1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Tác động của quyết định đầu tư đến kết quả hoạt động tại các doanh nghiệp niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

209 11 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Tác Động Của Quyết Định Đầu Tư Đến Kết Quả Hoạt Động Tại Các Doanh Nghiệp Niêm Yết Trên Sàn Giao Dịch Chứng Khoán Việt Nam
Tác giả Nguyễn Đức Phương
Người hướng dẫn PGS. TS. Vương Đức Hoàng Quân
Trường học Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Tài chính – Ngân hàng
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2021
Thành phố TP. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 209
Dung lượng 11,29 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. PHẦN MỞ ĐẦU (10)
    • 1.1. Tính cấp thiết của đề tài (10)
    • 1.2. Các nghiên cứu liên quan (11)
    • 1.3. Mục tiêu nghiên cứu (22)
      • 1.3.1. Mục tiêu chung (22)
      • 1.3.2. Mục tiêu cụ thể (23)
    • 1.4. Câu hỏi nghiên cứu (23)
    • 1.5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (23)
      • 1.5.1. Đối tượng nghiên cứu (23)
      • 1.5.2. Phạm vi nghiên cứu (23)
    • 1.6. Ý nghĩa của nghiên cứu (24)
    • 1.7. Cấu trúc của luận văn (25)
  • CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT - CÁC NGHIÊN CỨU VỀ QUYẾT ĐỊNH ĐẦU TƯ VÀ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP (25)
    • 2.1. Các khái niệm cơ bản (26)
      • 2.1.1. Quyết định đầu tư ngắn hạn (26)
      • 2.1.2. Quyết định đầu tư dài hạn (26)
      • 2.1.3. Hiệu quả quyết định đầu tư của doanh nghiệp (27)
      • 2.1.4. Kết quả hoạt động của doanh nghiệp (27)
    • 2.2. Tác động của quyết định đầu tư đến kết quả hoạt động doanh nghiệp (29)
      • 2.2.1. Cơ hội đầu tư (30)
      • 2.2.2. Quyết định đầu tư (32)
      • 2.2.3. Yếu tố tổ chức (32)
      • 2.2.4. Thông tin kế toán (33)
      • 2.2.5. Thông tin bất cân xứng (33)
      • 2.2.6. Hiểu biết về tài chính (34)
      • 2.2.7. Độ mở về kinh nghiệm (35)
    • 2.3. Tổng quan các nghiên cứu trước (36)
  • CHƯƠNG 3. PHƯƠNG PHÁP – DỮ LIỆU – MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU (26)
    • 3.1. Phương pháp nghiên cứu (46)
    • 3.2. Dữ liệu nghiên cứu (46)
    • 3.3. Mô hình nghiên cứu (47)
    • 3.4. Các giả thuyết trong nghiên cứu (49)
  • CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (46)
    • 4.1. Thống kê mô tả (55)
    • 4.2. Kiểm định thống kê (58)
      • 4.2.1. Ma trận tương quan (58)
      • 4.2.2. Nhân tử phóng đại phương sai (VIF) (60)
      • 4.2.3. Phương sai thay đổi (61)
      • 4.2.4. Tự tương quan (61)
      • 4.2.5. Kết quả nghiên cứu (62)
      • 4.2.6. Thảo luận kết quả nghiên cứu (63)
  • CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH (25)
    • 5.1. Kết luận (70)
    • 5.2. Hàm ý chính sách (73)
    • 5.3. Hạn chế của nghiên cứu (74)
    • 5.4. Gợi ý cho các nghiên cứu sau .......................................................................... 65 TÀI LIỆU THAM KHẢO (74)
  • PHỤ LỤC (88)

Nội dung

PHẦN MỞ ĐẦU

Tính cấp thiết của đề tài

Mặc dù các yếu tố kinh tế vĩ mô có vai trò quan trọng trong việc hình thành chính sách, nhưng các yếu tố kinh tế vi mô cũng không kém phần quan trọng, ảnh hưởng đến quyết định đầu tư Các nghiên cứu về kinh tế vĩ mô cần thiết để phát triển chính sách hiệu quả, nhưng không thể bỏ qua tác động của các yếu tố vi mô Hiện tại, các nhà nghiên cứu đang điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của công ty, tìm hiểu những yếu tố nào tác động đến sự đầu tư và mức độ ảnh hưởng của các cơ hội hiện có đối với các quyết định đầu tư của doanh nghiệp.

Các yếu tố này có tác động đồng đều đến tất cả các loại hình doanh nghiệp hay không? Những câu hỏi này đã thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu.

Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra tầm quan trọng của hạn chế tài chính trong quyết định đầu tư kinh doanh (Brainard và Tobin, 1968; Fazzari và Petersen, 1993) Miller và Modigliani (1958) đã đóng góp quan trọng cho lĩnh vực tài chính doanh nghiệp bằng cách phát triển lý thuyết về cấu trúc tài chính, cho rằng giá trị thị trường của công ty không bị ảnh hưởng bởi cấu trúc vốn trong thị trường vốn.

Tuyên bố này nhấn mạnh rằng yếu tố quyết định tài chính của công ty không chỉ phụ thuộc vào cơ cấu vốn mà còn bao gồm quản trị doanh nghiệp, khả năng doanh nghiệp hóa, cơ hội tăng trưởng, tài sản hữu hình và dòng tiền từ hoạt động.

Quản trị doanh nghiệp hiệu quả không chỉ tăng cường nguồn vốn tự có mà còn thúc đẩy sự phát triển kinh tế của nhà nước (Davidson và ctg, 1993) Việc quản lý tốt giúp giảm thiểu tình trạng lãng phí tài nguyên, từ đó nâng cao hiệu suất và phân bổ nguồn lực hợp lý Sai sót trong việc sử dụng tài nguyên thường xuất phát từ quản lý thu nhập (Bedard và ctg, 2004; Klein, 2002; Xiao, 2009) Hệ thống quản trị doanh nghiệp hiệu quả còn giảm thiểu vấn đề đại diện giữa nhà quản lý và cổ đông, góp phần vào những quyết định đầu tư đúng đắn của công ty Vai trò của quản trị doanh nghiệp đã được nghiên cứu và đo lường qua nhiều biến khác nhau, cho thấy tầm quan trọng của nó trong hoạt động kinh doanh.

Các quyết định đầu tư của công ty liên quan đến việc xác định số vốn sẽ được đầu tư nhằm tạo ra thu nhập hoặc gia tăng giá trị trong tương lai Các khoản đầu tư mới nhằm nâng cao năng lực sản xuất có thể được tài trợ từ nguồn nội bộ hoặc bên ngoài Theo Jangili và Kumar (2010), quyết định đầu tư không chỉ tập trung vào việc tạo ra lợi nhuận và doanh thu mà còn bao gồm các chiến lược giảm thiểu chi phí và tiết kiệm tài chính.

Các công ty cần đưa ra quyết định chiến lược nhằm tăng cường sự giàu có của chủ sở hữu và lợi nhuận thông qua các chính sách giá trị gia tăng trên thị trường Quyết định đầu tư được xác định từ sự kết hợp của các dự án ngắn hạn và dài hạn, trong đó bất kỳ khoản đầu tư nào được đề xuất sẽ được xem xét dựa trên các phương pháp đánh giá cụ thể Mục tiêu chính vẫn là tăng cường sự giàu có cho các cổ đông Vì lý do này, học viên đã chọn nghiên cứu về “Tác động của quyết định đầu tư đến kết quả hoạt động tại các doanh nghiệp niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Việt Nam”.

Các nghiên cứu liên quan

Đầu tư là một yếu tố kinh tế vĩ mô quan trọng trong nghiên cứu tăng trưởng kinh tế, đặc biệt đối với các nước kém phát triển Việc hiểu rõ các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư là rất cần thiết Lý thuyết cho thấy sự phát triển của thị trường tài chính và các công cụ tài chính giúp giảm chi phí giao dịch và cải thiện thông tin, từ đó tác động đến tỷ lệ tiết kiệm và quyết định đầu tư.

Nghiên cứu năm 2010 cho thấy loại hình doanh nghiệp, kinh nghiệm và trình độ của chủ doanh nghiệp ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của DNVVN Mai Văn Nam và Nguyễn Quốc Nghi (2011) đã chỉ ra rằng các yếu tố như chính sách hỗ trợ của Chính phủ, mối quan hệ xã hội, trình độ học vấn của chủ doanh nghiệp và tốc độ tăng trưởng doanh thu đều tác động đến hiệu quả kinh doanh Hơn nữa, Lê Khương Ninh (2011) cũng nhấn mạnh rằng quy mô doanh nghiệp ảnh hưởng đến ROA của DNVVN tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.

Nghiên cứu của Thủy, Huyền và Quyên (2015) tập trung vào các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của công ty, từ đó đưa ra gợi ý cho các nhà quản trị nhằm nâng cao hiệu quả tài chính Dữ liệu được thu thập từ 230 công ty cổ phần phi tài chính niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM (HOSE) trong giai đoạn 2011-2013, thuộc 14 ngành khác nhau Kết quả cho thấy hiệu quả hoạt động, được đo lường qua ROA và ROE, bị ảnh hưởng đáng kể bởi tỷ lệ vốn nhà nước, đòn bẩy tài chính, năng lực quản lý, quy mô công ty, khả năng thanh toán nhanh và chu kỳ sản xuất kinh doanh.

Nghiên cứu của Phượng (2016) về hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của 180 công ty niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP Hồ Chí Minh cho thấy rằng hiệu quả này chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố Trong số 7 biến đưa vào mô hình, có 6 biến có ý nghĩa thống kê cao, với biến phụ thuộc là tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (ROA) Cụ thể, cơ cấu vốn có tác động âm đến ROA nhưng dương đến ROE, với hệ số hồi quy của DE cho thấy ảnh hưởng tiêu cực đến cả hai chỉ tiêu Khi tỷ lệ nợ tăng 1%, ROA giảm 0,18% và ROE giảm 0,16% Ngoài ra, biến số TANG, đại diện cho đầu tư tài sản cố định, cũng được kỳ vọng có tác động âm đến hiệu quả sản xuất kinh doanh.

Kết quả hồi quy cho thấy tỷ lệ đầu tư tài sản cố định có tác động tiêu cực đến ROA và ROE, với hệ số hồi quy lần lượt là -0,028 và -0,039 Cụ thể, khi tỷ lệ đầu tư tài sản cố định tăng 1%, ROA giảm 0,028% và ROE giảm 0,039% Đối với biến SIZE, nghiên cứu chỉ ra tác động dương tới ROE với hệ số hồi quy 1,21586, tức là khi tổng tài sản tăng 1%, ROE sẽ tăng 1,22% Về biến GROWTH, tốc độ tăng trưởng có tác động tích cực đến cả ROA và ROE, với mức tác động biên lần lượt là 0,00801 cho ROA và 0,02831 cho ROE, nghĩa là doanh thu tăng 1% sẽ làm ROA tăng khoảng 0,008% và ROE tăng khoảng 0,028% Cuối cùng, biến AGE cho thấy tác động tiêu cực với hệ số hồi quy -0,1848 cho ROA và -0,4046 cho ROE, cho thấy khi thời gian hoạt động của doanh nghiệp tăng thêm 1 năm, ROA giảm 0,18% và ROE giảm 0,4%.

Nghiên cứu của Quyên, Bình và Nhàn (2019) chỉ ra rằng hiệu quả hoạt động của 67 doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Thừa Thiên - Huế chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố như quy mô, tốc độ tăng trưởng, khả năng sinh lời và tính liên kết ngành Sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính đa biến, nghiên cứu đã ước lượng các nhân tố này và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong khu vực.

Theo nghiên cứu của Tân và Ngân (2020), hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp tại tỉnh Bạc Liêu cho thấy doanh thu tăng nhưng tốc độ tăng trưởng giảm dần qua các năm Lợi nhuận giảm mạnh vào năm 2017 và 2018 do chi phí gia tăng đột biến trong tổng doanh thu Mô hình hồi quy chỉ ra ba yếu tố tác động đáng kể đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm trình độ học vấn, kinh nghiệm quản lý và loại hình doanh nghiệp, trong đó kinh nghiệm quản lý của chủ doanh nghiệp có ảnh hưởng mạnh nhất.

Một công ty được coi là bị hạn chế về tài chính nếu chi phí hoặc sự sẵn có của tài chính bên ngoài ngăn cản họ thực hiện các dự án mới Theo Bond và Van Reenen, sự gia tăng bất ngờ về nguồn vốn nội bộ dẫn đến việc tăng chi tiêu đầu tư, không liên quan đến lợi nhuận tiềm năng trong tương lai, cho thấy sự hạn chế tài chính Những hạn chế này được công nhận rộng rãi là có vai trò quan trọng, dựa trên kết quả từ nhiều nghiên cứu thực nghiệm Câu hỏi then chốt là cách phân loại các công ty để có thể kiểm tra đầy đủ các hiệu ứng phát sinh từ những hạn chế tài chính này.

Theo Kaplan và Zingales (1997), không có lý do lý thuyết mạnh mẽ cho sự nhạy cảm của đầu tư đối với dòng tiền chỉ dựa vào quỹ nội bộ hoặc mức độ bất cân xứng thông tin Các tác giả đã sử dụng dữ liệu tương tự như Fazzari và cộng sự (1996) để chứng minh rằng mối quan hệ này có thể mang tính chất khác, không chỉ là vấn đề thanh khoản Họ đã xem xét 49 công ty với mức phân phối cổ tức thấp, phân loại thành năm nhóm theo hoạt động, và phát hiện rằng 85% công ty không bị hạn chế tài chính, có khả năng tăng đầu tư qua hạn mức tín dụng hoặc dự trữ tiền mặt Kết luận cho thấy các công ty với hạn chế thấp hơn có mức độ đầu tư vào dòng tiền cao hơn Nghiên cứu của Hoshi và cộng sự (1991) về các công ty Nhật Bản cho thấy rằng những công ty có mối quan hệ ngân hàng gần gũi hơn bị hạn chế ít hơn đối với dòng tiền Nghiên cứu của Blundell và cộng sự (1992) về đầu tư của các công ty Anh cũng xác nhận rằng dòng tiền có ảnh hưởng tích cực và đáng kể Bond và Meghir (1994) nghiên cứu 626 công ty Anh và chỉ ra rằng việc không kiểm tra chế độ tài chính có thể dẫn đến sự nhạy cảm quá mức đối với các quỹ nội bộ.

Hsiao và Tahmiscioglu (1997) đã phân loại 561 công ty Hoa Kỳ theo cường độ vốn, cho thấy rằng việc không xem xét sự khác biệt trong hành vi của các công ty dẫn đến việc đánh giá thấp các hệ số biến số Hệ thống tài chính hiện tại không đủ khả năng cung cấp tài chính dài hạn cho các công ty, ngoại trừ một số công ty phát triển nhỏ thuộc sở hữu nhà nước Tổng nguồn cung tín dụng chỉ chiếm 27% GDP, trong khi trái phiếu doanh nghiệp chưa đến 3% GDP Pinheiro và Cabral (1998) cho rằng nguồn cung hạn chế này xuất phát từ lãi suất thực cao, sự chênh lệch quy mô lớn và hệ thống tư pháp yếu kém Thị trường chứng khoán chỉ phục vụ một số ít công ty và dễ bị ảnh hưởng bởi các hoạt động đầu cơ Moreira và Puga (2001) nhấn mạnh rằng các nguồn lực nội bộ là nguồn tài chính chính cho các công ty, điều này hạn chế khả năng đầu tư và tăng trưởng kinh tế quốc gia, khiến các công ty chủ yếu dựa vào nguồn lực nội bộ để tài trợ cho các khoản đầu tư của mình.

Nghiên cứu của Gharaibeh (2004) kiểm tra mối tương tác giữa quyết định tài chính và đầu tư của 26 công ty dịch vụ và 54 công ty công nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Amman trong giai đoạn 1997 – 2002 Sử dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất để phân tích, nghiên cứu cho thấy thanh khoản, lợi nhuận và thay đổi thuế là những yếu tố quan trọng trong việc phân phối tỷ lệ phần trăm Đồng thời, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng không có sự chồng chéo giữa các quyết định phân phối, đòn bẩy và khối lượng đầu tư trong thời gian này.

Nghiên cứu của Pindado và Torre (2006) đã phân tích các yếu tố quyết định cấu trúc vốn thông qua vai trò của các quyết định đầu tư và phân phối lợi nhuận trên mẫu 135 công ty Tây Ban Nha trong giai đoạn 1990 – 1999 Các nhà nghiên cứu tập trung vào báo cáo tài chính và chủ đề quản trị doanh nghiệp, nhằm đánh giá ảnh hưởng của nó đến các khía cạnh liên quan Kết quả cho thấy cần điều chỉnh nợ và vốn chủ sở hữu trong quá trình mua lại cổ phần, đồng thời khuyến khích nhân sự nội bộ và bên ngoài tăng cường đầu tư vào công ty để đạt lợi nhuận cao hơn.

Nghiên cứu của Ghadome (2008) nhằm kiểm tra tác động của quyết định đầu tư đến hiệu suất của 53 công ty niêm yết trên Sở Chứng khoán Amman trong giai đoạn 1999 – 2008 Ông đã phân tích mối quan hệ giữa các khoản nợ và ảnh hưởng của chúng đến lợi nhuận trên tài sản và lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu Kết quả nghiên cứu cho thấy không có mối quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ nợ, các khoản vay dài hạn, và các khoản vay ngắn hạn với các biến số nghiên cứu, ngoại trừ mối quan hệ có ý nghĩa giữa tỷ lệ nợ và lợi tức đầu tư.

Nghiên cứu của Granger và Patra (2008) đã chỉ ra mối quan hệ giữa quyết định đầu tư, phân phối cổ tức tiền mặt và lợi nhuận của thị trường chứng khoán ở Đài Loan và Trung Quốc Qua việc phân tích các công ty công nghiệp tại hai quốc gia này, họ phát hiện ra rằng có sự liên kết giữa lợi nhuận và các quyết định đầu tư cũng như quyết định phân phối cổ tức tiền mặt Nghiên cứu khuyến nghị rằng những người ra quyết định cần hợp tác và hài hòa các quyết định này để đạt được mục tiêu mong muốn.

Nghiên cứu của Kalatzis và cộng sự (2009) đã phân tích quyết định đầu tư của 497 công ty Brazil trong bối cảnh kinh tế vĩ mô không ổn định, với sự chú trọng đến vai trò của hạn chế tài chính trong mô hình kinh tế lượng Bayes Kết quả cho thấy hạn chế tài chính có ảnh hưởng đáng kể, đặc biệt đối với các công ty thâm dụng vốn, do những yếu tố như chỉ số lợi nhuận thấp hơn, chi phí cố định cao hơn và mức độ đa dạng hóa tài sản cao hơn Mô hình ưa thích nhất được xác định là mô hình mà các hiệu ứng cụ thể của công ty có tương quan với dòng tiền, cho thấy tầm quan trọng của hạn chế tài chính trong quyết định đầu tư.

Mục tiêu nghiên cứu

Tác động của quyết định đầu tư đến kết quả hoạt động tại các doanh nghiệp niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Việt Nam

Từ mục tiêu chung, các mục tiêu cụ thể cũng được đưa ra như sau:

Mục tiêu của nghiên cứu là kiểm định tác động của quyết định đầu tư đến kết quả hoạt động của các doanh nghiệp niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Việt Nam.

Mục tiêu 2: Bên cạnh các quyết định đầu tư, nhiều yếu tố khác cũng ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Việt Nam Các yếu tố này bao gồm tình hình kinh tế vĩ mô, chính sách quản lý nhà nước, sự cạnh tranh trong ngành, và khả năng quản trị doanh nghiệp Việc nắm bắt và phân tích những yếu tố này là cần thiết để đánh giá đúng tiềm năng và rủi ro của các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán.

Mục tiêu 3: Đưa ra những gợi ý cho các doanh nghiệp.

Câu hỏi nghiên cứu

Nghiên cứu này cung cấp câu trả lời cho sáu câu hỏi sau:

1 Quyết định đầu tư có tác động đến kết quả hoạt động của công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Việt Nam không?

2 Ngoài quyết định đầu tư thì yếu nào cũng tác động đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp niêm yết ở sàn giao dịch chứng khoán Việt Nam?

3 Những hàm ý nào cho các doanh nghiệp niêm yết ở sàn giao dịch chứng khoán Việt Nam?

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Các doanh nghiệp niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Việt Nam đưa ra quyết định đầu tư hàng năm, từ đó lựa chọn các biến số phù hợp để đánh giá ảnh hưởng của hiệu quả đầu tư đến kết quả hoạt động của họ.

Không gian: Các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên hai sàn giao dịch chứng khoán Việt Nam

Từ năm 2009 đến 2018, có tổng cộng 445 doanh nghiệp đăng ký giao dịch trên hai sàn chứng khoán lớn tại Việt Nam, bao gồm 214 doanh nghiệp trên sàn HoSE và 231 doanh nghiệp trên sàn HNX, tạo ra 4.450 quan sát.

Ý nghĩa của nghiên cứu

Thị trường chứng khoán Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc huy động vốn dài hạn cho đầu tư và phát triển, phù hợp với xu hướng phát triển của đất nước Để thu hút nhà đầu tư, các công ty niêm yết cần tập trung nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, vì đây là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư trên thị trường.

Việc nghiên cứu tác động của quyết định đầu tư đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam là rất quan trọng Điều này giúp các công ty nhận diện lợi thế cạnh tranh, từ đó thu hút nguồn vốn đầu tư để mở rộng phát triển, tạo ra việc làm cho người lao động và góp phần ổn định kinh tế – xã hội.

Nghiên cứu này sẽ giúp các công ty và nhà quản lý phát triển chiến lược đầu tư hiệu quả, tối ưu hóa tiềm năng thị trường chứng khoán Việt Nam, từ đó tạo ra lợi thế cạnh tranh Nó cũng đóng góp vào việc hiểu rõ hơn về các quyết định đầu tư và mối quan hệ giữa các chỉ số công ty và lợi nhuận, hỗ trợ các nhà phân tích đầu tư trong việc đưa ra quyết định chính xác hơn Các cơ quan quản lý có thể áp dụng kết quả nghiên cứu để cải thiện hiệu suất của Sàn giao dịch chứng khoán Việt Nam Cuối cùng, nghiên cứu này còn bổ sung kiến thức cho các lĩnh vực học thuật, tổ chức nghiên cứu, và các nhà đầu tư cá nhân.

Nghiên cứu này nhằm cung cấp cái nhìn sâu sắc về các loại quyết định đầu tư, góp phần vào sự phát triển học thuật trong lĩnh vực này Đồng thời, nó cũng mở ra nhiều câu hỏi và hướng nghiên cứu mới cho các nghiên cứu tiếp theo.

Cấu trúc của luận văn

TỔNG QUAN LÝ THUYẾT - CÁC NGHIÊN CỨU VỀ QUYẾT ĐỊNH ĐẦU TƯ VÀ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP

Các khái niệm cơ bản

2.1.1 Quyết định đầu tư ngắn hạn Đầu tư ngắn hạn là những khoản đầu tư mà chủ sở hữu có thể thanh khoản nhanh chóng, có rủi ro thấp và sẽ qui đổi dưới dạng tiền mặt trong vòng một năm Chúng thường được sử dụng như một cách để tạo ra lợi nhuận an toàn nhưng ít Các khoản đầu tư ngắn hạn cũng đề cập cụ thể đến các tài sản tài chính, một loại tương tự, nhưng với một vài yêu cầu bổ sung, thuộc sở hữu của một công ty Được ghi lại trong một tài khoản riêng, và liệt kê trong phần tài sản ngắn hạn trong bảng cân đối kế toán của công ty, đây là những khoản đầu tư mà một công ty đã thực hiện dự kiến sẽ được chuyển đổi thành tiền mặt trong vòng một năm bao gồm: tiền và các khoản tương đương, đầu tư tài chính ngắn hạn, các khoản phải thu ngắn hạn và hàng tồn kho

2.1.2 Quyết định đầu tư dài hạn Đầu tư dài hạn là đầu tư vào các tài sản dài hạn, là những tài sản có đặc điểm: tham gia vào nhiều chu kì sản xuất kinh doanh, hình thái vật chất không thay đổi nhưng giá trị của nó giảm dần theo thời gian phục vụ Đó chính là tính hao mòn dần của tài sản dài hạn, cho đến khi hết thời hạn sử dụng thì giá trị sử dụng của nó còn lại rất ít hoặc không còn giá trị Do vậy, lợi tức thực sự mà vốn đầu tư dài hạn mang lại cho doanh nghiệp chỉ được tính là phần còn lại từ nguồn lợi kinh tế của vốn đầu tư dài hạn sau khi đã bồi hoàn phần hao hụt của nó trong quá trình phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh

Quyết định đầu tư dài hạn, hay còn gọi là quyết định đầu tư vốn, liên quan đến việc đầu tư vào tài sản dài hạn nhằm xây dựng hoặc mở rộng cơ sở vật chất cho hoạt động bền vững của doanh nghiệp.

Quyết định về việc mua sắm máy móc thiết bị mới

Quyết định thay thế, cải tạo máy móc thiết bị cũ

Quyết định đầu tư mở rộng sản xuất, v.v

Các quyết định này ảnh hưởng đáng kể đến quy mô và đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp, yêu cầu vốn đầu tư lớn và thời gian thu hồi vốn kéo dài Do đó, doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều yếu tố không chắc chắn, khó dự đoán và rủi ro cao.

2.1.3 Hiệu quả quyết định đầu tư của doanh nghiệp

Hiệu quả đầu tư là chỉ số phản ánh khả năng tận dụng nguồn lực để đạt được các mục tiêu đầu tư cụ thể Nó liên quan đến từng hoạt động đầu tư, chẳng hạn như hiệu quả của tài sản dài hạn hoặc ngắn hạn như cầu, nhà ở, hoặc thiết bị Hiệu quả đầu tư đánh giá mối quan hệ giữa kết quả đạt được từ tài sản trong suốt quá trình sử dụng và chi phí kinh doanh phát sinh liên quan đến việc sử dụng tài sản đó.

Hiệu quả đầu tư phụ thuộc vào thời gian sử dụng tài sản, có thể là dài hạn hoặc ngắn hạn Để doanh nghiệp tồn tại và phát triển, cần phải tạo ra và tiêu thụ sản phẩm hoặc dịch vụ Sử dụng nguồn lực hiệu quả trong quá trình sản xuất sẽ gia tăng cơ hội phát triển cho doanh nghiệp Đầu tư cho tương lai dựa trên hiệu quả sẽ đảm bảo sự phát triển bền vững cho doanh nghiệp.

2.1.4 Kết quả hoạt động của doanh nghiệp

Các công ty thành công đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của các quốc gia đang phát triển, được coi là động lực cho sự phát triển kinh tế, xã hội và chính trị Để cạnh tranh hiệu quả, các doanh nghiệp cần hoạt động trong điều kiện tối ưu Hiện nay, hiệu quả hoạt động đã trở thành một khái niệm quan trọng trong nghiên cứu quản lý chiến lược, thường được xem như một biến phụ thuộc Mặc dù được nhắc đến nhiều trong tài liệu học thuật, vẫn còn thiếu sự đồng nhất về định nghĩa và phương pháp đo lường hiệu quả hoạt động.

Hiện nay, chưa có một định nghĩa thống nhất về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp mà các học giả đồng ý, dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau dựa trên nhận thức cá nhân Các định nghĩa về khái niệm này thường mang tính trừu tượng hoặc chung chung, và ít khi được xác định một cách rõ ràng.

Trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI, hiệu quả hoạt động của tổ chức được xác định qua khả năng khai thác hiệu quả nguồn lực để đạt được mục tiêu đề ra, đồng thời xem xét sự phù hợp của kết quả với người dùng (Peterson, Gijsbers & Wilks, 2003) Verboncu và Zalman (2005) nhấn mạnh rằng hiệu quả hoạt động mang lại các đặc điểm cạnh tranh, hiệu quả và hiệu lực cho tổ chức, cũng như cho các cấu trúc và quy trình của nó.

Bartoli và Blatrix (2015) nhấn mạnh rằng hiệu quả cần được định nghĩa thông qua các yếu tố như thí điểm, đánh giá, hiệu suất, hiệu lực và chất lượng.

Theo Gimbert và cộng sự (2010), hệ thống đo lường hiệu quả bao gồm các thước đo tài chính và phi tài chính, hỗ trợ quyết định tổ chức thông qua việc thu thập và phân tích dữ liệu Quan điểm tài chính nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kiểm soát nguồn lực tài chính đối với sự thành công của công ty Tuy nhiên, nhiều tổ chức thường chỉ tập trung vào kết quả tài chính mà bỏ qua các khía cạnh khác.

Trong những năm gần đây, các công cụ phân tích tài chính ngày càng thu hút sự chú ý của nhà quản trị doanh nghiệp và nhà đầu tư, đặc biệt là trong việc đánh giá khả năng sinh lợi Phân tích các chỉ số sinh lợi giúp doanh nghiệp nhận diện thế mạnh và tồn tại, từ đó đưa ra quyết định kịp thời nhằm gia tăng giá trị tài sản Đối với nhà đầu tư, việc này cũng hỗ trợ họ trong việc đưa ra quyết định đầu tư chính xác hơn.

Khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu (ROE) là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp ROE cho biết số lợi nhuận sau thuế mà mỗi đơn vị vốn chủ sở hữu mang lại; giá trị ROE cao cho thấy doanh nghiệp đang sử dụng vốn hiệu quả, thu hút được sự quan tâm của nhà đầu tư Hơn nữa, chỉ số này còn phản ánh khả năng của bộ phận quản lý trong việc cân đối hợp lý giữa vốn chủ sở hữu và nợ phải trả, đảm bảo an ninh tài chính và khai thác lợi thế cạnh tranh trong quá trình mở rộng quy mô kinh doanh.

Khả năng sinh lợi của tổng tài sản (ROA) là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả kinh tế trong việc sử dụng tài sản của doanh nghiệp ROA cho biết một đơn vị tài sản bình quân mang lại bao nhiêu lợi nhuận sau thuế, với giá trị càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản càng tốt.

Ngoài ra còn có nhiều chỉ tiêu đo lường khác nhưng không thuộc phạm vi của luận văn này.

Tác động của quyết định đầu tư đến kết quả hoạt động doanh nghiệp

Các yếu tố quyết định hiệu quả hoạt động ở cấp độ công ty đã được nghiên cứu từ định lý Modigliani và Miller (1958), cho rằng không có mối quan hệ giữa cấu trúc tài chính và chính sách tài chính đối với các quyết định đầu tư trong một số điều kiện nhất định Theo lý thuyết của Tobin (1969) và mô hình mở rộng của Hayashi (1982), nhu cầu đầu tư có thể được dự đoán thông qua tỷ lệ giá trị thị trường của cổ phiếu vốn so với chi phí thay thế, trong bối cảnh thị trường hoàn hảo với thông tin đối xứng và không có chi phí giao dịch Hơn nữa, giá trị thị trường của công ty cũng có thể giải thích cho các cơ hội đầu tư bổ sung.

Akerlof (1970) chỉ ra rằng định lý này chỉ áp dụng cho thị trường vốn hoàn hảo và không thể giải thích các quyết định đầu tư ở cấp độ vi mô khi có thông tin bất cân xứng.

Trong một thị trường hiệu quả, chính sách đầu tư của các công ty tối đa hóa lợi nhuận phụ thuộc vào giá trị hiện tại của lợi nhuận dự kiến từ đầu tư vốn bổ sung (Hayashi, 1982) Theo nghiên cứu, chi phí tài chính bên ngoài có thể cao hơn so với tài chính nội bộ, dẫn đến việc các công ty có giá trị ròng cao hơn nên đầu tư nhiều hơn (Hubbard, 1998) Tuy nhiên, việc đo lường cơ hội đầu tư là một thách thức do biên q không thể quan sát được, khiến các đại diện khác phải được sử dụng Hayashi (1982) chỉ ra rằng q trung bình (hay Tobin q) thường được dùng làm thước đo cho hồi quy đầu tư Sự khác biệt giữa định giá thị trường và giá trị nội tại của công ty đã dẫn đến việc lý thuyết đầu tư nhận được ít sự hỗ trợ từ các thử nghiệm thực nghiệm dựa trên hồi quy đầu tư trung bình q (Whited, 1994; Erickson và Whited, 2000).

Một phương pháp để khắc phục các vấn đề liên quan đến mô hình Q thông thường là ước tính điều kiện đầu tư liên doanh đầu tiên của công ty thông qua phương trình Euler Mặc dù phương pháp này mang lại nhiều lợi ích, nhưng các ước tính dựa trên phương trình Euler lại nhạy cảm với đặc điểm kỹ thuật và phụ thuộc vào các hạn chế theo từng giai đoạn, điều này có thể dẫn đến việc không phản ánh chính xác các công ty gặp khó khăn về tài chính.

Nhiều nỗ lực đã được thực hiện nhằm cải thiện việc đo lường cơ hội đầu tư, tuy nhiên, kết quả thu được vẫn khác nhau Một số nhà nghiên cứu chỉ ra rằng các yếu tố tài chính vẫn giữ vai trò quan trọng, ngay cả khi các yếu tố cơ bản được nắm bắt một cách tốt hơn.

Gilchrist và Himmelberg (1995) đã phát triển thước đo q cơ bản thông qua khung dự báo PVAR, phân tách tác động của dòng tiền đầu tư thành hai thành phần: dự báo lợi nhuận trong tương lai trong các thị trường hoàn hảo và một thành phần phản ánh ma sát tài chính Họ nhận thấy rằng đầu tư vẫn phản ứng với dòng tiền ngay cả khi kiểm soát vai trò của nó như một biến dự báo cho cơ hội đầu tư tương lai Tiếp tục nghiên cứu, Gilchrist và Himmelberg (1998) đã cải tiến các biện pháp lợi nhuận cận biên của vốn, cho thấy đầu tư phụ thuộc vào cả yếu tố cơ bản và tài chính do ma sát tài chính Sử dụng dữ liệu công ty từ Vương quốc Anh, Carpenter và Guariglia (2008) đã nâng cao mức trung bình q với một ủy quyền mới cho kỳ vọng đánh giá lại cơ hội, phát hiện rằng sức mạnh giải thích của dòng tiền chủ yếu nằm ở các công ty lớn, ít ảnh hưởng đến các công ty nhỏ, và nhấn mạnh vai trò quan trọng của dòng tiền trong việc phản ánh tác động của ma sát tín dụng.

Các nhà nghiên cứu như Erickson và Whited (2000) đã chỉ ra rằng các yếu tố cơ bản có vai trò quan trọng hơn trong chi tiêu đầu tư, khi họ áp dụng công cụ ước tính GMM để kiểm soát sai số đo trong định giá thị trường chứng khoán Họ phát hiện ra rằng đầu tư không nhạy cảm với dòng tiền khi sai số được kiểm soát Gomes (2001) cũng cho thấy rằng độ nhạy của dòng tiền đầu tư tích cực thường là kết quả của lỗi đo lường trong q và các vấn đề nhận dạng, không nhất thiết phản ánh sự hiện diện của hạn chế tài chính Tương tự, Cummins và cộng sự (2006) đã sử dụng dự báo thu nhập từ các nhà phân tích để xây dựng thước đo q trung bình không phụ thuộc vào định giá thị trường chứng khoán, đạt được kết quả tương tự.

Các chiến lược đầu tư trong công ty có vai trò quan trọng trong việc gia tăng giá trị doanh nghiệp và sự giàu có của cổ đông (Penman, 2010) Việc phân bổ vốn hiệu quả hiện nay được coi là chức năng tài chính chủ chốt Một quyết định đầu tư sai lầm có thể dẫn đến thua lỗ và nguy cơ đóng cửa công ty.

Các tổ chức, bất kể quy mô lớn hay nhỏ, thường đối mặt với độ phức tạp cao trong hoạt động kinh doanh Điều này tạo ra nhu cầu quan trọng trong việc phối hợp và kiểm soát các hoạt động, liên quan đến sự phức tạp của hệ thống thông tin Nhiều yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến quyết định đầu tư trong bối cảnh này.

Các yếu tố tổ chức ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của đầu tư bao gồm quy mô công ty và sự hỗ trợ từ quản lý cấp cao Buonanno và cộng sự (2005) nhấn mạnh tầm quan trọng của quy mô công ty trong quyết định đầu tư, cho rằng cần áp dụng cách tiếp cận khác nhau tùy thuộc vào ngành nghề Họ cũng chỉ ra mối quan hệ trực tiếp giữa quy mô tổ chức và tỷ lệ phần trăm đầu tư Bên cạnh đó, quản lý cấp cao đóng vai trò quan trọng trong hoạt động tài chính, giúp tổ chức đưa ra quyết định thành công Theo Wang (2007), chức năng của quản lý cấp cao bao gồm việc hiểu rõ khả năng và giới hạn của khoản đầu tư, đặt mục tiêu và truyền đạt chiến lược cho toàn bộ nhân viên, từ đó gia tăng lợi ích từ việc áp dụng chiến lược.

Nghiên cứu của Mirshekary và Saudagaran (2005) đã phân tích cách các nhà đầu tư sử dụng thông tin từ báo cáo tài chính và tầm quan trọng của các nguồn thông tin khác trong quyết định đầu tư Họ đã tiến hành khảo sát với các nhóm người dùng tài chính tại Tehran, bao gồm nhà môi giới chứng khoán, nhà đầu tư tư nhân, chủ ngân hàng và nhà đầu tư tổ chức, yêu cầu họ xếp hạng các nguồn thông tin tài chính Kết quả cho thấy báo cáo kiểm toán hàng năm của các công ty được coi là nguồn thông tin có ảnh hưởng nhất, tiếp theo là thông tin bằng miệng và thông tin từ các tờ báo hàng ngày Ngược lại, lời khuyên từ bạn bè, nhà môi giới và tin đồn được đánh giá là ít ảnh hưởng nhất Kết luận cho thấy các nhà đầu tư chủ yếu dựa vào báo cáo tài chính hàng năm để đưa ra quyết định đầu tư.

Cổ đông cần hiểu rằng thông tin kế toán là yếu tố quan trọng trong quyết định đầu tư Các nhà phân tích đầu tư đóng vai trò trung gian, cung cấp thông tin từ các tập đoàn đến những người sử dụng thông tin kế toán khác.

Các nhà phân tích đầu tư thu thập và phân tích số liệu kế toán, sau đó phổ biến kết quả cho người sử dụng dữ liệu báo cáo tài chính Những phát hiện và giải thích này đóng vai trò quan trọng trong việc đưa ra quyết định đầu tư Tuy nhiên, nếu các nhà phân tích sai lầm trong việc giải thích thông tin tài chính, điều này có thể dẫn đến những quyết định đầu tư sai lầm của người khác Do đó, họ trở thành đối tượng nghiên cứu hấp dẫn trong lĩnh vực này.

2.2.5 Thông tin bất cân xứng

Thông tin từ các cơ quan chính phủ và truyền thông có ảnh hưởng lớn đến giá cổ phiếu, khiến các nhà đầu tư điều chỉnh quyết định đầu tư của họ (Warneryd, 2001) Khi đối mặt với thông tin bất ngờ về thu nhập âm, các nhà đầu tư có thông tin nội bộ thường giảm tỷ lệ nắm giữ so với những người không có thông tin này Những nhà đầu tư nắm giữ thông tin cá nhân về triển vọng tương lai của công ty thường giao dịch tích cực hơn (Baik et al, 2010) Việc thiếu tôn trọng nguồn thông tin khiến nhà đầu tư hình thành quan điểm về giá trị công ty (Nwezeaku, Okpara, 2010) Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng dòng chảy thông tin vào thị trường chứng khoán có vai trò quan trọng trong quyết định đầu tư, và thông tin bất cân xứng có thể ảnh hưởng đến thị trường do quy định tiết lộ tài chính yếu kém (Cheng, 2003) Trong nghiên cứu này, thông tin bất cân xứng được xem là yếu tố độc lập quan trọng trong quyết định đầu tư Có hai loại rủi ro liên quan đến việc thông tin ảnh hưởng đến giá cổ phiếu: rủi ro chủ quan, là sự kiện không mong muốn theo quan điểm của nhà đầu tư, và rủi ro khách quan, là tổn thất thực tế trong một khoảng thời gian nhất định.

2.2.6 Hiểu biết về tài chính

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng hiểu biết về tài chính của những người ra quyết định đầu tư còn rất hạn chế Một nghiên cứu của OECD (2005) đã khảo sát 12 quốc gia lớn, kết luận rằng phần lớn người tham gia có mức độ hiểu biết tài chính thấp Tương tự, nghiên cứu của Chen và Volpe (1998) trên gần 1000 sinh viên tốt nghiệp tại Hoa Kỳ cho thấy sự khác biệt rõ rệt trong hiểu biết tài chính giữa các nhóm học tập, kinh nghiệm làm việc và thứ hạng lớp Sinh viên ngành phi kinh doanh, thuộc tầng lớp thấp hơn và có ít kinh nghiệm làm việc thường có mức độ hiểu biết thấp hơn Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng nam giới có kiến thức tài chính tốt hơn nữ giới, và sinh viên Hoa Kỳ có hiểu biết cao hơn so với sinh viên quốc tế.

PHƯƠNG PHÁP – DỮ LIỆU – MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Ngày đăng: 12/07/2021, 11:14

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w