1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Áp dụng án lệ trong xét xử các vụ án dân sự tại tòa án (luận văn thạc sỹ luật)

60 12 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Áp Dụng Án Lệ Trong Xét Xử Các Vụ Án Dân Sự Tại Tòa Án
Tác giả Nguyễn Minh Ngọc
Người hướng dẫn PGS.TS Nguyễn Thị Hồng Nhung
Trường học Đại học quốc gia thành phố hồ chí minh
Chuyên ngành Luật Kinh tế
Thể loại luận văn thạc sĩ luật
Năm xuất bản 2019
Thành phố TP. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 60
Dung lượng 717,02 KB

Cấu trúc

  • 1. Tính cấp thiết của đề tài (6)
  • 2. Tình hình nghiên cứu (7)
  • 3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài (9)
  • 4. Phương pháp nghiên cứu (9)
  • 5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn (9)
  • 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn (9)
  • 7. Kết cấu của luận văn (10)
  • CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ÁN LỆ (11)
    • 1.1. Khái niệm án lệ (11)
    • 1.2. Đặc điểm cơ bản của Án lệ (14)
    • 1.3. Cơ sở pháp lý cho việc áp dụng án lệ trong quá trình xét xử (19)
    • 1.4. Nguyên tắc áp dụng án lệ trong xét xử, giải quyết vụ việc dân sự (22)
  • CHƯƠNG 2 THỰC TIỄN ÁP DỤNG ÁN LỆ TẠI TÒA ÁN (31)
    • 2.1. Thực tiễn áp dụng án lệ trong việc xét xử tại Tòa án các cấp (31)
    • 2.2. Đề xuất và kiến nghị (51)

Nội dung

Tính cấp thiết của đề tài

Án lệ là một nguồn pháp luật quan trọng trên toàn thế giới, và việc áp dụng án lệ rất phổ biến ở nhiều quốc gia, trong đó có Anh.

Nguyên tắc "Stare decisis" đã được áp dụng rộng rãi tại nhiều quốc gia như Mỹ, Hà Lan, Australia và Indonesia, yêu cầu tuân theo các phán quyết đã có để tạo ra tiền lệ cho các vụ án tương tự Nguyên tắc này không chỉ giúp giải quyết các vụ án cụ thể mà còn đảm bảo sự bình đẳng trong xét xử, giúp các bên tham gia như Thẩm phán, luật sư và doanh nhân dự đoán được kết quả của tranh chấp Điều này góp phần tiết kiệm thời gian, chi phí và công sức cho xã hội bằng cách sử dụng các tình huống đã được giải quyết làm căn cứ cho các quyết định pháp lý Do đó, án lệ ngày càng trở thành một phần quan trọng trong hệ thống pháp luật toàn cầu.

Án lệ tại Việt Nam không phải là khái niệm mới, đã xuất hiện và được áp dụng từ các triều đại phong kiến, thời kỳ Pháp thuộc đến thời kỳ Mỹ chiếm đóng trước năm 1975, đóng một vai trò nhất định trong hệ thống pháp luật Tuy nhiên, chỉ đến năm 2005, án lệ mới chính thức được công nhận trong hệ thống pháp luật, khi việc áp dụng pháp luật gặp nhiều bất cập và tồn tại, với nhiều cách hiểu khác nhau Thực tế, pháp luật không thể dự liệu hết các quan hệ tranh chấp mới phát sinh, dẫn đến những quan hệ pháp luật cần điều chỉnh nhưng chưa có quy định cụ thể, hoặc có sự chồng chéo và mâu thuẫn giữa các văn bản quy phạm pháp luật.

Nghị quyết số 48/NQ/TW và Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị xác định rõ nhiệm vụ của Tòa án nhân dân tối cao trong việc tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ, cũng như thực hiện xét xử giám đốc thẩm và tái thẩm Những định hướng này nhằm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 và 2020.

Hiến pháp năm 2013 quy định rằng Tòa án nhân dân tối cao có trách nhiệm tổng kết thực tiễn xét xử nhằm đảm bảo áp dụng thống nhất pháp luật Luật Tổ chức TAND năm 2014 nhấn mạnh việc lựa chọn các quyết định giám đốc thẩm và bản án đã có hiệu lực pháp luật để phát triển thành án lệ, giúp các Tòa án nghiên cứu và áp dụng trong xét xử Ngày 28/10/2015, Nghị quyết số 03/2015/NQ – HĐTP được ban hành, quy định quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ, chính thức đưa án lệ vào hệ thống pháp luật Việt Nam Từ đó, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã thông qua 27 án lệ tại Việt Nam.

Án lệ đã được công nhận là một nguồn trong hệ thống pháp luật Việt Nam, nhưng việc áp dụng trong xét xử các vụ án còn gặp nhiều khó khăn Quy trình tuyển chọn và tiêu chí lựa chọn án lệ cần được thực hiện một cách cẩn thận, trong khi một số án lệ đã không còn phù hợp với thực tiễn xét xử Thêm vào đó, quá trình rà soát và phát triển án lệ diễn ra chậm, không đáp ứng kịp thời với nhu cầu thực tiễn Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài “Áp dụng án lệ trong xét xử các vụ án dân sự tại Tòa án” cho luận văn nghiên cứu, nhằm tập trung vào lý luận chung về án lệ, việc áp dụng án lệ trong thực tiễn xét xử và đưa ra các kiến nghị để hoàn thiện quy trình này.

Tình hình nghiên cứu

Quá trình nghiên cứu về án lệ cho thấy nhiều công trình, bài viết và tạp chí đã đề cập đến vấn đề này, nhưng chưa có văn bản pháp luật nào điều chỉnh trực tiếp cho đến khi Nghị quyết số 03/2015/NQ – HĐTP được ban hành vào ngày 28/10/2015, quy định quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ Một số bài viết tiêu biểu như "Có nên xử theo án lệ" của Vi Trần - Thanh Tùng, và các bài từ Tạp chí nhà nước và pháp luật về án lệ từ năm 2010 đã làm nổi bật những khía cạnh khác nhau của vấn đề này Ngoài ra, các nghiên cứu như của Dương Bích Ngọc và Nguyễn Thị Thúy về khả năng áp dụng án lệ tại Việt Nam, cùng với luận văn của Đoàn Mạnh Hùng về án lệ trong hệ thống nguồn pháp luật, cũng đóng góp vào cuộc thảo luận Các tác giả như Nguyễn Văn Hiện và Nguyễn Văn Nam cũng đã có những nghiên cứu sâu sắc về nguồn luật án lệ trong các hệ thống pháp luật khác nhau và những kiến nghị cho Việt Nam, làm phong phú thêm tài liệu về án lệ.

“Sự cần thiết áp dụng án lệ tại Việt Nam”

Vào ngày 28/10/2015, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 03/2015/NQ – HĐTP, quy định quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ Nghị quyết này thu hút sự quan tâm của nhiều chuyên gia, giảng viên, sinh viên và đặc biệt là các Thẩm phán, những người trực tiếp áp dụng quy định để giải quyết vụ án Tuy nhiên, các bài viết hiện tại chủ yếu chỉ dừng lại ở việc đánh giá và bình luận mà chưa phân tích sâu về thực tiễn áp dụng án lệ tại Tòa án Do đó, nghiên cứu đề tài "Áp dụng án lệ trong việc xét xử các vụ án dân sự tại Tòa án" sẽ không trùng lặp với các nghiên cứu khác, nhằm chỉ ra những bất cập và đề xuất hướng hoàn thiện cho hệ thống án lệ.

Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài

Mục đích của luận văn là hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến việc áp dụng, viện dẫn, sửa đổi, bổ sung và hủy bỏ án lệ tại Việt Nam, nhằm tạo cơ sở cho việc giải quyết các vụ án tại Tòa án Đối tượng nghiên cứu bao gồm các vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc áp dụng án lệ tại Việt Nam, cùng với các kiến nghị nhằm cải thiện hệ thống án lệ.

Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào việc áp dụng án lệ trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án, đồng thời đánh giá thực tiễn áp dụng án lệ và đưa ra một số kiến nghị nhằm cải thiện quy trình này.

Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả đã vận dụng các phương pháp pháp phân tích, tổng hợp trong việc áp dụng án lệ.

Những đóng góp mới về khoa học của luận văn

Bài viết tổng quan về án lệ, phân tích cách áp dụng án lệ trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án Tác giả đưa ra các đề xuất và kiến nghị nhằm khắc phục những vướng mắc trong thực tiễn, từ đó tạo cơ sở cho việc xét xử các vụ án trong tương lai.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn này đã hệ thống hóa án lệ tại Việt Nam, đồng thời cung cấp những nhận xét, đánh giá và phân tích khoa học độc lập.

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo hữu ích cho việc áp dụng án lệ tại Tòa án Đề tài và hướng nghiên cứu này có thể đóng góp đáng kể vào việc nghiên cứu án lệ như một nguồn quan trọng của pháp luật, cũng như trong cách viện dẫn và áp dụng trong thực tiễn.

Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì phần nội dung của luận văn gồm 02 chương:

Chương 1: Lý luận chung về việc áp dụng án lệ tại Tòa án

Chương 2: Thực tiễn áp dụng án lệ tại Tòa án.

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ÁN LỆ

Khái niệm án lệ

Án lệ, theo định nghĩa của từ điển Black’s Law, là hành động của Tòa án trong việc công nhận và áp dụng các quy tắc mới trong quá trình xét xử Những vụ việc đã được giải quyết sẽ tạo cơ sở cho các phán quyết trong những trường hợp có tình tiết hoặc vấn đề tương tự sau này.

Án lệ, theo từ điển luật học Anh, là bản án hoặc quyết định của Tòa án được sử dụng để làm minh chứng cho một quyết định trong vụ việc tương tự sau này.

Án lệ, theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, được định nghĩa là quyết định hoặc bản án của tòa án cấp trên, có giá trị bắt buộc đối với tòa án cấp dưới Điều này có nghĩa là các tòa án cấp dưới phải tuân thủ các quyết định trước đó của tòa án cấp trên Tuy nhiên, tại Mỹ, Tòa án tối cao không xem mình có trách nhiệm tuân thủ các án lệ đã ban hành.

Án lệ, theo Từ điển Luật học, được định nghĩa là bản án đã tuyên hoặc sự giải thích, áp dụng pháp luật, được coi là tiền lệ để các Thẩm phán có thể tham khảo và áp dụng trong các trường hợp tương tự sau này.

Theo Từ điển Luật học của hệ thống pháp luật Anh - Mỹ, án lệ được hiểu theo hai nghĩa Nghĩa hẹp của án lệ bao gồm tất cả các quyết định và bản án của Tòa án, có giá trị như nguồn luật, thiết lập các nguyên tắc áp dụng cho các vụ việc tương tự trong tương lai Nghĩa rộng hơn, án lệ là các nguyên tắc bắt buộc mà các Thẩm phán phải tuân thủ khi xét xử các vụ việc cụ thể.

1 Bryan A Garner (2004), Black’s Law Dictionary, 9 th , West Group, pp 1295

2 Tiểu mục 1 phụ lục 1 – Án lệ và một số khái niệm tương đồng ,Quyết định số 74/QĐ – TANDTC ngày

31/10/2012 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về việc phê duyệt đề án “phát triển án lệ của Tòa án nhân dân tối cao

3 Từ điển Bách khoa Việt Nam, Tập 1, Trung tâm biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam, Hà nội, 1995, trang 46

Các bản án và vụ việc trước đó, đặc biệt là phán quyết từ các Tòa cấp cao, Tòa phúc thẩm và Tòa án tối cao, đóng vai trò quan trọng trong việc xác định nguyên tắc pháp lý Những nguyên tắc này không chỉ dựa trên luật định mà còn được hình thành từ các quyết định tư pháp và các quy tắc bất thành văn đã được công nhận.

Xem xét các khái niệm trên ta có thể hiểu tổng quát về án lệ như sau:

Án lệ là tập hợp các tiền lệ xét xử được lựa chọn bởi cơ quan thẩm quyền từ những bản án thực tiễn, tạo thành mẫu để các thẩm phán tham khảo và áp dụng trong các vụ án sau.

Theo Nghị quyết số 03/2015/NQ – HĐTP ngày 28/10/2015 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, "Án lệ" được định nghĩa là những lập luận và phán quyết trong bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, được lựa chọn bởi Hội đồng Thẩm phán và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố Những án lệ này sẽ được các Tòa án nghiên cứu và áp dụng trong quá trình xét xử.

Án lệ và tiền lệ pháp là hai thuật ngữ khác nhau nhưng đều chỉ về một khái niệm chung Một số ý kiến cho rằng án lệ chính là tiền lệ pháp, vì cả hai đều phát sinh từ cơ quan tư pháp và được hình thành trong quá trình xét xử Tuy nhiên, tiền lệ pháp được hiểu là một hình thức pháp luật, trong khi án lệ lại chỉ nguồn của pháp luật, mà nguồn này cũng chính là hình thức pháp luật Các từ điển tiếng Anh cũng có những cách diễn giải tương tự cho hai thuật ngữ này.

Án lệ Việt Nam, cùng với các văn bản pháp luật tham chiếu và một số nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, được trình bày trong cuốn sách của Nguyễn Cao Thanh Ngân, xuất bản năm 2016 bởi Nxb Dân trí.

6 Nguyễn Linh Giang (2005), Án lệ trong hệ thống pháp luật của các nước trên thế giới” Tạp chí nhà nước và pháp luật (12), tr65

7 Nghị quyết số 03/2015/NQ – HĐTP ngày 28/10/2015 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao những kết quả tương tự nhau

Án lệ là quyết định của Toà án có thể được áp dụng cho các vụ việc tương tự trong tương lai, cung cấp quy định hoặc quyền lực cho các quyết định pháp lý Nguyên tắc từ vụ việc đầu tiên có thể được sử dụng cho các sự kiện khác nhau nhưng có tính chất tương đồng.

Án lệ là bản án hoặc quyết định của Toà án, chứa đựng nguyên tắc pháp lý Nguyên tắc này thường được xem như mẫu chuẩn cho các phán quyết trong những trường hợp cụ thể Mặc dù một quyết định cụ thể có tính bắt buộc đối với các bên liên quan, nhưng nó cũng tóm tắt nguyên tắc pháp lý áp dụng cho phán quyết đó, chỉ có hiệu lực pháp luật trong phạm vi của trường hợp đó.

Một vụ việc được công nhận là án lệ khi có quy định chung, điều này là cần thiết để đảm bảo rằng các quyết định thực tế không bị biến dạng trong các trường hợp phụ.

Án lệ thường được chấp nhận và tôn trọng không chỉ vì nó thể hiện một logic ổn định, mà còn vì từ các phần của nó có thể phát sinh những ý tưởng mới cho các quyết định pháp lý.

Hiện nay, có nhiều khái niệm về án lệ, nhưng chúng đều tương đồng về nội dung, chỉ khác nhau ở cách diễn đạt Án lệ có thể được định nghĩa là “hệ thống các quy phạm, nguyên tắc do Thẩm phán hình thành và áp dụng trong quá trình xét xử” Trong hệ thống thông luật, án lệ mang tính bắt buộc đối với các vụ việc tương tự, trong khi trong hệ thống Dân luật, án lệ có tính thuyết phục, định hướng cho Thẩm phán trong việc giải quyết các vụ việc khi chưa có quy phạm pháp luật cụ thể.

8 Dương Bích Ngọc,Nguyễn Thị Thúy (2007), Án lệ và khả năng áp dụng án lệ tại Việt Nam, đề tài nghiên cứu khoa học, tr10.

Đặc điểm cơ bản của Án lệ

Án lệ là các bản án và quyết định của Tòa án, trong đó phản ánh cách thức và quan điểm chung mà Tòa án áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp luật.

Án lệ có mối quan hệ chặt chẽ với Thẩm phán, vì nó được tạo ra bởi Thẩm phán để giải quyết các vụ việc cụ thể Mặc dù án lệ là một nguồn của pháp luật, nhưng nó vẫn được xem là thấp hơn so với luật thành văn, nhằm hạn chế quyền lực của Thẩm phán và ngăn chặn lạm quyền Một bản án chỉ được coi là án lệ khi nó tuân thủ một quy trình nhất định, cho thấy rằng không phải tất cả các bản án đều có thể trở thành án lệ Điều này nhấn mạnh tính đặc biệt của quy phạm do Thẩm phán sáng tạo, vừa giải quyết vụ việc cụ thể vừa có khả năng khái quát hóa cho các trường hợp tương tự trong tương lai.

Án lệ cần có tính nhắc lại, nghĩa là khi một bản án được công nhận là án lệ, nó sẽ trở thành khuôn mẫu cho các vụ việc tương tự và sẽ được áp dụng nhiều lần trong tương lai.

Án lệ có tính bắt buộc, nghĩa là các bản án phải được coi là khuôn mẫu cho các vụ việc tương tự, không chỉ là tài liệu tham khảo Điều này yêu cầu các Thẩm phán phải áp dụng án lệ trong xét xử, tương tự như việc họ phải viện dẫn các quy phạm pháp luật thành văn tại Việt Nam.

Thứ năm, tính tương tự của án lệ là yếu tố quan trọng, bởi một bản án hoặc quyết định có giá trị án lệ sẽ là cơ sở cho Tòa án cấp dưới áp dụng khi xét xử các vụ án tương tự Cơ sở này có thể mang tính chất bắt buộc hoặc chỉ mang tính chất tham khảo.

Luận án tiến sĩ của Nguyễn Văn Nam (2011) nghiên cứu lý luận và thực tiễn về án lệ trong hệ thống pháp luật của Anh, Mỹ, Pháp, Đức, đồng thời đưa ra những kiến nghị áp dụng cho Việt Nam Tài liệu này được thực hiện tại Đại học Luật Hà Nội và góp phần làm sáng tỏ vai trò của án lệ trong việc phát triển hệ thống pháp luật hiện đại.

10 Nguyễn Linh Giang (2005) “Án lệ trong hệ thống pháp luật một số nước trên thế giới, tạp chí nhà nước và pháp luật, (05), tr 16

Án lệ là những lập luận giúp làm rõ các quy định pháp luật, thường có những cách hiểu khác nhau Trong trường hợp của Nguyễn Linh Giang, có sự tương đồng về tình tiết, sự kiện cơ bản và vấn đề pháp lý.

Loại án lệ này được ban hành nhằm đảm bảo sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật khi các văn bản quy phạm pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu xét xử Thực tế cho thấy có nhiều trường hợp thiếu sự đồng nhất giữa các cơ quan tố tụng và giữa các cơ quan này với đương sự trong việc áp dụng quy định pháp luật, dẫn đến khó khăn trong việc giải quyết vụ việc dân sự Một số quy định còn thiếu chi tiết hoặc chỉ dừng lại ở nguyên tắc chung, trong khi các văn bản hướng dẫn thi hành vẫn còn mâu thuẫn hoặc không phù hợp với quy định hiện hành Để khắc phục tình trạng này, Thẩm phán và Hội đồng xét xử sẽ lựa chọn phương pháp phân tích phù hợp để giải thích nội dung và phạm vi áp dụng của các quy định, từ đó đưa ra phán quyết cho từng vụ việc cụ thể.

Trong trường hợp bản án hoặc quyết định được chọn để phát triển án lệ, những lập luận và lý giải đã nêu sẽ trở thành án lệ Các ví dụ dưới đây sẽ làm rõ hơn về nội dung của loại án lệ này.

Khái niệm “trở ngại khách quan” không tính vào thời hiệu khởi kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 161 Bộ luật Dân sự năm 2005 rất quan trọng trong vụ án dân sự liên quan đến việc chia tài sản thừa kế Trong trường hợp này, nguyên đơn đã đề nghị chia tài sản thừa kế do ông nội để lại, điều này cho thấy sự cần thiết phải hiểu rõ các yếu tố ảnh hưởng đến thời hiệu khởi kiện.

Trong vụ án giữa nguyên đơn Đặng Thị Thơm và bị đơn Nguyễn Đình Phong, nguyên đơn đã khởi kiện yêu cầu quản lý và sử dụng tài sản để lại sau khi chết Bị đơn phản đối với lý do thời hiệu khởi kiện đã hết, dẫn đến việc Tòa án huyện A, tỉnh B quyết định đình chỉ vụ án Tuy nhiên, nguyên đơn đã kháng cáo, cho rằng thời hiệu khởi kiện vẫn còn hiệu lực Hội đồng xét xử của Tòa án tỉnh B đã chấp nhận kháng cáo, hủy quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để tiếp tục giải quyết HĐXX cấp phúc thẩm đã đưa ra lý do hủy quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm.

Tòa án nhận định rằng nguyên đơn không thể liên lạc với bị đơn do bị đơn từ chối tiếp xúc, dẫn đến việc nguyên đơn không biết ông nội đã qua đời Đây là trở ngại khách quan khiến nguyên đơn không thể nộp đơn khởi kiện chia di sản thừa kế Theo quy định tại khoản 1 Điều 161 BLDS 2005, thời gian gặp trở ngại này sẽ không được tính vào thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế theo Điều 645 BLDS 2005.

Lập luận của Tòa án tỉnh B đã làm rõ khái niệm “trở ngại khách quan” theo Điều 161 BLDS năm 2005 trong một trường hợp cụ thể, tạo thành án lệ cho các vụ việc dân sự tương tự sau này Án lệ này chỉ ra rằng, trong thời gian chấp hành án phạt tù, nếu người chấp hành không nộp đơn khởi kiện chia di sản thừa kế trước khi hết thời hiệu khởi kiện, thì thời gian chấp hành án được coi là thời gian xảy ra trở ngại khách quan Điều này áp dụng khi người chấp hành đã cố gắng liên lạc với người thân nhưng không có kết quả và không có nguồn thông tin khác về việc người để lại tài sản đã qua đời Án lệ giúp phân tích và giải thích các vấn đề pháp lý, làm cơ sở cho Tòa án chỉ ra nguyên tắc và quy phạm pháp luật cần áp dụng.

Loại án lệ này được thiết lập khi có các vụ việc dân sự mà pháp luật chưa quy định hoặc các bên không có thỏa thuận Tòa án sẽ áp dụng Điều 3 của Bộ luật Dân sự năm 2005, lựa chọn tập quán hoặc quy định tương tự để đưa ra phán quyết Cách giải quyết này cũng được khẳng định trong các văn bản pháp luật khác như Luật Thương mại và Luật Hàng hải Theo Điều 5 và Điều 6 của Bộ luật Dân sự năm 2015, nếu các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định, có thể áp dụng tập quán; nếu không có tập quán, thì áp dụng quy định tương tự của pháp luật; nếu không thể áp dụng tương tự, thì sử dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ và lẽ công bằng Điều 4 khoản 2 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 quy định rằng Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự chỉ vì chưa có điều luật áp dụng, và việc giải quyết phải tuân theo các nguyên tắc do Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định.

Trong trường hợp Tòa án đưa ra lập luận và biện giải về việc lựa chọn tập quán hoặc các quy định tương tự của pháp luật, cũng như thực hiện phân tích và diễn giải về luận thuyết, điều này cho thấy sự chú trọng đến việc áp dụng các nguyên tắc pháp lý một cách hợp lý và minh bạch.

Cơ sở pháp lý cho việc áp dụng án lệ trong quá trình xét xử

Thuật ngữ “án lệ” lần đầu tiên được đề cập trong Nghị quyết số 48-NQ/TW của Đảng về cải cách pháp luật ở Việt Nam, cụ thể tại tiểu mục 1.7 Mục III Nghị quyết này nhấn mạnh việc nghiên cứu khả năng khai thác và sử dụng án lệ, tập quán, cùng với các quy tắc từ hiệp hội nghề nghiệp, nhằm bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật.

15 tiểu mục 1.7 Mục III, nghị quyết số 48 –NQ/TW

Tiểu mục 2.2 Mục II Nghị quyết số 49-NQ/TW quy định nhiệm vụ cải cách tư pháp, trong đó Tòa án nhân dân tối cao có trách nhiệm tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và thực hiện xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm Những quy định này khẳng định vai trò quan trọng của án lệ, thể hiện qua việc các Tòa án nhân dân tham khảo Quyết định của các Tòa chuyên trách và Quyết định của HĐTP Tòa án nhân dân tối cao, đồng thời thông qua việc tổng kết kinh nghiệm và phát hành Quyết định của HĐTP đến các Tòa án cấp dưới.

Quyết định số 74/QĐ-TANDTC ngày 31 tháng 10 năm 2012 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã phê duyệt đề án “Phát triển tiền án lệ của Tòa án nhân dân tối cao”, nhằm hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét xử và nâng cao trách nhiệm của Thẩm phán trong công tác xét xử Quyết định này cũng nhấn mạnh việc tăng cường sử dụng án lệ trong thực tiễn xét xử và thành lập bộ phận chuyên trách để luyện tập án lệ.

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được ban hành vào ngày 28 tháng 11 năm 2013, là văn bản có giá trị cao nhất, quy định tại khoản 3 Điều 104 rằng “Tòa án nhân dân tối cao thực hiện việc tổng kết thực tiễn xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử”.

Luật tổ chức Tòa án nhân dân số 62/2014/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2014 của Quốc hội khóa XIII cũng đã chính thức thừa nhận tại điểm c khoản 2 Điều 22 rằng:

Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có trách nhiệm lựa chọn quyết định giám đốc thẩm và các bản án đã có hiệu lực pháp luật, nhằm đảm bảo tính chuẩn mực cho hoạt động của các Tòa án.

16 tiểu mục 2.2 Mục II Nghị quyết số 49-NQ/TW

17 Quyết định số 74/QĐ-TANDTC ngày 31 tháng 10 năm 2012 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao

18 khoản 3 Điều 104 Hiến pháp năm 2013 tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu và áp dụng trong xét xử” 19

Ngoài ra, khoản 2 Điều 6 BLDS số 91/2015/QH13 ngày 24 tháng 11 năm

Năm 2015, Quốc hội khóa XIII đã khẳng định vai trò quan trọng của án lệ trong hệ thống pháp lý Việt Nam thông qua khoản 3 Điều 45 Bộ luật Dân sự số 92/2015/QH13 Điều này nêu rõ rằng trong trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật, cần phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và xem xét án lệ cũng như lẽ công bằng.

Án lệ được Tòa án áp dụng trong giải quyết các vụ việc dân sự khi đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn và được công bố bởi Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao.

Theo Điều 2 Nghị quyết số 03/2015/HĐTP của HĐTP Tòa án nhân dân tối cao ngày 28 tháng 10 năm 2015, án lệ được định nghĩa là những lập luận giúp làm rõ các quy định pháp luật có nhiều cách hiểu khác nhau Án lệ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc phân tích, giải thích các vấn đề và sự kiện pháp lý, đồng thời chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý và quy phạm pháp luật cần áp dụng.

Công văn số 146/TANDTC – PC ngày 11 tháng 07 năm 2017 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn việc viện dẫn và áp dụng án lệ trong xét xử, theo đúng Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP Khi giải quyết các vụ việc có án lệ, Thẩm phán và Hội thẩm cần nghiên cứu án lệ liên quan để quyết định việc áp dụng hay không Nếu áp dụng án lệ, cần ghi rõ số án lệ và bản án tương ứng.

19 điểm c khoản 2 Điều 22 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân số 62/2014/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2014 của Quốc hội khóa XIII

Theo khoản 2 Điều 6 của Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2015 và khoản 3 Điều 45 của Bộ luật Tố tụng Dân sự số 92/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015, các quy định pháp lý này được Quốc hội khóa XIII thông qua nhằm điều chỉnh các vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên trong các giao dịch dân sự và quy trình tố tụng.

21 Điều 2 Nghị quyết số 03/2015 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

Công văn số 146/TANDTC – PC ngày 11 tháng 07 năm 2017 của Tòa án nhân dân tối cao quy định rằng các án lệ, cùng với các tình tiết và vấn đề pháp lý liên quan, phải được viện dẫn và phân tích trong phần “Nhận định của Tòa án” Trong từng trường hợp cụ thể, có thể trích dẫn nguyên văn các nội dung hạt nhân của án lệ nhằm làm rõ quan điểm của Tòa án trong việc xét xử và giải quyết các vụ việc tương tự.

Nguyên tắc áp dụng án lệ trong xét xử, giải quyết vụ việc dân sự

Theo Điều 8 Nghị quyết 03/2015/NQ-HĐTP quy định nguyên tắc áp dụng án lệ trong xét xử như sau:

Án lệ sẽ được nghiên cứu và áp dụng trong quá trình xét xử sau 45 ngày kể từ ngày công bố hoặc được ghi trong quyết định công bố án lệ của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Trong quá trình xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm cần nghiên cứu và áp dụng án lệ để giải quyết các vụ việc tương tự Điều này đảm bảo rằng những vụ việc có tình tiết và sự kiện pháp lý giống nhau được xử lý một cách nhất quán và công bằng.

Để áp dụng án lệ, cần xác định hai vấn đề quan trọng: các tình tiết khách quan và vấn đề pháp lý trong vụ việc dân sự có tương đồng với những gì đã được giải quyết trong bản án chứa án lệ hay không Trong quá trình nghiên cứu và áp dụng án lệ, cần chú ý đến những yếu tố này để đảm bảo tính chính xác và hiệu quả.

Nguồn gốc của sự giống nhau giữa các vụ án dân sự thường xuất phát từ việc tranh chấp hoặc yêu cầu phát sinh từ cùng một loại quan hệ dân sự Tuy nhiên, thực tế cho thấy không có vụ việc dân sự nào có các tình tiết khách quan hoàn toàn giống nhau Do đó, việc áp dụng án lệ chỉ nên được xem xét trong bối cảnh các tình tiết cụ thể của từng vụ việc.

Theo Điều 8 Nghị quyết 03/2015/NQ-HĐTP, việc áp dụng án lệ trong xét xử vụ việc dân sự chỉ được thực hiện khi các tình tiết khách quan cơ bản của vụ việc đang giải quyết hoàn toàn tương đồng với các tình tiết trong bản án, quyết định có chứa đựng án lệ Các tình tiết này phản ánh mối quan hệ dân sự đang tranh chấp và là cơ sở cho yêu cầu của đương sự Nghiên cứu từ các học giả nước ngoài cho thấy, án lệ chỉ được áp dụng khi có sự tương đồng rõ ràng về các tình tiết chính Nếu các tình tiết này chỉ giống nhau một phần, thì không đủ điều kiện để áp dụng án lệ.

Trong mỗi vụ việc dân sự, các vấn đề pháp lý mà Tòa án phải giải quyết thường khác nhau, với những vấn đề đã được pháp luật quy định rõ ràng và những vấn đề chưa được quy định hoặc chưa đủ chi tiết Tòa án sẽ xác định và lựa chọn các quy định pháp luật phù hợp để áp dụng, hoặc đưa ra nguyên tắc xử lý nếu vấn đề pháp lý chưa được điều chỉnh và các bên không có thỏa thuận Theo Nghị quyết số 03/2015, án lệ chỉ được thiết lập để giải quyết các vấn đề pháp lý liên quan đến việc áp dụng quy định pháp luật có cách hiểu khác nhau hoặc trong trường hợp pháp luật chưa có quy định cụ thể.

Khi có án lệ, Thẩm phán và hội thẩm nhân dân cần so sánh vấn đề pháp lý trong vụ việc dân sự với vấn đề đã được giải quyết bằng án lệ để xác định sự tương đồng hoặc khác biệt, từ đó quyết định việc áp dụng án lệ Án lệ bao gồm hai loại: án lệ về áp dụng pháp luật nội dung và án lệ về áp dụng pháp luật tố tụng Tòa án sẽ áp dụng một trong hai loại án lệ này tùy thuộc vào từng vụ việc dân sự Tuy nhiên, việc phân loại án lệ chỉ mang tính tương đối, vì một số án lệ về pháp luật tố tụng có thể dựa trên các quy định của pháp luật nội dung Do đó, án lệ về pháp luật tố tụng cũng có thể được áp dụng cho các vụ việc dân sự khác nhau, miễn là yêu cầu pháp lý cần giải quyết tương tự với yêu cầu đã được án lệ giải quyết.

Tóm lại, để áp dụng được án lệ, thì vụ việc dân sự mà Tòa án đã thụ lý cần đáp ứng các điều kiện được phân tích sau:

Để áp dụng án lệ, giữa vụ việc đang giải quyết và án lệ cần có những tình tiết, sự kiện pháp lý tương đồng, bắt đầu từ việc chúng phải thuộc cùng một loại quan hệ dân sự Các tình tiết cơ bản của hai vụ việc dân sự cần phải giống nhau, phản ánh nội dung mối quan hệ dân sự đang tranh chấp hoặc yêu cầu giải quyết Mặc dù thực tế không có vụ việc nào hoàn toàn giống nhau, nhưng án lệ vẫn có thể được áp dụng khi "các tình tiết cơ bản" của vụ việc đang giải quyết tương tự với "các tình tiết cơ bản" trong bản án, quyết định có chứa đựng án lệ.

Án lệ số 04/2016/AL quy định rằng trong trường hợp nhà đất là tài sản chung của vợ chồng, nếu chỉ một bên ký hợp đồng chuyển nhượng mà bên còn lại không ký, nhưng có đủ chứng cứ cho thấy bên chuyển nhượng đã nhận đủ tiền và bên không ký biết và đồng ý với việc chuyển nhượng, thì việc chuyển nhượng vẫn được coi là hợp pháp Tác giả nhấn mạnh rằng đây là "tình tiết cơ bản của vụ việc", và nếu vụ việc đang giải quyết có tình huống tương tự, có thể áp dụng án lệ này.

Án lệ số 04/2016/AL trình bày một vụ tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu nhà và đất giữa bà Tý, ông Tiến và ông Ngự, bà Phấn Theo đơn khởi kiện ngày 05-11-2007, bà Tý và ông Tiến yêu cầu ông Ngự, bà Phấn trả lại toàn bộ nhà, đất mà họ đã chuyển nhượng, hiện đang bị ông Ngự và bà Phấn chiếm giữ Đồng thời, họ cũng yêu cầu dỡ bỏ phần xây dựng trái phép trên diện tích đất tranh chấp Nguyên đơn khẳng định quyền sở hữu theo hợp đồng chuyển nhượng ngày 26-4-1996, trong khi ông Ngự và bà Phấn cho rằng họ vẫn là chủ sở hữu hợp pháp của phần đất này vì chưa thực hiện việc chuyển nhượng cho bà Tý, ông Tiến.

Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chỉ xác định quan hệ pháp luật là vụ án tranh chấp quyền sở hữu nhà, đất, điều này chưa đầy đủ vì còn nhiều tình tiết và sự kiện pháp lý khác biệt liên quan đến quyền sở hữu tài sản và hợp đồng chuyển nhượng nhà, đất.

Án lệ số 04/2016/AL chỉ mang tính chất cung cấp thông tin, giúp người đọc hiểu rõ hơn về nội dung và ý nghĩa của án lệ Nội dung này không nhất thiết phải giống với vụ việc đang được giải quyết, mà chỉ là tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm.

Theo Nghị quyết số 03/2015/HĐTP, giữa vụ việc đang giải quyết và án lệ phải có sự tương đồng về vấn đề pháp lý Án lệ chỉ được xác lập để giải quyết các vấn đề pháp lý liên quan đến quy định cụ thể của pháp luật, đặc biệt khi có cách hiểu khác nhau hoặc cần xác lập nguyên tắc xử lý Người tiến hành tố tụng cần so sánh vấn đề pháp lý trong vụ việc dân sự với án lệ để xác định sự tương đồng, từ đó quyết định áp dụng án lệ Án lệ được chia thành hai loại: án lệ về áp dụng pháp luật nội dung và án lệ về áp dụng pháp luật tố tụng, và Tòa án sẽ áp dụng loại án lệ phù hợp với từng vụ việc dân sự cụ thể.

Tòa án có quyền không viện dẫn án lệ nếu án lệ không còn phù hợp do thay đổi pháp luật hoặc chuyển biến tình hình Nghị quyết 03/2015 quy định rằng Thẩm phán, Hội thẩm không áp dụng án lệ trong trường hợp này, nhưng điều này được cho là mơ hồ và khó hiểu Tác giả đề xuất Tòa án Tối cao nên xem xét bỏ quy định này để án lệ có thể phát huy hiệu quả tốt hơn.

Án lệ số 04/2016/AL quy định rằng quyền sở hữu tài sản được xác lập khi có sự chuyển giao quyền sở hữu theo thỏa thuận hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền Theo Điều 15 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản chung, và các giao dịch liên quan đến tài sản có giá trị lớn như mua bán, đổi, cho, vay, mượn phải có sự thỏa thuận của cả hai bên.

THỰC TIỄN ÁP DỤNG ÁN LỆ TẠI TÒA ÁN

Ngày đăng: 12/07/2021, 11:01

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Quốc hội (2005), BLDS số 33/2005/QH11, được Quốc hội thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005 Sách, tạp chí
Tiêu đề: ), BLDS số 33/2005/QH11
Tác giả: Quốc hội
Năm: 2005
2. Quốc hội (2015), BLDS số 91/2015/QH13, được Quốc hội thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2015 Sách, tạp chí
Tiêu đề: BLDS số 91/2015/QH13
Tác giả: Quốc hội
Năm: 2015
3. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng dân sự 92/2015/QH13, được Quốc hội thông qua ngày 25 tháng 11 năm 2015 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bộ luật Tố tụng dân sự 92/2015/QH13
Tác giả: Quốc hội
Năm: 2015
4. Quốc hội (2003), Luật về xây dựng số 16/2003/QH11, được Quốc hội thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật về xây dựng số 16/2003/QH11
Tác giả: Quốc hội
Năm: 2003
5. Quốc hội (2014), Luật Hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13, được Quốc hội thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2014 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật Hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13
Tác giả: Quốc hội
Năm: 2014
6. Quốc hội (2008), Luật Thi hành án dân sự số 26/2008/QH12, được Quốc hội thông qua ngày 14 tháng 11 năm 2008 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật Thi hành án dân sự số 26/2008/QH12
Tác giả: Quốc hội
Năm: 2008
7. Hội đồng Nhà nước (1991), Pháp lệnh Hợp đồng Dân sự, được Hội đồng Nhà nước thông qua ngày 29 tháng 4 năm 1991 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Pháp lệnh Hợp đồng Dân sự
Tác giả: Hội đồng Nhà nước
Năm: 1991
13. Đề tài nghiên cứu khoa học năm 2007 “Án lệ và khả năng áp dụng án lệ tại Việt Nam” của tác giả Dương Bích Ngọc và Nguyễn Thị Thúy Sách, tạp chí
Tiêu đề: Án lệ và khả năng áp dụng án lệ tại Việt Nam
14. Luận văn thạc sĩ của tác giả Đoàn Mạnh Hùng đề tài “Án lệ trong hệ thống các loại nguồn pháp luật” năm 2013 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Án lệ trong hệ thống các loại nguồn pháp luật
16. Luận án tiến sĩ luật học của Nguyễn Văn Nam “Lý luận và thực tiễn về hệ thống pháp luật của các nước Anh, Mỹ, Pháp, Đức, và những kiến nghị đối với Việt Nam” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lý luận và thực tiễn về hệ thống pháp luật của các nước Anh, Mỹ, Pháp, Đức, và những kiến nghị đối với Việt Nam
17. Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên “Sự cần thiết áp dụng án lệ tại Việt Nam” của tác giả Dương Bích Hạnh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sự cần thiết áp dụng án lệ tại Việt Nam
18. Bản án số 26/2017/DSST ngày 11/5/2017 “về việc tranh chấp đòi lại tài sản” của TAND huyện An Phú, tỉnh An Giang Sách, tạp chí
Tiêu đề: về việc tranh chấp đòi lại tài sản
8. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2015), Nghị quyết số 03/2015/NQ – HĐTP ngày 28/10/2015 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ Khác
9. Án lệ số 02/2016/AL Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Khác
10. Án lệ số 04/2016/AL Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Khác
11. Án lệ số 07/2016/AL Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA Khác
12. Án lệ số 08/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ- CA ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.B. Danh mục các tài liệu tham khảo Khác
15. Bài viết của Nguyễn Văn Hiện, Phó Trưởng Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương trên Tạp chí nhà nước và Pháp luật, ngày 07/10/2010: "Chưa sửa luật, vẫn có thể phát triển án lệ&#34 Khác
19. Bản án số 62/2018/DSST ngày 24/5/2018 về việc Tranh chấp chia thừa kế quyền sử dụng đất và công bố văn bản công chứng vô hiệu của TAND huyện An Phú, tỉnh An Giang Khác
20. Bản án số 92/2018/DSPT ngày 25/6/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng Bản án số 61/2017/ KDTM-ST ngày 3 tháng 8 năm 2017 của TAND quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w