm tích Pliocen hạ, và Long Xuyên được phủ bởi các trầm tích Miocen thượng.
4.2.3.2 Trầm tích hình thành trong giới Trung Sinh (Mesozoic)
Hệ Trias, Thống Thượng, Hệ tầng Dầu Tiếng
Chúng lộ ra hạn chế ở núi Ta Pả và núi Nam Quy gần Tri Tôn thuộc vùng Bảy Núi Thành phần trầm tích gồm 2 tập:
Tập 1: gồm chủ yếu là cát kết thạch anh màu xám hoặc đỏ phân lớp dày; bột kết màu xám và tím gụ, đôi chỗ chứa sạn-cuội với các lớp kẹp hoặc thấu kính đá silic hoặc sét silic màu đỏ tím.
Tập 2: gồm cát kết hạt vừa và thô, thành phần đa khoáng, đôi khi chứa cuội với các thấu kính cuội kết, thường gặp cấu tạo phân lớp xiên. Ở khu vực gần Tri Tôn gặp các xâm nhập granitoid của phức hệ Định Quán xuyên cắt qua gây các đới biến chất tiếp xúc với các đá sừng cứng chắc Ở tây bắc Tri Tôn khoảng 4km, chúng bị phủ bởi andesit tuổi Jura muộn, hệ tầng Đèo Bảo Lộc.
Các trầm tích Trias muộn nằm ở vị trí thoải và được xem là thành tạo sau quá trình uốn nếp chính vào đầu Trias muộn, hiện được phân loại tạm thời vào Trias thượng thuộc hệ tầng Dầu Tiếng.
Hệ Jura, Thống Thượng, Hệ tầng Đèo Bảo Lộc
Trầm tích ở núi Vo Bỏ Hong và Đóp Chom Pa thuộc vùng Bảy Núi bao gồm đá phun trào anđesit và tuf, cùng với cuội sạn kết tuf màu xám xanh, xám đen và đôi khi phớt lục Các cấu trúc dòng chảy đặc sít và hạch nhân có carbonat và thạch anh thứ sinh lấp đầy Hệ tầng bị xâm nhập bởi phức hệ Định Quán, Đèo Cả tại khu vực núi Cấm, tạo thành các đới đá sừng plagioclas – pyroxen – biotit – felspat Gần Phum Sa Lom, vết lộ cuội kết cơ sở nằm dưới lớp tuf anđesit và trên cát kết Trias muộn, trong khi bề mặt bào mòn bị phủ bởi trầm tích Miocen thượng.
4.2.3.3 Trầm tích hình thành trong giới Tân Sinh (Cenozoic)
Hệ Neogen, thống Miocen, phụ thống thượng
O Trầm tích hỗn hợp sông biển
Thành phần trầm tích bao gồm cát trung đến thô, có chứa nhiều sạn sỏi và bột cát, xen kẽ với bột màu xám trắng và xám xanh, với mức độ gắn kết ở mức trung bình.
Địa chất thủy văn
4.3.1 Phân tầng địa chất thủy văn
Tầng nước ngầm là tầng địa chất chứa nước. a Tầng nước ngầm Holocen
Tầng nước ngầm tại tỉnh An Giang được hình thành từ các trầm tích hạt thô Holocen, phân bố rộng rãi ngoại trừ các vùng núi cao ở Tri Tôn, Tịnh Biên và Thoại Sơn Độ sâu của tầng nước ngầm dao động từ 2,80m đến 66,00m, với mức trung bình là 25,85m Lớp cát mịn và bùn cát pha chứa nước có chiều dày từ 0,90m đến 32,00m, trung bình 12,57m, nằm ở phần dưới của tầng nước ngầm Tầng nước ngầm này có xu hướng mỏng dần về phía tây và tây nam, trong khi dưới nó là các thành tạo Pleistocen thượng có khả năng giữ nước rất thấp.
Thành phần đất đá chứa nước chủ yếu là cát mịn đến bùn cát xen các lớp bùn sét, bột sét.
Tầng nước ngầm tại tỉnh An Giang có mức độ chứa nước từ trung bình đến nghèo, với khu vực giàu nước tập trung từ sông Tiền Giang hợp lưu với sông Vàm Nao đến sông Hậu Giang, chiếm khoảng một diện tích lớn của tỉnh Phần còn lại, được coi là khu nghèo nước, kéo dài từ phía bắc đến phía nam của tỉnh, nằm về phía tây sông Hậu Giang.
Mực nước tĩnh thay đổi theo mùa với biên độ từ 1,09m đến 2,37m và dao động theo thủy triều của các sông và biển.
Tầng nước ngầm có quan hệ với nước sông và biển, được cung cấp bởi nước sông, nước mưa và hướng thoát cũng ra sông và biển.
Tầng nước ngầm Holocen có độ dày hạn chế và chất lượng nước kém, không đủ khả năng cung cấp nước sinh hoạt và uống cho hộ gia đình Trong khi đó, tầng nước ngầm Pleistocen thượng cần được xem xét để đánh giá khả năng cung cấp nước.
Tầng nước ngầm ở tỉnh An Giang, chủ yếu phân bố tại huyện Tri Tôn và Tịnh Biên, được hình thành từ các trầm tích hạt thô của tầng Pleistocen thượng Mái tầng nước ngầm nằm ở độ sâu từ 0,00m đến 79,00m, với độ sâu trung bình là 43,44m, trong khi đáy tầng nước ngầm dao động từ 8,70m đến 113,00m, trung bình 68,14m Chiều dày của tầng nước ngầm biến thiên từ 4,60m đến 115,50m, với trung bình là 28,16m Tầng nước ngầm có xu hướng chìm dần về phía đông và đông nam, nằm dưới các thành tạo trầm tích Pleistocen rất nghèo nước.
Thành phần đất đá chứa nước chủ yếu bao gồm cát hạt mịn đến trung, với một lượng nhỏ sỏi Tầng nước ngầm trong khu vực này có mức độ chứa nước từ giàu đến trung bình và nghèo.
Nước nhạt, với độ tổng khoáng khóa