1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Tác động của chính sách cổ tức đến chất lượng lợi nhuận của các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán thành phố hồ chí minh (luận văn thạc sỹ luật)

628 18 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 628
Dung lượng 2,02 MB

Cấu trúc

  • 1" ’ +

  • Ì1 -4

    • 2.1.2.1. Phương thức trả cổ tức bằng tiền mặt

    • 2.1.2.2. Phương thức trả cổ tức bằng cổ phiếu

    • 2.1.2.3. Phương thức trả cổ tức bằng tài sản

    • 2.1.2.4. Phương thức trả cổ tức thông qua mua lại cổ phần

    • 2.1.3.1. Chính sách lợi nhuận giữ lại thụ động

    • 2.1.3.2. Chính sách cổ tức tiền mặt ổn định

    • 2.3.1. Lý thuyết thông tin bất cân xứng (Asymetric Information)

    • 2.3.2. Lý thuyết đại diện (Agency theory)

    • 2.3.3. Lý thuyết trật tự phân hạng (The Pecking Oder theory)

    • 2.3.4. Lý thuyết tín hiệu (Signalling theory)

    • 2.4.1.1. Tính bền vững của lợi nhuận (Persistent)

    • 2.4.1.2. Chất lượng các khoản dồn tích (AAQ, AQ)

    • 2.4.1.3. Tính thông tin của lợi nhuận (ERC)

    • 2.4.2. Mối quan hệ giữa chính sách cổ tức và chất lượng lợi nhuận

    • 3.3.1. Biến phụ thuộc chất lượng lợi nhuận và cách đo lường

    • 3.3.2. Biến độc lập chính sách cổ tức tiền mặt và cách đo lường

    • 3.3.3. Các biến kiểm soát

    • 3.3.4.1. Mô hình nghiên cứu

    • Mô hình (I)

    • Mô hình (II)

    • Mô hình (III)

    • 3.3.4.2. Xây dựng giả thuyết nghiên cứu

    • 4.1.1. Chính sách cổ tức tiền mặt và tính bền vững của lợi nhuận (Persistent)

    • 4.1.2.1. Chính sách cổ tức tiền mặt và chất lượng các khoản dồn tích AAQ

    • 4.1.2.2. Chính sách cổ tức tiền mặt và chất lượng các khoản dồn tích AQ

    • 4.1.3. Chính sách cổ tức tiền mặt và tính thông tin của lợi nhuận (ERC)

    • 4.2.1. Thống kê mô tả

    • 4.2.2. Phân tích tương quan

    • 4.2.3.1. Kiểm định đa cộng tuyến

    • 4.2.3.2. Kiểm định lựa chọn phương pháp ước lượng phù hợp

    • 4.2.3.3. Kiểm định tự tương quan

    • 4.2.3.4. Kiểm định phương sai thay đổi

    • 4.2.5. Thảo luận kết quả nghiên cứu

    • 5.2.1.1. Xây dựng chính sách cổ tức hợp lý

    • 5.2.1.2. Gây dựng niềm tin của cổ đông thông qua chính sách cổ tức

    • 5.2.2.1. Xây dựng khuôn khổ pháp lý bảo vệ quyền lợi về cổ tức của cổ đông

    • 5.2.2.2. Nâng cao tính minh bạch của thị trường chứng khoán

    • 5.3.1. Hạn chế của đề tài nghiên cứu

    • 5.3.2. Hướng nghiên cứu tiếp theo

    • Mô hình (I)

      • 1. Thống kê mô tả

      • 2. Phân tích tương quan

      • 3. Kiểm định đa cộng tuyến

      • 4. Kiểm định hiện tượng tự tương quan

      • 5. Kiểm định hiện tượng phương sai thay đổi

      • 6. Kiểm định Breusch - Pagan LM test

      • 7. Kiểm định Hausman test

      • 8. Kết quả ước lượng mô hình (I) với phương pháp OLS

    • Mô hình (II.a)

      • 12. Thống kê mô tả

      • 13. Phân tích tương quan

      • 14. Kiểm định đa cộng tuyến

      • 15. Kiểm định hiện tượng tự tương quan

      • 16. Kiểm định hiện tượng phương sai thay đổi

      • 17. Kiểm định Breusch - Pagan LM test

      • 18. Kiểm định Hausman test

      • 19. Kết quả ước lượng mô hình (II.a) với phương pháp OLS

      • 20. Kết quả ước lượng mô hình (II.a) với phương pháp FEM

      • 21. Kết quả ước lượng mô hình (II.a) với phương pháp REM

      • 22. Kết quả ước lượng mô hình (II.a) sau khi đã khắc phục các vi phạm của mô hình

    • Mô hình (II.b)

      • 23. Thống kê mô tả

      • 24. Phân tích tương quan

      • 25. Kiểm định đa cộng tuyến

      • 26. Kiểm định hiện tượng tự tương quan

      • 27. Kiểm định hiện tượng phương sai thay đổi

      • 28. Kiểm định Breusch - Pagan LM test

      • 29. Kiểm định Hausman test

      • 30. Kết quả ước lượng mô hình (II.b) với phương pháp OLS

      • 31. Kết quả ước lượng mô hình (II.b) với phương pháp FEM

      • 32. Kết quả ước lượng mô hình (II.b) với phương pháp REM

      • 33. Kết quả ước lượng mô hình (II.b) sau khi đã khắc phục các vi phạm của mô hình

    • Mô hình (III)

      • 34. Thống kê mô tả

      • 35. Phân tích tương quan

      • 36. Kiểm định đa cộng tuyến

      • 37. Kiểm định hiện tượng tự tương quan

      • 38. Kiểm định hiện tượng phương sai thay đổi

      • 39. Kiểm định Breusch - Pagan LM test

      • 40. Kiểm định Hausman test

      • 41. Kết quả ước lượng mô hình (III) với phương pháp OLS

Nội dung

TỔNG QUAN VỀ NGHIÊN CỨU

Lý do nghiên cứu

Sau giai đoạn khủng hoảng kinh tế 2007 - 2008, nền kinh tế toàn cầu, bao gồm cả Việt Nam, đang phục hồi mạnh mẽ, nhưng các nhà đầu tư trở nên thận trọng hơn trong việc tìm kiếm cơ hội đầu tư Thông tin tài chính từ báo cáo tài chính hàng năm trở thành nguồn quan trọng để nhà đầu tư đánh giá doanh nghiệp, trong đó lợi nhuận là chỉ tiêu được chú ý hàng đầu Tuy nhiên, chất lượng lợi nhuận và tính trung thực của nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm sự kiểm soát và quản lý thông tin tài chính từ các nhân tố bên trong công ty Do đó, các nhà đầu tư hiện nay không chỉ quan tâm đến con số lợi nhuận mà còn chú trọng đến chất lượng lợi nhuận, với những doanh nghiệp có lợi nhuận bền vững và dòng tiền dương có khả năng chia cổ tức cho cổ đông sẽ mang lại thông tin giá trị cho họ.

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng cổ tức có thể là một công cụ hiệu quả để doanh nghiệp truyền tải thông tin về tình hình tài chính của mình đến thị trường Các mô hình dự báo cổ tức đã được phát triển nhằm phân tích mối quan hệ này.

1 thống cho thấy rằng một cổ tức tiết lộ thông tin về lợi nhuận trong tương lai (Pettit,

1972, Aharony và Swary, 1980, Asquith và Mullins, 1983, Aharony và Dotan,

1994) Sự gia tăng (hoặc suy giảm) trong cổ tức mang lại một tín hiệu tốt (hoặc xấu) về lợi nhuận trong tương lai của doanh nghiệp (Bhattacharya, 1979, John và

Williams, 1985, Miller và Rock, 1985, Arnott và Asness, 2003, Lukose và Rao,

Nghiên cứu năm 2004 chỉ ra rằng cổ tức có thể không cung cấp thông tin đáng tin cậy về lợi nhuận tương lai của doanh nghiệp Tuy nhiên, các nghiên cứu khác, như của DeAngelo và cộng sự năm 2006, lại cho thấy rằng cổ tức có nội dung thông tin yếu trong việc dự đoán lợi nhuận trong tương lai.

Các nghiên cứu của Benartzi và cộng sự (1997) cùng Brav và cộng sự (2005) chủ yếu tập trung vào mối quan hệ giữa cổ tức và lợi nhuận Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu khác tại các thị trường phát triển cũng chỉ ra sự liên quan giữa cổ tức và chất lượng lợi nhuận, như các công trình của Caskey và Hanlon (2005), Hanlon và cộng sự (2007), Chen và cộng sự (2007), Tong và Miao (2011), cũng như Skinner và Soltes (2011).

Trong những năm gần đây, tại Việt Nam đã xuất hiện nhiều nghiên cứu về chất lượng lợi nhuận Nghiên cứu của Lê Quang Minh và cộng sự (2015) chỉ ra rằng các khoản dồn tích có tính bền vững kém hơn dòng tiền, dẫn đến khả năng đảo chiều lợi nhuận kế toán trong tương lai Đồng thời, Dương Nguyễn Thanh Tâm (2013) đã phát hiện ra tác động của cấu trúc nợ đến chất lượng lợi nhuận của doanh nghiệp Ngoài ra, còn có nhiều nghiên cứu khác tập trung vào việc đánh giá chất lượng báo cáo tài chính và các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin tài chính thông qua chất lượng lợi nhuận.

Nghiên cứu về tác động của chính sách cổ tức đến chất lượng lợi nhuận doanh nghiệp tại Việt Nam vẫn còn hạn chế Do đó, tác giả quyết định thực hiện luận văn với đề tài “Tác động của chính sách cổ tức đến chất lượng lợi nhuận của các công ty niêm yết trên Sở Giao Dịch Chứng Khoán TP.HCM” Mục tiêu của nghiên cứu là tìm kiếm bằng chứng thực nghiệm về ảnh hưởng của chính sách cổ tức đến chất lượng lợi nhuận của các doanh nghiệp Nghiên cứu này sẽ giúp doanh nghiệp hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của chất lượng lợi nhuận, từ đó có thể hoạch định chiến lược phát triển dài hạn.

Thiết lập chính sách cổ tức hợp lý là yếu tố quan trọng giúp nâng cao vị thế doanh nghiệp trong tương lai Đối với nhà đầu tư, việc nhận thức rõ tầm quan trọng của chất lượng lợi nhuận và ảnh hưởng của chính sách cổ tức sẽ hỗ trợ họ trong việc đưa ra quyết định đầu tư chính xác hơn.

Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu là phân tích mối quan hệ giữa chính sách cổ tức tiền mặt và chất lượng lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết trên Sở Giao Dịch Chứng Khoán Thành phố Hồ Chí Minh, từ đó đưa ra các hàm ý chính sách cho việc xây dựng chính sách cổ tức của doanh nghiệp Để đạt được mục tiêu này, luận văn sẽ lần lượt giải quyết các câu hỏi nghiên cứu liên quan.

(1) Mức độ tác động của chính sách cổ tức tiền mặt đến chất lượng lợi nhuận của doanh nghiệp như thế nào?

(2) Các hàm ý chính sách cho các DN khi thực hiện chính sách cổ tức là gì?

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

1.3.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là mối quan hệ giữa chính sách cổ tức tiền mặt và chất lượng lợi nhuận của các doanh nghiệp được niêm yết trên Sở Giao Dịch Chứng Khoán Thành phố Hồ Chí Minh.

Nghiên cứu này tập trung vào các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên Sở Giao Dịch Chứng Khoán Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian 5 năm, từ năm 2018 đến năm 2022.

Từ năm 2012 đến 2016, mẫu dữ liệu không bao gồm các doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, cho thuê tài chính và quản lý quỹ, vì những ngành này có quy định lập và trình bày báo cáo tài chính không đồng nhất với các ngành khác trong mẫu.

Phương pháp nghiên cứu

Luận văn này sử dụng cách tiếp cận theo phương pháp hỗn hợp là cách kết

Luận văn kết hợp giữa phương pháp định tính và định lượng để nghiên cứu mối quan hệ giữa chính sách cổ tức và chất lượng lợi nhuận Phương pháp định tính xem xét các nghiên cứu trước về đo lường chất lượng lợi nhuận, đồng thời tổng quan lịch sử lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm liên quan Trong khi đó, phương pháp định lượng xây dựng các mô hình nghiên cứu và áp dụng các phương pháp hồi quy phù hợp để phân tích dữ liệu.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

Luận văn có các đóng góp mang tính khoa học cũng như thực tiễn như sau:

Luận văn tổng hợp các nghiên cứu về tác động của chính sách cổ tức đến chất lượng lợi nhuận, cả trên thế giới và tại Việt Nam, nhằm xây dựng mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của chính sách cổ tức bằng tiền đến chất lượng lợi nhuận của doanh nghiệp niêm yết tại Sở Giao Dịch Chứng Khoán Thành phố Hồ Chí Minh Nội dung chính của luận văn tập trung vào biến phụ thuộc chất lượng lợi nhuận, được tiếp cận từ hai góc độ: kế toán và thị trường Hai nhóm biến được sử dụng để đo lường chất lượng lợi nhuận bao gồm đặc tính lợi nhuận (tính bền vững và chất lượng các khoản dồn tích) và phản ứng của nhà đầu tư (tính thông tin của lợi nhuận).

Luận văn cung cấp bằng chứng thực nghiệm về ảnh hưởng của chính sách cổ tức bằng tiền đến chất lượng lợi nhuận tại thị trường Việt Nam, hữu ích cho các nhà quản trị doanh nghiệp, kiểm toán viên, nhà đầu tư, cơ quan ban hành chính sách, sở giao dịch chứng khoán và Ủy ban chứng khoán Nhà nước Kết quả nghiên cứu sẽ là tài liệu tham khảo quan trọng, hỗ trợ các bên liên quan trong việc đưa ra quyết định hiệu quả.

Điểm mới của đề tài

Gần đây, tại Việt Nam, nhiều nghiên cứu đã được thực hiện nhằm đánh giá chất lượng lợi nhuận của doanh nghiệp, đồng thời khảo sát tác động của các nhân tố liên quan.

Nghiên cứu về chất lượng lợi nhuận được thực hiện từ nhiều góc độ khác nhau, dựa trên công trình của Deng và cộng sự (2016), kết hợp giữa hai hướng tiếp cận: kế toán và thị trường Bài viết phân chia các biến thành hai nhóm: nhóm đầu tiên liên quan đến đặc tính lợi nhuận, bao gồm tính bền vững và chất lượng các khoản dồn tích; nhóm thứ hai liên quan đến phản ứng của nhà đầu tư, tức là tính thông tin của lợi nhuận Tại Việt Nam, hiện chưa có nhiều nghiên cứu về tác động của chính sách cổ tức tiền mặt đối với chất lượng lợi nhuận Do đó, luận văn này sẽ cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa chính sách cổ tức tiền mặt và chất lượng lợi nhuận trên thị trường Việt Nam.

Cấu trúc luận văn

và trình bày theo bố cục như sau:

Chương 1: Tổng quan về nghiên cứu Chương này giới thiệu chung về bài nghiên cứu nêu lên được lý do chọn đề tài; mục tiêu nghiên cứu; đối tượng, phạm vi nghiên cứu; cấu trúc của luận văn và điểm mới của luận văn.

Chương 2: Tổng quan lý thuyết

Bài viết này sẽ giới thiệu các lý thuyết và khái niệm quan trọng liên quan đến nghiên cứu, đồng thời tổng hợp các nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước về vấn đề này Từ đó, tác giả sẽ đưa ra lập luận cho hướng nghiên cứu của mình, nhằm làm rõ hơn về các khía cạnh cần thiết trong lĩnh vực nghiên cứu hiện tại.

Chương 3: Phương pháp và mô hình nghiên cứu.

Nghiên cứu của Deng và cộng sự (2016) đã xây dựng ba mô hình thực nghiệm nhằm đánh giá mối quan hệ giữa chính sách cổ tức tiền mặt và chất lượng lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam.

Chương 4: Kết quả thực nghiệm

Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu từ các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam để ước lượng các mô hình hồi quy, nhằm phân tích mối liên hệ giữa chính sách cổ tức tiền mặt và chất lượng lợi nhuận.

Chương 5: Kết luận và hàm ý chính sách:

Kết luận bài nghiên cứu và đưa ra các hàm ý chính sách

Nghiên cứu về tác động của chính sách cổ tức tiền mặt đến chất lượng lợi nhuận đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư, đặc biệt trong bối cảnh thị trường Việt Nam với tính minh bạch còn hạn chế Nhận thức được tính cấp thiết của vấn đề này, tác giả thực hiện luận văn với đề tài “Tác động của chính sách cổ tức đến chất lượng lợi nhuận của các công ty niêm yết trên Sở Giao Dịch Chứng Khoán TP.HCM”.

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là phân tích mối quan hệ giữa chính sách cổ tức tiền mặt và chất lượng lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết trên Sở Giao Dịch Chứng Khoán Thành phố Hồ Chí Minh Nghiên cứu tập trung vào giai đoạn 2012 - 2016, loại trừ các công ty sáp nhập, thiếu dữ liệu kế toán, và các công ty trong ngành tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, cho thuê tài chính, và quản lý quỹ Kết quả nghiên cứu kỳ vọng cung cấp cái nhìn sâu sắc cho các chuyên gia tài chính về tầm quan trọng của chất lượng báo cáo tài chính và chính sách cổ tức trong doanh nghiệp.

TỔNG QUAN LÝ THUYẾT

Cổ tức và chính sách cổ tức

2.1.1 Khái niệm cổ tức và chính sách cổ tức

Cổ tức (dividends) được hiểu là phần lợi nhuận sau thuế công ty dành để chi trả cho các cổ đông của công ty cổ phần (Miller và Modigliani, 1961).

Chính sách cổ tức là quy định về cách phân phối lợi nhuận của công ty, bao gồm việc giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư hoặc trả cho cổ đông.

Lợi nhuận giữ lại mang lại tiềm năng tăng trưởng lợi nhuận cho nhà đầu tư trong tương lai, trong khi cổ tức cung cấp lợi nhuận hiện tại Hội đồng quản trị dựa trên hoạt động sản xuất kinh doanh và chính sách cổ tức đã được thông qua để đề xuất mức cổ tức cho năm tiếp theo Cổ tức là phần lợi nhuận sau thuế mà công ty phân chia cho cổ đông dưới nhiều hình thức như tiền mặt, cổ phần, tài sản khác hoặc mua lại cổ phiếu Quyết định về cổ tức rất quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của cổ đông, chính sách tài trợ và đầu tư của công ty Một chính sách cổ tức hiệu quả cần được kết hợp hài hòa với chính sách đầu tư và tài trợ trong kế hoạch tài chính dài hạn, dựa trên phân tích dòng tiền dài hạn của công ty và hướng đến sự nhất quán trong chiến lược dài hạn.

2.1.2 Các phương thức chi trả cổ tức

Doanh nghiệp có nhiều lựa chọn về phương thức chi trả cổ tức, và quyết định này phụ thuộc vào lượng tiền mặt hiện có, nhu cầu tái đầu tư và các mục tiêu cụ thể của doanh nghiệp.

2.1.2.1 Phương thức trả cổ tức bằng tiền mặt

Cổ tức tiền mặt là khoản chi trả cho cổ đông theo tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá cổ phiếu, với mệnh giá được xác định trong giấy chứng nhận cổ phiếu theo quy định của công ty Các công ty có lợi nhuận thường chi trả cổ tức bằng tiền mặt, khoản tiền này được trích từ lợi nhuận sau khi đã lập quỹ theo quy định pháp luật và điều lệ công ty, đồng thời giữ lại một phần để tái đầu tư phát triển sản xuất.

2.1.2.2 Phương thức trả cổ tức bằng cổ phiếu

Trả cổ tức bằng cổ phiếu là hình thức chi trả thêm cổ phần thường cho các cổ đông, nhằm giữ lại lợi nhuận và củng cố nguồn tiền mặt của doanh nghiệp Hình thức này không làm thay đổi vốn cổ đông hay tài sản của công ty, mặc dù số lượng cổ phiếu sẽ tăng lên, nhưng tỷ lệ nắm giữ của các cổ đông cũ vẫn giữ nguyên Điều này giúp doanh nghiệp thúc đẩy đầu tư và sản xuất kinh doanh hiệu quả hơn.

Trả cổ tức bằng tiền mặt và cổ phiếu có sự khác biệt rõ rệt; trong khi cổ tức bằng tiền mặt làm giảm tài sản và lợi nhuận giữ lại, dẫn đến giảm vốn chủ sở hữu của cổ đông, thì cổ tức bằng cổ phiếu chỉ là sự chuyển đổi từ tài khoản lợi nhuận sang tài khoản vốn cổ phần của cổ đông mà không ảnh hưởng đến tổng tài sản.

2.1.2.3 Phương thức trả cổ tức bằng tài sản

Một công ty sở hữu chứng khoán từ các công ty khác có thể phân phối chứng khoán đó cho cổ đông như cổ tức, hoặc có thể trả cổ tức bằng sản phẩm của công ty Dù hiếm gặp, công ty cũng có khả năng trả cổ tức bằng tài sản.

2.1.2.4 Phương thức trả cổ tức thông qua mua lại cổ phần

Mặc dù không phải là phương thức chi trả cổ tức truyền thống, một số doanh nghiệp thay vì trả cổ tức bằng tiền mặt, sẽ thực hiện mua lại cổ phần đang lưu hành Việc mua lại này có thể được thực hiện qua nhiều hình thức khác nhau.

- Chào mua với giá cố định (hay còn gọi là giá đệm, là một mức giá thường cao hơn thị trường).

- Mua lại cổ phần ở thị trường tự do.

- Mua lại cổ phiếu theo hình thức đấu giá.

Mua lại cổ phiếu mục tiêu hoặc thương lượng riêng với những cổ đông lớn có thể làm tăng lợi nhuận trên mỗi cổ phần cho các cổ đông còn lại và nâng cao giá cổ phiếu Đối với các doanh nghiệp ổn định, việc trả cổ tức bằng tiền mặt thường được nhà đầu tư ưa chuộng hơn vì đó là nguồn thu nhập thực tế, phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp một cách tích cực.

Việc trả cổ tức bằng cổ phần có thể tạo ra gánh nặng tài chính cho công ty, đặc biệt khi gặp khó khăn về tiền mặt Do đó, phương pháp này thường được áp dụng bởi các công ty mới, đang trong giai đoạn tăng trưởng mạnh hoặc có kế hoạch phát triển tích cực và lạc quan về hiệu quả hoạt động trong tương lai.

2.1.3 Các chính sách chi trả cổ tức

Doanh nghiệp có nhiều phương thức chi trả cổ tức và chính sách cổ tức khác nhau để phù hợp với dòng tiền, lưu lượng tiền tệ và nhu cầu đầu tư Mặc dù chính sách cổ tức thường bị xếp ưu tiên thấp hơn chính sách tài trợ và đầu tư, nhưng việc lựa chọn chính sách này cần được xem xét cẩn thận vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của cổ đông và sự phát triển của công ty.

2.1.3.1 Chính sách lợi nhuận giữ lại thụ động

Chính sách lợi nhuận giữ lại khẳng định rằng doanh nghiệp nên giữ lại lợi nhuận khi có cơ hội đầu tư với tỷ suất sinh lời cao hơn mong đợi của cổ đông Nguyên lý này cho thấy các công ty tăng trưởng thường có tỷ lệ chi trả cổ tức thấp hơn so với các công ty đã bão hòa Điều này ngụ ý rằng việc chi trả cổ tức nên thay đổi hàng năm tùy thuộc vào cơ hội đầu tư Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp cố gắng duy trì cổ tức ổn định qua hai cách: giữ lại lợi nhuận cao trong những năm cần vốn và vay vốn để đáp ứng nhu cầu đầu tư, tránh cắt giảm cổ tức Khi có nhiều cơ hội đầu tư tốt, vay nợ sẽ là lựa chọn hợp lý hơn, và trong những năm tiếp theo, doanh nghiệp cần giữ lại lợi nhuận để điều chỉnh tỷ lệ nợ trên vốn cổ phần về mức hợp lý.

2.1.3.2 Chính sách cổ tức tiền mặt ổn định

Hầu hết các doanh nghiệp và cổ đông ưa chuộng chính sách cổ tức ổn định, thể hiện qua việc hạn chế giảm chi trả cổ tức từ kỳ này sang kỳ khác Tương tự, việc tăng tỷ lệ cổ tức thường bị trì hoãn cho đến khi giám đốc tài chính xác nhận rằng lợi nhuận tương lai đủ cao để hỗ trợ mức cổ tức lớn hơn Do đó, tỷ lệ cổ tức thường theo sau sự gia tăng lợi nhuận và thường bị trì hoãn trong một mức độ nhất định.

> Chính sách cổ tức có tỷ lệ chi trả không đổi

Nếu lợi nhuận của doanh nghiệp thay đổi nhiều từ năm này sang năm khác thì cổ tức cũng có thể dao động theo.

> Chính sách cho trả một cổ tức nhỏ hàng quý cộng với cổ tức thưởng thêm vào cuối năm

Chính sách cổ tức này phù hợp với các doanh nghiệp có lợi nhuận hoặc nhu cầu tiền mặt thay đổi theo từng năm Dù lợi nhuận có thấp, nhà đầu tư vẫn có thể kỳ vọng vào cổ tức ổn định; trong khi khi lợi nhuận cao và không cần sử dụng ngay, doanh nghiệp có thể công bố cổ tức thưởng cuối năm Điều này giúp ban quản trị linh hoạt trong việc giữ lại lợi nhuận khi cần, đồng thời đáp ứng mong muốn của nhà đầu tư về một mức cổ tức "đảm bảo".

2.1.4 Các chỉ tiêu đo lường chính sách cổ tức

Thông thường, chính sách cổ tức được đo lường bằng các chỉ tiêu sau đây:

Chỉ tiêu cổ tức một cổ phần thường (DPS) thể hiện mức thu nhập thực tế mà mỗi cổ phần nhận được từ hoạt động kinh doanh Cổ tức này được tính dựa trên phần trăm mệnh giá cổ phần hoặc có thể được xác định theo các phương pháp khác.

, A y Tống thu nhập CP thường dùng để chi trả cổ tức

Cỗ tức một CP thường = -— ' A ,,—„ - -—— -

Tong so CP thương đang lưu hành

Chất lượng lợi nhuận

2.2.1 Khái niệm chất lượng lợi nhuận

Chất lượng lợi nhuận được hiểu là một khái niệm đa chiều với nhiều định nghĩa khác nhau, như được nêu bởi Pratt (2000), cho rằng nó phản ánh sự khác biệt giữa thu nhập thuần trong báo cáo kết quả kinh doanh và thu nhập thực tế Ecker và các cộng sự (2006) cũng đóng góp vào quan điểm này về chất lượng lợi nhuận.

Sự đo lường rủi ro thông tin và định nghĩa chất lượng lợi nhuận liên quan đến độ chính xác cụ thể và việc phân tích dòng tiền tích lũy trong các năm hiện tại, trước đó và kế tiếp Theo Dechow, Ge và Schrand (2010), chất lượng lợi nhuận được định nghĩa dựa trên các tiêu chí này.

Cung cấp thông tin chi tiết về các tính năng tài chính của một công ty có thể ảnh hưởng lớn đến quyết định của người ra quyết định Những yếu tố này giúp đánh giá hiệu quả tài chính và đưa ra lựa chọn phù hợp cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.

Healy và Wahlen (1999) cho rằng báo cáo tài chính là công cụ quan trọng để nhà quản lý truyền tải thông tin về hoạt động kinh doanh đến nhà đầu tư Tuy nhiên, nhà đầu tư thường tin rằng các báo cáo này giúp họ phân biệt giữa doanh nghiệp hoạt động tốt và không tốt, dẫn đến việc nhà quản lý có thể can thiệp vào báo cáo để chỉ công bố thông tin có lợi cho họ, gây thiệt hại cho nhà đầu tư Các nguyên tắc kế toán hiện hành cho phép điều chỉnh báo cáo tài chính trong một phạm vi nhất định, tạo điều kiện cho nhà quản lý ghi nhận tình hình tài chính theo hướng có lợi Do đó, khả năng và công cụ mà nhà điều hành có để biến hóa lợi nhuận trên báo cáo tài chính có thể làm sai lệch đánh giá của nhà đầu tư về hoạt động doanh nghiệp, khiến cho chất lượng lợi nhuận trong báo cáo tài chính ngày càng được chú trọng.

Schipper và Vincent (2003) nhấn mạnh rằng chất lượng lợi nhuận cần được đánh giá từ hai góc độ: thứ nhất, theo khuôn mẫu kế toán của FASB, yêu cầu lợi nhuận phải thích hợp và đáng tin cậy; thứ hai, theo quan điểm thu nhập, cho rằng lợi nhuận kế toán phải phản ánh sự thay đổi thực sự về của cải Cấu trúc chất lượng lợi nhuận được hình thành từ mối quan hệ giữa thu nhập, biến kế toán dồn tích và tiền mặt, bao gồm tỷ lệ tiền từ hoạt động trên thu nhập, sự thay đổi trong tổng dồn tích, và ước tính trực tiếp mối quan hệ giữa biến kế toán dồn tích và tiền mặt, có thể điều chỉnh dựa trên các nguyên tắc cơ bản của kế toán.

Francis và các tác giả (2004) phân tích chất lượng lợi nhuận từ hai góc độ: kế toán và thị trường Theo góc độ thị trường, chất lượng lợi nhuận bao gồm tính thích hợp, thận trọng và kịp thời, được đánh giá thông qua mối quan hệ giữa lợi nhuận kế toán và phản ứng của thị trường hoặc giá thị trường Trong khi đó, theo góc độ kế toán, chất lượng lợi nhuận liên quan đến chất lượng dồn tích, khả năng dự báo, tính ổn định của thu nhập và sự nhất quán.

Dechow và Schrand (2004) cho rằng chất lượng lợi nhuận được đánh giá từ báo cáo tài chính và phải phản ánh chính xác giá trị nội tại của công ty Để đạt được chất lượng lợi nhuận cao, cần có ba thuộc tính: phản ánh hiệu quả hiện tại, dự đoán hiệu quả tương lai và hữu ích trong việc đánh giá giá trị của công ty.

Theo Bellovary và các tác giả (2005), chất lượng lợi nhuận phụ thuộc vào sự trung thực của các con số báo cáo, phản ánh "lợi nhuận thực" của công ty và tính hữu dụng của những con số này trong việc dự báo lợi nhuận tương lai Hơn nữa, chất lượng lợi nhuận còn bị ảnh hưởng bởi tính ổn định và thời gian duy trì của lợi nhuận được báo cáo Đặc biệt, một số nghiên cứu cho thấy rằng việc đo lường chất lượng lợi nhuận dựa trên cơ sở kế toán có sức mạnh giải thích vượt trội hơn so với dựa trên cơ sở thị trường (Francis).

Nghiên cứu của LaFond và Ohlson (2004) chỉ ra rằng chất lượng lợi nhuận có thể được đánh giá qua các yếu tố thị trường, trong khi một số nghiên cứu khác, như của Perotti và Wagenhofer (2010) cùng Ewert, lại cho thấy rằng đánh giá dựa trên cơ sở kế toán có thể mang lại kết quả trái ngược.

Wagenhofer, 2011) Do đó, trong nghiên cứu này, tác giả ủng hộ quan điểm xem xét chất lượng lợi nhuận trên cả hai cơ sở kế toán và thị trường.

2.2.2 Đo lường chất lượng lợi nhuận

Theo phương pháp kế toán, các nghiên cứu về chất lượng lợi nhuận thường tập trung vào các đặc tính của lợi nhuận, bao gồm tính bền vững của lợi nhuận và các biến kế toán dồn tích bất thường.

Abnormal accruals can significantly impact earnings stability, which is crucial for assessing a company's financial health Additionally, the concept of earnings smoothness plays a vital role in understanding how consistently a company reports its profits Asymmetric timeliness and timely loss recognition are essential factors that influence financial reporting, as they highlight the discrepancies in how companies recognize gains and losses Establishing benchmarks is important for evaluating performance and ensuring transparency in financial statements.

Theo nghiên cứu của Deng và cộng sự (2016), chất lượng lợi nhuận được đo lường thông qua phản ứng của nhà đầu tư đối với lợi nhuận, sử dụng mô hình ERCs (Earnings Response Coefficient) Nghiên cứu phân chia các biến thành hai nhóm: nhóm đầu tiên liên quan đến các đặc tính của lợi nhuận, bao gồm tính bền vững của lợi nhuận và chất lượng các khoản dồn tích; nhóm thứ hai tập trung vào phản ứng của nhà đầu tư, cụ thể là tính thông tin của lợi nhuận.

Các lý thuyết liên quan

Các lý thuyết nền tảng nghiên cứu mối quan hệ giữa chính sách cổ tức và chất lượng lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm lý thuyết thông tin bất cân xứng, lý thuyết đại diện, lý thuyết trật tự phân hạng, lý thuyết tín hiệu, lý thuyết hợp đồng, lý thuyết chi phí chính trị và lý thuyết phụ thuộc nguồn lực Những lý thuyết này giúp hiểu rõ hơn về cách thức cổ tức ảnh hưởng đến sự minh bạch và độ tin cậy của lợi nhuận doanh nghiệp.

2.3.1 Lý thuyết thông tin bất cân xứng (Asymetric Information)

Lý thuyết thông tin bất cân xứng, phát triển bởi các nhà kinh tế học George Akerlof, Michael Spence và Joseph Stiglitz, chỉ ra rằng trong một giao dịch, một bên có thông tin vượt trội hơn bên còn lại, dẫn đến những hệ quả như lựa chọn bất lợi và rủi ro đạo đức Tình trạng này không chỉ gây thiệt hại cho các bên tham gia mà còn làm giảm phúc lợi xã hội, đặc biệt trong các thị trường chứng khoán mới nổi với tính minh bạch thông tin kém Nghiên cứu này kỳ vọng lý thuyết thông tin bất cân xứng sẽ giải thích mối quan hệ nghịch biến giữa chính sách cổ tức tiền mặt và tính thông tin của lợi nhuận, khi mà sự thiếu minh bạch trên thị trường làm cho chính sách cổ tức tiền mặt không còn là công cụ phát tín hiệu hiệu quả.

2.3.2 Lý thuyết đại diện (Agency theory)

Lý thuyết đại diện được xây dựng đầu tiên bởi Ross (1973), sau này được

Jensen và Meckling (1976) đã mở rộng lý thuyết về mối quan hệ giữa bên ủy nhiệm và bên được ủy nhiệm thông qua hợp đồng Theo lý thuyết này, bên được ủy nhiệm thực hiện các công việc thay mặt cho bên ủy nhiệm, bao gồm việc giao phó một mức độ thẩm quyền ra quyết định cho bên đại diện.

Lý thuyết đại diện cho rằng cả bên ủy nhiệm và bên đại diện đều có mục tiêu tối đa hóa lợi ích cá nhân, dẫn đến mâu thuẫn trong mối quan hệ này Bên đại diện thường được kỳ vọng hành động vì lợi ích của bên ủy nhiệm, nhưng họ cũng theo đuổi lợi ích riêng của mình Sự không đồng nhất này phát sinh chi phí đại diện, bao gồm chi phí đầu tư vào hệ thống kiểm soát để giảm thiểu thiếu thông tin và chi phí giảm thiểu rủi ro thông qua việc chia sẻ rủi ro với bên đại diện thông qua các biện pháp kích thích dựa trên kết quả đầu ra.

Mối quan hệ ủy nhiệm thể hiện rõ ràng trong hai tình huống quan trọng: thứ nhất, mối quan hệ giữa cổ đông và người quản lý doanh nghiệp; thứ hai, mối quan hệ giữa chủ nợ và các cổ đông của công ty.

Cổ đông bổ nhiệm ban giám đốc để tối đa hóa giá trị công ty và lợi ích của mình, nhưng đôi khi ban điều hành lại ưu tiên lợi ích cá nhân, ảnh hưởng đến cổ đông Việc cổ đông dựa vào thông tin tài chính như doanh thu và lợi nhuận để đánh giá nhà quản lý có thể dẫn đến việc các nhà quản lý can thiệp vào báo cáo tài chính nhằm phục vụ lợi ích riêng Do đó, cổ đông cần xây dựng chế độ đãi ngộ hợp lý và thiết lập cơ chế giám sát để hạn chế hành vi tư lợi của nhà quản trị.

Trong mối quan hệ giữa chủ nợ và cổ đông, chủ nợ cung cấp vốn cho công ty vay và thu hồi vốn cùng lãi suất sau một thời gian Tuy nhiên, có những rủi ro đối với chủ nợ, bao gồm việc công ty đầu tư vào các dự án có lợi nhuận cao nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro không hoàn trả khoản vay, và việc vay nhiều làm tăng đòn bẩy tài chính, tạo ra rủi ro cho cơ cấu vốn của công ty Những rủi ro này dẫn đến chi phí đại diện mà chủ nợ phải chịu, ảnh hưởng đến quyết định cho vay và lãi suất áp dụng Đánh giá rủi ro trước khi cho vay dựa vào các chỉ số trên báo cáo tài chính, và chủ nợ có thể yêu cầu các điều khoản ràng buộc về tỷ lệ chi trả cổ tức và danh mục đầu tư sử dụng vốn vay.

Phân tích lý thuyết đại diện cho thấy sự mâu thuẫn giữa bên ủy nhiệm và bên đại diện, trong đó bên đại diện thường hướng tới việc tối đa hóa lợi ích cá nhân, trái với mong đợi của bên ủy nhiệm Điều này có thể dẫn đến việc báo cáo tài chính không phản ánh trung thực tình hình hoạt động của công ty, gây khó khăn cho các đối tượng như cổ đông, nhà đầu tư, chủ nợ và các nhà phân tích tài chính trong việc đưa ra quyết định.

Nghiên cứu này chỉ ra rằng lý thuyết đại diện có thể giải thích mối quan hệ ngược chiều giữa chính sách cổ tức tiền mặt và chất lượng lợi nhuận, được đo lường qua các khoản dồn tích Ban quản trị doanh nghiệp, với động cơ tư lợi, có thể làm giảm chất lượng các khoản dồn tích Hơn nữa, lý thuyết này cũng cho thấy rằng sự không khiêm nhiệm giữa Chủ tịch HĐQT và Tổng giám đốc, cùng với quyền sở hữu cao của nhà quản lý, có thể dẫn đến chất lượng lợi nhuận tốt hơn Ngược lại, khi công ty có sự tập trung quyền sở hữu cao, tính độc lập của HĐQT lớn, và kế hoạch thưởng hiện hữu, chất lượng lợi nhuận sẽ thấp hơn.

2.3.3 Lý thuyết trật tự phân hạng (The Pecking Oder theory)

Lý thuyết trật tự phân hạng của Myers và Majluf (1984) cho rằng các nhà quản trị doanh nghiệp nắm nhiều thông tin hơn các nhà đầu tư bên ngoài, dẫn đến tình trạng bất cân xứng thông tin Do đó, họ ưu tiên sử dụng nguồn vốn nội bộ, chủ yếu là lợi nhuận giữ lại, trước khi phát hành nợ mới hay cổ phần mới Sự lựa chọn này phản ánh mức độ thông tin mà nhà quản trị có về doanh nghiệp và sự không chắc chắn về dòng tiền mặt trong tương lai Các doanh nghiệp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn sẽ thực hiện chính sách cổ tức tiền mặt thấp hoặc không chi trả cổ tức, từ đó giải thích mối quan hệ nghịch biến giữa chính sách cổ tức tiền mặt và chất lượng lợi nhuận của doanh nghiệp.

2.3.4 Lý thuyết tín hiệu (Signalling theory)

Lý thuyết tín hiệu dựa trên cơ sở đóng góp của hai nghiên cứu là Arrow

Lý thuyết tín hiệu, được đề xuất bởi (1972) và Schipper (1981), giải quyết vấn đề bất cân xứng thông tin giữa doanh nghiệp và nhà đầu tư Theo lý thuyết này, các công ty cần công bố thông tin một cách tự nguyện để tạo sự khác biệt về chất lượng hoạt động so với các đối thủ Các công ty có chất lượng cao thường chọn chính sách kế toán cho phép họ thể hiện ưu điểm vượt trội, từ đó ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư và nhà tài trợ Do đó, doanh nghiệp sẽ áp dụng chính sách kế toán phù hợp để cung cấp thông tin tối ưu về mình ra thị trường.

Nghiên cứu này sử dụng lý thuyết tín hiệu để giải thích mối quan hệ giữa chính sách cổ tức tiền mặt và chất lượng lợi nhuận doanh nghiệp Các công ty có chất lượng lợi nhuận cao thường áp dụng chính sách cổ tức tiền mặt như một tín hiệu về tiềm năng tăng trưởng, từ đó tạo ra mối tương quan tích cực giữa hai yếu tố này Hơn nữa, lý thuyết tín hiệu cho rằng công ty có khả năng thanh toán tốt, lợi nhuận cao và triển vọng phát triển mạnh sẽ có chất lượng báo cáo tài chính cao hơn Ngược lại, những công ty có đòn bẩy tài chính lớn có thể báo cáo lợi nhuận cao hơn thực tế để tạo tín hiệu tích cực với các bên cho vay, dẫn đến chất lượng lợi nhuận kém Cuối cùng, các công ty lâu đời hoặc có thời gian niêm yết dài thường muốn xây dựng uy tín sẽ có xu hướng lập báo cáo tài chính trung thực hơn.

Tổng quan các nghiên cứu liên quan

2.4.1 Mô hình đo lường chất lượng lợi nhuận Theo nghiên cứu của (Deng và cộng sự, 2016), có hai nhóm biến để đo lường chất lượng lợi nhuận Nhóm thứ nhất, thuộc về các đặc tính của lợi nhuận (properties of earnings), bao gồm biến tính bền vững của lợi nhuận (Persistent) và chất lượng các khoản dồn tích (Acrual Quality) Nhóm thứ hai, thuộc về phản ứng của nhà đầu tư với lợi nhuận, là biến tính thông tin của lợi nhuận (Earnings informativeness) Tương ứng với ba biến trên, có ba mô hình để đo lường như sau:

2.4.1.1 Tính bền vững của lợi nhuận (Persistent)

Tính bền vững của lợi nhuận là yếu tố quan trọng giúp nhà đầu tư đánh giá sự ổn định trong tăng trưởng lợi nhuận qua các năm và tỷ trọng đóng góp từ hoạt động kinh doanh chính Nhiều doanh nghiệp có thể ghi nhận lợi nhuận cao nhờ các khoản thu nhập bất thường từ đầu tư tài chính hoặc bất động sản, nhưng không có đảm bảo cho sự duy trì lợi nhuận trong tương lai Việc xác định tính bền vững của lợi nhuận giúp nhà đầu tư nhận diện sự ổn định của lợi nhuận qua các năm và các rủi ro tiềm ẩn Mô hình đo lường tính bền vững của lợi nhuận được nghiên cứu bởi Jagannathan, Stephens và Weisbach (2000) cung cấp cái nhìn sâu sắc về vấn đề này.

Naranjo, Nimalendran và Ryngaert (1998), Graham và Kurma (2006) như sau:

- , lần lượt là thu nhập mỗi cổ phần của công ty i năm t+1, năm t được điều chỉnh theo giá cổ phiếu của công ty i năm t+1 và năm t;

- là hệ số hồi quy và là phần dư của mô hình.

Mô hình (1) ước lượng hồi quy cho từng công ty trong khoảng thời gian 5 năm liên tục, từ đó thu được hệ số hồi quy tương ứng với thước đo Persistent cho năm gần nhất Sự gia tăng của chỉ số Persistent cho thấy tính bền vững và chất lượng lợi nhuận của công ty được cải thiện.

2.4.1.2 Chất lượng các khoản dồn tích (AAQ, AQ)

Việc chi trả cổ tức được cho là làm giảm dòng tiền tự do và hạn chế khả năng quản lý của các nhà quản lý, dẫn đến việc họ bị hạn chế trong các hành vi cơ hội.

Hành vi cơ hội của ban quản lý có thể làm giảm các tác động tùy ý lên báo cáo lợi nhuận, ảnh hưởng đến chất lượng các khoản dồn tích Chất lượng các khoản dồn tích càng cao, thì chất lượng lợi nhuận báo cáo càng thấp.

Theo Dechow và Dichev (2002), biến kế toán dồn tích có vai trò quan trọng trong việc dự đoán dòng lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh, khi nó phản ánh các khoản thu và chi tiền trong tương lai Chất lượng của các khoản dồn tích ảnh hưởng lớn đến khả năng dự đoán dòng tiền hoạt động trong tương lai, vì vậy, chất lượng lợi nhuận được đo lường thông qua chất lượng các khoản dồn tích (AAQ, AQ).

Chất lượng các khoản dồn tích được xác định thông qua giá trị tuyệt đối của phần dư và độ lệch chuẩn của phần dư trong phương trình hồi quy vốn lưu động dồn tích theo dòng tiền, như đã được nghiên cứu bởi Dechow và Dichev (2002) cùng với McNichols (2002) Mô hình này cung cấp một cách tiếp cận để đánh giá chất lượng các khoản dồn tích một cách chính xác.

- là tổng biến kế toán dồn tích công ty i trong năm t đã được điều chỉnh theo quy mô tổng tài sản.

- , , lần lượt là dòng tiền hoạt động của công ty i trong năm t-1, t và t+1.

- là thay đổi trong doanh thu của công ty i năm t, bằng doanh thu năm t trừ đi doanh thu năm t-1

- là tài sản cố định của công ty i năm t.

- là tổng tài sản của công ty i năm t-1.

- a1, a2, a3, a4, a5: Các hệ số hồi quy.

- si là phần dư của mô hình hồi quy công ty i trong năm t

Trong mô hình hồi quy, phần dư phản ánh sự biến đổi trong vốn lưu động dồn tích không được giải thích bởi dòng tiền và sự thay đổi trong doanh thu và tài sản cố định Giá trị tuyệt đối của phần dư (AAQ) cho mỗi quan sát thể hiện chất lượng các khoản dồn tích, trong khi thước đo độ lệch chuẩn của phần dư (AQ) được tính toán trong 5 năm Độ lệch chuẩn cao cho thấy chất lượng các khoản dồn tích kém, do đó, giá trị cao của AAQ và AQ chỉ ra rằng chất lượng lợi nhuận thấp.

2.4.1.3 Tính thông tin của lợi nhuận (ERC)

Chất lượng lợi nhuận được đo lường thông qua tính thông tin của lợi nhuận, cụ thể là mức độ phản ứng của nhà đầu tư đối với lợi nhuận, được thể hiện qua mô hình hệ số phản ứng lợi nhuận (ERC).

Ret i t = a + Pi X Earnings it + p 2 X AEarnings it + £

- là mức độ thông tin của lợi nhuận công ty i năm t.

- là tỷ suất sinh lợi đã điều chỉnh trong vòng 12 tháng của cổ phiếu của công ty i năm t.

- là thu nhập mỗi cổ phần của công ty i năm t đã điều chỉnh theo giá cổ phiếu cuối năm t-1.

- là thay đổi trong thu nhập mỗi cổ phần của công ty i năm t đã điều chỉnh theo giá cổ phiếu cuối năm t-1.

- , lần lượt là các hệ số hồi quy và là phần dư của mô hình

Mô hình (3) được dùng để ước lượng ERC cho mỗi công ty với các vòng chu kỳ 5 năm, được đo lường bằng hệ số từ mô hình hồi quy (3).

2.4.2 Mối quan hệ giữa chính sách cổ tức và chất lượng lợi nhuận Đề tài nghiên cứu về chính sách cổ tức và chất lượng lợi nhuận được xem xét ở nhiều hướng tiếp cận khác nhau và đưa đến các kết quả vẫn còn chưa thống nhất và đôi khi trái ngược nhau Một số tác giả xem xét mối quan hệ này theo hướng tiếp cận vai trò cung cấp thông tin về lợi nhuận của doanh nghiệp trong tương lai của cổ tức.

Healy và Palepu (1988) phát hiện rằng lợi nhuận tăng lên khi bắt đầu thanh toán cổ tức và giảm khi ngừng thanh toán, trong khi giá cổ phiếu phản ứng tích cực với thông báo chia cổ tức, được coi là dấu hiệu của sự thay đổi lợi nhuận trong tương lai Nissim và Ziv (2001) cũng khẳng định rằng sự thay đổi cổ tức mang lại thông tin quan trọng về lợi nhuận trong những năm tiếp theo Hanlon, Myers và Shevlin (2007) chứng minh rằng lợi tức cổ phiếu của các công ty trả cổ tức thường liên quan chặt chẽ đến lợi nhuận tương lai, giúp nhà đầu tư dự đoán dễ dàng hơn Tuy nhiên, Grullon và cộng sự (2005) lại cho rằng thay đổi cổ tức không cung cấp thông tin đáng tin cậy về lợi nhuận tương lai của doanh nghiệp.

Nhiều nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng cổ tức có thể cung cấp thông tin quan trọng về chất lượng lợi nhuận hiện tại Skinner và Soltes đã tham gia vào việc xem xét mối liên hệ này, làm nổi bật vai trò của cổ tức trong việc đánh giá hiệu suất tài chính của doanh nghiệp.

Nghiên cứu của Tong và Miao (2011) cho thấy rằng các công ty chi trả cổ tức có lợi nhuận ổn định hơn so với các công ty không chi trả Họ cũng chỉ ra rằng cổ tức cung cấp thông tin quan trọng về chất lượng lợi nhuận của công ty, với các công ty chi trả cổ tức thường có chất lượng lợi nhuận cao hơn Đặc biệt, mức chi trả cổ tức cao và tính ổn định của cổ tức có mối liên hệ tích cực với chất lượng lợi nhuận.

Cổ tức bằng tiền mặt có thể truyền tải thông tin giá trị và dự đoán lợi nhuận trong tương lai (2015) Khi doanh nghiệp không trả cổ tức bằng tiền mặt, cổ tức bằng cổ phiếu có thể đóng vai trò tương tự Nghiên cứu của Cheng, Fun và Leung (2009) cho thấy nhà đầu tư phản ứng tiêu cực với cổ tức bằng tiền mặt và ưa chuộng cổ tức bằng cổ phiếu hơn, vì cổ tức bằng cổ phiếu không làm giảm lượng tiền mặt của công ty, từ đó ảnh hưởng tích cực đến lợi nhuận.

Nghiên cứu của Chen, Jian và Xu (2009) chỉ ra rằng thị trường phản ứng tích cực với sự thay đổi cổ tức của doanh nghiệp Lu, Sifei và Mingqing (2016) đã phân tích mối quan hệ giữa cổ tức và chất lượng lợi nhuận tại các công ty niêm yết ở Trung Quốc, phát hiện rằng các công ty chi trả cổ tức có chất lượng lợi nhuận cao hơn, với lợi nhuận bền vững, chất lượng các khoản dồn tích tốt hơn và tính thông tin của lợi nhuận cao hơn Ngoài ra, nghiên cứu cũng cho thấy quyền sở hữu nhà nước có thể làm giảm khả năng truyền tải thông tin của cổ tức.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Ngày đăng: 12/07/2021, 10:51

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w