1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Đạo đức học êpiquya

79 4 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Đạo đức học Êpiquya
Tác giả Nguyễn Vũ Ngọc Dung
Người hướng dẫn PGS.TS. Đặng Hữu Toàn
Trường học Đại học Quốc gia Hà Nội
Chuyên ngành Triết học
Thể loại Luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2009
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 79
Dung lượng 563,28 KB

Cấu trúc

  • 1.1. Êpiquya – cuộc đời và sự nghiệp (14)
    • 1.1.1. Thời đại Êpiquya (14)
    • 1.1.2. Cuộc đời Êpiquya (19)
    • 1.1.3. Sự nghiệp sáng tạo của Êpiquya (22)
  • 1.2. Hệ thống triết học Êpiquya (25)
    • 1.2.1. Học thuyết về tồn tại (25)
    • 1.2.2. Học thuyết về nhận thức (34)
  • Chương 2: Học thuyết về đạo đức của êpiquya và mấy nhận xét về học thuyết này (0)
    • 2.1 Quan niệm của Êpiquya về cuộc sống hạnh phúc (41)
    • 2.2. Quan niệm của Êpiquya về sự công bằng, tình bạn và sự thông thái (57)
      • 2.2.1. Về sự công bằng (57)
      • 2.2.2. Về tình bạn (59)
      • 2.2.3. Về sự thông thái (0)
    • 2.3. Mấy nhận xét về đạo đức học Êpiquya (67)

Nội dung

Êpiquya – cuộc đời và sự nghiệp

Thời đại Êpiquya

Bối cảnh kinh tế- x hội

Cuộc đời và sự nghiệp sáng tạo lý luận của nhà duy vật vô thần Êpiquya kéo dài gần nửa thế kỷ IV và ba thập kỷ đầu thế kỷ III trước Công nguyên, chủ yếu diễn ra trong thời kỳ cai trị của Alexander Đại đế trong lịch sử Hy Lạp (từ năm 323 đến 300 trước Công nguyên).

Lịch sử Hy Lạp cổ đại từ thế kỷ IV trước Công nguyên đánh dấu sự bắt đầu của thời kỳ Hy Lạp hóa, kéo dài hơn 8 thế kỷ trong thời kỳ Chiếm hữu nô lệ Thời kỳ này chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử quan trọng, bắt đầu từ các cuộc chiến tranh chinh phục của Hoàng đế Maxêđoan và người La Mã, và kết thúc với những cuộc đấu tranh của nô lệ nhằm thoát khỏi ách nô lệ Cuộc đấu tranh của giai cấp nô lệ được xem là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự sụp đổ của chế độ Chiếm hữu nô lệ.

Vào thời kỳ đó, Maxêđoan, một quốc gia chiếm hữu nô lệ ở Bắc Hy Lạp, đã phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh các thành bang Hy Lạp đang ở thời kỳ hưng thịnh Tận dụng tình trạng suy yếu và sự chia rẽ của các thành bang này, Maxêđoan đã tiến hành cuộc Nam tiến Năm 338 trước Công nguyên, quân đội Maxêđoan do vua Philíp chỉ huy đã bắt đầu cuộc xâm lược.

Sau khi đánh bại lực lượng Athens và Tebơ tại Kêrônê, Philip II đã tổ chức Hy Lạp thành một liên minh dưới sự thống trị của Maxêđoan, chấm dứt tình trạng độc lập của các thành bang Sau khi Philip II qua đời vào năm 336 trước Công nguyên, các đảng chống Maxêđoan gia tăng hoạt động phản kháng, nhưng hy vọng thay đổi tình hình nhanh chóng sụp đổ Con trai ông, Alexander (356-323 trước Công nguyên), đã khôi phục sự thống trị của Maxêđoan tại Hy Lạp và chuẩn bị cho cuộc hành quân phía Đông khi mới 20 tuổi Trong 12 năm trị vì, Alexander đã dẹp tan cuộc nổi dậy của người Hy Lạp do Tebơ cầm đầu, vượt biển Êgiê, đánh bại quân Ba Tư, và chiếm lại nhiều vùng đất thuộc Tiểu Á, Xyri, Palétxtin, Ai Cập và Trung Á Năm 327 trước Công nguyên, ông xâm chiếm vùng Tây-Bắc Ấn Độ, biến Maxêđoan thành một quốc gia hùng mạnh trải dài trên ba châu Âu, Á, Phi, với Babylon làm kinh đô.

Alếchxăngđrơ nhanh chóng tổ chức chế độ cai trị các vùng đất mới chiếm được bằng cách áp dụng nhiều chính sách thống trị, bao gồm trấn áp, mua chuộc và lôi kéo quý tộc địa phương Chính quyền của đế chế Maxêđoan kết hợp giữa chế độ chính trị của các thành bang Hy Lạp và nội dung chuyên chế của các quốc gia phương Đông, với Alếchxăngđrơ được thần thánh hóa và nắm quyền lực tối cao Những người thân cận của ông giữ các trọng trách trong bộ máy nhà nước, trong khi quân đội được tăng cường bằng thanh niên Ba T− để đàn áp các cuộc nổi dậy Ông thực hiện chính sách mỵ dân và sử dụng văn hóa Hy Lạp như sợi dây liên kết cho toàn đế chế, thiết lập hàng chục thành phố mới nhằm phát triển văn hóa này Tuy nhiên, ý tưởng về một thế giới thống nhất mà Alếchxăngđrơ khởi xướng đã không thành hiện thực, khi những người kế nhiệm ông chỉ tập trung vào việc tranh giành đất đai, dẫn đến sự chia rẽ của đế chế Maxêđoan thành ba vùng vào đầu thế kỷ III trước Công nguyên.

Hy Lạp-Maxêđoan, Ai Cập, Xyri d−ới sự cai quản của các t−ớng lĩnh

Maxêđoan tiếp tục chiếm ưu thế tại các thành bang Hy Lạp dưới triều đại Ăngtigôn Vương triều Ptôlêmê, đóng đô tại Alếchxăngđri, duy trì chế độ chuyên chế Ai Cập, trong đó vua nắm giữ toàn bộ ruộng đất, thương mại và thuế khóa Các vùng định cư Hy Lạp chỉ nhận được một số đặc quyền hạn chế Trong khi đó, vương triều Xêlơxít, với trung tâm tại Ăngtiốt (Bắc Xyri), cai trị một khu vực rộng lớn ở Tây Á, áp dụng cả hệ thống cai trị kiểu Ba Tư và kiểu thành bang Hy Lạp.

Ba vương quốc Hy Lạp trong thời kỳ Hy Lạp hóa đã liên tục cạnh tranh để giành quyền kiểm soát các vùng đất ven bờ Đông Địa Trung Hải.

Khi hai vương quốc kia phát triển thành các trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa lớn, Hy Lạp lại rơi vào khủng hoảng và suy yếu nghiêm trọng Đến giữa thế kỷ II trước Công nguyên, toàn bộ Hy Lạp bị đế chế La Mã theo chế độ chiếm hữu nô lệ thống trị.

Thời kỳ Hy Lạp hoá đánh dấu sự giao lưu văn hoá mạnh mẽ giữa các quốc gia, đặc biệt khi đế chế La Mã chiếm đóng Hy Lạp, tạo điều kiện cho văn hoá Hy Lạp - La Mã mở rộng và phát triển Triết học trong giai đoạn này mang những đặc trưng riêng, với các nhà triết học tập trung vào các vấn đề về cuộc sống con người Dù kinh tế và chính trị ở Aten suy tàn, người dân nơi đây vẫn giữ vai trò quan trọng trong việc phát triển tư tưởng triết học Trong ba trường phái triết học lớn nhất của thời kỳ này, Êpiquya nổi bật với tầm ảnh hưởng sâu rộng nhất tại Aten.

Sau thời kỳ của Aristote, triết lý thuần túy Hy Lạp bắt đầu suy tàn và dần dần kết thúc Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử triết học đều xem đây là giai đoạn chuyển giao quan trọng trong sự phát triển của tư tưởng triết học.

Thời kỳ suy tàn của triết học Hy Lạp được lý giải bởi Charles Werner là do sự kiệt sức của trí não sau những nỗ lực tư duy phi thường Khi Arístoteles đạt đến đỉnh cao của tư tưởng, tri thức bắt đầu rơi vào những vùng sâu thẳm Bên cạnh các hệ thống triết học vĩ đại, các trường phái triết học trong thời kỳ này trở nên suy giảm đáng kể.

Thời kỳ Hy Lạp hóa trong triết học Hy Lạp được coi là giai đoạn ít có ý nghĩa giáo khoa nhất, khi mà những tư tưởng triết học cao siêu không còn đủ sức thu hút sự quan tâm Chú bé tí hon và nghèo nàn đã không còn nghị lực để tạo ra những cảm hứng mới cho triết học trong thời kỳ này.

Các nhà tư tưởng thời kỳ Hy Lạp hóa đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ nguồn cảm hứng thực tiễn và nhân sinh quan theo luân lý đạo đức, khác hẳn với phong cách lý luận và siêu hình của thời kỳ Hy Lạp cực thịnh Họ tiếp nối ý tưởng đạo đức nguyên thủy của Xôcrát, nhấn mạnh rằng đời sống đạo đức thực tiễn có giá trị quan trọng hơn những vấn đề lý thuyết thuần túy Aritxtipơ, học trò của Xôcrát và người sáng lập trường phái Khoái lạc, cho rằng các khoa học thuần túy như toán học không có ích lợi vì không đề cập đến cái thiện hay cái ác Tất cả tư tưởng của các triết gia đều hướng đến mục tiêu duy nhất là mang lại hạnh phúc cho con người Họ giải quyết các vấn đề thực tiễn bằng cách kết hợp phương pháp đơn giản với phương pháp lý luận phức tạp của Aritxtốt, thể hiện sự chuyển hướng rõ ràng trong triết học Hy Lạp cổ đại.

Sự chuyển hướng tư tưởng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân phức tạp Trước hết, những người kế vị trực tiếp của Arítxtốt không ai có đủ khả năng tư duy siêu hình và lý luận như ông để tiếp tục di sản của ông Thứ hai, sau khi Đại đế Alếchxăngđrơ qua đời, nền văn hóa Hy Lạp đã được truyền bá rộng rãi khắp Địa Trung Hải và chuyển hướng sang các đô thị lân cận Sự bành trướng này đã tạo ra những cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên giữa các nền văn hóa và tư tưởng khác nhau, dẫn đến sự trao đổi tư tưởng giữa các dân tộc trở thành điều tất yếu.

Công việc truyền bá triết học cần có sự cải biến sâu rộng để thích ứng với hoàn cảnh mới, từ đó hình thành khuynh hướng thực tiễn và nhân sinh trong triết học đạo đức Sự thích ứng này chịu ảnh hưởng từ quan niệm về sự thanh bình trong tâm hồn người phương Đông Những ý niệm như vô cảm, sống theo thiên nhiên và hoài nghi khả năng của lý trí có sự tương đồng với các khái niệm căn bản của người phương Đông như vô vi, tự nhiên, và triết lý về "vô ngã" và "vô thường".

Cuộc đời Êpiquya

Êpiquya, sinh vào khoảng cuối những năm 40 của thế kỷ IV trước Công nguyên, trên đảo Xamốt trong một gia đình nghèo khó, đã trải qua tuổi thơ đầy khó khăn Cha của ông, Nêôkl, là một giáo viên, nhưng thu nhập không đủ nuôi sống gia đình với ba con trai, buộc mẹ ông phải làm thầy cúng để kiếm thêm tiền Từ nhỏ, Êpiquya đã thường xuyên theo mẹ làm việc, điều này có thể đã hình thành trong ông tư tưởng chống lại mê tín dị đoan Ông học tại một trường do cha giảng dạy và sớm bộc lộ niềm đam mê với triết học, đặc biệt là với tư tưởng của Haisiớt về thời kỳ hỗn mang Theo cuốn sách của Ămpêlôđơ, Êpiquya chỉ mới 12 tuổi đã đặt ra nhiều câu hỏi khó cho thầy giáo về nguồn gốc của thời kỳ hỗn mang, thể hiện sự tò mò và trí tuệ vượt trội của mình.

Vào cuối năm 328 trước Công nguyên, Êpiquya bắt đầu nghiên cứu hệ thống các môn khoa học và triết học Ở tuổi 18, ông đến Athens và phục vụ trong quân đội một thời gian ngắn trước khi sống ở nhiều thành phố khác tại Tiểu Á Trong gần 10 năm, ông nghiên cứu triết học, học thuyết nguyên tử của Đêmôcrít và các bài giảng của Platôn Khi 30 tuổi, Êpiquya giảng dạy triết học ở Mytilen và sau đó ở Lamxacơ Năm 307 trước Công nguyên, ông trở về Athens và mở trường học tại khu vườn riêng, được biết đến với tên gọi “vườn Êpiquya”, nơi có biển đề chào đón du khách với thông điệp về hạnh phúc và niềm vui.

Trước những biến cố nặng nề do cuộc chiến tranh kéo dài giữa Athens, Maxêđoan và đế chế La Mã, Êpiquya đã quyết định "ở ẩn" và xa lánh các hoạt động chính trị, xã hội Ông chỉ tập trung vào việc cứu vãn triết học, coi đó là nguồn hạnh phúc trí tuệ của bản thân.

Vườn triết học của Êpiquya chào đón tất cả mọi người, không phân biệt giới tính, và không thu học phí, cho phép học viên tự nguyện đóng góp theo khả năng Êpiquya được tôn sùng như một người thầy vĩ đại, quy tụ học trò thành một gia đình có cùng chí hướng, và ngay cả những người đối lập cũng phải công nhận sự kính trọng mà ông nhận được Trong số các đồ đệ, nhà thơ Lucxêri đã coi Êpiquya như một vị thánh Ông nổi tiếng với tính cách khiêm tốn, đối xử với học trò như bạn bè Trên giường bệnh, Êpiquya thể hiện tinh thần hiền hậu qua một bức thư, trong đó ông chia sẻ: “Tôi có một bức tường chống lại mọi nỗi đau đớn này, đó là niềm vui trong lòng khi tôi hồi tưởng lại những cuộc đối thoại giữa chúng ta.”

Trước khi qua đời, Êpiquya đã triệu tập học trò và bạn bè để trao lại “Vườn triết học” của mình, nhờ họ chăm sóc những đứa trẻ nghèo khó đang nương nhờ trong vườn, đồng thời hướng dẫn cách tổ chức tang lễ cho ông.

Trong thời kỳ Êpiquya còn sống, ông đã phải đối mặt với sự chỉ trích mạnh mẽ từ những người theo chủ nghĩa Khắc kỷ, họ cho rằng ông là người vô đạo đức và có ảnh hưởng xấu đến thế hệ trẻ ở Aten bằng cách ca ngợi nhục cảm thể xác Sau này, những quan điểm tiêu cực này đã trở thành truyền thuyết và được gán cho Êpiquya cùng với trường phái của ông, được các nhà triết học duy tâm từ nhiều khuynh hướng phổ biến.

Ngay cả những đại diện xuất sắc của các trường phái duy tâm cũng thừa nhận rằng truyền thuyết về Êpiquya không có cơ sở Nhà triết học Khắc kỷ La Mã Luxiút Anêút Xênêca đã dũng cảm bảo vệ Êpiquya trước những chỉ trích từ bạn bè của mình Trong tác phẩm “Về cuộc sống hạnh phúc”, ông khẳng định rằng người dũng cảm cần phải giữ vững quan điểm của mình, ngay cả khi nó trái ngược với ý kiến của những người nổi tiếng, bao gồm cả lãnh tụ Ông nhấn mạnh rằng không nên nói theo đám đông, vì Êpiquya và trường phái của ông đã bị hiểu lầm và chưa được đánh giá đúng mức.

Nhà hùng biện và triết học Rôma Mácơ Xixêrông (106 - 43 tr−ớc.Công nguyên) đã ca ngợi Êpiquya như một triết gia với những phẩm chất đạo đức quý giá, bao gồm sự sống có chừng mực, tự chủ, dũng cảm, và tình yêu thương sâu sắc đối với bạn bè và gia đình Ông luôn thể hiện sự quan tâm chân thành đối với bạn bè, ứng xử nhân văn với những người nô lệ, và sống hài lòng với hiện tại mà không u phiền hay tức giận Sau khi Êpiquya qua đời, trường phái của ông đã tổ chức lễ kỷ niệm hàng tháng để tôn vinh ông, và học thuyết của ông nhanh chóng được phổ biến rộng rãi trong các dân tộc nói tiếng.

Êpiquya, một triết gia nổi tiếng, đã qua đời vào năm 270 (hoặc 271 trước Công nguyên) sau 14 ngày chịu đựng cơn đau dữ dội do bệnh sỏi thận Truyền thuyết kể rằng trước khi qua đời, ông nằm trong bể tắm nước nóng, uống rượu mạnh và gửi gắm ước nguyện cho bạn bè, học trò không quên học thuyết của mình Cuối cùng, ông đã ra đi vĩnh viễn ngay trong bể tắm này.

Sự nghiệp sáng tạo của Êpiquya

Êpiquya đã trình bày học thuyết triết học của mình qua nhiều tác phẩm, thư từ và buổi nói chuyện, với tổng số tác phẩm có thể lên tới 300, bao gồm 37 tiểu luận về vật lý học cùng nhiều tác phẩm về tình yêu, thần thánh và các chủ đề khác Điôgien Laécxơ cho rằng Êpiquya là nhà văn – triết học xuất sắc nhất, vượt qua các nhà triết học khác về số lượng đầu sách Tuy nhiên, phần lớn di sản triết học quý giá này đã không còn được lưu giữ, do sự tác động của các nhà thần học Thiên chúa giáo khiến nhiều tác phẩm của ông bị mất Những tác phẩm còn lại đáng chú ý bao gồm ‘‘Bàn về tự nhiên’’, thư gửi Hêrôđốt, Pitôclexơ và các đoạn ngắn trong ‘‘Bàn về nguyên tử và chân không’’, ‘‘Bàn về mục đích’’, ‘‘Bàn về thần thánh’’, và ‘‘Bàn về sự tiền định’’.

Công trình "Về tự nhiên" của Êpiquya, gồm 37 cuốn sách, được coi là tác phẩm quan trọng nhất trong sự nghiệp lý luận của ông Số lượng đầu sách và sự thừa nhận của Êpiquya về độ khó trong nghiên cứu tác phẩm này cho thấy giá trị của nó Một số trích đoạn đã được phát hiện vào cuối thế kỷ XVIII tại Hêrculanum, nơi chúng bị chôn vùi dưới lớp nham thạch của núi Vêzuvia Tại một thư viện nhỏ, các trích đoạn quý giá đã được tìm thấy, mặc dù trong tình trạng hư hại Giáo sư I.A.Bôrichevki đã thông báo từ năm 1925 rằng các nhà nghiên cứu triết học đã khôi phục được phần nào của 10 cuốn sách trong tác phẩm này, đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của các trích đoạn trong cuốn sách thứ 20 về phương pháp học.

Hiện nay, bốn tác phẩm của Êpiquya vẫn được lưu giữ, mặc dù không lớn nhưng có giá trị nội dung cao, nhờ nỗ lực của triết gia Điôgien Laécxơ Trong số này, có ba bức thư Êpiquya gửi cho học trò và một tuyển tập các phát ngôn nổi tiếng của ông.

Bức thư "Gửi Hêrôđốt" được Đôgien Laécxơ coi là một trong những tác phẩm quan trọng nhất trong di sản của Êpiquya, khắc hoạ rõ nét quan điểm triết học tự nhiên của ông Tài liệu này không chỉ là một bản tóm tắt các tác phẩm của Êpiquya mà còn ghi lại những quan điểm khoa học tự nhiên, liên quan đến việc nghiên cứu các vấn đề nhận thức tự nhiên và định hướng trong triết học tự nhiên của ông.

Bức thư thứ hai, mang tên “Gửi Pitôclexơ”, giải thích về các hiện tượng vũ trụ và nguyên nhân của chúng Nhiều người cho rằng bức thư này được lấy cảm hứng từ một trong những tác phẩm khoa học tự nhiên của Êpiquya, nhằm bổ sung cho nội dung của bức thư đầu tiên.

Trong bức thư thứ ba "Gửi Menơxiớt", Êpiquya đã trình bày thuyết đạo đức của mình, nhấn mạnh rằng khoái lạc là thiện cao nhất, mặc dù không phải tất cả khoái lạc đều tự nhiên và cần thiết Khác với quan niệm hiện đại về "Chủ nghĩa Khoái lạc", ông phản đối lối sống phóng túng và việc ăn uống thái quá, cho rằng chúng không mang lại khoái lạc bền vững mà thường dẫn đến đau khổ Thay vào đó, Êpiquya khuyến khích việc thưởng thức những khoái lạc tự nhiên, giúp con người cảm thấy hài lòng, an nhàn và vững tâm.

Ngoài 3 bức th− và các tác phẩm nói trên, Êpiquya còn có một tác phẩm quan trong khác đ−ợc viết d−ới dạng cách ngôn Tác phẩm này đ−ợc biết d−ới tên “Những tư tưởng chủ đạo” hoặc “Những trích đoạn quan trọng”, gồm 40 cách ngôn

Năm 1888, một bản viết tay mang tên “Tuyển tập các trích đoạn Vanticăng” được phát hiện tại thư viện Vanticăng, chứa đựng 81 trích đoạn của Êpiquya Tài liệu này được coi là tác phẩm quan trọng nhất về các vấn đề mà Êpiquya nghiên cứu, thậm chí còn được xem là có giá trị hơn cả “Những tư tưởng chủ đạo” Mở đầu bằng cụm từ “Thông điệp của Êpiquya”, tuyển tập chủ yếu tập trung vào đạo đức, đồng thời cung cấp thông tin quý giá về các khía cạnh khoa học tự nhiên của ông.

Tuyển tập 87 trích đoạn từ các tác phẩm và tư tưởng của Êpiquya được trình bày dưới dạng các đoạn trích, đồng thời được đề cập trong các tác phẩm của các nhà triết học Hy Lạp và La Mã cổ đại.

Hệ thống triết học Êpiquya

Học thuyết về tồn tại

Êpiquya là người kế thừa xuất sắc của Đêmôcrít, đại diện vĩ đại cho tư tưởng duy vật Hy Lạp Trong khi Đêmôcrít, cùng với thầy Lơxíp và các nhà biện chứng duy vật khác, đã xây dựng rõ ràng về sự khởi thủy của vũ trụ và phát triển lý thuyết nguyên tử, thì Êpiquya được coi là đại diện vĩ đại nhất cho khuynh hướng duy vật mà Đêmôcrít khởi xướng trong triết học cổ đại.

Trong khi các nhà duy vật vĩ đại như Đêmôcrít và Êpiquya tập trung vào nghiên cứu cấu trúc vật chất, vấn đề cốt lõi của họ là tìm hiểu về bản nguyên khởi thuỷ hình thành thế giới Triết học Êpiquya nổi bật với những tiến bộ đáng kể trong lĩnh vực này.

Nội dung cơ bản nhất trong học thuyết về tồn tại của Êpiquya chính là sự kế thừa và phát triển xuất sắc của ông về nguyên tử luận

Thuyết nguyên tử thời cổ đại gắn liền với tên tuổi của Đêmôcrít, người đã khởi xướng lý thuyết này Êpiquya và trường phái của ông đã kế thừa và phát triển học thuyết nguyên tử của Đêmôcrít, góp phần quan trọng vào sự tiến bộ của triết học Nhiều nhà triết học sau này đã công nhận rằng Êpiquya và trường phái của ông đã có công lớn trong việc mở rộng và hoàn thiện thuyết nguyên tử trong lịch sử siêu hình học.

Dựa theo và phát triển thuyết nguyên tử của Đêmôcrít, nguyên tử luận của Êpiquya đ−ợc xây dựng trên 5 nguyên tắc sau:

1 Không có gì xuất hiện từ h− vô và cũng không có gì chuyển thành h− vô

2 Vũ trụ đã, đang và sẽ mãi nh− hiện nay Bởi lẽ, nó không thể xuất phát từ h− vô và trở thành h− vô

Vũ trụ được hình thành từ nguyên tử và khoảng không trống rỗng, trong đó nguyên tử có thể được cảm nhận và chứng minh sự tồn tại thông qua cảm giác của con người Khoảng không cung cấp không gian cho nguyên tử vận động, và chính sự vận động này không chỉ xác nhận sự tồn tại của nguyên tử mà còn của cả khoảng không trống rỗng.

4 Nguyên tử không thể phân chia đ−ợc và cũng không thay đổi

5 Vũ trụ là vô cùng, vô tận

Bức tranh vật lý về vũ trụ của Êpiquya tương đồng với quan niệm của Đêmôcrít, nhưng có những điểm khác biệt quan trọng Êpiquya nhấn mạnh rằng nguyên tử không chỉ khác nhau về hình thức mà còn về khối lượng và trọng lượng, điều này ảnh hưởng đến sự vận động của chúng Ông cho rằng, sự khác biệt về trọng lượng và khối lượng là nguyên nhân chính tạo nên chuyển động của nguyên tử và các sự vật Êpiquya lý giải rằng nguyên tử vận động song song với quỹ đạo khác nhau, và mặc dù kích thước của chúng khác nhau, sự chênh lệch rất nhỏ đến mức không thể nhìn thấy bằng mắt thường Hơn nữa, Êpiquya cho rằng thuộc tính của sự vật như màu sắc và hình thức không thể chỉ được quy về các nguyên tử mà tồn tại một cách khách quan trong chỉnh thể của sự vật Nhận thức về những thuộc tính này chứng tỏ sự tồn tại khách quan của cả sự vật và nguyên tử.

Theo nhiều nhà nghiên cứu lịch sử triết học, Êpiquya đã phát triển quan niệm về không gian và thời gian vượt xa Đêmôcrít Ông coi không gian là điều kiện thiết yếu cho sự vận động của sự vật, hiểu không gian qua ba khía cạnh: khoảng không trống rỗng (kenon), vị trí (topos) và không gian (chora) Thời gian, theo Êpiquya, cũng là thuộc tính của sự vật, gắn liền với ngày và đêm, vận động và đứng im, cho thấy ông nhận thức được thời gian như là cơ sở của tính tận cùng và tính nhất thời của các sự vật cụ thể Do đó, quan niệm về thế giới của Êpiquya được xây dựng trên lập trường duy vật.

Êpiquya, với tư cách là nhà duy vật và người theo thuyết quyết định luận, đã kiên quyết phản đối thế giới quan thần luận và mục đích luận, bác bỏ chủ nghĩa duy tâm của Platôn và các quan niệm của Aristot về Thượng đế cùng “cái đẩy đầu tiên” Ông cũng chỉ trích học thuyết nguyên tử của Đêmôcrít, cho rằng ông này đã không coi trọng lự lượng là yếu tố quan trọng và chỉ xem vận động là sự xê dịch vị trí trong không gian Êpiquya đã phát triển học thuyết nguyên tử bằng cách khẳng định rằng các nguyên tử khác nhau về trọng lượng, hình thức và khối lượng, tạo nền tảng cho quan niệm của ông về sự vận động của nguyên tử Ông cho rằng nguyên tử chuyển động theo chiều thẳng đứng do trọng lượng, tương tự như sự rơi của vật thể, và trong quá trình này, các nguyên tử có thể va chạm, quyện vào nhau hoặc đẩy nhau ra xa Nhà triết học Điôgien Laécxơ đã nhận xét rằng nguyên tử của Êpiquya vận động không ngừng với tốc độ ngang nhau, không bị cản trở, và rằng kích thước, hình dáng, trọng lượng là những đặc tính chính của chúng.

Theo Êpiquya, nguyên tử luôn vận động theo quy luật nội tại, bao gồm hai khuynh hướng đối lập: sự rơi và sự đi chệch hướng Sự vận động này mang tính mâu thuẫn nội tại, nhưng chính sự kết hợp giữa hai khuynh hướng này tạo ra sự đa dạng và phong phú cho các sự vật.

C.Mác là người đầu tiên đã chỉ ra nội dung biện chứng của tư tưởng về sự đi chệch hướng một cách tự phát của Êpiquya về nguyên tử, coi đó là sự khác biệt với quyết định luận khắc kỷ chủ nghĩa của Đêmôcrít trong Luận án Tiến sĩ của ông với đề tài :“Sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcrít và triết học tự nhiên của Êpiquya” Do chỗ, trong tác phẩm này C.Mác vẫn ch−a đoạn tuyệt với sự say mê những quan điểm, t− t−ởng của phái Hêghen trẻ, nên sự lý giải của ông về các quan điểm của Êpiquya, kể cả học thuyết về sự đi chệch h−ớng một cách tự do của nguyên tử, một phần nào đó vẫn còn mang “tính chất Hêghen luận” Tuy nhiên, trong sự đánh giá của mình về Êpiquya, C.Mác đã đoạn tuyệt với Hêghen, đã bác bỏ hoàn toàn những đánh giá sai lầm của Hêghen về Êpiquya “Nếu Hêghen không nhận thấy gì ngoài sự “ buồn tẻ’ và “tuỳ tiện” trong sự “đi chệch”, thì C.Mác đã chỉ ra ý nghĩa chủ đạo của tư tưởng này đối với toàn bộ triết học của Êpiquya” [65, tr.301] Thật vậy, trong Luận án tiến sĩ của mình, khi khẳng định

Sự đi chệch của nguyên tử ra khỏi đường thẳng là điểm khác biệt giữa Đêmôcrít và Êpiquya C.Mác nhấn mạnh rằng sự đi chệch này không chỉ là một hiện tượng ngẫu nhiên trong vật lý học của Êpiquya, mà thực chất, quy luật mà sự xác định này biểu thị lại thể hiện xuyên suốt triết học của Êpiquya.

Theo quan niệm của Êpiquya, nguyên tử được xem là các vật thể hoàn toàn độc lập, tương tự như các thiên thể Chúng có khả năng tồn tại trong tính độc lập tuyệt đối và vận động theo đường cong thay vì đường thẳng Do đó, chuyển động rơi xuống của nguyên tử không phải là một quá trình độc lập.

Êpiquya đã thể hiện tính vật chất của nguyên tử qua quan niệm về sự vận động theo đường thẳng, đồng thời cũng làm rõ tính quy định về hình thức của nguyên tử khi đề cập đến sự đi chệch khỏi đường thẳng Ông coi các tính quy định này là những sự vận động trực tiếp đối lập.

Sau C Mác, V.I Lênin cũng ghi nhận tầm quan trọng của quan niệm Êpiquya về sự tự do trong việc đi chệch hướng của nguyên tử Trong tác phẩm “Bút ký triết học”, V.I Lênin đã phản bác nhận xét của Hêghen về quan niệm này của Êpiquya.

Khái niệm "vận động theo đường cong chệch hướng" của nguyên tử được coi là "độc đoán và chán ngắt", và V.I Lênin đã chỉ trích đánh giá này về Êpiquya là "vô lý" và "vu khống", nhằm bỏ qua bản chất của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng duy vật Nhà thơ và triết gia La Mã, Luycrêtiút, học trò xuất sắc của Êpiquya, đã khẳng định rằng sự đi chệch hướng của nguyên tử không chỉ phá tan "quy luật về số phận" mà còn cho thấy rằng chúng ta có khả năng chống lại và đối kháng với những định mệnh đã được đặt ra.

Êpiquya nhận thấy rõ ràng sự mâu thuẫn trong quan niệm về sự đi chệch hướng của nguyên tử Ông nỗ lực lý giải hiện tượng này một cách khách quan, cho rằng sự đi chệch hướng không diễn ra trong một khoảng thời gian cố định và không ở vị trí đã biết, mà xảy ra trong không gian nhỏ nhất có thể.

Học thuyết về nhận thức

Êpiquya đã giải quyết vấn đề cơ bản của triết học một cách duy vật, khẳng định rằng vật chất có trước và tồn tại khách quan Điều này đã tạo nền tảng vững chắc cho ông trong việc xây dựng học thuyết về nhận thức.

Êpiquya, với tư cách là một nhà duy vật nhất quán, không chỉ thừa nhận sự tồn tại khách quan của vật chất mà còn công nhận tác động của nó lên các giác quan và khả năng nhận thức của con người V.I.Lênin đã chỉ trích cách hiểu duy tâm của Hêghen về học thuyết nhận thức của Êpiquya, đồng thời nhấn mạnh và đánh giá cao tính chất duy vật trong học thuyết nhận thức tự nhiên của ông.

Êpiquya, từ lập trường duy vật, đã khẳng định rằng vật chất có tính thứ nhất và ý thức là tính thứ hai, coi đây là nguyên tắc cơ bản để nhận thức tự nhiên Ông kế thừa nhận thức luận của Đêmôcrít, giải thích sự tác động của vật chất lên giác quan con người qua thuyết “hơi thở ra” bằng “hình ảnh.” Mặc dù thừa nhận rằng đối tượng nhận thức nằm ngoài cảm giác, ông cho rằng “từ bề mặt của đối tượng phát ra một luồng chảy liên tục mà cảm giác không nhận thấy được,” và sự vận động của những bề mặt này diễn ra rất nhanh trong không khí Nhờ vào luồng phát ra này, chúng ta có thể nhận biết được tính quy định của các cảm giác khác nhau Quan niệm của ông về thị giác cho rằng hình ảnh từ bên ngoài của sự vật truyền qua không khí để tạo nên cảm nhận.

Ông giải thích rằng "hơi thở toát ra" ảnh hưởng đến thị giác con người, đồng thời cũng làm rõ cách mà thính giác và khứu giác hoạt động Mặc dù còn nhiều hạn chế, ông nhấn mạnh rằng nguồn gốc của nhận thức bắt nguồn từ cảm giác và tri giác cảm tính.

Học thuyết nhận thức của Êpiquya được xây dựng dựa trên những nguyên tắc vững chắc, đặc biệt là trong công trình "Về các tiêu chí, hay quy tắc tôn giáo" Ông xác định rằng cảm giác, tri giác, khái niệm và sự tưởng tượng là những phương tiện chủ yếu giúp con người nhận thức thế giới Những người kế thừa học thuyết của ông đã bổ sung khái niệm về khả năng tưởng tượng vào các tiêu chí chân lý này Êpiquya chủ yếu sử dụng phương pháp quy nạp, cho rằng việc định hướng trong khối lượng dữ liệu khoa học khổng lồ là không thể nếu không có những kết luận rõ ràng từ trước Tuy nhiên, ông cũng đánh giá cao phương pháp diễn dịch, coi đây là cần thiết để so sánh và phản ánh chính xác sự phong phú của hiện thực khách quan.

Êpiquya không chỉ đề cập đến phương pháp nhận thức mà còn xây dựng một quan điểm duy vật nhất quán trong học thuyết nhận thức Ông khẳng định rằng thế giới khách quan và các sự vật hiện tượng là nguồn gốc duy nhất của mọi tri thức loài người Quan điểm này của Êpiquya hoàn toàn đúng đắn và xứng đáng được đánh giá cao, đặc biệt khi ông là một nhà triết học duy vật sống cách đây hơn hai nghìn năm.

Theo quan điểm của Êpiquya, V.I Lênin trong tác phẩm "Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán" khẳng định rằng cảm giác là mối liên hệ trực tiếp giữa ý thức và thế giới bên ngoài Đối với các nhà khoa học tự nhiên chưa bị ảnh hưởng bởi triết học sai lệch, cảm giác chính là sự chuyển hóa năng lượng từ kích thích bên ngoài thành sự kiện trong ý thức, điều mà mỗi người đều có thể quan sát hàng triệu lần trong cuộc sống hàng ngày.

Trong luận thức của mình, Êpiquya xác định rằng cảm giác là cầu nối giữa thế giới bên ngoài và con người, đánh dấu bước đầu tiên trong quá trình nhận thức Khác với Đêmôcrít, nơi cảm giác chỉ mang tính chủ quan, Êpiquya cho rằng cảm giác có yếu tố khách quan và phản ánh thế giới tồn tại khách quan C.Mác trong Luận án Tiến sĩ “Sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcrít và triết học tự nhiên của Êpiquya” đã chỉ ra rằng Đêmôcrít thiếu nhất quán khi coi cảm giác chỉ là hiện tượng chủ quan, trong khi Êpiquya xem cảm tính là sự phản ánh của thế giới hiện hữu vào bên trong bản thân.

Theo Êpiquya, tất cả hiểu biết của chúng ta về thế giới vật chất phụ thuộc vào cảm giác, vì tự nhiên tồn tại độc lập với ý chí con người Cảm giác không chỉ là hành động đầu tiên trong quá trình nhận thức mà còn là tiêu chí duy nhất để đánh giá thế giới tự nhiên, tương tự như lý trí trừu tượng trong thế giới các nguyên tử.

Theo quan niệm của Êpiquya, học thuyết về sự hình thành cảm giác được xây dựng một cách thận trọng, nhấn mạnh mối liên hệ giữa chủ thể và khách thể Mối quan hệ này được hình thành từ các phần tử vật chất nhỏ bé di chuyển từ khách thể tới chủ thể Những phân tử này có độ cứng và bền bỉ tương tự như các vật thể mà chúng tạo ra, mặc dù kích thước của chúng lại nhỏ hơn nhiều so với các phần tử của vật thể.

Êpiquya đã chỉ ra rằng quá trình hình thành cảm giác là một quá trình thống nhất, từ khi hình ảnh xuất hiện và tách ra khỏi bề mặt sự vật đến khi con người tiếp nhận hình ảnh đó Các giai đoạn trong quá trình này được liên kết bởi mối quan hệ nhân quả, và chủ thể chỉ có thể nhận diện hình ảnh hoàn chỉnh nếu có một "dòng chảy" giữ nguyên hình dáng của sự vật Quá trình tách hình ảnh cần diễn ra liên tục để đảm bảo tính chính xác của đối tượng được tiếp nhận Mặc dù chúng ta không thể quan sát "dòng chảy" này bằng mắt thường, nhưng Êpiquya mô tả rằng từ bề mặt của đối tượng phát ra một luồng chảy liên tục mà cảm giác không nhận thấy được Sự bổ sung của hình ảnh diễn ra nhanh chóng và tạo ra một sự hòa hợp giữa thế giới bên ngoài và chúng ta, cho phép chúng ta nhận biết tính quy định của các cảm giác thông qua sự truyền tải từ các hình ảnh.

Dựa trên học thuyết về “dòng chảy”, Êpiquya đã mở rộng nhận thức về giới tự nhiên không chỉ qua thị giác mà còn qua thính giác và vị giác Trong Luận án Tiến sĩ của mình, C.Mác nhấn mạnh rằng đối với Êpiquya, "Iđôla là những hình dạng của các vật thể tự nhiên đã tách ra khỏi chúng, giống như những vỏ bọc bên ngoài, và chuyển chúng thành hiện tượng" Những hình dạng này thường thoát ra khỏi vật thể và thâm nhập vào cảm giác, cho phép khách thể tự bộc lộ Do đó, trong thính giác thiên nhiên, con người có thể cảm nhận bản thân mình Cảm tính của con người tạo ra môi trường phản ánh các quá trình của tự nhiên, và qua những quá trình này, ánh sáng của các hiện tượng được phát ra V.I.Lênin trong “Bút ký triết học” đã coi đây là một dự đoán thiên tài của Êpiquya.

−ớc đoán của Êpiquya (300 năm tr−ớc Công nguyên, - tức là hơn 2000 tr−ớc Hêghen) về ánh sáng và tốc độ của nó chẳng hạn” [15, tr 315]

Êpiquya đã đóng góp quan trọng trong lý luận nhận thức khi nhấn mạnh ý nghĩa nhận thức luận và thực tiễn của bức tranh chung về thế giới Ông đánh giá cao tính đặc thù của trình độ nhận thức lý luận và khẳng định phương pháp luận của nó Khác với các triết gia duy vật cổ đại, Êpiquya đã tiếp cận từ một quan điểm tiên nghiệm, tìm ra sự thống nhất giữa các quan niệm và biểu tượng chung, từ đó khám phá các quy luật tự nhiên Nhờ vào những đóng góp này, Êpiquya được V.I Lênin coi là người “phát minh ra khoa học tự nhiên thực nghiệm và tâm lý học thực nghiệm”, nhấn mạnh rằng ở Êpiquya, “đối tượng, nguyên tắc” chính là nguyên tắc của khoa học tự nhiên hiện đại.

Trong quan niệm của Êpiquya, nhận thức được xem là một quá trình phức tạp bao gồm việc khơi gợi trí nhớ, chú ý, so sánh và hình thành khái niệm chung Khái niệm này là kết quả của tri giác cảm tính được "tích luỹ" lại Tính chân lý của nhận thức được thể hiện qua sự phù hợp giữa hình ảnh và sự vật Ông bác bỏ mọi nghi ngờ về khả năng nhận thức chân lý khách quan, cho rằng sai lầm và lừa dối phát sinh từ những sự thêm bớt trong quá trình nhận thức.

Tư tưởng liên quan đến tri giác cảm tính về những điều đang chờ đợi sự xác nhận hoặc khẳng định, nhưng sau đó lại không được xác nhận hoặc bị bác bỏ.

234] Nói về quan niệm này của Êpiquya, trong “Bút ký triết học”, V.I.Lênin viết:

Học thuyết về đạo đức của êpiquya và mấy nhận xét về học thuyết này

Ngày đăng: 12/07/2021, 16:04

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Alan C.Bowen (2004), Khoa học và triết học Hy Lạp cổ đại, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khoa học và triết học Hy Lạp cổ đại
Tác giả: Alan C. Bowen
Nhà XB: Nxb Văn hoá Thông tin
Năm: 2004
3. Benjamin Jowettvaf M.J.Kight (2008), Platon chuyên khảo, Nxb Văn hoá- Thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Platon chuyên khảo
Tác giả: Benjamin Jowett, M.J. Kight
Nhà XB: Nxb Văn hoá- Thông tin
Năm: 2008
4. C.Brinton, J.B.Christopher (1971), Văn minh ph−ơng Tây, Tập 1 (Nguyễn Văn L−ợng dịch), Nxb Sài Gòn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn minh ph−ơng Tây, Tập 1
Tác giả: C.Brinton, J.B.Christopher
Nhà XB: Nxb Sài Gòn
Năm: 1971
6. Nguyễn Văn dân (2007), Từ điển thần thoại Hy Lạp- La MQ, Nxb Từ điển Bách khoa Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển thần thoại Hy Lạp- La MQ
Tác giả: Nguyễn Văn dân
Nhà XB: Nxb Từ điển Bách khoa
Năm: 2007
7. Dominique Folscheid (2003), Các triết thuyết lớn (Huyền Giang dịch), Nxb Thế giới, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các triết thuyết lớn
Tác giả: Dominique Folscheid
Nhà XB: Nxb Thế giới
Năm: 2003
8. D−ơng Ngọc Dũng (2006), Đ−ờng vào triết học, Nxb Tổng Hợp, Tp. Hồ ChÝ Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đ−ờng vào triết học
Tác giả: D−ơng Ngọc Dũng
Nhà XB: Nxb Tổng Hợp
Năm: 2006
9. Đỗ Văn Hãng, Đinh Trung Kiên (1996), Những nền văn minh rực rỡ cổ x−a, Tập 3 (Văn minh Hy Lạp và văn minh La Mã), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những nền văn minh rực rỡ cổ x−a, Tập 3 (Văn minh Hy Lạp và văn minh La Mã)
Tác giả: Đỗ Văn Hãng, Đinh Trung Kiên
Nhà XB: Nxb Quân đội nhân dân
Năm: 1996
10. Trịnh Huy Hoàng (2004), Hy Lạp, nxb Trẻ, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hy Lạp
Tác giả: Trịnh Huy Hoàng
Nhà XB: nxb Trẻ
Năm: 2004
11. Nguyễn Hoá (2004), Triết học cổ Hy Lạp giản yếu, Nxb Thanh Niên, Hà Néi Sách, tạp chí
Tiêu đề: Triết học cổ Hy Lạp giản yếu
Tác giả: Nguyễn Hoá
Nhà XB: Nxb Thanh Niên
Năm: 2004
13. Đỗ Minh Hợp, Nguyến Anh Tuấn, Nguyễn Thanh (2006) - Đại C−ơng lịch sử triết học ph−ơng Tây, Nxb Tổng Hợp, Tp Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đại C−ơng lịch sử triết học ph−ơng Tây
Tác giả: Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Thanh
Nhà XB: Nxb Tổng Hợp
Năm: 2006
14. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, Tập 18, Nxb Tiến Bộ, Mácxcơva 15. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, Tập 29, Nxb Tiến Bộ, Mácxcơva Sách, tạp chí
Tiêu đề: Toàn tập
Tác giả: V.I.Lênin
Nhà XB: Nxb Tiến Bộ
Năm: 1981
16. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn Tập, Tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Toàn Tập, Tập 1
Tác giả: C.Mác, Ph.Ăngghen
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 1995
17. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn Tập, Tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Toàn Tập, Tập 2
Tác giả: C.Mác, Ph.Ăngghen
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 1995
20. C.Mác và Ph.Ăngghen (1994, Toàn Tập, Tập 20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Toàn Tập, Tập 20
Tác giả: C.Mác, Ph.Ăngghen
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 1994
22. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn Tập, Tập 22, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Toàn Tập
Tác giả: C.Mác, Ph.Ăngghen
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 1995
24. Đặng Thai Mai (1957), Lịch sử triết học ph−ơng Tây, Nxb Xây dựng, Hà Néi Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử triết học ph−ơng Tây
Tác giả: Đặng Thai Mai
Nhà XB: Nxb Xây dựng
Năm: 1957
25. Hà thúc Minh (2000), Triết học cổ đại Hy lạp-La MQ, Nxb Mũi Cà Mau Sách, tạp chí
Tiêu đề: Triết học cổ đại Hy lạp-La MQ
Tác giả: Hà thúc Minh
Nhà XB: Nxb Mũi Cà Mau
Năm: 2000
26. Mortimer Adlen (2004), Những tư tưởng lớn từnhững tác phẩm vĩ đại (Phạm Viêm Ph−ơng và Mai Sơn dịch), NxbVăn hoá- Thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những tư tưởng lớn từnhững tác phẩm vĩ đại
Tác giả: Mortimer Adlen
Nhà XB: NxbVăn hoá- Thông tin
Năm: 2004
27. Mortimer Chambers, Barbana Hanawlt, David Herlihy, Theodore K.Rabb, Lsser Woloch, Raymond Grew (2004), Lịch sử văn minh ph−ơng Tây, Nxb, Văn hoá- Thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử văn minh ph−ơng Tây
Tác giả: Mortimer Chambers, Barbana Hanawlt, David Herlihy, Theodore K. Rabb, Lsser Woloch, Raymond Grew
Nhà XB: Nxb, Văn hoá- Thông tin
Năm: 2004
28. F.Nietzche (1975), Triết học hy Lạp thời bi kịch, (Trần Xuân Kiêm dịch), Nxb Sài gòn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Triết học hy Lạp thời bi kịch
Tác giả: F. Nietzche
Nhà XB: Nxb Sài gòn
Năm: 1975

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w