1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Phân tích các nhân tố tác động đến nợ xấu của các ngân hàng thương mại việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

102 8 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Phân Tích Các Nhân Tố Tác Động Đến Nợ Xấu Của Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
Tác giả Nguyễn Tiến Hồng
Người hướng dẫn PGS. TS. Nguyễn Hồng Thắng
Trường học Đại Học Quốc Gia Tp. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Tài Chính – Ngân Hàng
Thể loại luận văn thạc sĩ kinh tế
Năm xuất bản 2019
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 102
Dung lượng 1,87 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1........................................................................................................... 1 (10)
    • 1.1 Lý do nghiên cứu (10)
    • 1.2 Mục tiêu nghiên cứu (12)
    • 1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (12)
      • 1.3.1 Đối tượng nghiên cứu (12)
      • 1.3.2 Phạm vi nghiên cứu (12)
    • 1.4 Phương pháp nghiên cứu (12)
    • 1.5 Điểm mới của đề tài nghiên cứu (13)
    • 1.6 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu (14)
    • 1.7 Cấu trúc luận văn (14)
  • CHƯƠNG 2........................................................................................................... 7 (16)
    • 2.1 Tổng quan về nợ xấu của ngân hàng thương mại (16)
      • 2.1.1 Khái niệm nợ xấu (16)
      • 2.1.2 Các chỉ tiêu đo lường nợ xấu (18)
    • 2.2 Tổng quan lý thuyết và các nghiên cứu trước (19)
      • 2.2.1 Cơ sở lý thuyết (19)
      • 2.2.2 Các nghiên cứu trước đây ở các nước trên thế giới (21)
      • 2.2.3 Các nghiên cứu tại Việt Nam (22)
      • 2.2.4 Các nhân tố tác động đến nợ xấu (23)
  • CHƯƠNG 3......................................................................................................... 21 (30)
    • 3.1 Tổng quan hoạt động của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2006-2017 (30)
      • 3.1.1 Số lượng ngân hàng (30)
      • 3.1.2 Quy mô ngân hàng (32)
      • 3.1.3 Một số chỉ tiêu cơ bản về hoạt động ngân hàng (34)
    • 3.2 Thực trạng nợ xấu của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2006-2017 (39)
      • 3.2.1 Thực trạng nợ xấu (39)
      • 3.2.2 Các nhân tố đặc thù ngân hàng (40)
      • 3.2.3 Các nhân tố vĩ mô của nền kinh tế (43)
  • CHƯƠNG 4......................................................................................................... 39 (48)
    • 4.1 Mô hình nghiên cứu (48)
      • 4.1.1 Xây dựng các giả thuyết nghiên cứu (48)
      • 4.1.2 Các biến nghiên cứu (53)
      • 4.1.3 Dữ liệu nghiên cứu (54)
      • 4.1.4 Đề xuất mô hình nghiên cứu (54)
    • 4.2 Phương pháp nghiên cứu (55)
    • 4.3 Kết quả nghiên cứu (56)
      • 4.3.1 Thống kê mô tả (56)
      • 4.3.2 Phân tích tương quan (58)
      • 4.3.3 Kiểm định một số giả định cơ bản của phương pháp ước lượng (59)
      • 4.3.4 Kết quả mô hình hồi quy (62)
    • 4.4 Phân tích kết quả nghiên cứu (66)
  • CHƯƠNG 5......................................................................................................... 62 (71)
    • 5.1 Kết luận (71)
    • 5.2 Kiến nghị đối với các NHTM (72)
      • 5.2.1 Triệt để xử lý nợ xấu (72)
      • 5.2.2 Ngưng cho vay đảo nợ (73)
    • 5.3 Kiến nghị đối với NHNN, VAMC (73)
      • 5.3.1 Mở rộng hoạt động của thị trường mua bán nợ (73)
      • 5.3.2 Kiểm soát lạm phát (74)
    • 5.4 Hạn chế của đề tài và gợi ý hướng nghiên cứu tiếp theo (75)
      • 5.4.1 Hạn chế của đề tài (75)
      • 5.4.2 Gợi ý hướng nghiên cứu tiếp theo (76)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (78)

Nội dung

1

Lý do nghiên cứu

Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tính đến cuối năm 2017, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam bao gồm 31 ngân hàng thương mại cổ phần và 4 ngân hàng thương mại nhà nước.

Hệ thống ngân hàng tại Việt Nam hiện có 3 ngân hàng được mua lại, 49 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 9 ngân hàng 100% vốn nước ngoài và 2 ngân hàng liên doanh Mạng lưới ngân hàng không chỉ phủ sóng toàn bộ các tỉnh thành mà còn đến cấp huyện và xã, đáp ứng tốt nhu cầu dịch vụ ngân hàng của người dân Các ngân hàng thương mại (NHTM) đóng vai trò quan trọng trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế, thực hiện hiệu quả chức năng trung gian tài chính trong huy động và phân bổ vốn.

Hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đang đối mặt với tình trạng nợ xấu báo động, với tỷ lệ nợ xấu năm 2012 tăng vọt lên 4,86% trước khi giảm xuống 2,34% vào cuối năm 2017 Tuy nhiên, theo Ủy Ban Giám sát Tài chính Quốc gia (NFSC), nợ xấu thực tế có thể lên tới 9,5%, gấp gần 4 lần con số do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) công bố Hãng xếp hạng tín nhiệm Fitch Ratings cảnh báo rằng, do sự khác biệt trong hạch toán kế toán giữa chuẩn VAS và IFRS, con số thực tế về nợ xấu có thể cao gấp 2 đến 3 lần so với báo cáo của NHNN Mặc dù có nhiều tranh cãi về số liệu nợ xấu, nhưng các chuyên gia tài chính đều đồng thuận rằng tình trạng nợ xấu đang ở mức đáng lo ngại, ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận, thanh khoản và uy tín của các ngân hàng, cũng như toàn bộ nền kinh tế Nếu không được kiểm soát kịp thời, tình trạng này có thể dẫn đến khủng hoảng tài chính nghiêm trọng, ảnh hưởng không chỉ trong nước mà còn lan rộng ra khu vực.

Trong bối cảnh nợ xấu đang gia tăng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến nợ xấu trở nên cấp thiết Luận văn này tập trung vào việc phân tích những yếu tố vi mô và vĩ mô tác động đến nợ xấu, nhằm tìm kiếm bằng chứng thực nghiệm Việc xác định rõ các nhân tố này sẽ giúp các ngân hàng thương mại xây dựng chính sách hiệu quả để ngăn ngừa và hạn chế nợ xấu, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động và góp phần lành mạnh hóa hệ thống tài chính quốc gia.

Nghiên cứu này, dựa trên luận văn của Mike (2016), thực hiện một khảo sát thực nghiệm về ảnh hưởng của các yếu tố ngân hàng và kinh tế vĩ mô đối với nợ xấu của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam Bằng cách kế thừa các biến nghiên cứu từ mô hình gốc và điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam, nghiên cứu này không chỉ kế thừa mà còn bổ sung cho các nghiên cứu trước đó.

Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu chính của nghiên cứu là phân tích ảnh hưởng của các yếu tố ngân hàng đặc thù và các yếu tố kinh tế vĩ mô đối với nợ xấu của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

Mục tiêu nghiên cứu cụ thể như sau:

 Phân tích, đánh giá thực trạng nợ xấu của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2006-2017

 Đánh giá được mức độ tác động của các nhân tố đặc thù ngân hàng và các nhân tố kinh tế vĩ mô đến nợ xấu

 Đưa ra hàm ý chính sách cho các NHTM nhằm ngăn ngừa và hạn chế nợ xấu

Mức độ tác động của các nhân tố đặc thù ngân hàng và các yếu tố vĩ mô của nền kinh tế đến nợ xấu là rất quan trọng Các yếu tố ngân hàng như quản lý rủi ro, chất lượng tài sản và chính sách cho vay có thể ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ nợ xấu Đồng thời, các yếu tố vĩ mô như tăng trưởng kinh tế, lãi suất và tỷ lệ thất nghiệp cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xác định tình hình nợ xấu Sự tương tác giữa các yếu tố này cần được phân tích để hiểu rõ hơn về nguyên nhân và mức độ ảnh hưởng đến nợ xấu trong hệ thống ngân hàng.

(2) Các hàm ý chính sách cho các NHTM nhằm ngăn ngừa, hạn chế nợ xấu là gì?

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

1.3.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nợ xấu của các NHTM Việt Nam, các nhân tố đặc thù ngân hàng, các nhân tố kinh tế vĩ mô và sự tác động của chúng đến nợ xấu của các NHTM Việt Nam

Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2006 đến 2017 Các ngân hàng được lựa chọn phải công bố minh bạch dữ liệu theo mô hình nghiên cứu, trong khi các ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN) như AGB, BIDV, CTG, và VCB được loại trừ khỏi mẫu Lý do cho sự loại trừ này là do nợ xấu chủ yếu đến từ các NHTMCP yếu kém và NHTMNN có những đặc điểm riêng, được cho là có lợi thế hơn so với các ngân hàng khác (Thong, 2012).

Phương pháp nghiên cứu

Nhằm phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu nêu trên, luận văn dự kiến sử dụng các phương pháp nghiên cứu như sau:

Phương pháp định tính cung cấp cái nhìn tổng quan về lịch sử các lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm liên quan đến ảnh hưởng của các nhân tố đặc thù và vĩ mô đến nợ xấu của các ngân hàng thương mại Nghiên cứu này giúp hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa các yếu tố tác động và tình trạng nợ xấu, từ đó đưa ra giải pháp quản lý hiệu quả cho các NHTM.

Nghiên cứu sử dụng phương pháp định lượng để xây dựng mô hình phân tích tác động của các yếu tố đến nợ xấu của các ngân hàng thương mại Việt Nam Để đảm bảo tính bền vững của mô hình, ba phương pháp ước lượng được áp dụng, bao gồm hiệu ứng cố định (Fixed Effect), hiệu ứng ngẫu nhiên (Random Effect) và phương pháp mô ment tổng quát dạng sai phân (DGMM) theo Arellano và Bond (1991) Bên cạnh đó, kiểm định Sargan được sử dụng để xác định tính phù hợp của biến công cụ trong ước lượng DGMM, nhằm kiểm tra tính nội sinh của mô hình.

Nguồn dữ liệu cho nghiên cứu này chủ yếu là dữ liệu thứ cấp, được thu thập từ báo cáo tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam và báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước Bên cạnh đó, các dữ liệu vĩ mô của nền kinh tế cũng được lấy từ Tổng cục Thống kê (GSO) Dữ liệu được sử dụng trong nghiên cứu này được thu thập theo tần suất hàng năm, trong khoảng thời gian từ năm 2006 đến năm 2017.

Điểm mới của đề tài nghiên cứu

Nghiên cứu về các nhân tố tác động đến nợ xấu của ngân hàng thương mại tại Việt Nam và trên thế giới cho thấy có hai nhóm nhân tố chính: vi mô, liên quan đến đặc thù của từng ngân hàng, và vĩ mô, thuộc về nền kinh tế Mỗi ngân hàng sẽ chịu ảnh hưởng khác nhau từ các nhân tố này, tùy thuộc vào đặc điểm riêng Trong khi các nghiên cứu trước đây tại Việt Nam chủ yếu tập trung vào các nhân tố vi mô, nghiên cứu này mong muốn cung cấp bằng chứng thực nghiệm về tác động của cả hai nhóm nhân tố lên nợ xấu của các ngân hàng thương mại Đặc biệt, nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích dữ liệu bảng động với mô hình ước lượng mô ment tổng quát dạng sai phân, nhằm khắc phục vấn đề nội sinh tiềm tàng trong các mô hình trước đây.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu

Bài viết trình bày cơ sở lý thuyết và kiến thức tổng quan về nợ xấu cùng các yếu tố ảnh hưởng đến nợ xấu trong ngân hàng Điều này giúp người đọc có nền tảng kiến thức vững chắc để đánh giá và nhận định thực trạng nợ xấu của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về tình hình nợ xấu và các yếu tố ảnh hưởng đến nợ xấu trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam Đồng thời, nó cũng đưa ra những hàm ý chính sách thiết thực nhằm ngăn ngừa và hạn chế nợ xấu Đối với các chuyên gia trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, đặc biệt là các nhà quản trị, nghiên cứu này sẽ gợi mở các giải pháp chính sách phù hợp để cải thiện hiệu quả quản lý nợ xấu.

Cấu trúc luận văn

Luận văn có kết cấu gồm 5 chương và được bố cục như sau:

Chương 1: Tổng quan đề tài nghiên cứu

Chương 2: Cơ sở lý luận về nợ xấu và các nhân tố tác động đến nợ xấu

Chương 3: Thực trạng nợ xấu của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Chương 4: Mô hình và kết quả nghiên cứu

Chương 5: Kết luận và hàm ý chính sách

Nhận thức được sự quan trọng của việc nghiên cứu nợ xấu và các yếu tố ảnh hưởng đến nợ xấu trong bối cảnh hiện tại của Việt Nam, luận văn tập trung vào đề tài này nhằm cung cấp cái nhìn sâu sắc và giải pháp hiệu quả.

Luận văn "Phân tích các nhân tố tác động đến nợ xấu của các ngân hàng thương mại Việt Nam" được thực hiện dựa trên nghiên cứu của Dimitrios et al (2016), nhằm mục tiêu phân tích ảnh hưởng của các yếu tố ngân hàng và yếu tố kinh tế vĩ mô đến nợ xấu của các NHTM Việt Nam Để đạt được mục tiêu này, nghiên cứu áp dụng cả phương pháp định tính và định lượng, với mẫu dữ liệu từ các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2006-2017.

7

Tổng quan về nợ xấu của ngân hàng thương mại

Trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, nợ xấu được định nghĩa là các khoản vay không thể thu hồi do khách hàng gặp khó khăn tài chính hoặc phá sản Nghiên cứu về nợ xấu đã sử dụng nhiều thuật ngữ khác nhau, như “các khoản vay có vấn đề” (problem loans) theo Berger & DeYoung (1997) và Salas & Saurina (2002), hay “nợ xấu” (non-performing loans) theo Dimitrios et al (2016), Fofack (2005), và Messai & Jouini (2013) Dù có sự khác biệt về tên gọi, cả hai thuật ngữ đều phản ánh cùng một vấn đề nghiên cứu quan trọng trong lĩnh vực tài chính ngân hàng.

Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), nợ xấu được định nghĩa là các khoản vay quá hạn thanh toán lãi và gốc từ 90 ngày trở lên, hoặc các khoản lãi suất quá hạn đã được vốn hóa, cơ cấu lại, hoặc trì hoãn theo thỏa thuận Nợ xấu cũng có thể xảy ra khi các khoản thanh toán đến hạn dưới 90 ngày nhưng có lý do nghi ngờ về khả năng thực hiện đầy đủ, chẳng hạn như khi người vay nộp đơn xin phá sản Định nghĩa này của IMF nhấn mạnh vào thời gian quá hạn và khả năng trả nợ của khách hàng, trong đó khả năng trả nợ có thể biểu hiện qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không đầy đủ.

Theo Ủy ban Basel, nợ xấu được xác định khi ngân hàng đánh giá người vay không có khả năng trả nợ hoặc khi khoản nợ đã quá hạn trên 90 ngày Hướng tiếp cận này tương đồng với định nghĩa của IMF, dựa vào thời gian quá hạn và khả năng trả nợ của người vay Đây là một cách tiếp cận phổ biến trong việc xác định nợ xấu hiện nay.

Theo Ngân hàng Trung Ương Châu Âu (ECB), nợ xấu được phân loại thành hai nhóm chính Nhóm 1 bao gồm các khoản nợ không thể thu hồi, như những khoản nợ đã hết hiệu lực, không có căn cứ đòi bồi thường, hoặc nợ từ những khách hàng đã bỏ trốn, mất tích, không còn tài sản để thanh toán Ngoài ra, nhóm này còn bao gồm các khoản nợ từ doanh nghiệp đã chấm dứt hoạt động kinh doanh, thanh lý tài sản hoặc hoạt động thua lỗ, dẫn đến tài sản không đủ để trả nợ.

Nợ xấu được định nghĩa là những khoản nợ có thể thu hồi nhưng không được thanh toán đầy đủ, bao gồm các khoản nợ không có tài sản đảm bảo hoặc tài sản đảm bảo không đủ để trả nợ Ngoài ra, nợ xấu cũng bao gồm những khoản nợ mà khách hàng đồng ý trả nhưng giá trị tài sản không đủ để trang trải toàn bộ nợ hoặc tài sản đảm bảo không hợp pháp, dẫn đến khả năng trả nợ không đầy đủ Thêm vào đó, các khoản nợ mà tòa án tuyên bố khách hàng phá sản nhưng phần bồi hoàn ít hơn dư nợ cũng được coi là nợ xấu ECB tiếp cận thuật ngữ nợ xấu dựa trên kết quả thu hồi nợ của ngân hàng.

Tại Việt Nam, nợ xấu được quy định chi tiết trong các văn bản pháp lý của Ngân hàng Nhà nước, bao gồm Quyết định 18/2004/QĐ-NHNN, Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN và Thông tư 02/2013/TT-NHNN Thuật ngữ này được định nghĩa theo hướng tiếp cận của IMF và BSCS, chỉ các khoản nợ thuộc nhóm khó đòi trong hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng.

Nợ xấu tại Việt Nam được phân loại thành ba nhóm: nhóm 3 (nợ dưới chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) Các ngân hàng thương mại Việt Nam hạch toán theo Tiêu chuẩn kế toán Việt Nam (VAS), trong khi nhiều quốc gia khác áp dụng hệ thống báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) Sự khác biệt giữa VAS và IFRS dẫn đến việc báo cáo tình hình nợ xấu tại Việt Nam thường thấp hơn từ 2 đến 3 lần so với chuẩn quốc tế Tuy nhiên, quan điểm và cách tiếp cận về nợ xấu tại Việt Nam vẫn có nhiều điểm tương đồng và phù hợp với các tổ chức quốc tế.

Trong nghiên cứu này, để thuận tiện cho việc thu thập dữ liệu và phù hợp với thực trạng tại Việt Nam, luận văn áp dụng định nghĩa về nợ xấu theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN Cụ thể, nợ xấu (NPL) được xác định là các khoản nợ thuộc nhóm 3, 4 và 5, và tỷ lệ nợ xấu được tính bằng tỷ lệ giữa tổng nợ xấu và tổng nợ từ nhóm 1 đến nhóm 5.

2.1.2 Các chỉ tiêu đo lường nợ xấu

Một số chỉ tiêu đo lường nợ xấunhư sau:

Chỉ tiêu tổng nợ xấu là chỉ số quan trọng phản ánh giá trị tuyệt đối của toàn bộ nợ xấu của ngân hàng, bao gồm ba nhóm nợ: nợ dưới chuẩn, nợ nghi ngờ và nợ có khả năng mất vốn Phân loại từng nhóm nợ theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN sẽ được trình bày chi tiết trong phần Phụ lục của nghiên cứu này.

Tổng nợ xấu = Nợ nhóm 3 + Nợ nhóm 4 + Nợ nhóm 5

Tỷ lệ nợ xấu là chỉ tiêu quan trọng phản ánh chất lượng tài sản và mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng, được tính toán theo công thức cụ thể.

Tỷ lệ nợ xấu = Số dư nợ xấu

Tổng dư nợ cho vay × 100%

Chỉ tiêu tỷ lệ khả năng bù đắp rủi ro tín dụng phản ánh khả năng của ngân hàng trong việc xử lý các khoản nợ xấu thông qua dự phòng rủi ro tín dụng Ngân hàng có mức trích lập dự phòng cao sẽ có khả năng bù đắp tổn thất tốt hơn trong hoạt động cấp tín dụng Công thức tính chỉ tiêu này được xác định rõ ràng để đánh giá hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng.

Tỷ lệ khả năng bù đắp RRTD = Dự phòng RRTD được trích lập

Tỷ lệ nợ xấu là chỉ tiêu quan trọng và khả thi nhất để đo lường chất lượng tín dụng của ngân hàng, được nhiều nghiên cứu sử dụng, bao gồm cả nghiên cứu của Dimitrios et al (2016) và các tác giả khác như Berger & DeYoung (1997), Khemraj & Pasha (2009), Louzis, Vouldis, & Metaxas (2012), Makri, Tsagkanos, & Bellas (2014), Messai & Jouini (2013), Nkusu (2011), Škarica (2014), và Zribi & Boujelbène (2011) Trong nghiên cứu này, tỷ lệ nợ xấu sẽ được sử dụng làm biến đại diện cho nợ xấu.

Tổng quan lý thuyết và các nghiên cứu trước

Nghiên cứu này tập trung vào lý thuyết về bất cân xứng thông tin trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại, đồng thời xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến nợ xấu.

2.2.1.1 Lý thuyết thông tin bất cân xứng

Thông tin bất cân xứng xảy ra khi hai bên trong giao dịch nắm giữ thông tin không đồng đều, dẫn đến một bên có lợi thế hơn bên còn lại (George Akerlof, 1970) Tình trạng này được coi là một thất bại của thị trường, gây ra vấn đề lựa chọn bất lợi và rủi ro đạo đức Trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, ngân hàng thường nắm ít thông tin về khách hàng vay, khiến khách hàng có thể che giấu thông tin bất lợi để được phê duyệt khoản vay, dẫn đến lựa chọn bất lợi Sau khi vay vốn, khách hàng có thể thực hiện các hành vi gây hại cho ngân hàng, như đầu tư quá mức, trong khi ngân hàng cũng có thể thiếu giám sát, tạo ra rủi ro đạo đức Tình trạng thông tin bất cân xứng luôn hiện hữu trong hoạt động cấp tín dụng, là nguyên nhân chính gây ra rủi ro tín dụng và nợ xấu cho ngân hàng.

2.2.1.2 Giả thuyết quản lý kém

Giả thuyết quản lý kém, được đề xuất bởi Berger và DeYoung (1997), cho rằng các ngân hàng có khả năng quản trị rủi ro tín dụng tốt hơn sẽ hoạt động hiệu quả hơn so với các ngân hàng kém hiệu quả Ngoài ra, giả thuyết này chỉ ra rằng sự kém hiệu quả về chi phí là dấu hiệu của quản trị rủi ro không tốt, dẫn đến khả năng nợ xấu cao Nhiều nghiên cứu, như của Klein (2013), Podpiera và Weill (2008), cũng như Salas và Saurina (2002), đã cung cấp thêm bằng chứng hỗ trợ cho lập luận này.

2.2.1.3 Giả thuyết rủi ro đạo đức

Giả thuyết rủi ro đạo đức, được chứng minh trong nghiên cứu của Keeton và Morris (1987), cho thấy rằng mức vốn hóa thấp của các ngân hàng thương mại Hoa Kỳ trong giai đoạn 1979-1985 dẫn đến nợ xấu gia tăng do rủi ro trong danh mục cho vay Nghiên cứu này khẳng định rằng các ngân hàng có tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản thấp có xu hướng gặp phải nợ xấu cao Kết quả tương tự cũng được xác nhận bởi các tác giả khác như Louzis et al (2012) và Salas & Saurina (2002).

2.2.1.4 Giả thuyết chính sách tín dụng có tính chu kỳ

Giả thuyết chính sách tín dụng có tính chu kỳ giải thích mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và nợ xấu của ngân hàng, cho thấy rằng các nhà quản trị ngân hàng có thể sử dụng thay đổi trong chính sách tín dụng để che giấu các khoản nợ xấu trong tương lai Nhiều tác giả đã tìm thấy bằng chứng thực nghiệm về tác động nghịch biến của tăng trưởng tín dụng lên nợ xấu, như nghiên cứu của Hasan & Wall (2004), Louzis et al (2012), và Salas.

& Saurina, 2002; Saurina & Jimenez, 2006) hoặc tác động đồng biến như nghiên cứu của (Foos, Norden, & Weber, 2010; Keeton & Morris, 1987)

2.2.1.5 Giả thuyết đa dạng hóa danh mục cho vay

Giả thuyết đa dạng hóa danh mục cho vay cho rằng các ngân hàng có quy mô lớn hơn có khả năng quản lý danh mục cho vay hiệu quả hơn, từ đó giảm thiểu rủi ro hệ thống và nâng cao chất lượng tín dụng Nhiều tác giả đã chỉ ra rằng có mối quan hệ đồng biến giữa nợ xấu và quy mô ngân hàng (Dash & Kabra, 2010; Le, 2016; Louzis et al., 2012), trong khi một số khác lại phát hiện mối quan hệ nghịch biến (Salas & Saurina, 2002) Giả thuyết này còn được gọi là giả thuyết về hiệu ứng quy mô, nhấn mạnh sự liên kết giữa quy mô ngân hàng và chất lượng tài sản.

2.2.2 Các nghiên cứu trước đây ở các nước trên thế giới

Các nghiên cứu về nợ xấu chủ yếu tập trung vào hai nhóm nhân tố chính: nhân tố vi mô liên quan đến đặc thù của ngân hàng và nhân tố vĩ mô từ nền kinh tế Mặc dù có cùng hướng nghiên cứu, các kết quả khác nhau do bộ dữ liệu và phạm vi nghiên cứu khác nhau Một số nghiên cứu phân tích dữ liệu giữa các quốc gia trong cùng khu vực hoặc có đặc điểm tương đồng, trong khi những nghiên cứu khác chỉ khai thác dữ liệu của hệ thống ngân hàng của một quốc gia cụ thể Các nghiên cứu tiêu biểu phân tích dữ liệu từ nhiều quốc gia bao gồm các tác giả như Boudriga, Boulila, & Jellouli (2009), Dimitrios et al (2016), Fofack (2005), Hasan & Wall (2004), Messai & Jouini (2013), và Vinh & Sang.

Nghiên cứu cho thấy có mối quan hệ tác động giữa các nhân tố vi mô của ngân hàng và các nhân tố vĩ mô của nền kinh tế đối với nợ xấu Một nghiên cứu gần đây của Dimitrios et al (2016) không chỉ xác nhận các phát hiện trước đó mà còn phát hiện thêm hai nhân tố mới, đó là thâm hụt ngân sách và thuế thu nhập, cũng ảnh hưởng đến nợ xấu của ngân hàng.

Nhóm nghiên cứu thứ hai tập trung vào việc phân tích các đặc điểm riêng biệt của hệ thống ngân hàng thương mại tại một quốc gia, điển hình là nghiên cứu của Salas và Saurina.

Các nghiên cứu về nợ xấu trong ngành ngân hàng đã được thực hiện ở nhiều quốc gia khác nhau, như Tây Ban Nha (2002), Đài Loan (Hu, Li, & Chiu, 2004), Hy Lạp (Louzis, Vouldis, & Metaxas, 2012), Ấn Độ (Dash & Kabra, 2010) và Ý (Bofondi & Ropele, 2011) Mỗi quốc gia có những đặc trưng riêng trong hoạt động của hệ thống ngân hàng, dẫn đến sự khác biệt trong chiều hướng và mức độ tác động của các yếu tố vi mô và vĩ mô lên nợ xấu Điều này cho thấy rằng có thể tồn tại những yếu tố đặc trưng của từng quốc gia ảnh hưởng đến tình trạng nợ xấu.

2.2.3 Các nghiên cứu tại Việt Nam

Tại Việt Nam, nợ xấu và các yếu tố ảnh hưởng đến nó là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu và quản lý kinh tế quan tâm Nhiều nghiên cứu trước đây đã đề cập đến tình trạng nợ xấu, phản ánh tầm quan trọng của việc hiểu rõ nguyên nhân và tác động của nó đối với nền kinh tế.

Nghiên cứu của Đỗ Quỳnh Anh và Nguyễn Đức Hùng (2013) đã phân tích dữ liệu từ 10 ngân hàng thương mại lớn tại Việt Nam trong giai đoạn 2005-2011 Qua việc sử dụng dữ liệu bảng, các tác giả đã xác định tác động của các yếu tố vi mô như tỷ lệ nợ xấu kỳ trước, hiệu quả hoạt động, quy mô ngân hàng, tăng trưởng tín dụng và tỷ lệ nợ trên tổng tài sản, cũng như ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế vĩ mô như lạm phát và tăng trưởng kinh tế đến tình hình nợ xấu.

Nghiên cứu của Trần Trọng Phong, Trần Văn Bằng, Nguyễn Song Phương

Nghiên cứu năm 2015 đã phân tích dữ liệu từ 15 ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2007-2014, cho thấy các yếu tố vi mô ảnh hưởng đến nợ xấu của ngân hàng bao gồm nợ xấu kỳ trước, kết quả kinh doanh trước đó, hiệu quả hoạt động, quy mô ngân hàng, tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản và tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng lạm phát là yếu tố vĩ mô duy nhất tác động đến nợ xấu của các ngân hàng.

Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Vinh (2015) đã phân tích dữ liệu từ 22 ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2007-2014, sử dụng ba phương pháp FEM, SGMM và DGMM để đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố vi mô và vĩ mô lên nợ xấu Kết quả cho thấy có sự tác động của các yếu tố vi mô như khả năng sinh lời, nợ xấu trong quá khứ, quy mô ngân hàng, tăng trưởng tín dụng và vốn chủ sở hữu đến nợ xấu Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng lạm phát và tăng trưởng kinh tế có ảnh hưởng đến tình hình nợ xấu của ngân hàng.

2.2.4 Các nhân tố tác động đến nợ xấu

2.2.4.1 Các nhân tố vi mô thuộc về đặc thù ngân hàng

Khả năng sinh lời của ngân hàng, được đo lường qua lợi nhuận trên tổng tài sản hoặc lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, là một yếu tố quan trọng Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra mối quan hệ giữa khả năng sinh lời và các khoản nợ xấu Theo giả thuyết quản lý kém của Berger & DeYoung (1997), hiệu quả thấp có liên quan đến sự gia tăng nợ xấu trong tương lai Các nghiên cứu khác cũng hỗ trợ quan điểm này, như của Fofack (2005), N Klein (2013), Podpiera & Weill (2008), và Salas.

21

Tổng quan hoạt động của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2006-2017

Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, từ năm 2006 đến nay, số lượng ngân hàng thương mại tại Việt Nam đã tăng đáng kể Đến cuối năm 2017, Việt Nam có 46 ngân hàng thương mại hoạt động, trong đó có 4 ngân hàng thương mại nhà nước, 31 ngân hàng thương mại cổ phần, 9 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 2 ngân hàng liên doanh và 49 chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Bảng 3-1 Số lượng NHTM tại Việt Nam giai đoạn 2006-2017

Nguồn: Báo cáo thường niên của NHNN

Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), hệ thống ngân hàng trong nước hiện có 35 ngân hàng thương mại (NHTM), được phân chia thành hai khối: ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN) và ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP).

3.1.1.1 Khối ngân hàng thương mại Nhà nước

Khối ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN) tại Việt Nam bao gồm bốn ngân hàng chính là AGB, CTG, BIDV và VCB, không tính ba ngân hàng đã được Ngân hàng Nhà nước mua lại là CB, GPB và OB Đến cuối năm 2017, tỷ lệ sở hữu của Nhà nước tại bốn ngân hàng này vẫn duy trì ở mức cao.

Ngân hàng BIDV, được thành lập vào năm 1957 với tên gọi ban đầu là Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam, chuyên cung cấp nguồn vốn dài hạn cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng và công trình công.

Năm 1995, BIDV đánh dấu sự chuyển mình quan trọng khi chuyển đổi sang hoạt động như một Ngân hàng Thương mại Đến năm 2012, ngân hàng này đã thực hiện cổ phần hóa và chính thức niêm yết trên sàn chứng khoán.

2014 Tính đến thời điểm hiện tại, tỷ lệ sở hữu của NHNN tại BIDV là 95,28%

Ngân hàng thứ hai là VCB, được thành lập vào năm 1962 theo Quyết định số

Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam (VCB) được thành lập theo quyết định 115/CP của Hội đồng Chính phủ, tách ra từ Cục quản lý Ngoại hối thuộc Ngân hàng Trung ương, với nhiệm vụ chính là hỗ trợ tài chính cho hoạt động ngoại thương và quản lý ngoại hối Năm 1990, VCB chuyển đổi từ ngân hàng chuyên doanh sang ngân hàng thương mại đa năng Đến năm 2007, VCB thực hiện cổ phần hóa và chính thức niêm yết trên sàn chứng khoán vào năm 2008 Tính đến cuối năm 2017, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nắm giữ 77,11% cổ phần tại VCB.

Ngân hàng CTG, được thành lập vào năm 1988 với tên gọi Ngân hàng chuyên doanh Công thương Việt Nam, có nhiệm vụ chính là cung cấp tài chính cho khu vực công nghiệp và thương mại Sau khi cổ phần hóa vào năm 2008, cổ phiếu CTG đã chính thức được giao dịch trên thị trường chứng khoán vào năm 2009 Hiện tại, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang nắm giữ 64,46% cổ phần của CTG.

Ngân hàng AGB, thành lập năm 1988, có sứ mệnh phát triển kinh tế Việt Nam với trọng tâm đầu tư vào nông nghiệp, nông dân và nông thôn Mặc dù đã có kế hoạch chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thuộc sở hữu Nhà nước vào năm 2009 và được yêu cầu thực hiện cổ phần hóa, AGB vẫn chưa thực hiện được việc chào bán cổ phiếu ra công chúng lần đầu, với tỷ lệ sở hữu của Nhà nước hiện tại vẫn là 100%.

Tỷ lệ sở hữu Nhà nước tại bốn ngân hàng trên vẫn rất lớn, đều trên 50%, mang lại cho các ngân hàng này những ưu thế ngầm định Các ngân hàng thương mại Nhà nước (NHTMNN) có lợi thế về nền tảng khách hàng và cạnh tranh chi phí vốn, cũng như trong cho vay Thương hiệu của ngân hàng Nhà nước phát huy tác dụng trong bối cảnh thị trường nhiều rủi ro, tạo ra một tấm đệm an toàn trước nguy cơ nợ xấu Do những ưu thế này, bốn ngân hàng trên không được đưa vào mẫu nghiên cứu của luận văn.

3.1.1.2 Khối ngân hàng thương mại cổ phần

Khối NHTMCP hiện có 31 ngân hàng, nhưng do khó khăn trong việc tiếp cận báo cáo tài chính, tác giả chỉ thu thập được dữ liệu từ 22 ngân hàng trong số đó.

22 ngân hàng trong mẫu nghiên cứu sẽ được trình bày tại phần Phụ lục

Trong giai đoạn 2006-2017, quy mô của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã tăng trưởng mạnh mẽ Bảng dưới đây cung cấp thông tin về tổng tài sản, vốn tự có và vốn điều lệ của các NHTM tính đến ngày 31/12/2017, với số liệu được thu thập từ website và báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước (NHNN).

Trong bảng này, khối NHTMNN bao gồm 7 ngân hàng được mua lại, cụ thể là AGB, BIDV, CTG, VCB, CB, GPB và OB, trong khi khối NHTMCP gồm 31 ngân hàng còn lại Chỉ tiêu tổng tài sản được tính theo Thông tư 49/2014/TT-NHNN, với giá trị tuyệt đối tính bằng tỷ đồng và giá trị tương đối tính bằng tỷ lệ phần trăm Số liệu toàn hệ thống cũng bao gồm các loại hình Tổ chức tín dụng khác như Ngân hàng Chính sách xã hội, Công ty tài chính, cho thuê, Ngân hàng Hợp tác xã và Quỹ tín dụng nhân dân.

Bảng 3-2 Tổng tài sản có, vốn tự có và vốn điều lệ của các NHTM Việt Nam tính đến ngày 31/12/2017

Loại hình tổ chức tín dụng

Tổng tài sản có Vốn tự có Vốn điều lệ

NHTMNN 4.570.097 18,34 254.655 10,96 147.771 0,84 NHTMCP 4.028.497 17,69 290.626 14,35 214.791 6,94 NHLD, NNg 954.165 15,19 141.838 8,31 109.656 5,33 Toàn hệ thống 10.001.790 17,62 714.106 11,64 512.429 4,91

Kỳ số liệu tháng 12/2017, đơn vị: tỷ đồng, % Nguồn: Website, Báo cáo thường niên của NHNN

Tính đến cuối tháng 12/2017, tổng tài sản của toàn hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) đã tăng 17,62% so với đầu năm, cho thấy sự phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực tài chính.

Tổng tài sản của tất cả các ngân hàng trong hệ thống đã tăng trưởng so với đầu năm, với khối NHTMNN và NHTMCP đều ghi nhận mức tăng khoảng 17%-18%, đạt lần lượt 4,5 triệu tỷ đồng và hơn 4 triệu tỷ đồng Mặc dù chỉ chiếm 7/38 ngân hàng, khối NHTMNN vẫn dẫn đầu về quy mô tổng tài sản, cho thấy sự chênh lệch lớn giữa tổng tài sản của các ngân hàng thuộc khối NHTMNN và NHTMCP.

Vốn tự có của toàn hệ thống các TCTD đã tăng 11,64% so với đầu năm, trong đó khối NHTMNN ghi nhận mức tăng 10,96%, còn khối NHTMCP đạt tốc độ tăng 14,35% Sự gia tăng mạnh mẽ này đã giúp khối NHTMCP vượt qua khối NHTMNN về quy mô vốn tự có, với tổng số đạt 290.626 tỷ đồng.

Thực trạng nợ xấu của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2006-2017

Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã phân tích thực trạng nợ xấu của 22 ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2006-2017, dựa trên dữ liệu từ báo cáo tài chính của các ngân hàng này Danh sách các ngân hàng sẽ được đính kèm ở phần Phụ lục.

3.2.1 Thực trạng nợ xấu Đồ thị trực quan dưới đây trình bày diễn biến nợ xấu của 22 ngân hàng trong mẫu nghiên cứu trong giai đoạn 2006-2017 Đồ thị 3-3 Nợ xấu của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2006-2017

Nguồn: Báo cáo tài chính của 22 NHTM, báo cáo thường niên của NHNN

Theo đồ thị, có thể chia diễn biến nợ xấu thành hai giai đoạn với mốc năm 2012 Giai đoạn đầu từ 2006-2012 chứng kiến sự gia tăng mạnh mẽ của nợ xấu, với mức trung bình toàn hệ thống là 4,86%, trong khi một số ngân hàng như SHB ghi nhận tới 8,82% vào năm 2012 Giai đoạn thứ hai, từ 2013-2017, thể hiện xu hướng giảm dần của nợ xấu, mặc dù mức nợ xấu vẫn còn cao và cần được tiếp tục kiểm soát.

Nợ xấu toàn hệ thống NPL Linear (NPL)

Từ năm 2015 đến 2017, nợ xấu đã có dấu hiệu gia tăng đáng kể tại các ngân hàng trong mẫu nghiên cứu, với một ngân hàng ghi nhận tỷ lệ nợ xấu lên đến 6,91% vào năm 2016 và 4,67% vào năm 2017 (STB, 2016 & 2017) Đặc biệt, biểu đồ xu hướng nợ xấu (Linear NPL) cho thấy sự gia tăng liên tục của nợ xấu trong các ngân hàng từ năm 2006 đến 2017.

3.2.2 Các nhân tố đặc thù ngân hàng

3.2.2.1 Quy mô ngân hàng Đồ thị tiếp theo đây trình bày diễn biến quy mô tổng tài sản của 22 ngân hàng trong mẫu nghiên cứu trong giai đoạn 2006-2017 Trong đó, quy mô tổng tài sản được đại diện bởi giá trị tổng tài sản của ngân hàng với đơn vị tính là tỷ đồng Đồ thị 3-4 Quy mô tổng tài sản của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2006-2017

Báo cáo tài chính của 22 ngân hàng thương mại cho thấy tổng tài sản của các ngân hàng đang tăng trưởng mạnh mẽ Đồ thị trực quan minh họa sự phân hóa rõ rệt về quy mô giữa các ngân hàng trong mẫu nghiên cứu, cho thấy sự chênh lệch đáng kể về quy mô giữa các ngân hàng này.

Tổ n g t ài sản Bil lion s

Tính đến cuối năm 2017, hơn một nửa số ngân hàng tại Việt Nam có tổng tài sản trên 100.000 tỷ đồng, với ba ngân hàng hàng đầu là SCB, STB và MB đạt tổng tài sản trên 300.000 tỷ đồng, gấp gần ba lần so với các ngân hàng khác Đặc biệt, STB không chỉ nằm trong nhóm ngân hàng có quy mô lớn mà còn có tỷ lệ nợ xấu cao đáng báo động Xu hướng tăng trưởng mạnh mẽ về quy mô tổng tài sản của các ngân hàng trong mẫu nghiên cứu cho thấy mối quan hệ tương quan đồng biến giữa quy mô ngân hàng và nợ xấu.

3.2.2.2 Tăng trưởng tín dụng Đồ thị tiếp theo đây mô tả diễn biến tăng trưởng tín dụng của 22 ngân hàng trong mẫu nghiên cứu trong giai đoạn 2006-2017 Trong đó, tăng trưởng tín dụng được đo lường thông qua tốc độ tăng trưởng với đơn vị tính là tỷ lệ phần trăm Đồ thị 3-5 Tăng trưởng tín dụng của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2006-2017

Nguồn: Báo cáo tài chính của 22 NHTM

Xu hướng tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng đang giảm dần, với năm 2007 ghi nhận mức tăng trưởng đột biến.

Tố c độ tă n g t rưởn g t ín d ụ n g

Ngân hàng LGR Linear (LGR) ghi nhận sự tăng trưởng ấn tượng nhất vào năm 2007 với mức tăng trưởng tín dụng đạt 1.132,68%, tương đương với hơn 11 lần Tuy nhiên, từ những năm sau đó, tốc độ tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng đã được kiểm soát chặt chẽ, với mức tăng trưởng chỉ xoay quanh 20% vào cuối năm 2017 Ngân hàng MSB là đơn vị có mức tăng trưởng thấp nhất trong mẫu, chỉ đạt 3,22% Sự kết hợp giữa xu hướng giảm trong tăng trưởng tín dụng và sự gia tăng nợ xấu cho thấy mối quan hệ nghịch biến giữa hai yếu tố này trong giai đoạn 2006-2017.

3.2.2.3 Mức độ tập trung vốn tín dụng Đồ thị tiếp theo sau đây trình bày về diễn biến mức độ tập trung vốn tín dụng của 22 ngân hàng trong mẫu nghiên cứu trong giai đoạn 2006-2017 Đồ thị 3-6 Mức độ tập trung vốn tín dụng của các NHTM Việt Nam giai đoạn

Theo báo cáo tài chính của 22 ngân hàng thương mại, trong giai đoạn 2006-2017, mức độ tập trung vốn tín dụng đã giảm dần Đặc biệt, các năm 2006 và 2007 ghi nhận tỷ lệ này ở mức rất cao.

Tỷ lệ tổ n g d ư n ợ/T ổ n g vố n h u y độ n g

Trong giai đoạn 2006-2007, tỷ lệ dư nợ cho vay của một số ngân hàng như SCB và HDB đã vượt quá 250%, cho thấy sự tập trung vốn tín dụng cao Tuy nhiên, sau đó tỷ lệ này đã được kiểm soát và giảm về mức khoảng 100% Dựa theo Thông tư 13/2010/TT-NHNN, hầu hết các ngân hàng trong nghiên cứu không đạt yêu cầu 80%, phản ánh rủi ro thanh khoản tiềm ẩn và khẩu vị ưa rủi ro trong việc theo đuổi lợi nhuận Sự giảm dần của mức độ tập trung vốn tín dụng cùng với xu hướng gia tăng nợ xấu cho thấy mối quan hệ nghịch biến giữa tăng trưởng tín dụng và nợ xấu trong giai đoạn nghiên cứu.

3.2.3 Các nhân tố vĩ mô của nền kinh tế

3.2.3.1 Tăng trưởng kinh tế Đồ thị 3-7 Tăng trưởng kinh tế và nợ xấu của các NHTM Việt Nam giai đoạn

Nguồn: Báo cáo tài chính của 22 NHTM, GSO

Tố c độ tă n g t rưởn g k in h t ế (% )

Tăng trưởng kinh tế NPL

Giai đoạn 2006-2012 chứng kiến sự trái ngược giữa tăng trưởng kinh tế và nợ xấu tại Việt Nam Trong giai đoạn này, tăng trưởng kinh tế giảm dần, với mức cao nhất đạt 7,13% vào năm 2007 và thấp nhất là 5,25% vào năm 2012 Ngược lại, nợ xấu của các ngân hàng tăng lên, mặc dù ở mức thấp trong năm 2006.

Từ năm 2007 đến 2012, nợ xấu của các ngân hàng đạt mức cao nhất là 8,82% (SHB, 2012), trong khi giai đoạn 2013-2017 cho thấy nền kinh tế hồi phục với tăng trưởng ổn định và nợ xấu được kiểm soát tốt hơn Như vậy, có thể nhận định rằng giữa tăng trưởng kinh tế và nợ xấu của ngân hàng tồn tại mối quan hệ tương quan nghịch biến trong giai đoạn 2006-2017.

3.2.3.2 Lạm phát Đồ thị 3-8 Lạm phát và nợ xấu của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2006 – 2017

Nguồn: Báo cáo tài chính của 22 NHTM, GSO

39

62

Ngày đăng: 12/07/2021, 11:10

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
8. Dimitrios, A., Helen, L., & Mike, T. (2016). Determinants of non- performing loans: Evidence from Euro-area countries. Finance Research Letters, 18, 116–119. https://doi.org/10.1016/j.frl.2016.04.008 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Finance Research Letters, 18
Tác giả: Dimitrios, A., Helen, L., & Mike, T
Năm: 2016
9. Espinoza, R. A., & Prasad, A. (2010). Nonperforming Loans in the GCC Banking System and their Macroeconomic Effects. International Monetary Fund Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nonperforming Loans in the GCC Banking System and their Macroeconomic Effects
Tác giả: Espinoza, R. A., & Prasad, A
Năm: 2010
10. Fofack, H. L. (2005). Nonperforming Loans In Sub-Saharan Africa : Causal Analysis And Macroeconomic Implications. The World Bank.https://doi.org/10.1596/1813-9450-3769 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nonperforming Loans In Sub-Saharan Africa : Causal Analysis And Macroeconomic Implications
Tác giả: Fofack, H. L
Năm: 2005
11. Foos, D., Norden, L., & Weber, M. (2010). Loan growth and riskiness of banks. Journal of Banking & Finance, 34(12), 2929–2940.https://doi.org/10.1016/j.jbankfin.2010.06.007 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Journal of Banking & Finance, 34
Tác giả: Foos, D., Norden, L., & Weber, M
Năm: 2010
12. García‐ Teruel, P. J., & Martínez‐ Solano, P. (2007). Effects of working capital management on SME profitability. International Journal ofManagerial Finance, 3(2), 164–177.https://doi.org/10.1108/17439130710738718 Sách, tạp chí
Tiêu đề: International Journal of "Managerial Finance, 3
Tác giả: García‐ Teruel, P. J., & Martínez‐ Solano, P
Năm: 2007
20. Louzis, D. P., Vouldis, A. T., & Metaxas, V. L. (2012). Macroeconomic and bank-specific determinants of non-performing loans in Greece: A comparative study of mortgage, business and consumer loan portfolios.Journal of Banking & Finance, 36(4), 1012–1027.https://doi.org/10.1016/j.jbankfin.2011.10.012 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Journal of Banking & Finance, 36
Tác giả: Louzis, D. P., Vouldis, A. T., & Metaxas, V. L
Năm: 2012
21. Makri, V., Tsagkanos, A., & Bellas, A. (2014). Determinants of non- performing loans: The case of Eurozone. Panoeconomicus, 61(2), 193– Sách, tạp chí
Tiêu đề: Panoeconomicus, 61
Tác giả: Makri, V., Tsagkanos, A., & Bellas, A
Năm: 2014
22. Messai, A. S., & Jouini, F. (2013). Micro and Macro Determinants of Non- performing Loans. International Journal of Economics and Financial Issues, 3(4), 852–860 Sách, tạp chí
Tiêu đề: International Journal of Economics and Financial Issues, 3
Tác giả: Messai, A. S., & Jouini, F
Năm: 2013
23. Nkusu, M. M. (2011). Nonperforming Loans and Macrofinancial Vulnerabilities in Advanced Economies. International Monetary Fund Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nonperforming Loans and Macrofinancial Vulnerabilities in Advanced Economies
Tác giả: Nkusu, M. M
Năm: 2011
4. Boudriga, A., Boulila, N., & Jellouli, S. (2009, October 19). Does bank supervision impact nonperforming loans : cross-country determinants using agregate data ? [MPRA Paper]. Retrieved July 18, 2018, from https://mpra.ub.uni-muenchen.de/18068/ Link
17. Keeton, W. R., & Morris, C. S. (1987). Why Do Banks’ Loan Losses Differ? - ProQuest. Retrieved September 8, 2018, from https://search.proquest.com/openview/24b121c71656777ed707ef0b7dc16b52/1?pq-origsite=gscholar&cbl=47211 Link
18. Khemraj, T., & Pasha, S. (2009, August). The determinants of non- performing loans: an econometric case study of Guyana [MPRA Paper].Retrieved July 18, 2018, from https://mpra.ub.uni-muenchen.de/53128/ Link
19. Le, C. H. . (2016). Macro-financial linkages and bank behaviour: evidence from the second-round effects of the global financial crisis on East Asia | SpringerLink. Retrieved September 8, 2018, from https://link.springer.com/article/10.1007/s40822-016-0048-7 Link
26. Salas, V., & Saurina, J. (2002). Credit Risk in Two Institutional Regimes: Spanish Commercial and Savings Banks | SpringerLink. RetrievedSeptember 8, 2018, fromhttps://link.springer.com/article/10.1023/A:1019781109676 Link
27. Saurina, J., & Jimenez, G. (2006, March 20). Credit Cycles, Credit Risk, and Prudential Regulation [MPRA Paper]. Retrieved July 18, 2018, from https://mpra.ub.uni-muenchen.de/718/ Link
28. Škarica, B. (2014). Determinants of non-performing loans in Central and Eastern European countries. Retrieved September 1, 2018, from https://hrcak.srce.hr/index.php?show=clanak&id_clanak_jezik=17702329.Thong, T. Q. (2012). THE SCP PARADIGM - THE CASE OFVIETNAM STATE-OWNED BANKS, 41 Link
1. Anh, Đ. Q., & Hùng, N. Đ. (2013). Phân tích thực tiễn về những yếu tố quyết định nợ xấu tại các ngân hàng thương mại Việt Nam Khác
2. Phong, T. T., Bằng, T. V., & Phương, N. S. (2015). Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ xấu tại các ngân hàng thương mại Việt Nam. Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 216 (II), tháng 06 năm 2015, tr. 54-60 Khác
3. Thong, T. Q. (2012). Quản trị ngân hàng thương mại. Nhà xuất bản Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh Khác
4. Vinh, N. T. H. (2015). Yếu tố tác động đến nợ xấu các ngân hàng thương mại Việt Nam. Tạp chí phát triển kinh tế, số 26 (11), tr. 89-98.Tài liệu tiếng Anh Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w