Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ khi Luật đất đai (LĐĐ) được ban hành, công tác thu hồi đất và thực hiện các chính sách bồi thường, hỗ trợ sau thu hồi đã gặp nhiều khó khăn và tồn tại nhiều vướng mắc Nhiều địa phương phải điều chỉnh quy hoạch, sửa đổi thiết kế dự án do không giải phóng được mặt bằng hoặc cơ sở hạ tầng không đảm bảo, dẫn đến ảnh hưởng tiến độ và thiệt hại lớn về kinh tế cho doanh nghiệp, nhà đầu tư và Nhà nước, đồng thời gây mất ổn định tình hình chính trị - xã hội Nguyên nhân chính của thực trạng này là do các quy định pháp luật chưa hoàn thiện, và các nhà lập pháp đã nhận thức được vấn đề này, không ngừng sửa đổi, bổ sung để cải thiện các quy định pháp luật liên quan.
Việc Nhà nước thu hồi đất (NNTHĐ) liên quan đến nhiều vấn đề phức tạp và đòi hỏi thời gian cũng như nghiên cứu kỹ lưỡng Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người dân có đất bị thu hồi, Nhà nước và các bên liên quan khác.
Vấn đề thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ tái định cư (BT, HT) luôn thu hút sự quan tâm của xã hội Cần thiết phải nghiên cứu và hoàn thiện quy định về vấn đề này để nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật Một trong những tồn tại lớn nhất hiện nay là việc không thực hiện đúng trình tự, thủ tục luật định, áp giá bồi thường thấp và thiếu công khai Hơn nữa, còn thiếu tính dân chủ và các cơ chế, chính sách trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho những người bị ảnh hưởng từ việc thu hồi đất.
Tại huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư (BT, HT, TĐC) do Nhà nước thực hiện đang đối mặt với nhiều khó khăn và vướng mắc, tương tự như tình hình chung của các huyện trên cả nước.
Huyện Chư Sê, thuộc tỉnh Gia Lai, có nền kinh tế nông nghiệp, thương mại và dịch vụ đang phát triển mạnh mẽ Trong những năm gần đây, tốc độ đô thị hóa nhanh chóng đã dẫn đến việc nâng cấp cơ sở hạ tầng, đáp ứng nhu cầu sống của người dân Để phù hợp với quy hoạch đô thị trên diện tích 2.800 ha, nhiều hạng mục được đầu tư xây dựng, bao gồm các tuyến đường nội thị và liên xã được nhựa hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông và thương mại Tuy nhiên, việc triển khai các dự án phát triển kinh tế - xã hội như mở rộng Quốc lộ 14, nâng cấp Trung tâm hành chính Huyện, và xây dựng khu du lịch sinh thái Thác Phú Cường không chỉ mang lại lợi ích kinh tế và cải thiện hạ tầng đô thị mà còn gây khó khăn cho một bộ phận dân cư do mất đi tư liệu sản xuất chính.
Tác giả quyết định chọn đề tài "Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn áp dụng tại địa bàn huyện Chư Sê tỉnh Gia Lai" nhằm đóng góp vào việc giải quyết những khó khăn hiện tại liên quan đến bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất Đây là nội dung chính của luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả.
Tình hình nghiên cứu đề tài
BT, HT khi NNTHĐ là một chế định quan trọng trong pháp luật đất đai, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của nhiều chủ thể, đặc biệt là người bị thu hồi đất Chế định này đã thu hút sự quan tâm của nhiều tác giả nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau, với một số công trình tiêu biểu được đề cập.
Luận văn Thạc sỹ Luật học của Dương Tấn Vinh (2006) tại Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh nghiên cứu về các khía cạnh pháp lý liên quan đến hoạt động bồi thường và giải phóng mặt bằng khi nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án, đồng thời phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp cải thiện vấn đề này.
Luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành liên quan đến việc thực hiện dự án tại thành phố Hồ Chí Minh, theo phạm vi điều chỉnh của Nghị định 197/2004/NĐ-CP ban hành ngày 03/12/2004.
2) Luận văn Thạc sỹ Luật học, Hồ Minh Hà (2008), Trường Đại học Luật TP
Luận văn của Hồ Chí Minh tập trung vào "Quản lý nhà nước về định giá đất và bồi thường thiệt hại về đất khi thu hồi đất tại TP Cần Thơ" Nghiên cứu này phân tích những thiệt hại liên quan đến đất đai khi thực hiện thu hồi đất tại Thành phố Cần Thơ, nhằm đưa ra các giải pháp cải thiện quy trình bồi thường và định giá đất hiệu quả hơn.
Luận văn Thạc sỹ Luật học của Nguyễn Đồng Thanh (2010) tại Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh tập trung nghiên cứu pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất Tác phẩm phân tích các vấn đề liên quan đến bồi thường đất và tài sản trên đất trong bối cảnh Nhà nước thực hiện thu hồi đất để triển khai các dự án đầu tư, theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật Đất đai năm 2003.
Luận văn Thạc sỹ Luật học của Hoàng Thị Biên Thùy (2010) tại Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh nghiên cứu về pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất Tác phẩm tập trung vào các trường hợp thu hồi đất, điều kiện bồi thường, trình tự thủ tục bồi thường và giải quyết khiếu nại, mà không đi sâu vào phân tích bồi thường thiệt hại về tài sản cũng như các biện pháp hỗ trợ và tái định cư.
Ngoài ra, còn có các bài viết khác liên quan đến đề tài nhƣ: “Bình luận các
Bài viết "3 quy định về thu hồi đất và bồi thường khi thu hồi đất dự thảo LĐĐ (sửa đổi)" của tác giả Nguyễn Quang Tuyến trên Tạp chí nghiên cứu lập pháp, cùng với bài viết "Vấn đề lý luận xung quanh khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất" của cùng tác giả trên Tạp chí Luật học, đã đề cập đến những khía cạnh quan trọng của pháp luật về bồi thường đất đai Ngoài ra, đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường của Nguyễn Thị Nga tại trường Đại học Luật Hà Nội mang tên "Pháp luật bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất – thực trạng và hướng hoàn thiện" cũng góp phần làm rõ thực trạng và hướng phát triển trong lĩnh vực này.
Nghiên cứu về quy định pháp luật liên quan đến BT khi NNTHĐ đã đạt được một số kết quả nhất định, với nhiều công trình phân tích và đánh giá khía cạnh pháp lý và thực trạng của vấn đề này Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào xem xét từ góc độ thực tiễn áp dụng pháp luật về BT khi NNTHĐ ở cấp huyện Tác giả mong muốn tiếp cận chi tiết vấn đề bằng cách so sánh các quy định pháp luật với thực tiễn qua các vụ việc cụ thể, từ đó chỉ ra những quy định phù hợp và không phù hợp, cũng như đánh giá việc thực thi pháp luật của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền Dựa trên những phân tích này, tác giả đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về BT khi NNTHĐ, đáp ứng yêu cầu thực tiễn hiện tại và tương lai.
Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình hoàn thành luận văn, tác giả áp dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tập trung vào việc kết hợp lý luận với thực tiễn Các phương pháp như phân tích và tổng hợp, phương pháp lịch sử, thống kê và so sánh được sử dụng cụ thể để đảm bảo tính chính xác và sâu sắc của nghiên cứu.
Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp chủ yếu liên quan đến các quy định của cơ quan nhà nước Trung ương, UBND và các cơ quan liên ngành về BT, HT và TĐC khi NNTHĐ Thông tin được thu thập qua Công báo và các trang web của cơ quan nhà nước có thẩm quyền Tác giả cũng sử dụng các quyết định, báo cáo, và ý kiến chỉ đạo của UBND tỉnh, cùng với thông tin từ Ban chỉ đạo giải phóng mặt bằng tỉnh, các công trình, bài viết, tạp chí và internet để thu thập số liệu về pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật về BT khi NNTHĐ tại huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai từ khi Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực cho đến nay.
Phương pháp tổng hợp và phân tích được áp dụng để tổng hợp và phân tích các quy định pháp luật liên quan đến BT khi NNTHĐ, cùng với thông tin thực tiễn về việc áp dụng Phương pháp này cũng giúp đưa ra các nhận xét và đánh giá, góp phần vào nội dung của luận văn.
Phương pháp so sánh được áp dụng để đối chiếu các quy định pháp luật, nhằm phát hiện những điểm bất cập và chưa thống nhất trong hệ thống pháp luật về BT và HT khi NNTHĐ Phương pháp này cũng giúp chỉ ra những sự không phù hợp giữa các quy định pháp luật và thực tiễn thi hành.
Phương pháp lịch sử được áp dụng để nghiên cứu các quy định của pháp luật BT trong bối cảnh NNTHĐ, qua đó giúp định hướng cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành.
Phương pháp thống kê được áp dụng để xử lý tài liệu và số liệu thu thập từ khảo sát thực tiễn về việc áp dụng pháp luật trong lĩnh vực BT khi NNTHĐ Nhờ vào phương pháp này, tác giả thu được các số liệu và thông tin đáng tin cậy, từ đó trình bày trong luận văn một cách rõ ràng và có hệ thống.
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu từ luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo quý giá cho những ai quan tâm đến vấn đề bảo tồn khi nghiên cứu về nhà nước, cả về lý luận lẫn thực tiễn.
Các giải pháp mà tác giả đề xuất có thể được các cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền tham khảo và áp dụng vào thực tiễn trong công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ và tái định cư.
Kết cấu của luận văn
Khái niệm, mục đích thu hồi đất
Giao đất và cho thuê đất tạo ra quan hệ pháp luật đất đai và quyền sử dụng đất cho người được Nhà nước trao quyền Ngược lại, thu hồi đất là biện pháp chấm dứt quan hệ pháp luật này qua quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền Qua các hoạt động này, Nhà nước khẳng định quyền định đoạt đất đai với tư cách là đại diện chủ sở hữu.
Thu hồi đất là vấn đề đã được đề cập trong nhiều quy định pháp luật từ trước đến nay, bắt đầu từ Quyết định số 201-CP của Hội đồng Chính phủ ngày 01/07/1980, trong đó nêu rõ việc thống nhất quản lý ruộng đất Các luật đất đai năm 1987 và 1993 cùng các văn bản hướng dẫn sau đó cũng đã quy định về thu hồi đất, tuy nhiên chưa đưa ra định nghĩa cụ thể về thu hồi đất mà chỉ liệt kê các trường hợp bị thu hồi theo Điều 14 của Luật Đất đai năm 1987 và Điều 26 của Luật Đất đai năm 1993.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, thu hồi đất là hành động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc thu hồi quyền sử dụng đất (QSDĐ) của người vi phạm quy định về sử dụng đất, nhằm giao cho người khác hoặc trả lại cho chủ sử dụng hợp pháp bị lấn chiếm Trong những trường hợp cần thiết, nhà nước có thể thu hồi đất để phục vụ cho mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia và công cộng Mặc dù khái niệm này đề cập đến một số trường hợp thu hồi đất, nhưng nội hàm của nó còn hạn chế và chưa phản ánh đầy đủ các tình huống thu hồi đất của nhà nước Luật Đất đai năm 2003 đã đưa ra những giải thích rõ hơn về thuật ngữ thu hồi đất.
5, Điều 4: “Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại QSDĐ
2 Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học về Luật đất đai, Luật lao động,
Tư pháp quốc tế, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội
8 hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, UBND xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định của Luật này”
Khái niệm về việc Nhà nước thu hồi đất (NNTHĐ) liên quan đến việc giao quyền sử dụng đất cho tổ chức hoặc UBND cấp quản lý trong trường hợp cần thu hồi Tuy nhiên, có nhiều vấn đề cần xem xét, như quyền sử dụng đất (QSDĐ) không được hình thành từ hình thức giao, việc sử dụng đất hoang phí, và tình huống khi đất được giao cho hộ gia đình, cá nhân Do đó, mặc dù đã có sự điều chỉnh và mở rộng nội hàm về thu hồi đất, nhưng cách giải thích hiện tại vẫn chưa thuyết phục.
Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc các ý kiến trong quá trình soạn thảo LĐĐ năm
Theo Điều 3, khoản 11 của Luật Đất đai năm 2013, Nhà nước có quyền thu hồi quyền sử dụng đất (QSDĐ) của cá nhân hoặc tổ chức được cấp QSDĐ trong trường hợp vi phạm pháp luật về đất đai.
Khái niệm này đã giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến việc sử dụng đất cho phát triển kinh tế, chính trị, đời sống xã hội và an ninh quốc phòng Nhà nước, với vai trò là chủ sở hữu, có quyền thu hồi quyền sử dụng đất đã cấp cho các chủ thể trước đó Theo quy định này, chủ thể bị thu hồi không chỉ giới hạn ở các tổ chức hoặc UBND xã, phường, thị trấn như quy định trong Luật Đất đai năm 2003, mà mở rộng đến tất cả các chủ thể được phép sử dụng đất theo pháp luật.
Thu hồi đất là quá trình mà Nhà nước thực hiện quyết định hành chính nhằm thu lại đất và quyền sử dụng đất đã được giao cho các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật đất đai.
1.1.2 Mục đích của thu hồi đất
Trong quá trình phát triển đất nước, việc Nhà nước thu hồi đất từ người sử dụng đất là điều cần thiết để phục vụ cho mục đích quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế - xã hội, nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia.
Thứ nhất, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định:
Đến năm 2020, Việt Nam phấn đấu trở thành nước công nghiệp hiện đại thông qua việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật đồng bộ Để đạt được mục tiêu này, cần phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và cải cách thể chế chính trị Việc chuyển đổi một phần diện tích đất sang mục đích sử dụng khác là cần thiết, do quỹ đất quốc gia có hạn Do đó, Nhà nước cần thực hiện thu hồi đất để phục vụ cho sự phát triển.
Sự tăng trưởng kinh tế và đô thị hóa yêu cầu Nhà nước xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật và xã hội để nâng cao đời sống người dân Điều này dẫn đến việc thu hồi đất để chuyển đổi mục đích sử dụng Tuy nhiên, việc thu hồi đất cần được thực hiện một cách khoa học, dựa trên quy hoạch hợp lý, đảm bảo sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội, giữa phát triển công nghiệp, dịch vụ và an ninh lương thực quốc gia, đồng thời hướng tới sự phát triển bền vững.
Việc thu hồi đất thường xuất phát từ nhu cầu chuyển mục đích sử dụng đất sang những mục đích hiệu quả hơn Nhiều chủ sử dụng không khai thác hết giá trị của đất hoặc cho thuê cho mục đích khác Để đảm bảo hiệu quả sử dụng và quyền lợi của người sử dụng, quy hoạch và chuyển đổi mục đích sử dụng đất là cần thiết Việc thu hồi đất do nhu cầu của Nhà nước sẽ trở nên hợp lý và chính đáng khi đất được sử dụng hiệu quả cho các mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế.
Việc thu hồi đất là cần thiết và sẽ nhận được sự đồng thuận cao từ những người có đất bị thu hồi, miễn là đất được sử dụng cho mục đích công nghiệp hóa và đô thị hóa đất nước, đồng thời đi kèm với các chính sách bồi thường và hỗ trợ hợp lý cho người dân.
3 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia -
Sự thật, Hà Nội, tr.31
Đất bị thu hồi một cách thỏa đáng là yếu tố quan trọng, đồng thời việc bố trí việc làm cần gắn liền với chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách hợp lý và cân bằng.
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
1.2.1 Khái niệm, mục đích và ý nghĩa của bồi thường khi nhà nước thu hồi đất
Theo từ điển Luật học, bồi thường (BT) là việc đền bù những thiệt hại về vật chất và tinh thần mà một cá nhân gây ra cho người khác do không thực hiện, thực hiện chậm hoặc không đầy đủ nghĩa vụ dân sự, hoặc do vi phạm pháp luật Trong lĩnh vực pháp luật, trách nhiệm bồi thường phát sinh khi một chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho chủ thể khác trong xã hội.
Trong lĩnh vực pháp luật đất đai, thuật ngữ “BT” (trước đây là BT thiệt hại hay đền bù thiệt hại) đã được ghi nhận từ Nghị định số 151/TTg ngày 14/01/1959 về quy định tạm thời sử dụng ruộng đất Tuy nhiên, đến Luật Đất đai năm 1987, thuật ngữ “BT” đã được thay thế bằng “đền bù” Sau đó, thuật ngữ “đền bù thiệt hại” một lần nữa được áp dụng trong Luật Đất đai năm 1993, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 1998 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2001 đã đưa thuật ngữ “BT” trở lại, thay thế cho thuật ngữ “đền bù” Thuật ngữ “BT” này tiếp tục được áp dụng trong Luật Đất đai năm 2003 cho đến nay.
Khoản 6 Điều 4, LĐĐ năm 2003 quy định: “BT khi NNTHĐ là việc Nhà nước trả lại giá trị QSDĐ đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất” Hiện nay, khoản 12 Điều 3 LĐĐ năm 2013 quy định: “BT về đất là việc Nhà nước trả lại giá trị QSDĐ đối với diện tích đất thu hồi cho NSDĐ” Có thể khẳng định: Việc sử dụng thuật ngữ “BT” từ khi có LĐĐ năm 2003 đến nay đã thể hiện hàm ý đây là quan hệ BT ngang giá 5
4 Ngô Văn Thâu, Nguyễn Hữu Đắc, Lê Kim Quế, Nguyễn Hữu Viện, Lê Đức Tiết (1999), Từ điển Luật học,
Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, tr.58.
5 Ngô Thạch Thảo Ly (2013), Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, Tài nguyên và Môi trường,
Bộ Tài nguyên và Môi trường, Số 15(173), tr.21
Trong lĩnh vực pháp luật đất đai, thuật ngữ “BT” (bồi thường) khác với “đền bù thiệt hại” khi Nhà nước thu hồi đất Đền bù thiệt hại đề cập đến việc Nhà nước bồi thường cho người sử dụng đất (NSDĐ) vì những thiệt hại do hành vi thu hồi đất gây ra, mà không kèm theo các chính sách hỗ trợ hoặc tái định cư như trong trường hợp bồi thường.
Khi nói đến đền bù trong trường hợp Nhà nước thu hồi đất (NNTHĐ), nhiều người thường nghĩ đến việc bồi thường tương ứng với giá trị của diện tích đất bị thu hồi, tức là phải đền bù 100% giá trị đất Tuy nhiên, bồi thường trong NNTHĐ thực chất là bồi thường cho những giá trị và thiệt hại hợp lý liên quan đến đất đai và tài sản trên đất của người sử dụng đất (NSDĐ) khi bị thu hồi.
Trách nhiệm “BT thiệt hại” khi Nhà nước thực hiện hành vi hành chính khác với “BT thiệt hại ngoài hợp đồng” trong pháp luật dân sự, với những điểm khác biệt cơ bản Hai loại trách nhiệm này có sự phân biệt rõ ràng về các khía cạnh pháp lý và điều kiện áp dụng.
Chủ thể bồi thường thiệt hại (BT) khi Nhà nước thực hiện nghĩa vụ hợp đồng là trách nhiệm của Nhà nước Ngược lại, chủ thể bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có phạm vi rộng hơn, bao gồm tất cả các cá nhân và tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật dân sự gây thiệt hại cho người khác.
Chủ thể được bồi thường (BT) khi Nhà nước thu hồi đất (NNTHĐ) là người sử dụng đất (NSDĐ) hợp pháp, cụ thể là những người đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) hoặc sở hữu một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 Những NSDĐ này sẽ được bồi thường khi đất của họ bị Nhà nước thu hồi.
BT thiệt hại ngoài hợp đồng là bất kỳ chủ thể nào có thiệt hại do hành vi vi phạm ngoài hợp đồng của chủ thể BT gây ra
Nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng dựa trên sự tự nguyện thỏa thuận giữa bên có trách nhiệm và bên được bồi thường Chỉ khi hai bên không đạt được thỏa thuận, cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới can thiệp Đối với bồi thường khi nhà nước thu hồi đất, người bị thu hồi phải đáp ứng đủ điều kiện theo quy định pháp luật, bao gồm giá cả, phương pháp và khung giá đất bồi thường.
6 Bộ Tƣ pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa + Nxb Tƣ pháp, Hà Nội, tr.84
Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất (NNTHĐ) có những đặc thù riêng, khác với bồi thường thiệt hại trong các lĩnh vực khác Điều này không chỉ cần bảo vệ quyền lợi của người bị thu hồi đất mà còn phải cân nhắc lợi ích của Nhà nước, xã hội và người nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ) đã thu hồi.
BT khi NNTHĐ xảy ra khi Nhà nước thu hồi đất để chuyển sang mục đích khác vì lợi ích quốc phòng, an ninh, quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế Đây là quá trình giải quyết mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước, người bị thu hồi đất và nhà đầu tư Do đó, BT khi NNTHĐ cần tuân thủ các quy định của pháp luật.
Việt Nam đã trải qua thời kỳ bao cấp kéo dài, dẫn đến khoảng cách về sự tiến bộ so với các nước phương Tây và khu vực Đông Nam Á Để thu hẹp khoảng cách này, Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa nhằm đuổi kịp các quốc gia trong khu vực Hiện nay, đất nước đang trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với nhiệm vụ quan trọng là đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Để thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, việc thu hồi đất có BT là rất cần thiết Tuy nhiên, Việt Nam cần chú ý đến những hệ quả từ việc này, đặc biệt là đối với nền văn minh nông nghiệp lúa nước có lịch sử hơn bốn nghìn năm Một số nông dân có thể mất đi tư liệu sản xuất, rơi vào tình trạng thất nghiệp và gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống.
Người bị thu hồi đất sẽ được Nhà nước bồi thường theo khung giá đất do UBND tỉnh, thành phố quy định tại thời điểm thu hồi, tuy nhiên, khung giá này thường thấp hơn giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường Do đó, số tiền bồi thường mà người dân nhận được không đủ để mua một mảnh đất tương đương.
7 Bùi Ngọc Tuân (2014), Bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất, Tài nguyên và Môi trường,
Bộ Tài nguyên và Môi trường, Số 13 (195), tr.17