1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Nghiên cứu thực trạng phòng ngừa chuẩn tại các bệnh viện đa khoa thuộc sở y tế hà nội và hiệu quả một số biện pháp can thiệp

202 8 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghiên Cứu Thực Trạng Phòng Ngừa Chuẩn Tại Các Bệnh Viện Đa Khoa Thuộc Sở Y Tế Hà Nội Và Hiệu Quả Một Số Biện Pháp Can Thiệp
Tác giả Lê Anh Thư
Người hướng dẫn PGS. TS. Nguyễn Duy Bảo, PGS. TS. Nguyễn Việt Hùng
Trường học Viện Sức Khỏe Nghề Nghiệp Và Môi Trường
Chuyên ngành Sức Khỏe Nghề Nghiệp
Thể loại Luận Án Tiến Sĩ
Năm xuất bản 2021
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 202
Dung lượng 3,6 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN (16)
    • 1.1. Nguy cơ lây nhiễm nghề nghiệp của nhân viên y tế (16)
    • 1.2. Thực trạng phơi nhiễm và lây nhiễm nghề nghiệp của NVYT (21)
      • 1.2.1. Các yếu tố bất lợi trong môi trường làm việc của NVYT (22)
      • 1.2.2. Phơi nhiễm, lây nhiễm của nhân viên y tế (23)
    • 1.3. Các biện pháp phòng ngừa và kiểm soát lây nhiễm (27)
      • 1.3.1. Khái niệm và quá trình phát triển hoạt động phòng ngừa (27)
      • 1.3.2. Một số biện pháp phòng ngừa chuẩn (28)
      • 1.3.3. Các biện pháp kiểm soát hoạt động phòng ngừa chuẩn (41)
        • 1.3.3.1. Các biện pháp kiểm soát thực trạng hoạt động hệ thống KSNK 28 1.3.3.2. Thực trạng hoạt động phòng ngừa chuẩn tại các Bệnh viện đa (0)
  • CHƯƠNG 2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (56)
    • 2.1. Đối tượng nghiên cứu (56)
      • 2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng nghiên cứu (56)
      • 2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ (56)
    • 2.2. Địa điểm nghiên cứu và thời gian nghiên cứu (56)
    • 2.3. Phương pháp nghiên cứu (56)
      • 2.3.1. Thiết kế nghiên cứu (56)
      • 2.3.2. Nghiên cứu cắt ngang (57)
        • 2.3.2.1. Cỡ mẫu nghiên cứu (57)
        • 2.3.2.2. Kỹ thuật chọn mẫu (58)
        • 2.3.2.3. Chỉ số nghiên cứu (59)
        • 2.3.2.4. Công cụ nghiên cứu (61)
        • 2.3.2.5. Phương pháp thu thập thông tin (61)
        • 2.3.2.6. Quản lý và xử lý số liệu trong nghiên cứu cắt ngang (62)
      • 2.3.3. Nghiên cứu can thiệp (62)
        • 2.3.3.1. Sơ đồ can thiệp (62)
        • 2.3.3.2. Địa điểm nghiên cứu can thiệp (64)
        • 2.3.3.3. Cỡ mẫu nghiên cứu (64)
        • 2.3.3.4. Nội dung can thiệp (64)
        • 2.3.3.5. Phương pháp can thiệp (65)
        • 2.3.3.6. Người thực hiện (66)
        • 2.3.3.7. Các chỉ số đánh giá hiệu quả can thiệp (66)
        • 2.3.3.8. Công cụ thu thập thông tin (67)
        • 2.3.3.9. Phương pháp thu thập thông tin (67)
        • 2.3.3.10. Xử lý số liệu đánh giá hiệu quả can thiệp (68)
    • 2.4. Khống chế sai số trong nghiên cứu (68)
    • 2.5. Một số khái niệm sử dụng trong nghiên cứu (70)
    • 2.6. Đạo đức nghiên cứu (73)
    • 2.7. Hạn chế của đề tài (73)
  • CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ (74)
    • 3.1. Thực trạng phòng ngừa chuẩn tại 25 bệnh viện (74)
      • 3.1.1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu và nhiễm khuẩn bệnh viện (74)
      • 3.1.2. Thực trạng phương tiện phòng ngừa chuẩn tại 25 bệnh viện (77)
        • 3.1.2.1. Thực trạng tổ chức nhân lực của hệ thống KSNK (77)
        • 3.1.2.2. Thực trạng phương tiệnđào tạo - giám sát của hệ thống KSNK 66 3.1.2.3. Thực trạng phương tiện thực hành phòng ngừa chuẩn (79)
      • 3.1.3. Thực trạng hoạt động phòng ngừa chuẩn tại 25 bệnh viện (85)
        • 3.1.3.1. Thực trạng hoạt động kiểm soát phòng ngừa chuẩn (85)
        • 3.1.3.2. Thực trạng hoạt động phòng ngừa chuẩn của nhân viên y tế (91)
    • 3.2. Hiệu quả một số biện pháp can thiệp tại 3 bệnh viện Thanh Nhàn, Sơn Tây và Thạch Thất (98)
      • 3.2.1. Tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện tại 3 bệnh viện (98)
      • 3.2.2. Hiệu quả hoạt động của hệ thống KSNK sau can thiệp (0)
      • 3.2.3. Hiệu quả hoạt động phòng ngừa chuẩn của nhân viên y tế (105)
  • CHƯƠNG 4 BÀN LUẬN (108)
    • 4.1. Thực trạng hoạt động phòng ngừa chuẩn tại 25 bệnh viện (108)
      • 4.1.1. Đặc điểm bệnh viện và đối tượng nghiên cứu (108)
      • 4.1.2. Thực trạng phương tiện phòng ngừa chuẩn tại 25 bệnh viện (109)
        • 4.1.2.1. Thực trạng phương tiện hoạt động của hệ thống KSNK (109)
        • 4.1.2.2. Điều kiện hoạt động thực hành phòng ngừa chuẩn NVYT (117)
      • 4.1.3. Thực trạng hoạt động phòng ngừa chuẩn tại 25 bệnh viện (123)
        • 4.1.3.1. Thực trạng hoạt động kiểm soát phòng ngừa chuẩn (123)
        • 4.1.3.2. Thực trạng hoạt động phòng ngừa chuẩn của NVYT (128)
    • 4.2. Hiệu quả một số biện pháp can thiệp tại 3 bệnh viện Thanh Nhàn, Sơn Tây và Thạch Thất (136)
      • 4.2.1. Nâng cao năng lực hoạt động của hệ thống KSNK (0)
        • 4.2.1.1. Nâng cao năng lực giám sát của hệ thống KSNK (138)
        • 4.2.1.2. Tăng cường hoạt động chức năng (142)
      • 4.2.2. Nâng cao hoạt động phòng ngừa chuẩn của nhân viên y tế (146)
        • 4.2.2.1. Cải thiện kiến thức phòng ngừa chuẩn của nhân viên y tế (146)
        • 4.2.2.2. Cải thiện thực hành phòng ngừa chuẩn của nhân viên y tế (149)
  • KẾT LUẬN (157)
    • 1. Thực trạng hoạt động phòng ngừa chuẩn tại 25 bệnh viện (157)
    • 2. Hiệu quả một số biện pháp can thiệp tại 3 bệnh viện Thanh Nhàn, Sơn Tây và Thạch Thất (158)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (160)
  • PHỤ LỤC (176)

Nội dung

TỔNG QUAN

Nguy cơ lây nhiễm nghề nghiệp của nhân viên y tế

Sơ đồ 1: Chủ trình lây nhiễm

Trong bệnh viện, vi sinh vật (VSV) tồn tại ở nhiều nơi, bao gồm nguồn chứa trực tiếp như máu, dịch, chất tiết và chất thải của người bệnh, cũng như nguồn chứa trung gian như môi trường xung quanh, dụng cụ y tế, bàn tay của nhân viên và chất thải y tế.

Vi sinh vật có thể xâm nhập vào cơ thể qua nhiều con đường khác nhau, bao gồm đường máu, đường hô hấp (thông qua không khí hoặc giọt bắn) và tiếp xúc trực tiếp Khả năng xâm nhập của vi sinh vật phụ thuộc vào cơ chế sinh bệnh của chúng, điều kiện môi trường, thời gian tiếp xúc và sức đề kháng của cơ thể người tiếp xúc.

Nguồn lây bệnh có thể đến từ bất kỳ bệnh nhân nào, với máu, dịch, chất tiết và chất thải là những yếu tố nguy hiểm Những chất này có thể phát tán trực tiếp hoặc lưu trú trong các ổ chứa trung gian, gây ra các bệnh lý cấp tính hoặc mãn tính cho nhân viên y tế (NVYT) Các vị trí công việc như xét nghiệm vi sinh vật và giải phẫu bệnh đặc biệt có nguy cơ cao trong việc tiếp xúc với nguồn lây này.

Môi trường Vệ sinh môi trường, bề mặt

(Vi khuẩn, vi rút, ký sinh trùng…) Đối tượng bị ảnh hưởng

Nguồn chứa Đường ra Đường xâm nhập

Rác thải lây nhiêm, sắc nhọn

Dụng cụ y tế sắc nhọn

Da NVYT bị tổn thương

Bệnh nhân Dụng cụ y tế

Máu, dịch, chất tiết Đã sử dụng

Rác thải y tế đòi hỏi các biện pháp nghiêm ngặt về an toàn và vệ sinh lao động Một nghiên cứu tại 79 cơ sở y tế điều trị và dự phòng ở Việt Nam cho thấy, tỷ lệ lây bệnh cao nhất đến từ việc tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân (53,4%), tiếp xúc với bệnh phẩm (34,3%) và do tổn thương vật sắc nhọn (12,4%) Đặc biệt, lây nhiễm do tiếp xúc thường xảy ra nhiều hơn ở các cơ sở y tế tuyến huyện, trong khi lây nhiễm từ bệnh phẩm lại cao hơn ở tuyến Trung Ương (37,5% so với 34,3% và 28,1% của tuyến tỉnh và tuyến huyện).

Nguồn chứa gián tiếp chủ yếu: có thể tồn tại và lưu trú dưới nhiều hình thức khác nhau, trong đó có một số nguồn chứa chủ yếu như:

Chất thải y tế bao gồm nhiều loại khác nhau, trong đó chất thải nguy hại chứa các yếu tố có thể gây hại cho sức khỏe con người và môi trường, như dễ lây nhiễm, gây ngộ độc hoặc phóng xạ Sự gia tăng số lượng bệnh viện và phòng khám tại Việt Nam dẫn đến việc gia tăng khối lượng chất thải y tế, đặc biệt là chất thải lây nhiễm Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện để đánh giá khối lượng và chủng loại chất thải y tế này.

Theo nghiên cứu năm 2009 tại Bệnh viện đa khoa Thái Nguyên, khối lượng chất thải y tế nguy hại là 0,11 kg/giường bệnh, chiếm 8,77% tổng lượng chất thải y tế của bệnh viện.

Năm 2013, khảo sát từ 23 cơ sở y tế (CSYT) tại tỉnh Quảng Nam cho thấy trung bình có 0,48 tấn chất thải rắn y tế nguy hại (CTRYT) phát sinh mỗi ngày, chiếm 12,3%, tương đương 0,12kg/giường bệnh/ngày, trong đó các bệnh viện tuyến Trung ương thải ra nhiều CTRYT hơn so với bệnh viện tỉnh và huyện Tại Bệnh viện đa khoa khu vực Hóc Môn, TP Hồ Chí Minh, tỷ lệ chất thải y tế trung bình chiếm 10,83% tổng lượng chất thải, tương đương 1200kg/ngày, với khoảng 480-500 bơm kim tiêm được thải ra mỗi ngày Nghiên cứu tại Bệnh viện Việt Tiệp - Hải Phòng vào năm 2012 cho thấy chất thải y tế nguy hại chiếm 4,27% tổng số chất thải y tế, tương đương 77,19 kg/ngày tại cơ sở có quy mô 950 giường.

Bàn tay của nhân viên y tế (NVYT) được xác định là nguồn lây truyền vi sinh vật nguy hiểm, có khả năng truyền bệnh từ người bệnh này sang người bệnh khác Việc tiếp xúc với bề mặt ô nhiễm hoặc trực tiếp với người bệnh trong quá trình chăm sóc là nguyên nhân chính dẫn đến sự lây lan bệnh tật.

Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Tâm năm 2012, 96% nhân viên y tế tại khoa cán bộ cao cấp, BV Quân đội 108 có bàn tay bị nhiễm khuẩn, chủ yếu ở móng tay và khe ngón Việc mang móng tay giả hoặc để móng tay dài có thể tạo điều kiện cho Pseudomonas aeruginosa phát triển, dẫn đến nguy cơ dịch nhiễm khuẩn Nghiên cứu của Nguyễn Việt Hùng cho thấy mức độ ô nhiễm bàn tay nhân viên y tế tăng cao khi tiếp xúc với máu, dịch và bệnh nhân, đặc biệt là khi không thực hiện vệ sinh tay, với tỉ lệ khuẩn lạc cao nhất là 2,1±0,11 Tại một bệnh viện hạng 3 ở Việt Nam, mức độ nhiễm vi khuẩn trung bình trên tay trước khi vệ sinh là 1,65 log (10), trong đó Acinetobacter baumannii, Klebsiella pneumoniae và Staphylococcus aureus là những vi khuẩn phổ biến nhất.

Môi trường bệnh viện là khái niệm bao gồm cả môi trường xung quanh và môi trường tại chỗ, như nước, bề mặt làm việc và không khí, nơi mà nhân viên y tế (NVYT) tiếp xúc hàng ngày Tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV) được xem là chỉ số quan trọng để đánh giá chất lượng dịch vụ y tế.

BV là một yếu tố quan trọng trong việc đánh giá chất lượng môi trường BV Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng áo choàng cũng có thể là một nguồn gốc ô nhiễm đáng lưu ý.

NVYT, ống nghe, máy tính, điện thoại di động…

Không khí và nước trong cơ sở y tế (CSYT) đóng vai trò quan trọng trong môi trường làm việc Ở những khu vực hạn chế, không khí ít lưu thông tạo điều kiện cho vi khuẩn và virus phát triển, đặc biệt là qua đường hô hấp Cầu khuẩn Gram dương, như Staphylococcus (51%) và Micrococcus (37%), thường xuất hiện trong không khí Việc giám sát định kỳ là cần thiết để đánh giá hiệu quả kiểm soát không khí và phát hiện sự xâm nhập bất thường của các tác nhân qua quần áo của du khách và nhân viên y tế Từ đó, cần thiết lập các hướng dẫn cụ thể về chất lượng không khí cho các môi trường kiểm soát trong CSYT.

Cơ sở hạ tầng nước phức tạp với dòng chảy thấp có thể dẫn đến ứ đọng và hình thành màng sinh học, trong khi nhiệt độ nước lý tưởng cho chăm sóc sức khỏe cũng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của vi khuẩn và nấm mốc.

Bề mặt môi trường bao gồm các bề mặt tiếp xúc trực tiếp hoặc gần với bệnh nhân, như thanh và đầu giường, bàn cạnh giường, vòi và tay cầm, được coi là dễ bị ô nhiễm và có nguy cơ truyền mầm bệnh Một nghiên cứu năm 2012 cho thấy 20,5% găng tay hoặc áo choàng của nhân viên y tế bị nhiễm bẩn khi tương tác với bệnh nhân, với tỷ lệ nhiễm Acinetobacter baumannii đa kháng là 25,8% Ô nhiễm môi trường là yếu tố quyết định chính trong việc lây truyền mầm bệnh sang găng tay hoặc áo choàng của nhân viên y tế, vì vậy tuân thủ các biện pháp phòng ngừa và làm sạch môi trường có thể giảm khả năng lây truyền Nghiên cứu tại BV Đại học Hassan II ở Maroc cho thấy từ 112 mẫu bề mặt, đã xác định được 200 chủng vi khuẩn, trong đó 39,2% là Enterobacteriaceae Nghiên cứu của Đại học Illinois năm 2019 khẳng định rằng ô nhiễm găng tay và áo choàng là phổ biến, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sử dụng phương tiện phòng hộ như tấm che mặt và khẩu trang để bảo vệ nhân viên y tế khỏi nguy cơ phơi nhiễm.

Nhiễm khuẩn liên quan tới chăm sóc y tế (nhiễm khuẩn BV) là các nhiễm khuẩn phát sinh trong quá trình điều trị tại cơ sở y tế, thường xuất hiện sau 48 giờ từ khi nhập viện Theo khảo sát năm 2010 tại 183 bệnh viện Mỹ, trong số 11.282 bệnh nhân, có 452 người mắc nhiễm khuẩn BV, với các loại phổ biến nhất là viêm phổi và nhiễm trùng vết mổ (đều chiếm 21,8%), cùng với nhiễm trùng đường tiêu hóa (17,1%) Clostridium difficile là mầm bệnh phổ biến nhất, chiếm 12,1% Mức độ mắc NKBV được đo bằng các chỉ số như tỷ lệ người bệnh hiện mắc NKBV và mật độ hiện mắc NKBV, với nghiên cứu kéo dài 10 năm tại khoa hồi sức tích cực ở miền Nam.

Ba Lan từ năm 2007 đến năm 2016 có tổng số 1849 BN thì có với tỷ lệ

Thực trạng phơi nhiễm và lây nhiễm nghề nghiệp của NVYT

Sơ đồ 2: Yếu tố nguy cơ và yếu tố phòng ngừa lây nhiễm

Yếu tố nguy cơ phát sinh

Yếu tố nguy cơ lây nhiễm

+ Trực tiếp: máu dịch, chất thải, chất tiết…

+ Giản tiếp: Bàn tay nhân viên y tế, bề mặt môi trường, không khí

- Điều kiện lao động đặc thù

+Dụng cụ y tế sắc nhọn

Yếu tố phòng ngừa và kiểm soát lây nhiễm

- Cung cấp điều kiện hoạt động phòng ngừa chuẩn :

+Hệ thống kiểm soát nhiễm khuẩn

- Hoạt động của hệ thống kiểm soát nhiễm khuẩn

(giám sát, đào tạo, quản lý sức khỏe…)

- Hoạt động của nhân viên y tế (KAP)

1.2.1 Các yếu tố bất lợi trong môi trường làm việc của NVYT

Ngành Y tế hiện đang đối mặt với nhiều áp lực, bao gồm công việc quá tải, cường độ làm việc cao, bệnh nặng và dịch bệnh, cùng với sức ép từ gia đình bệnh nhân, dẫn đến việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa nhiễm khuẩn (PNC) không đầy đủ Một nghiên cứu tại Trung Quốc cho thấy các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng PNC ở y tá gồm thiết bị bảo hộ, kiến thức, thái độ, môi trường an toàn và khối lượng công việc, được xếp hạng theo mức độ ảnh hưởng giảm dần Tại Bệnh viện Da liễu Trung ương, trung bình mỗi điều dưỡng phải thực hiện 23,82 mũi tiêm/ngày, với một số điều dưỡng phải tiêm tới 41 mũi/ngày; trong ca trực đêm, trung bình là 3,64 mũi/người Đáng chú ý, 92% trong số 50 điều dưỡng tham gia nghiên cứu đã bị thương do vật sắc nhọn, mặc dù 94% đã được đào tạo về tiêm an toàn.

Tỷ lệ phơi nhiễm nghề nghiệp ở nhân viên y tế (NVYT) giảm liên quan đến số giường phục vụ trên mỗi NVYT, với hộ lý có tỷ lệ phơi nhiễm cao nhất (14,8%), tiếp theo là bác sĩ (8,5%) và y tá (6,2%) Nghiên cứu trên 347 điều dưỡng tại BV Quân đội 108 cho thấy, trong độ tuổi 31 - 50, tỷ lệ NVYT bị stress, trầm cảm và lo âu lần lượt là 19,6%, 24,5% và 43,2%, với tỷ lệ nặng và rất nặng tương ứng là 4,4%, 2,9% và 11% Một nghiên cứu khác trên 79 cơ sở y tế tại Việt Nam cho thấy nhóm có khối lượng công việc lớn như cấp cứu, gây mê hồi sức, tâm thần có tỷ lệ bị stress cao gấp 4,9 lần, trong đó tỷ lệ tại cơ sở y tế tuyến trung ương là 15,9%, cao hơn so với tuyến tỉnh (12,8%) và tuyến huyện (9,3%).

Bạo lực trong ngành Y tế đang trở thành một vấn đề nghiêm trọng tại Việt Nam, đặc biệt khi tỷ lệ nhân viên y tế (NVYT) bị lăng mạ lên tới 18,4% Trong đó, bác sĩ là nhóm chịu ảnh hưởng nhiều nhất với tỷ lệ 23,7%, tiếp theo là y tá hộ lý và kỹ thuật viên với tỷ lệ lần lượt là 14% Việc này không chỉ ảnh hưởng đến tâm lý của nhân viên mà còn tác động tiêu cực đến chất lượng dịch vụ y tế.

19,3%); tỷ lệ hành hung chiếm 2,4 % trong đó lần lượt là KTV (2,8%); y tá (2,7%) và bác sỹ là 2,6% [44]

Nghiên cứu đã chỉ ra rằng thời điểm làm việc và thời gian tiếp xúc có ảnh hưởng đáng kể đến tuân thủ PNC Cụ thể, tỷ lệ tuân thủ cao nhất vào buổi sáng (46,6%), tiếp theo là buổi chiều (22,3%), buổi tối (19,8%) và buổi đêm (11,3%) Một nghiên cứu của Nguyễn Bích Diệp cho thấy tổn thương xảy ra chủ yếu vào ca sáng (56,7%), trong đó tiêm là nguyên nhân chính (42,9%) Đặc biệt, nghiên cứu trên 15.134 nhân viên y tế cho thấy những người tham gia phòng chống dịch tại thực địa có tỷ lệ mắc bệnh cao gấp 3,2 lần so với nhóm không tham gia.

1.2.2 Phơi nhiễm, lây nhiễm của nhân viên y tế

Gánh nặng bệnh tật được đo lường bằng tổng số năm sống bị mất do tử vong sớm và số năm sống khỏe mạnh bị mất do tàn tật Công thức tính gánh nặng bệnh tật là DALY = YLL + YLD.

DALY: năm sống tàn tật hiệu chỉnh (Disability adjusted life years) YLL: số năm mất đi do tử vong sớm (Years of life lost)

YLD: Số năm sống bệnh tật (Years lived with Disability)

Theo tác giả Hà Thế Tấn, trong số 15.134 nhân viên y tế (NVYT), tỷ lệ mắc bệnh nghề nghiệp đạt 15,7% Tỷ lệ này cao nhất ở khoa truyền nhiễm với 24,5%, tiếp theo là khối nội, nhi và phòng khám với 20,5%, và giải phẫu bệnh cùng pháp y với 19,4%.

Nguy cơ lây nhiễm qua đường máu, đặc biệt từ các vật sắc nhọn như kim tiêm, dao, kéo và mảnh thủy tinh, là rất cao do khả năng gây tổn thương “kép” Các ước tính về nguy cơ lây truyền từ kim tiêm cho thấy viêm gan B có nguy cơ từ 3%-10% (có thể lên tới 30%), viêm gan C từ 0,8%-3%, và HIV khoảng 0,3% (rủi ro phơi nhiễm qua niêm mạc là 0,1%) Đặc biệt, tổn thương do kim tiêm có vi rút HBV dương tính có nguy cơ nhiễm HBV lên tới 23%-62%.

CSYT lớn của Hà Nội ước tính tỷ lệ mới mắc viêm gan B trong nhân viên y tế (NVYT) như sau: 50 ca/100.000 người/năm, với bác sĩ là 40 ca, điều dưỡng (ĐD) là 65 ca và các NVYT khác là 30 ca Tỷ lệ mới mắc HIV chung là 0,2 ca/100.000 người/năm, trong đó bác sĩ và y tế khác đều là 0,2 ca, ĐD là 0,3 ca Nghiên cứu cũng cho thấy tỷ lệ quy thuộc nhiễm vi sinh vật do tác động nghề nghiệp đối với viêm gan B là 32,16%, trong đó bác sĩ là 27,8%, ĐD là 39,5% và các NVYT khác là 21,7% Tỷ lệ quy thuộc đối với HIV là 0,52%, với bác sĩ là 0,49%.

0,53% và ở các NVYT khác là 0,23% [54] Đặc điểm lây qua đường máu:

Năm 2012, tại Bệnh viện Da liễu Trung ương, nghiên cứu cho thấy 73,9% trường hợp tổn thương liên quan đến việc thu dọn dụng cụ, trong khi tổn thương do kim đâm chiếm 7,9% Một khảo sát quy mô lớn tại Việt Nam cũng chỉ ra rằng tổn thương do vật sắc nhọn (VSN) chiếm tới 48%, với tỷ lệ cao nhất thuộc về khối Ngoại (66%) và khối xét nghiệm (53,8%).

Theo nghiên cứu năm 2012 tại Hà Nội, bàn tay và ngón tay là vị trí bị tổn thương nhiều nhất (94,5%), với 97,6% chấn thương do VSN xảy ra tại ngón tay Hầu hết các tổn thương là xuyên thấu da (77,8%) và xước da (19,6%) Ngoài ra, chấn thương do VSN chủ yếu xảy ra vào buổi sáng, chiếm 68,3%.

Trong quá trình làm việc, nhân viên y tế (NVYT) có thể trải qua nhiều lần bị tổn thương do vi sinh vật (VSN) Theo nghiên cứu của Dương Khánh Vân năm 2012, có đến 83,9% NVYT bị tổn thương dưới 5 lần, 9,9% bị tổn thương từ 6-10 lần, trong khi tỷ lệ bị tổn thương trên 10 lần là rất thấp.

Tỷ lệ phơi nhiễm và lây nhiễm trong nhóm nhân viên y tế (NVYT) từng bị tổn thương do vật sắc nhọn (VSN) cao gấp 2,2 lần so với nhóm chưa bị tổn thương, với tỷ lệ HBsAg dương tính là 7% và Anti-HCV là 1,14% Các khoa xét nghiệm, ngoại, GMHS và truyền nhiễm có tỷ lệ nhiễm HBsAg lần lượt là 14,1%, 12,4% và 10,3% Nhóm y tá và kỹ thuật viên có tỷ lệ nhiễm vi rút viêm gan B cao nhất là 10,6% Tại tuyến huyện, tỷ lệ nhiễm HBV cao hơn so với tuyến tỉnh và trung ương, đạt 14,2% so với 9,1% và 9,6% Nghiên cứu tại 6 cơ sở y tế ở Hà Nội cho thấy 37,6% điều dưỡng bị tổn thương do VSN, trong đó 75,6% là do sơ xuất Tại bệnh viện đa khoa Mizan-Aman, Tây Nam Ethiopia, 29,6% nhân viên từng bị chấn thương do kim đâm, 57,9% do bệnh nhân di chuyển đột ngột, và 45,2% từng bị máu hoặc dịch cơ thể bắn vào mắt hoặc miệng.

Từ năm 2005 đến 2009, có 384 trường hợp nhiễm HCV được công nhận là bệnh lây nhiễm nghề nghiệp, tương đương với tỷ lệ 1,5/100.000 nhân viên y tế Tổn thương do kim tiêm tại bệnh viện được ghi nhận với tỷ lệ 29,9/1000 nhân viên y tế, cao hơn nhiều so với mức 7,4/1000 nhân viên y tế nói chung.

Lây nhiễm qua đường hô hấp, bao gồm lây qua không khí và giọt bắn, có thể xảy ra dưới dạng cấp tính hoặc mạn tính Hiện nay, lây nhiễm cấp tính đang trở thành mối quan ngại hàng đầu do sự diễn biến nhanh chóng và phức tạp của các dịch bệnh như SARS, H5N1, H1N1, EBOLA, và gần đây nhất là đại dịch Covid.

Theo báo cáo của WHO số lượng NVYT bị nhiễm Ebola tại 3 nước Guinea, Liberia và Sierra Leone từ tháng 1 năm 2014 đến ngày 31 tháng 3 năm

Năm 2015, tỷ lệ nhân viên y tế (NVYT) lây nhiễm do nghề nghiệp là 3,9%, với hơn 50% trường hợp được báo cáo Tổ chức Ân xá Quốc tế, Dịch vụ Công Quốc tế và UNI Global Union cho biết ít nhất 17.000 nhân viên y tế đã tử vong vì COVID-19 trong năm trước Mới đây, Tổng Giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới, Tedros Adhanom Ghebreyesus, ước tính có ít nhất 115.000 NVYT và nhân viên chăm sóc đã mất mạng trong đại dịch COVID-19.

Lây nhiễm mạn tính (điển hình là bệnh lao), hiện nay lao nghề nghiệp được công nhận là bệnh nghề nghiệp theo thông tư hướng dẫn của Bộ Y tế

Các biện pháp phòng ngừa và kiểm soát lây nhiễm

1.3.1 Khái niệm và quá trình phát triển hoạt động phòng ngừa

Năm 2012, BYT đã ban hành tài liệu “Hướng dẫn phòng ngừa chuẩn trong các cơ sở khám, chữa bệnh” tại Việt Nam [8]

Phòng ngừa chuẩn là tập hợp các biện pháp phòng ngừa cơ bản áp dụng cho tất cả bệnh nhân tại các cơ sở khám bệnh chữa bệnh, không phụ thuộc vào chẩn đoán hay tình trạng nhiễm trùng Nguyên tắc của phòng ngừa chuẩn là coi tất cả máu, chất tiết và chất bài tiết (trừ mồ hôi) đều có nguy cơ lây truyền bệnh.

Nhân viên y tế bao gồm tất cả các lao động trong cơ sở khám chữa bệnh, đảm nhiệm các nhiệm vụ liên quan đến khám, điều trị và chăm sóc người bệnh Các thành phần trong nhóm này bao gồm bác sĩ, điều dưỡng, kỹ thuật viên, nhân viên vật lý trị liệu, nhân viên xã hội, tâm lý, dược sĩ và nhân viên vệ sinh.

Việc tuân thủ các biện pháp phòng ngừa nhiễm khuẩn (PNC) là rất quan trọng trong việc giảm lây truyền liên quan đến chăm sóc y tế, góp phần hạn chế sự lây lan trong cộng đồng bệnh viện, bao gồm nhân viên y tế, bệnh nhân và người nhà Điều này không chỉ đảm bảo an toàn mà còn nâng cao chất lượng khám chữa bệnh Các biện pháp PNC thường được thực hiện đồng bộ để tác động đến từng mắt xích trong chu trình lây nhiễm.

Lịch sử phát triển của các biện pháp phòng ngừa luôn được cập nhật và mở rộng để đối phó với sự tiến triển của các bệnh lây nhiễm toàn cầu.

Vào năm 1970, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Bệnh tật Hoa Kỳ (CDC) đã phát hành hướng dẫn đầu tiên về cách ly phòng ngừa, bao gồm bảy biện pháp khác nhau: phòng ngừa tuyệt đối, phòng ngừa bảo vệ, phòng ngừa lây truyền qua đường hô hấp, đường tiêu hóa, và qua vết thương (chất bài tiết, máu).

Năm 1985 do sự bùng phát của dịch HIV/AIDS, CDC ban hành hướng dẫn phòng ngừa mới gọi là Phòng ngừa phổ cập (Universal Precautions)

Theo hướng dẫn này, máu được xem như là nguồn lây truyền quan trọng nhất và dự phòng phơi nhiễm qua đường máu là cần thiết [8]

Năm 1995, hướng dẫn phòng ngừa phổ cập đã được chuyển đổi thành PNC, mở rộng khuyến cáo phòng ngừa phơi nhiễm không chỉ đối với máu mà còn với các chất tiết và bài tiết từ cơ thể.

Kể từ năm 2007, sau dịch SARS và sự bùng phát của cúm A H5N1, CDC và các tổ chức kiểm soát nhiễm khuẩn đã khuyến cáo tăng cường vệ sinh hô hấp trong quy trình phòng ngừa nhiễm khuẩn (PNC) cho tất cả bệnh nhân có triệu chứng hô hấp Việc thực hiện PNC là cần thiết để ngăn ngừa và kiểm soát lây nhiễm qua máu, chất tiết và chất bài tiết (trừ mồ hôi), ngay cả khi không thấy máu Tuân thủ các biện pháp PNC đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu nhiễm khuẩn liên quan đến chăm sóc y tế, hạn chế lây truyền cho nhân viên y tế và bệnh nhân, cũng như từ bệnh nhân ra môi trường, nhằm đảm bảo an toàn và nâng cao chất lượng bệnh viện.

1.3.2 Một số biện pháp phòng ngừa chuẩn

Sơ đồ 3: Các biện pháp phòng ngừa chuẩn và kiểm soát

Môi trường Vệ sinh môi trường, bề mặt

(Vi khuẩn, vi rút, ký sinh trùng…) Đối tượng bị ảnh hưởng

Nguồn chứa Đường ra Đường xâm nhập

Quản lý các loại chất thải y tế

Sử dụng phương tiện phòng hộ cá nhân, quản lý chất thải y tế sắc nhọn

Bệnh nhân Dụng cụ y tế

Quản lý chất thải,đồ vải của BN

Khử khuẩn tiệt khuẩn VST

Kiếm soát hoạt động PNC

Giám sát +Tuân thủ PNC +NKBV Đào tạo

Cơ cấu tổ chức + Hội đồng + Khoa + Mạng lưới

Khái niệm: là làm sạch tay bằng nước và xà phòng có hay không có chất sát khuẩn và sát khuẩn tay với dung dịch có chứa cồn [8]

Vệ sinh tay (VST) là một trong những nội dung cơ bản của phòng ngừa nhiễm khuẩn (PNC) và được xem là biện pháp hiệu quả nhất trong việc kiểm soát sự lây truyền tác nhân gây bệnh tại các cơ sở khám chữa bệnh VST được coi là "vacxin tự chế", đơn giản và hiệu quả, là biện pháp can thiệp ưu tiên hàng đầu để ngăn ngừa lây truyền bệnh giữa người bệnh và nhân viên y tế (NVYT), cũng như giữa các NVYT với nhau.

Cơ sở khám chữa bệnh cần đảm bảo có nước sạch, phương tiện vệ sinh và dung dịch sát khuẩn tay chứa cồn ở các khu vực thăm khám và chăm sóc bệnh nhân Việc tập huấn và giám sát tuân thủ vệ sinh tay là rất quan trọng Tại Việt Nam, Bộ Y tế đã triển khai đánh giá dựa trên 83 tiêu chí, trong đó việc triển khai chương trình và giám sát tuân thủ rửa tay là một trong 6 nội dung chính để đánh giá hoạt động phòng ngừa và kiểm soát nhiễm khuẩn tại bệnh viện.

Phương tiện thiết yếu vệ sinh tay:

Tại mỗi vị trí vệ sinh tay (VST), cần đảm bảo có bồn rửa sạch với vòi nước có cần gạt, nước sạch, xà phòng và giá đựng xà phòng Ngoài ra, cần có khăn lau tay dùng một lần hoặc hộp đựng khăn lau tay có nắp đậy, cùng với thùng đựng khăn bẩn VST là biện pháp quan trọng và thường được áp dụng đầu tiên trong thực hành kiểm soát nhiễm khuẩn (KSNK).

Nghiên cứu năm 2009 tại Hưng Yên cho thấy cơ sở vật chất vệ sinh tại các bệnh viện (BV) tuyến tỉnh và huyện còn thiếu hụt nghiêm trọng Tỷ lệ bồn rửa tay đạt tiêu chuẩn chỉ đạt 8,3% tại BV tuyến tỉnh và 0% tại BV tuyến huyện Bên cạnh đó, chỉ có 17,7% buồng bệnh có phương tiện vệ sinh, chủ yếu là bồn rửa tay (72,6%), trong khi vị trí vệ sinh bằng cồn chỉ đạt 27,4%.

Địa điểm vệ sinh tay cần được bố trí tại các khu vực chăm sóc và phục vụ người bệnh, bao gồm buồng khám, buồng thủ thuật, buồng bệnh và buồng xét nghiệm, với bồn vệ sinh tay và dung dịch vệ sinh tay có chứa cồn Các vị trí quan trọng như giường bệnh nặng, xe tiêm, bàn khám bệnh và cửa ra vào mỗi buồng bệnh cần được trang bị đầy đủ Theo thống kê, 79,3% sử dụng dung dịch sát trùng tay không cần nước, trong khi khăn giấy và khăn bông được sử dụng để làm khô tay với tần suất gần như nhau (38,9% và 40,9%) Thuốc sát trùng giúp giảm vi sinh vật trên tay nhân viên y tế, từ đó hạn chế lây truyền vi khuẩn Các sản phẩm phổ biến tại Hoa Kỳ bao gồm rượu, chlorhexidine, chloroxylenol, iốt, iodophors, các hợp chất amoni bậc bốn và triclosan Tuy nhiên, đã có hơn 40 vụ bùng phát và giả bùng phát liên quan đến việc sử dụng thuốc sát trùng bị ô nhiễm.

Kỹ thuật VST được phát triển dựa trên các thời điểm quan trọng để thực hiện và các phương pháp sử dụng hóa chất trong VST Một số khái niệm cơ bản liên quan đến kỹ thuật này bao gồm các yếu tố cần thiết để tối ưu hóa hiệu quả của quy trình.

+ Chỉ định vệ sinh tay: là lý do cần VST tại thời điểm xác định liên quan tới loại thao tác chăm sóc, điều trị đã thực hiện

Vệ sinh tay là một yếu tố quan trọng trong hoạt động chăm sóc và điều trị, giúp cắt đứt sự lan truyền mầm bệnh qua bàn tay Cần xác định các thời điểm cần thực hiện vệ sinh tay để đảm bảo an toàn cho bệnh nhân và nhân viên y tế Số lần vệ sinh tay cần thiết trong quá trình này rất quan trọng để duy trì môi trường sạch sẽ và phòng ngừa nhiễm khuẩn.

Hành động vệ sinh tay là cơ hội để thực hiện vệ sinh tay bằng cồn hoặc rửa tay Nếu không thực hiện vệ sinh tay khi có chỉ định, cơ hội này sẽ được ghi nhận là "bỏ qua".

Tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay: được xác định bằng số cơ hội có vệ sinh tay

(hành động VST) x 100/số cơ hội cần vệ sinh tay Theo báo cáo kết quả, trong

9900 cơ hội VST quan sát được, chỉ có 7,4% tuân thủ VST (BV tuyến tỉnh đạt

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

KẾT QUẢ

BÀN LUẬN

Ngày đăng: 12/07/2021, 18:44

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Bệnh viện Bạch Mai (2019), Kết quả đánh giá công tác kiểm soát nhiễm khuẩn - Bệnh viện Đa khoa tỉnh Tuyên Quang truy cập tại trang web https://bachmai.edu.vn/detail/6682/ket-qua-danh-gia-cong-tac-kiem-soat-nhiem-khuan----benh-vien-da-khoa-tinh-tuyen-quang.html Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kết quả đánh giá công tác kiểm soát nhiễm khuẩn - Bệnh viện Đa khoa tỉnh Tuyên Quang
Tác giả: Bệnh viện Bạch Mai
Năm: 2019
3. Bệnh viện Đa khoa Đức Giang (2009), Giới thiệu khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn, truy cập ngày, tại trang https://benhvienducgiang.com/ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giới thiệu khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn
Tác giả: Bệnh viện Đa khoa Đức Giang
Năm: 2009
4. Bệnh viện Thanh Nhàn (2002), Giới thiệu Khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn, truy cập ngày, tại trang http://thanhnhanhospital.vn/ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giới thiệu Khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn
Tác giả: Bệnh viện Thanh Nhàn
Năm: 2002
16. Trần Thị Thanh Tâm, Bùi Thị Thu Thủy (2012), "Đánh giá nhận thức, thái độ của nhân viên y tế trong việc thu gom, phân loại chất thải y tế tai các khoa lâm sàng, bệnh viện Thống Nhất", Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh. Tập 16, Phụ bản số 1, 2012 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đánh giá nhận thức, thái độ của nhân viên y tế trong việc thu gom, phân loại chất thải y tế tai các khoa lâm sàng, bệnh viện Thống Nhất
Tác giả: Trần Thị Thanh Tâm, Bùi Thị Thu Thủy
Năm: 2012
17. Nguyễn Thị Dáng (2012), Đánh giá thực trạng công tác quản lý chất thải rắn y tế tại BV Hữu nghị Việt Tiệp và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý, Đại học Dân lập Hải PhòngKhóa luận tốt nghiệp Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đánh giá thực trạng công tác quản lý chất thải rắn y tế tại BV Hữu nghị Việt Tiệp và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý
Tác giả: Nguyễn Thị Dáng
Năm: 2012
18. Nguyễn Khắc Hải, Nguyễn Bích Diệp (2010), An toàn vệ sinh lao động và phòng chống bệnh nghề nghiệp trong các cơ sở y tế, Nhà xuất bản lao động, ed, Vol. 3-9 Sách, tạp chí
Tiêu đề: An toàn vệ sinh lao động và phòng chống bệnh nghề nghiệp trong các cơ sở y tế
Tác giả: Nguyễn Khắc Hải, Nguyễn Bích Diệp
Nhà XB: Nhà xuất bản lao động
Năm: 2010
19. Nguyễn Thị Kim Dung (2012), Đánh giá thực trạng công tác quản lý chất thải y tế tại một số bệnh viện trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý, Luận văn Thạc sỹ, Trường Đại học Khoa học tự nhiên Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đánh giá thực trạng công tác quản lý chất thải y tế tại một số bệnh viện trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý
Tác giả: Nguyễn Thị Kim Dung
Năm: 2012
20. Phạm Minh Khuê, Đoàn Văn Hiển (2010), Hiệu quả can thiệp vệ sinh bàn tay thường quy của nhân viên y tế ngừa nhiễm khuẩn bệnh viện tại Bệnh viện Việt Tiệp Hải Phòng năm 2010, Báo cáo kết quả nghiên cứu Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hiệu quả can thiệp vệ sinh bàn tay thường quy của nhân viên y tế ngừa nhiễm khuẩn bệnh viện tại Bệnh viện Việt Tiệp Hải Phòng năm 2010
Tác giả: Phạm Minh Khuê, Đoàn Văn Hiển
Năm: 2010
21. Lâm Thị Thu Tâm, Đỗ Thị Hà, Lê Văn Tình, Lê Thụy Bích Thủy (2019), "Hiệu quả can thiệp truyền thông thay đổi thực hành VST của Điều dưỡng Bệnh viện Thống Nhất Thành phố Hồ Chí Minh", Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh. Phụ bản tập 23 số 3 2019 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hiệu quả can thiệp truyền thông thay đổi thực hành VST của Điều dưỡng Bệnh viện Thống Nhất Thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả: Lâm Thị Thu Tâm, Đỗ Thị Hà, Lê Văn Tình, Lê Thụy Bích Thủy
Năm: 2019
22. Nguyễn Văn Hà (2012), Nghiên cứu thực trạng và hiệu quả tăng cường vệ sinh tay trong phòng ngừa nhiễm khuẩn bệnh viện tại một số bệnh viện thuộc tỉnh Hưng Yên, Luận án Tiến sỹ, 2009-2011 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu thực trạng và hiệu quả tăng cường vệ sinh tay trong phòng ngừa nhiễm khuẩn bệnh viện tại một số bệnh viện thuộc tỉnh Hưng Yên
Tác giả: Nguyễn Văn Hà
Năm: 2012
23. Doãn Ngọc Hải và các cộng sự. (2015), "Thực trạng quản lý chất thải y tế rắn tại 22 bệnh viện khu vực miền Bắc năm 2014", Tạp chí Y học Dự phòng. Tập XXV, số 11 (171) 2015, tr. 78 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực trạng quản lý chất thải y tế rắn tại 22 bệnh viện khu vực miền Bắc năm 2014
Tác giả: Doãn Ngọc Hải và các cộng sự
Năm: 2015
24. Phan Văn Tường, Hoàng Thị THúy (2011), "Thực trạng quản lý chất thải rắn y tế và kiến thức thực hành của NVYT bệnh viện đa khoa Đông Anh năm 2011", Tạp chí Y học dự phòng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực trạng quản lý chất thải rắn y tế và kiến thức thực hành của NVYT bệnh viện đa khoa Đông Anh năm 2011
Tác giả: Phan Văn Tường, Hoàng Thị THúy
Năm: 2011
25. Đỗ Minh Sinh, Hoàng Trung Tiến (2019), "Kiến thức và thực hành dự phòng tổn thương do vật sắc nhọn của điều dưỡng Bệnh viện đa khoa tỉnh Lâm Đồng năm 2019", Tạp chí Khoa học Điều dưỡng. Tập 02, số 03 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kiến thức và thực hành dự phòng tổn thương do vật sắc nhọn của điều dưỡng Bệnh viện đa khoa tỉnh Lâm Đồng năm 2019
Tác giả: Đỗ Minh Sinh, Hoàng Trung Tiến
Năm: 2019
26. Nguyễn Việt Hùng (2015), "Thực trạng nhiễm khuẩn bệnh viện tại các bệnh viện thuộc Sở Y tế Hà Nội và một số biện pháp can thiệp phòng ngừa ", Kết quả nghiên cứu Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực trạng nhiễm khuẩn bệnh viện tại các bệnh viện thuộc Sở Y tế Hà Nội và một số biện pháp can thiệp phòng ngừa
Tác giả: Nguyễn Việt Hùng
Năm: 2015
27. Phạm Thị Bạch Yến, Lê Thị Thùy Dung, Công Ngọc Long (2017), "Tuân thủ rửa tay thường quy của điều dưỡng viên tại các Khoa lâm sàng, Bệnh viện đa khoa Lâm Đồng, năm 2017", Tạp chí khoa học nghiên cứu sức khỏe và phát triển. Tập 1, số 01- 2017 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tuân thủ rửa tay thường quy của điều dưỡng viên tại các Khoa lâm sàng, Bệnh viện đa khoa Lâm Đồng, năm 2017
Tác giả: Phạm Thị Bạch Yến, Lê Thị Thùy Dung, Công Ngọc Long
Năm: 2017
28. Hoàng Thị Liên (2009), Nghiên cứu thực trạng và một số yếu tố liên quan đến quản lý chất thải tại bệnh viện đa khoa Trung ương Thái Nguyên, Báo cáo luận văn Thạc sỹ Y học Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu thực trạng và một số yếu tố liên quan đến quản lý chất thải tại bệnh viện đa khoa Trung ương Thái Nguyên
Tác giả: Hoàng Thị Liên
Năm: 2009
29. Nguyễn Thị Hoài Thu, Lục Thị Thu Quỳnh, Lê Kiến Ngãi (2010), "Hiệu quả của một số chương trình thúc đẩy tuân thủ VST tại bệnh viện Nhi Trung Ương năm 2010", Tạp chí Y học lâm sàng, số chuyên đề (5/2010).101- 108 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hiệu quả của một số chương trình thúc đẩy tuân thủ VST tại bệnh viện Nhi Trung Ương năm 2010
Tác giả: Nguyễn Thị Hoài Thu, Lục Thị Thu Quỳnh, Lê Kiến Ngãi
Năm: 2010
30. Vũ Mai Lan, Nguyễn Bạch Ngọc, Nguyễn Thị Kim Phụng, Nguyễn Thị Nhiên, Bùi Ngọc Huệ, Nguyễn Thị Kim Ngọc, Bùi Thị Huệ (2019), "Mô tả thực trạng và một số yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm và lo âu ở nhân viên điều dưỡng khối nội tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108", Tap chí Y Dược lâm sàng 108. tập 16(số 6-2019) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Mô tả thực trạng và một số yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm và lo âu ở nhân viên điều dưỡng khối nội tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108
Tác giả: Vũ Mai Lan, Nguyễn Bạch Ngọc, Nguyễn Thị Kim Phụng, Nguyễn Thị Nhiên, Bùi Ngọc Huệ, Nguyễn Thị Kim Ngọc, Bùi Thị Huệ
Năm: 2019
31. Nguyễn Đỗ Nguyên, Nguyễn Lan Phượng (2007), "Kiến thức thái độ thực hành xử lý y dụng cụ sau sử dụng của điều dưỡng tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương năm 2006", Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh.Tập 11, Phụ bản của số 1, 2007 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kiến thức thái độ thực hành xử lý y dụng cụ sau sử dụng của điều dưỡng tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương năm 2006
Tác giả: Nguyễn Đỗ Nguyên, Nguyễn Lan Phượng
Năm: 2007
11. Bộ Y tế (2016), Nâng cao năng lực về kiểm soát nhiễm khuẩn, https://kcb.vn/ Cục quản lý khám chữa bệnh- chương trình hợp tác với CDC, 27/04/2016 Link

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w