1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng theo luật thương mại việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

84 26 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Bồi Thường Thiệt Hại Do Vi Phạm Hợp Đồng Theo Luật Thương Mại Việt Nam
Tác giả Nguyễn Thị Ngọc Thiện
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Hải An
Trường học Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Kinh Tế
Thể loại Luận Văn Thạc Sỹ Luật
Năm xuất bản 2019
Thành phố TP. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 84
Dung lượng 892,18 KB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (5)
  • 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài (7)
  • 3. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu (10)
  • 4. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu (11)
  • 5. Kết quả nghiên cứu dự kiến (12)
  • 6. Bố cục của luận văn (12)
  • CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG (13)
    • 1.1 Khái niệm, đặc điểm, vai trò của chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng (13)
      • 1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng (13)
      • 1.1.2 Vị trí, vai trò của chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng (18)
    • 1.2 Điều kiện áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng (19)
      • 1.2.1 Các điều kiện tổng quát về việc áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng (19)
      • 1.2.2 Yếu tố hành vi vi phạm hợp đồng (20)
      • 1.2.3 Yếu tố thiệt hại thực tế (21)
      • 1.2.4 Yếu tố mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại (22)
      • 1.2.5 Yếu tố lỗi của người vi phạm nghĩa vụ (24)
    • 1.3 Hợp đồng thương mại và chế định bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng (25)
      • 1.3.1 Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng thương mại (25)
      • 1.3.2 Căn cứ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại (27)
      • 1.3.3 Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng thương mại theo quy định Luật thương mại 2005 (31)
  • CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI (41)
  • DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG THEO LUẬT THƯƠNG MẠI (0)
    • 2.1 Lịch sử của chế định pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại ở Việt Nam (41)
    • 2.2. Quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng theo Luật Thương mại 2005 (45)
    • 2.3. Khác biệt giữa chế tài Bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm hợp đồng (46)
    • 2.4. Khác biệt giữa Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng theo Luật Thương mại 2005 và Bộ luật Dân sự 2015 (49)
    • 2.5 Thực tiễn thi hành và một số bất cập về chế định bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng theo Luật Thương mại 2005 (53)
    • CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG THEO LUẬT THƯƠNG MẠI 2005 (66)
      • 3.1. Về miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sự kiện bất khả kháng (67)
      • 3.2. Về miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sự vi phạm nghĩa vụ của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia (69)
      • 3.3. Về miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại do việc thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (71)
      • 3.4. Về việc miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng khi có sự thỏa thuận của các bên (72)
      • 3.5. Về việc giảm mức bồi thường do bên có quyền không hạn chế tổn thất (73)
  • KẾT LUẬN (40)

Nội dung

Tình hình nghiên cứu của đề tài

Chế tài bồi thường thiệt hại (BTTH) là một trong những chế tài phổ biến trong quan hệ hợp đồng, tuy nhiên, các quy định pháp luật liên quan đến BTTH còn nhiều hạn chế và thiếu sót, tạo ra khó khăn cho cơ quan xét xử Nghiên cứu về các quy định pháp luật liên quan đến hợp đồng và chế định BTTH do vi phạm hợp đồng theo Luật Thương mại Việt Nam đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu ở các giai đoạn khác nhau Hầu hết các công trình nghiên cứu đều tập trung vào việc giới thiệu quy định chung về hợp đồng, phân tích lý luận, cơ sở pháp lý giữa các văn bản pháp luật và thực tiễn áp dụng, đồng thời bình luận dựa trên các bản án thực tế để chỉ ra những bất cập và đề xuất hướng hoàn thiện.

Công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Ngọc Khánh mang tên “Chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam” (Nhà xuất bản Tư pháp, 2007) cung cấp cái nhìn tổng quát về hợp đồng theo pháp luật Việt Nam Tác phẩm đề cập đến khái niệm, đặc điểm, phân loại hợp đồng, cũng như thời điểm giao kết và hiệu lực của hợp đồng Nó còn phân tích các điều kiện giao kết, căn cứ phát sinh hiệu lực, và trách nhiệm pháp lý khi có tranh chấp Bên cạnh đó, tác giả chỉ ra những bất cập, hạn chế trong hệ thống pháp luật và đề xuất hướng hoàn thiện Tuy nhiên, nghiên cứu chủ yếu tập trung vào hợp đồng chung mà chưa khai thác sâu về chế định BTTH.

Một công trình nghiên cứu quan trọng về hợp đồng là “Giáo trình luật hợp đồng Việt Nam – Phần chung” của tác giả Ngô Huy Cương, được xuất bản bởi nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội vào năm 2013.

Hợp đồng đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của con người thông qua việc trao đổi sản phẩm, dịch vụ và lợi ích khác Tuy nhiên, pháp luật hợp đồng tại Việt Nam còn thiếu nhiều quy định cụ thể, gây khó khăn trong thực tiễn Bài viết hướng đến việc xây dựng tư duy pháp lý nền tảng cho người học, nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về hợp đồng và cải cách tư pháp Giáo trình gồm 9 chương, nghiên cứu các khía cạnh như khái niệm hợp đồng, tự do ý chí, nghĩa vụ, chức năng và đặc điểm của hợp đồng, các nguyên tắc cơ bản, phân loại, giao kết, hợp đồng vô hiệu và hiệu lực của hợp đồng Nội dung này cung cấp kiến thức chuyên sâu, giúp người đọc có cái nhìn toàn diện về luật hợp đồng từ quá khứ đến hiện tại và dự đoán tương lai, mặc dù chưa đề cập nhiều đến trách nhiệm pháp lý cụ thể.

Một công trình nghiên cứu khác có liên quan phải kể đến là tác phẩm “Luật

Hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Tập 1 (2013) và Tập 2 (2014) của tác giả Đỗ Văn Đại, do Nhà xuất bản Chính trị phát hành, đã tuyển chọn và phân tích các bản án điển hình liên quan đến pháp luật hợp đồng Việt Nam Tác giả không chỉ bình luận về các vấn đề pháp lý cơ bản mà còn so sánh với pháp luật quốc tế và các quốc gia khác, đặc biệt là Bộ nguyên tắc Châu Âu về BTTH Từ đó, tác giả đưa ra đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật BTTH tại Việt Nam.

Liên quan đến hợp đồng mang tính chất quốc tế, tác giả Nguyễn Văn Luyện,

Lê Thị Bích Thọ và Dương Anh Sơn trong tác phẩm “Giáo trình Luật Hợp đồng

Thương mại quốc tế”, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh năm

Năm 2016, một công trình nghiên cứu điển hình được xuất bản, bao gồm 10 chương chia thành hai phần: phần đầu (chương 1 đến 5) tập trung vào các vấn đề chung của hợp đồng thương mại quốc tế như khái niệm, đặc điểm, ký kết, thực hiện và giải quyết tranh chấp, trong khi phần hai (chương 6 đến 10) phân tích và so sánh các quy định pháp luật của các quốc gia về các hợp đồng phổ biến trong thương mại quốc tế Tác phẩm này giúp người đọc hiểu rõ các quy định pháp luật cơ bản liên quan đến hợp đồng trong thương mại quốc tế, bao gồm khái niệm, nội dung, thời điểm có hiệu lực, thời điểm chuyển rủi ro, quyền và nghĩa vụ của các bên, cũng như trách nhiệm dân sự phát sinh Nghiên cứu về chế định hợp đồng theo pháp luật Việt Nam là một lĩnh vực quan trọng, thu hút sự quan tâm của nhiều tác giả, đặc biệt là về BTTH, một chế tài phổ biến nhưng cũng tồn tại nhiều bất cập và hạn chế Ngoài những công trình nghiên cứu lớn, còn nhiều bài viết khác liên quan đến BTTH được xuất bản.

Trong bài viết “Về chế định miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng” của tác giả Phạm Thanh Bình, đăng trên tạp chí Nghiên cứu luật pháp số 02 năm 2009, tác giả phân tích sự khác nhau giữa Bộ luật Dân sự năm 2005 và Luật Thương mại năm 2005 về các trường hợp miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại Bài viết cũng chỉ ra một số trường hợp miễn trách nhiệm như sự kiện bất khả kháng, thỏa thuận giữa các bên, hoặc do lỗi của cả hai bên Hơn nữa, tác giả nêu ra những thiếu sót và hạn chế của pháp luật Việt Nam trong việc áp dụng các quy định này trên thực tế, đồng thời cung cấp thông tin tham khảo về các căn cứ miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Bài viết “Một số quy định về vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng theo pháp luật

Bài viết "Việt Nam – so sánh với pháp luật Nhật Bản" của tác giả Nguyễn Thị Hồng Nhung, đăng trên tạp chí Công thương năm 2017, tập trung vào khái niệm vi phạm hợp đồng cơ bản và các biện pháp chế tài chính trong trường hợp vi phạm, đồng thời so sánh với pháp luật Nhật Bản Cả hai hệ thống pháp luật đều xác định rằng bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng phải bồi thường thiệt hại cho bên bị thiệt hại Theo Điều 302 LTM 2005, giá trị bồi thường thiệt hại tại Việt Nam bao gồm tổn thất thực tế và lợi ích đáng lẽ được hưởng, trong khi pháp luật Nhật Bản cho phép yêu cầu bồi thường dựa trên thiệt hại phát sinh từ vi phạm hợp đồng, bao gồm cả các tổn thất đặc biệt nếu bên vi phạm có thể dự đoán Sự khác biệt chính giữa hai hệ thống pháp luật nằm ở cách thức chứng minh thiệt hại và các loại thiệt hại được yêu cầu bồi thường.

Nghiên cứu về trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại (BTTH) trong hợp đồng đã được nhiều quốc gia quan tâm, trong đó Việt Nam cũng có nhiều công trình và bài viết bình luận về chế định BTTH theo pháp luật hiện hành Tuy nhiên, hiện chưa có nghiên cứu cụ thể nào về BTTH do vi phạm hợp đồng theo Luật Thương mại (LTM) Việt Nam, đồng thời cần làm rõ sự khác biệt giữa Bộ luật Dân sự (BLDS) và LTM để áp dụng chế tài BTTH phù hợp với thông lệ quốc tế Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài này mang ý nghĩa thiết thực, đáp ứng nhu cầu thực tiễn trong lĩnh vực pháp luật.

Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu

Bài viết này tập trung vào việc nghiên cứu lý luận về chế định BTTH do vi phạm hợp đồng theo Luật Thương mại Việt Nam, đồng thời phân tích và đánh giá các quy định cũng như việc thực thi pháp luật liên quan Qua đó, chúng tôi sẽ chỉ ra những hạn chế và bất cập trong quá trình áp dụng thực tế nhằm cải thiện hiệu quả thực thi pháp luật.

Luận văn nghiên cứu quy định về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong Bộ luật Dân sự 2005, Luật Thương mại 2005 và so sánh với Bộ luật Dân sự 2015 Bài viết phân tích lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại, góp phần vào nghiên cứu pháp luật và thực tiễn áp dụng Ngoài ra, luận văn đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về chế tài bồi thường thiệt hại, chỉ ra sự khác biệt giữa các văn bản pháp luật như Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại, đồng thời so sánh với quy định của một số quốc gia tiên tiến Mục tiêu là đánh giá những bất cập và khai thác quan điểm thực tiễn thông qua các bản án, quyết định xét xử Cuối cùng, luận văn đề xuất giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại, nhằm nâng cao hiệu quả giao kết hợp đồng, trách nhiệm thực hiện điều khoản và giảm thiểu tranh chấp, đảm bảo lợi ích cho các bên và phát triển kinh tế xã hội, phù hợp với pháp luật quốc tế.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu

Hợp đồng là văn bản pháp lý quan trọng trong hoạt động thương mại, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và đầu tư, được điều chỉnh bởi Luật Thương mại 2005 Các vấn đề liên quan đến hợp đồng như giao kết, thực hiện, quyền và nghĩa vụ của các bên, và giải quyết tranh chấp là rất đa dạng Luận văn Thạc sỹ này tập trung vào chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại, khai thác các đặc trưng cơ bản, hạn chế và bất cập trong việc áp dụng chế tài này để giải quyết tranh chấp Tác giả cũng nghiên cứu các văn bản pháp luật liên quan như Bộ luật Dân sự 2005 và 2015, nhằm đưa ra những góp ý hoàn thiện pháp luật.

Năm 1997 và LTM năm 2005, Công ước Viên 1980 cùng các văn bản pháp lý khác đã được so sánh với hệ thống luật của các nước tiên tiến trên thế giới Đồng thời, tác giả cũng nghiên cứu và tham khảo các bản án, quyết định của Tòa án từ thực tiễn xét xử để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu Để thực hiện bài luận văn này, tác giả áp dụng các phương pháp phổ biến.

Phương pháp lý luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và các quan điểm của Đảng về chính sách đổi mới đã đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần dưới sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Bài viết cũng đề cập đến các chính sách và quy định pháp luật liên quan đến BTTH do vi phạm hợp đồng trong những năm qua Ngoài ra, tác giả áp dụng phương pháp lịch sử để làm rõ những thay đổi trong quy định pháp luật và quan điểm lập pháp qua từng giai đoạn lịch sử, từ đó nghiên cứu sâu hơn về tiến trình phát triển của chế định BTTH.

Trong quá trình nghiên cứu, tác giả áp dụng các phương pháp nghiên cứu lý thuyết và tổng hợp thông tin từ các công trình nghiên cứu, bài viết, và tài liệu liên quan đến pháp luật về chế định bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.

Phương pháp so sánh - đối chiếu giữa quy định pháp luật và việc thực thi các quy định về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng là cần thiết để giải quyết tranh chấp trong thương mại Việc phân tích những quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 và các quy định hiện hành giúp làm rõ sự khác biệt và tương đồng trong cách xử lý vi phạm hợp đồng Điều này không chỉ nâng cao hiểu biết về pháp luật mà còn hỗ trợ các bên liên quan trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.

Năm 2015 và LTM năm 2005 đánh dấu giai đoạn quan trọng trong bối cảnh Việt Nam hội nhập và phát triển kinh tế, đồng thời làm rõ nội dung về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng theo LTM Việt Nam.

Kết quả nghiên cứu dự kiến

Luận văn này làm rõ các hạn chế, bất cập và khó khăn trong việc áp dụng pháp luật nhằm giải quyết các mâu thuẫn và tranh chấp liên quan đến BTTH do vi phạm hợp đồng theo Luật Thương mại.

Luận văn đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện văn bản pháp luật liên quan để nâng cao hiệu quả giao kết và hợp tác giữa các doanh nghiệp Bên cạnh đó, bài viết đưa ra một số phương án giải quyết tranh chấp về BTTH do vi phạm hợp đồng, nhằm bảo vệ quyền lợi và lợi ích chung của các bên tham gia Mục tiêu là nâng cao khả năng cạnh tranh, tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh và phát triển bền vững cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Bố cục của luận văn

Luận văn gồm có 03 chương:

- Chương 1: Lý luận về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng

- Chương 2: Thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng theo Luật Thương mại

- Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng theo Luật Thương mại năm 2005.

LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG

Khái niệm, đặc điểm, vai trò của chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng

1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng

Khái niệm của chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng

Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng là chế tài do Nhà nước quy định nhằm xử lý các hành vi không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, gây thiệt hại cho bên kia Khi một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng, họ phải tiếp tục thực hiện hợp đồng, bồi thường thiệt hại hoặc chịu phạt Bên bị vi phạm có quyền đơn phương chấm dứt hoặc hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Hầu hết các quốc gia trên thế giới quy định trách nhiệm trong hợp đồng, bao gồm bồi thường thiệt hại (BTTH) và phạt vi phạm Tại Việt Nam, có sự khác biệt giữa Bộ luật dân sự (BLDS) 2015 và Luật thương mại (LTM) 2005 BLDS 2015 quy định hai hình thức trách nhiệm hợp đồng là BTTH và phạt vi phạm, trong khi Điều 292 LTM 2005 quy định các chế tài thương mại như: buộc thực hiện hợp đồng, phạt vi phạm, buộc bồi thường thiệt hại, tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng, và các biện pháp khác theo thỏa thuận của các bên, miễn không trái với pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, và tập quán thương mại quốc tế.

1 Luật Thương mại số 36/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005

Hình thức BTTH là một chế tài phổ biến nhưng phức tạp trong thực tiễn, yêu cầu chủ thể vi phạm pháp luật phải chịu trách nhiệm pháp lý và các hậu quả bất lợi Các biện pháp cưỡng chế được áp dụng dựa trên những căn cứ và cơ sở pháp lý nhất định.

Chế tài là cơ sở xác định trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi phạm quy tắc pháp luật trong hợp đồng Trong mối quan hệ hợp đồng, chế tài trao quyền cho một bên để thi hành khi bên kia vi phạm Việc vi phạm nghĩa vụ gây thiệt hại và ảnh hưởng đến quyền lợi của bên còn lại, do đó bên vi phạm phải bồi thường để khôi phục tình trạng ban đầu và đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho bên bị thiệt hại Hình thức bồi thường thiệt hại (BTTH) được xem là phương pháp tối ưu và phổ biến trên toàn cầu Ví dụ, Điều 1147 Bộ luật Dân sự Pháp quy định về nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do không thực hiện hoặc thực hiện chậm nghĩa vụ, trong khi Điều 415 Bộ luật Dân sự Nhật Bản quy định quyền yêu cầu bồi thường nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng.

Bộ nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế năm 2004, tại Điều 74 và Điều 7.4.1, khẳng định quyền bồi thường thiệt hại phát sinh từ việc vi phạm bất kỳ nghĩa vụ nào trong hợp đồng Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc tuân thủ các điều khoản hợp đồng trong hệ thống pháp luật Common Law.

Law quy định: “Mọi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng đều là căn cứ phát sinh trách

2 Ngô Huy Cương (2013), Giáo trình Luật Hợp đồng – Phần chung, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội tr.398

Trường Đại học Luật Hà Nội (2013) đã xuất bản giáo trình "Lý luận nhà nước và pháp luật", do Lê Minh Tâm và Nguyễn Minh Đoan chủ biên, tại Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, trang 216.

Theo Ngô Huy Cương (2013), trách nhiệm bồi thường thiệt hại (BTTH) theo Bộ luật Dân sự Việt Nam là hình thức trách nhiệm chung, áp dụng rộng rãi trong các trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng gây thiệt hại Ngay cả khi bên bị vi phạm đã cố gắng cứu vãn thiệt hại bằng các biện pháp khác, họ vẫn giữ quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, theo Khoản 1 Điều 229 LTM 2005, là trách nhiệm pháp lý dân sự nhằm bù đắp tổn thất thực tế mà bên vi phạm gây ra Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm thanh toán tiền bồi thường cho thiệt hại do vi phạm hợp đồng Chế tài này không chỉ đảm bảo quyền lợi cho bên bị vi phạm mà còn khuyến khích các bên tuân thủ hợp đồng đã ký kết.

Chế tài bồi thường thiệt hại (BTTH) là hình thức xử lý nhằm thể hiện sự chịu trách nhiệm của bên vi phạm hợp đồng đối với những hậu quả tiêu cực mà họ gây ra Chế tài này có những đặc điểm riêng biệt, phản ánh tính chất và mức độ vi phạm của hợp đồng.

Thứ nhất, cơ sở phát sinh chế tài BTTH phát sinh từ hành vi vi phạm hợp đồng thương mại

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng phát sinh từ hành vi vi phạm của một bên, yêu cầu bên vi phạm phải bồi thường cho bên còn lại tương ứng với mức độ lỗi của mình Đặc điểm nổi bật của trách nhiệm này là giữa hai bên, tức bên chịu trách nhiệm bồi thường và bên bị thiệt hại, tồn tại một mối quan hệ hợp đồng, và thiệt hại phát sinh từ việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ hợp đồng.

5 Nguyễn Ngọc Khánh (2007), Chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr

6 Luật Thương mại số 36/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005

7 Đỗ Văn Đại (2016), Luật BTTH ngoài hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Tập 1, Nxb Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí Minhh tr 29

Pháp luật thương mại Việt Nam tôn trọng quyền tự do giao kết và cho phép các bên quyết định nội dung hợp đồng dựa trên mục đích và khả năng kinh doanh của mình Khi hợp đồng bị vi phạm, trách nhiệm bồi thường thiệt hại (BTTH) sẽ phát sinh, buộc các bên phải tuân thủ quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý của mình Điều kiện để một bên yêu cầu bên kia BTTH là hợp đồng phải có hiệu lực pháp luật và xảy ra vi phạm hợp đồng.

Thứ hai, chế tài BTTH do vi phạm hợp đồng thương mại là loại trách nhiệm pháp lý mang tính tài sản

Trách nhiệm pháp lý là nghĩa vụ chịu đựng các hình phạt liên quan đến nhân thân hoặc tài sản do hành vi vi phạm pháp luật gây ra, theo quy định của pháp luật Theo S.S ALÊCSEEV, trách nhiệm pháp lý liên quan trực tiếp đến vi phạm pháp luật, dẫn đến việc áp dụng các nghĩa vụ mới như trừng phạt và tước đoạt một số quyền, đồng thời yêu cầu thực hiện các nghĩa vụ bổ sung.

Trách nhiệm pháp lý trong vi phạm hợp đồng thương mại xảy ra khi có hành vi vi phạm, khiến bên vi phạm phải chịu hậu quả tài chính Bên vi phạm sẽ sử dụng tài sản của mình hoặc tài sản của doanh nghiệp để thực hiện nghĩa vụ nộp phạt, bồi thường thiệt hại và các chi phí liên quan Theo quy định pháp luật, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm thực hiện toàn bộ hoặc một phần trách nhiệm tài sản đối với mình.

Thứ ba, chế tài BTTH áp dụng trực tiếp đối với bên vi phạm

Khi vi phạm hợp đồng, bên vi phạm phải chịu trách nhiệm trực tiếp đối với bên bị vi phạm, bất kể nguyên nhân vi phạm do ai gây ra Trong thương mại, các bên thường có mối liên hệ chặt chẽ; ví dụ, khi X ký hợp đồng bán hàng với Y, Y lại tiếp tục bán cho M, và M bán cho N Nếu X vi phạm hợp đồng, điều này sẽ dẫn đến Y vi phạm hợp đồng với M, và M cũng sẽ vi phạm với N Do đó, việc vi phạm hợp đồng sẽ kéo theo các chế tài thương mại tương ứng.

M trong ví dụ trên sẽ phải chịu trách nhiệm trực tiếp đối với N do hành vi vi phạm hợp đồng, không cần xét đến nguyên nhân vi phạm từ X hay Y Bên vi phạm phải sử dụng tài sản của mình để nộp tiền phạt hoặc bồi thường thiệt hại Khi truy cứu trách nhiệm dân sự, bên bị vi phạm sẽ là chủ thể nhận bù đắp cho những thiệt hại mà bên vi phạm đã gây ra.

Điều kiện áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng

1.2.1 Các điều kiện tổng quát về việc áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng

Nghiên cứu về các điều kiện bồi thường thiệt hại (BTTH) do vi phạm hợp đồng hiện nay cho thấy có nhiều quan điểm khác nhau từ các luật gia Một số ý kiến cho rằng trách nhiệm pháp lý từ vi phạm hợp đồng dựa trên ba yếu tố: sự vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, lỗi của bên vi phạm, và mối quan hệ nhân quả giữa vi phạm và thiệt hại Theo Điều 303 của Luật Thương Mại 2005, trách nhiệm BTTH phát sinh khi có hành vi vi phạm hợp đồng, thiệt hại thực tế, và hành vi vi phạm là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại Nếu thiếu một trong các yếu tố này, bên vi phạm sẽ không phải chịu trách nhiệm bồi thường.

11 Nguyễn Ngọc Khánh (2007), tlđd (5), tr.355

Một yếu tố quan trọng trong việc áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại (BTTH) là lỗi của bên vi phạm Trong khi nhiều quốc gia không xem xét yếu tố lỗi để xác định trách nhiệm bồi thường, pháp luật Việt Nam lại coi đây là một căn cứ quan trọng Theo Điều 363 BLDS 2015, nếu thiệt hại xảy ra do một phần lỗi của bên bị vi phạm, bên vi phạm chỉ phải bồi thường tương ứng với mức độ lỗi của mình Điều này cho thấy pháp luật Việt Nam vẫn xem xét yếu tố lỗi trong việc xác định trách nhiệm và mức độ BTTH Yếu tố lỗi được xác định theo nguyên tắc suy đoán lỗi, tức là khi có vi phạm, có thể suy đoán bên vi phạm hợp đồng Nếu bên vi phạm cho rằng mình không có lỗi, họ phải chứng minh điều đó trong quá trình thực hiện hợp đồng.

Giá trị bồi thường thiệt hại (BTTH) bao gồm tổn thất thực tế và trực tiếp mà bên bị vi phạm phải gánh chịu, cùng với khoản lợi mà họ đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm Số tiền yêu cầu BTTH sẽ bao gồm hai phần: tổn thất thực tế trực tiếp và lợi ích bị mất do vi phạm hợp đồng Bên yêu cầu bồi thường có trách nhiệm chứng minh mức độ tổn thất và phải thực hiện các biện pháp hợp lý để hạn chế thiệt hại Nếu không thực hiện các biện pháp này, bên vi phạm có quyền yêu cầu giảm giá trị BTTH tương ứng với mức tổn thất có thể hạn chế được.

1.2.2 Yếu tố hành vi vi phạm hợp đồng

Hành vi vi phạm hợp đồng là cơ sở pháp lý áp dụng các hình thức chế tài Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng chỉ phát sinh khi có hành vi vi phạm, tức là hành vi trái pháp luật và không tuân thủ các thỏa thuận trong hợp đồng.

12 Điều 303, Luật Thương mại năm 2005

13 Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2015

14 Điều 302, Luật Thương mại năm 2005

Điều 305 của Luật Thương mại năm 2005 quy định về hành vi vi phạm pháp luật, bao gồm việc không thực hiện nghĩa vụ mà pháp luật yêu cầu, thực hiện hành vi bị cấm, hoặc tiến hành hoạt động vượt quá giới hạn cho phép.

Vi phạm nghĩa vụ là khi bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng hạn, không đầy đủ hoặc không đúng nội dung của nghĩa vụ Bộ luật Dân sự yêu cầu các bên phải thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ của mình, và việc thực hiện không đúng, không đầy đủ hoặc chậm trễ đều được coi là vi phạm Các bên không chỉ cần thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng mà còn phải tuân thủ các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật Quan điểm này phản ánh nguyên tắc tự do ý chí trong luật hợp đồng, nhưng sự khắt khe này không phải lúc nào cũng là giải pháp tốt cho mối quan hệ giữa các bên Do đó, việc xác định hành vi có phải là vi phạm hợp đồng hay không cần dựa vào các điều khoản trong hợp đồng và quy định pháp luật liên quan.

1.2.3 Yếu tố thiệt hại thực tế

Thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thể hiện sự suy giảm giá trị tài sản của cá nhân, được đo lường qua những tổn thất thực tế và có thể quy đổi thành tiền mà người đó phải chịu.

Căn cứ để áp dụng chế tài buộc bồi thường thiệt hại (BTTH) là thiệt hại thực tế trực tiếp do vi phạm hợp đồng gây ra Trong khi đó, đối với các hình thức chế tài khác, thiệt hại thực tế không phải là yếu tố bắt buộc, mà có thể được xem xét như một tình tiết để xác định mức độ nghiêm trọng của chế tài Bản chất của BTTH là yêu cầu bên vi phạm phải bù đắp tổn thất vật chất mà họ đã gây ra, và mức bồi thường sẽ phụ thuộc vào thiệt hại thực tế mà bên bị vi phạm phải chịu.

16 Trường Đại học Luật Hà Nội, tlđd (3), tr 206

17 Khoản 1, Điều 351, Bộ luật Dân sự năm 2015

Để yêu cầu bên vi phạm hợp đồng bồi thường, trước tiên cần phải có thiệt hại xảy ra Bên bị vi phạm phải chứng minh được thiệt hại của mình, bao gồm mức độ thiệt hại và tính toán thiệt hại đó bằng các phương pháp xác định cụ thể.

Thiệt hại thực tế được chia thành hai loại: thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp Thiệt hại trực tiếp là những tổn thất khách quan dễ dàng xác định và tính toán, bao gồm giá trị tài sản bị mất, hư hỏng hoặc thiếu hụt do hành vi vi phạm gây ra Chi phí hợp lý để khắc phục thiệt hại, ngăn chặn tổn thất và lợi nhuận bị bỏ lỡ cũng được tính là thiệt hại trực tiếp Việc chậm thanh toán các khoản tiền hàng và phí dịch vụ phát sinh quyền đòi lãi chậm trả, trừ khi có thỏa thuận khác Chỉ những thiệt hại liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp mới được bồi thường, trong khi thiệt hại đối với tài sản phi pháp sẽ không được xem xét Thiệt hại phải có tính xác định và có thể dự đoán được.

Bên bị vi phạm chỉ được bồi thường những thiệt hại trong phạm vi pháp luật quy định, bao gồm giá trị tổn thất thực tế và trực tiếp mà họ phải chịu do hành vi vi phạm gây ra, cùng với khoản lợi mà họ lẽ ra được hưởng nếu không có hành vi vi phạm.

1.2.4 Yếu tố mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại do hành vi đó gây ra

Không phải mọi hành vi vi phạm hợp đồng đều dẫn đến thiệt hại, nhưng một số hành vi vi phạm có thể gây ra nhiều khoản thiệt hại khác nhau.

19 Ngô Huy Cương (2013), tlđd (2), tr 404

Theo Điều 302 của Luật Thương mại năm 2005, thiệt hại có thể phát sinh từ nhiều nguyên nhân và hành vi khác nhau, không phải mọi vi phạm nghĩa vụ đều dẫn đến trách nhiệm hợp đồng Trong lĩnh vực pháp lý, khái niệm "nguyên nhân – kết quả" được sử dụng để xác định mối quan hệ giữa hành vi vi phạm và thiệt hại Thiệt hại chỉ được coi là kết quả tất yếu của hành vi vi phạm khi hành vi đó có khả năng gây ra thiệt hại trong những điều kiện cụ thể Bên vi phạm hợp đồng chỉ phải bồi thường thiệt hại khi thiệt hại đó là hệ quả trực tiếp của hành vi vi phạm, theo quy định của pháp luật thương mại.

Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại thực tế là điều tất yếu, trong đó hành vi vi phạm là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thiệt hại Thiệt hại chỉ xảy ra sau khi có hành vi vi phạm, nếu thiệt hại xảy ra trước đó thì không thể coi đó là kết quả của hành vi vi phạm Do không tồn tại mối quan hệ nhân quả trong trường hợp này, bên có quyền không thể dựa vào thiệt hại trước đó để yêu cầu bồi thường thiệt hại từ bên vi phạm.

Quan hệ nhân quả là một khái niệm phức tạp, thường bị các nhà lập pháp tránh đưa vào luật Trong một số trường hợp, mối quan hệ giữa hành vi vi phạm và thiệt hại rất rõ ràng và dễ xác định Tuy nhiên, cũng có những tình huống mà thiệt hại xảy ra không chỉ do một hành vi duy nhất, mà có thể do nhiều hành vi vi phạm từ nhiều chủ thể khác nhau gây ra.

Hợp đồng thương mại và chế định bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng

1.3.1 Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng thương mại

Hợp đồng là thuật ngữ pháp lý chỉ các giao dịch dân sự thông qua thỏa thuận chuyển giao lợi ích giữa cá nhân và tổ chức, tạo ra quyền và nghĩa vụ giữa các bên Trong cổ luật và các chế độ pháp luật trước đây, giao dịch này được gọi là “văn tự” hoặc “văn khế”.

Hợp đồng đóng vai trò thiết yếu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với chức năng cơ bản quyết định bản chất và giá trị xã hội của nó Tại Việt Nam, pháp luật hiện hành chưa đưa ra khái niệm cụ thể về hợp đồng thương mại, mà chỉ định nghĩa chung về hợp đồng Theo Bộ luật Dân sự năm 2015, hợp đồng được hiểu là sự thỏa thuận giữa các bên nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự.

Quyền và nghĩa vụ dân sự theo hợp đồng bao gồm các quyền và nghĩa vụ từ quan hệ thương mại, trong đó hợp đồng thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng dân sự với những đặc điểm riêng Mối quan hệ giữa hợp đồng dân sự và thương mại được hiểu là giữa cái chung và cái riêng Các vấn đề cơ bản trong hợp đồng thương mại như giao kết, nguyên tắc thực hiện, và xử lý hợp đồng vô hiệu được điều chỉnh bởi pháp luật mà không khác biệt so với hợp đồng dân sự thông thường Tuy nhiên, một số vấn đề cụ thể như chủ thể, hình thức, quyền và nghĩa vụ các bên, cùng với giải quyết tranh chấp hợp đồng được quy định trong các lĩnh vực cụ thể, phản ánh sự phát triển của các quy định truyền thống về hợp đồng.

Nghiên cứu quy định pháp luật, có thể nhận diện hợp đồng thương mại với một số đặc điểm sau:

Hợp đồng thương mại chủ yếu được thiết lập giữa các chủ thể kinh doanh, bao gồm thương nhân là tổ chức kinh tế hợp pháp và cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh Trong một số trường hợp, cả hai bên tham gia hợp đồng đều cần phải là thương nhân, như trong hợp đồng đại diện, hợp đồng đại lý thương mại và hợp đồng dịch vụ quảng cáo Tuy nhiên, cũng có những trường hợp chỉ yêu cầu ít nhất một bên là thương nhân, chẳng hạn như hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa, hợp đồng dịch vụ bán đấu giá, hợp đồng môi giới thương mại, hợp đồng dịch vụ xây dựng và hợp đồng bảo hiểm Đặc biệt, trong một số tình huống, các chủ thể giao kết hợp đồng không nhất thiết phải là thương nhân, ví dụ như những người kinh doanh lưu động có thu nhập thấp mà không đăng ký kinh doanh.

Hợp đồng thương mại được hình thành dựa trên sự thỏa thuận giữa hai bên, có thể được thể hiện qua lời nói, văn bản hoặc hành động cụ thể.

Hợp đồng thương mại chủ yếu nhằm mục đích sinh lợi, nhưng không phải lúc nào cũng vậy Trong nhiều trường hợp, một bên trong hợp đồng có thể không hướng tới lợi nhuận và vẫn có thể áp dụng các quy định của pháp luật thương mại Cụ thể, theo Khoản 3, Điều 1 Luật Thương mại năm 2005, nếu một bên không nhằm mục đích sinh lợi trong giao dịch với thương nhân tại Việt Nam, họ có quyền chọn áp dụng Luật Thương mại làm cơ sở pháp lý khi xảy ra tranh chấp.

26 Điều 6, Luật Thương mại năm 2005

Luật Thương mại là một nguồn quan trọng điều chỉnh các giao kết thương mại và quyền lợi giữa các thương nhân trong hoạt động kinh doanh, được xây dựng dựa trên các nguyên tắc chung của Bộ luật Dân sự Luật này cụ thể hóa các quy định để phù hợp với đối tượng điều chỉnh của pháp luật thương mại Ngoài các hợp đồng thuộc sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại, Việt Nam còn có nhiều luật chuyên ngành như Luật Kinh doanh Bảo hiểm, Luật Xây dựng, và Luật Các tổ chức tín dụng, yêu cầu các hợp đồng này phải tuân thủ không chỉ các quy định của Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại mà còn các quy định của pháp luật chuyên ngành liên quan.

Bồi thường thiệt hại là trách nhiệm của bên vi phạm trong việc bồi hoàn tổn thất mà hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm Chế định bồi thường thiệt hại chủ yếu nhằm khôi phục lợi ích vật chất cho bên bị thiệt hại Khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, bên vi phạm sẽ phải bồi thường theo quy định pháp luật, và mức bồi thường phải dựa trên các căn cứ pháp lý đã được quy định.

1.3.2 Căn cứ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại

Nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật dân sự, yêu cầu các bên phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự Trách nhiệm dân sự là hậu quả pháp lý tiêu cực xảy ra khi bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ Bồi thường thiệt hại, một loại trách nhiệm dân sự, cần được áp dụng dựa trên các căn cứ pháp lý quy định, trong đó có hành vi vi phạm hợp đồng.

Hành vi vi phạm hợp đồng là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc áp dụng các chế tài trong thương mại, bao gồm cả biện pháp thi hành án Theo Luật Thương mại năm 2005, vi phạm hợp đồng được định nghĩa là hành vi mà một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã thỏa thuận.

27 Điều 302, Luật Thương mại năm 2005

Theo Khoản 5, Điều 3 của Bộ luật Dân sự năm 2015, các bên trong hợp đồng không chỉ cần thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận mà còn phải tuân thủ các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, được gọi là các điều khoản thường lệ.

Để xác định hành vi vi phạm hợp đồng thương mại, cần chứng minh hai vấn đề chính: thứ nhất, sự tồn tại của hợp đồng hợp pháp giữa các bên, và thứ hai, hành vi vi phạm hợp đồng Hợp đồng hợp pháp là cơ sở phát sinh nghĩa vụ và là căn cứ quan trọng để xác định vi phạm Việc đối chiếu giữa thực tế thực hiện hợp đồng và các thỏa thuận hoặc quy định pháp luật liên quan là cần thiết để xác định chính xác hành vi vi phạm hợp đồng.

Hành vi vi phạm hợp đồng có thể xảy ra do nhiều yếu tố khác nhau, cả chủ quan lẫn khách quan, và cần phải dựa vào hợp đồng đã ký kết để xác định Bộ luật Dân sự (BLDS) và Luật Thương mại (LTM) không quy định cụ thể nội dung phải thỏa thuận, nhưng các bên trong từng loại hợp đồng có thể cần thỏa thuận về các điều khoản như đối tượng, số lượng, chất lượng, giá cả và phương thức thanh toán Việc thực hiện đúng các điều khoản trong hợp đồng là nghĩa vụ của các bên; nếu không thực hiện đúng hoặc đầy đủ, sẽ dẫn đến vi phạm hợp đồng và có thể bị truy cứu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng, có thể xảy ra các tình huống bất ngờ yêu cầu các bên sửa đổi hoặc bổ sung hợp đồng thông qua việc ký kết các phụ lục, qua fax hoặc telex Những tài liệu thỏa thuận này có giá trị pháp lý tương đương hợp đồng chính và là căn cứ xác định nghĩa vụ thực hiện của các bên Ngoài ra, bên bị vi phạm cần chứng minh thiệt hại thực tế đã xảy ra.

29 Khoản 12, Điều 3, Luật Thương mại năm 2005

Thiệt hại được định nghĩa là tổn thất liên quan đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, và các quyền lợi hợp pháp khác được pháp luật bảo vệ Từ góc độ khoa học pháp lý, thiệt hại là sự suy giảm của tài sản và các giá trị nhân thân mà pháp luật bảo vệ.

PHẠM HỢP ĐỒNG THEO LUẬT THƯƠNG MẠI

Ngày đăng: 12/07/2021, 11:02

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
6. Dương Anh Sơn – Nguyễn Ngọc Sơn (2007), “Tác động của các hình thức lỗi đến việc xác định trách nhiệm hợp đồng nhìn từ góc độ nguyên tắc trung thực và thiện chí”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 1, tr. 18 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tác động của các hình thức lỗi đến việc xác định trách nhiệm hợp đồng nhìn từ góc độ nguyên tắc trung thực và thiện chí”, "Tạp chí Khoa học pháp lý
Tác giả: Dương Anh Sơn – Nguyễn Ngọc Sơn
Năm: 2007
9. G. Rouhette (Chủ biên) (2008), “Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng -Societe de lesgislation compraree”, Alexa Publishsing, Paris Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng -Societe de lesgislation compraree
Tác giả: G. Rouhette (Chủ biên)
Năm: 2008
19. Nguyễn Minh Oanh (2010), “Khái niệm chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phân loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại”, truy cập ngày 26/8/2018 từ.https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2010/04/05/4702-2/ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khái niệm chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phân loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Tác giả: Nguyễn Minh Oanh
Năm: 2010
21. S.S. Alêcseev, “Lý luận chung về chủ nghĩa xã hội”, xuất bản lần thứ II, SVEDLOSK, 1964 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lý luận chung về chủ nghĩa xã hội
1. Bộ luật Dân sự (Số 91/2015/QH13) ngày 24/11/2015 Khác
2. Bộ luật Dân sự (Số 33/2005/QH11) ngày 14/6/2005 Khác
3. Bộ Tư pháp – Viện Khoa học pháp lý (Biên dịch) (2003), Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ, Hà Nội Khác
4. Bộ Tư pháp – Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa và Nxb. Tư pháp Khác
5. Bộ luật Hàng hải (Số 95/2015/QH13) ngày 15/11/2015 Khác
7. Đỗ Văn Đại (2016), Luật BTTH ngoài hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Tập 1, Nxb. Hồng Đức Khác
8. Đỗ Văn Đại (2010), Luật Hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Nxb. Chính trị Quốc gia Khác
10. Luật Hàng không dân dụng Việt Nam (Số 66/2006/QH11) ngày 29/6/2006 Khác
12. Luật Thương mại (Số 36/2005/QH11) ngày 14/6/2005 Khác
13. Luật Xây dựng (Số 50/2014/QH13) ngày 18/6/2014 Khác
14. Liên hợp Quốc (1980), Công ước Viên về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế Khác
16. Ngô Huy Cương (2013), Giáo trình Luật Hợp đồng – Phần chung, Nxb Đại học Khác
17. Nguyễn Ngọc Khánh (2007), Chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội Khác
18. Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng (2007), Luật dân sự Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh Khác
20. Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế (Số 24-LCT/HĐNN8) ngày 25/9/1989 Khác
22. Trần Ngọc Thành (2013), Một số vấn đề về thực hiện nguyên tắc bồi thường trong chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 22, tr.13 Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w