1. Trang chủ
  2. » Thể loại khác

Rà soát Đồng Quản lý và mô hình Hợp tác ở Vườn Quốc Gia Bidoup – Núi Bà, tỉnh Lâm Đồng

66 5 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Rà soát Đồng Quản lý và mô hình Hợp tác ở Vườn Quốc Gia Bidoup – Núi Bà, tỉnh Lâm Đồng
Tác giả Phan Triều Giang, Lê Quang Minh
Người hướng dẫn Ông Lê Văn Hương
Trường học Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
Thể loại báo cáo
Năm xuất bản 2016
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 66
Dung lượng 2,07 MB

Cấu trúc

  • 1. BỐI CẢNH NGHIÊN CỨU (13)
    • 1.1 Giới thiệu (13)
    • 1.2 Mục tiêu và phương pháp nghiên cứu (13)
    • 1.3 Cấu trúc báo cáo (14)
  • 2. QUẢN LÝ RỪNG Ở VIỆT NAM (15)
    • 2.1 Tổng quan (15)
    • 2.2 Đồng Quản lý như một phương thức quản lýrừng (18)
      • 2.2.1 Sơ lược về Đồng quản lý (18)
      • 2.2.2 Đồng quản lý tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam (19)
    • 2.3 Khung chính sách cho Đồng Quản lý (21)
      • 2.3.1 Cơ sở chính sách cho sự tham gia của cộng đồng (21)
      • 2.3.2 Một số khó khăn về khung pháp lý cho Đồng Quản lý (23)
  • 3. CÁC MÔ HÌNH ĐỒNG QUẢN LÝ Ở VIỆT NAM (24)
    • 3.1 Rà soát một số mô hình Đồng quản lý (24)
      • 3.1.1 Thông tin chung (24)
      • 3.1.2 Cấu trúc mô hình và hoạt động (30)
      • 3.1.3 Cơ chế chia sẻ lợi ích (36)
    • 3.2 Quản lý hợp tác ở VQGBNB (38)
      • 3.2.1 Giới thiệu (38)
      • 3.2.2 Cấu trúc mô hình và hoạt động (38)
      • 3.2.3 Cơ chế chia sẻ lợi ích (39)
  • 4. kẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ (44)
    • 4.1 Xác định vùng đồng quản lý có sự tham gia (49)
    • 4.2. Tăng cường sự hợp tác và trách nhiệm của các bên liên quan (50)
    • 4.3 Tổ chức lại mạng lưới thành viên (51)
    • 4.4 Thay đổi cơ chế chia sẻ lợi ích (52)
    • 4.5 Thay đổi cách chi trả DVMTR (53)
    • 4.6 Tăng hiệu quả của quỹ thôn (54)
    • 4.7 Các thay đổi khác (55)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (57)
  • PHỤ LỤC (58)

Nội dung

BỐI CẢNH NGHIÊN CỨU

Giới thiệu

Cơ Quan Hợp Tác Quốc Tế Nhật Bản (JICA) đã triển khai Dự án Quản lý tài nguyên thiên nhiên bền vững (SNRMP) tại Việt Nam từ tháng 11 năm 2015, nhằm nâng cao năng lực quản lý tài nguyên thiên nhiên Dự án SNRMP bao gồm bốn hợp phần chính: Hỗ trợ chính sách, quản lý rừng bền vững và Giảm phát thải từ mất rừng và suy thoái rừng (REDD+), Bảo tồn đa dạng sinh học, và Chia sẻ kiến thức.

Hợp phần Bảo tồn đa dạng sinh học tại Khu dự trữ sinh quyển Lang Biang, tỉnh Lâm Đồng, nhằm thiết lập một hệ thống quản lý hệ sinh thái hợp tác và tích hợp để bảo tồn bền vững khu vực này Mục tiêu bao gồm: thiết lập khung thể chế cần thiết cho quản lý KDTSQ, nâng cấp các Thỏa thuận quản lý hợp tác với cơ chế chia sẻ lợi ích để bảo vệ hệ sinh thái rừng, và sử dụng kết quả giám sát rừng và đa dạng sinh học cho quản lý vùng lõi và vùng đệm của KDTSQ Lang Biang.

Mục tiêu và phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu rà soát Đồng quản lý ở Việt Nam nhằm cung cấp thông tin để hỗ trợ Ban Quản

Lý (BQL) dự án đã xác định và thực hiện các hoạt động cần thiết để đạt được mục tiêu của Hợp phần Nghiên cứu diễn ra từ tháng Ba đến tháng Sáu năm 2016, áp dụng cả phương pháp nghiên cứu tại bàn và nghiên cứu trường hợp, tập trung vào các mô hình quản lý rừng liên quan đến cộng đồng Nhóm nghiên cứu đã tiến hành khảo sát tại năm tỉnh với các phương thức quản lý rừng khác nhau, bao gồm Hòa Bình, Phú Thọ, Thừa Thiên Huế, Đắk Lắk, và Lâm Đồng.

Trong các chuyến nghiên cứu, nhóm nghiên cứu 4 đã sử dụng bảng câu hỏi bán cấu trúc để tiến hành phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm với khoảng 63 hộ gia đình tại 10 cộng đồng, cùng hơn 50 cán bộ và nhà nghiên cứu từ các tổ chức khác nhau, bao gồm đại diện từ chính quyền xã đến Trung ương, các trường đại học, viện nghiên cứu và tổ chức phi chính phủ (NGO) Danh sách các tổ chức và số lượng người tham gia cung cấp thông tin trong nghiên cứu được trình bày ở Phụ lục 1.

Cấu trúc báo cáo

Báo cáo này tóm tắt những phát hiện quan trọng từ việc rà soát Đồng quản lý và kết quả của chuyến nghiên cứu các trường hợp điển hình Nội dung báo cáo được chia thành bốn phần chính, mỗi phần mang đến thông tin cụ thể và chi tiết.

Phần 1: Giới thiệu Phần này giới thiệu các thông tin nền tảng, lý do, và mục tiêu của nghiên cứu

Phần 2: Bối cảnh quản lý rừng ở Việt Nam Phần này giới thiệu ngắn gọn xu hướng quản lý rừng trong những thập kỷ gần đây, sơ lược về Đồng quản lý rừng và một số chính sách quan trọng Phần này nhằm cung cấp các thông tin sơ lược về quản lý rừng và việc áp dụng các mô hình đồng quản lý tài nguyên rừng ở Việt Nam

Phần 3: Một số mô hình Đồng quản lý ở Việt Nam Phần này trình bày kết quả khảo sát các mô hình quản lý rừng có liên quan đến cộng đồng bao gồm cả mô hình quản lý hợp tác ở Vườn quốc gia Bidoup – Núi Bà (VQGBNB)(2010-2014) Các vấn đề đặt ra từ các mô hình cũng như các bài học học kinh nghiệm cũng được thảo luận

Phần 4: Kết luận và đề xuất Phần này trình bày các kết luận quan trọng và đề xuất ý tưởng nhằm cải thiện mô hình Quản lý hợp tác ở VQGBNB

4 Bao gồm một cán bộ của VQGBNB, một lãnh đạo của Ban quản lý rừng phòng hộ Đạ Nhim, và một tư vấn của dự án

QUẢN LÝ RỪNG Ở VIỆT NAM

Tổng quan

Từ góc độ đồng quản lý, quản lý rừng hiện đại ở Việt Nam có thể chia thành ba giai đoạn chính, mỗi giai đoạn được hỗ trợ bởi các chính sách quan trọng.

Trước năm 1986, lâm nghiệp được quản lý theo kế hoạch tập trung và bao cấp, với việc khai thác rừng diễn ra rộng rãi nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế Trong giai đoạn này, các chính sách lâm nghiệp nằm trong ba cuộc cách mạng của Đảng, bao gồm cách mạng quan hệ sản xuất, khoa học và kỹ thuật, cùng tư tưởng và văn hóa.

Tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam được coi là phong phú, với nhiệm vụ của nhà nước là khai thác các nguồn tài nguyên chưa được sử dụng và phát triển cộng đồng sống phụ thuộc vào rừng (Jamieson, Lê, & Rambo, 1998; UBKHXHVN, 1986) Đất đai đã được quốc hữu hóa và quản lý bởi nhà nước thông qua hàng ngàn hợp tác xã nông nghiệp và lâm trường Theo quan điểm "Con người cải tạo thiên nhiên", diện tích đất nông nghiệp đã mở rộng nhanh chóng bằng cách chuyển đổi và khai thác rừng Ví dụ, từ năm 1978 đến 1984, diện tích rừng ở Tây Nguyên đã giảm từ 3,3 triệu ha xuống còn 2,5 triệu ha, với hơn 80 triệu mét khối gỗ được khai thác (Đặng & Lê, 1986; Lưu, 1986; Nguyễn, 1986).

Bắt đầu từ năm 1986, dưới áp lực thiếu lương thực và khai thác tài nguyên nặng nề, Đảng và Nhà nước đã chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang hệ thống dựa vào dân Chính sách hợp tác xã hóa nông nghiệp không còn phù hợp, dẫn đến việc lâm nghiệp được định hướng theo mô hình lâm nghiệp xã hội, gia tăng quyền và nghĩa vụ của các tổ chức trong quản lý, bảo vệ và phát triển rừng Đất nông nghiệp và lâm nghiệp được phân phối lại cho các hộ gia đình và cá nhân nhằm phát triển sản xuất Quản lý rừng bền vững hơn nhờ sự tham gia của người dân, dưới sự hỗ trợ của các chính sách quan trọng như Luật Đất đai (1993) và Luật Bảo vệ Phát triển.

5 Quan điểm “Man made earth” du nhập từ Liên Xô cùng thời kỳ

Các chính sách như Chương trình 327 và Nghị định 02/1994/CP đã giúp giao đất trống đồi trọc cho người dân địa phương trồng rừng, đặc biệt ở miền Bắc Việt Nam Tuy nhiên, xu hướng này cũng bộc lộ một số hạn chế như bất bình đẳng trong tiếp cận tài nguyên, phân phối lợi ích không công bằng, và tình trạng chuyển đổi rừng tự nhiên cùng suy thoái rừng do độc canh và thiếu sự tham gia của cộng đồng.

Từ năm 2000, xu hướng dựa vào thị trường trong ngành lâm nghiệp đã hình thành, nhấn mạnh lợi ích cho các tổ chức lâm nghiệp phi nhà nước Luật Đất đai năm 2004, cùng với các sửa đổi, đã làm rõ vai trò và lợi ích của các hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng trong vai trò chủ rừng.

Luật Bảo vệ và Phát triển Rừng (2004) cùng với các nghị quyết của Chính phủ đã tạo điều kiện cho các chủ rừng tư nhân, ngoại trừ cộng đồng và chủ rừng nhà nước, được hưởng quyền sử dụng rừng và đất lâm nghiệp Diện tích rừng trồng đã tăng nhanh chóng nhờ sự tham gia của khoảng 1,4 triệu hộ gia đình Các chính sách cũng cho phép sử dụng một phần rừng đặc dụng và rừng phòng hộ, như quy định trong Luật Du lịch năm 2005 và các nghị định liên quan Đặc biệt, nhiều chính sách nhấn mạnh lợi ích cho cộng đồng sống phụ thuộc vào rừng, thể hiện qua các quyết định và nghị định nhằm phát triển lâm nghiệp bền vững trong giai đoạn 2006-2020.

Nghị định 99 đã thiết lập cơ sở pháp lý cho việc thu phí từ người sử dụng dịch vụ môi trường nhằm chi trả cho chủ rừng và người bảo vệ rừng Đây được coi là một giải pháp hiệu quả để hỗ trợ công tác bảo vệ và phát triển rừng.

Quyết định 327/1992/CT của Bộ Chính Trị đề ra các chủ trương và chính sách quan trọng về việc sử dụng đất trống, đồi núi trọc, rừng, bãi bồi ven biển và mặt nước Quyết định này nhằm thúc đẩy việc khai thác và bảo vệ tài nguyên đất đai, đồng thời đảm bảo phát triển bền vững cho các khu vực này.

Bảy nghị định của Chính phủ quy định về việc giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân, nhằm đảm bảo sử dụng ổn định lâu dài cho các mục đích lâm nghiệp Những nghị định này tạo cơ sở pháp lý cho việc quản lý và phát triển bền vững tài nguyên rừng, khuyến khích các hoạt động lâm nghiệp hiệu quả và bảo vệ môi trường Việc giao đất lâm nghiệp không chỉ hỗ trợ sinh kế cho cộng đồng mà còn góp phần vào việc bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển kinh tế địa phương.

8 Bao gồm quyền trao đổi, cho, tặng, thừa kế, bán, cho thuê, thế chấp, góp vốn v.v

9 Về tổ chức quản lý hệ thống rừng đặc dụng

10 Bao gồm các quy định cấm sử dụng tài nguyên trực tiếp từ rừng đặc dụng ngoài mục đích khoa học, du lịch sinh thái

11 Về quyền hưởng lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được giao, được thuê, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp

12 Nghị định 99/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 9 năm 2010 về chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng

Nghị định 99/2010/NĐ-CP đã đóng góp tích cực cho nhiều hộ gia đình, giúp tăng thu nhập trung bình từ 1,8-2 triệu đồng/năm cho khoảng 350.000 hộ và 5.700 nhóm cộng đồng quản lý bảo vệ gần 5 triệu ha rừng Phụ Lục 2 của báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện nghị định này trình bày các chính sách quan trọng, phản ánh xu hướng lâm nghiệp hướng tới phân quyền và thị trường.

Việt Nam hiện có 14,061 triệu ha rừng và đất lâm nghiệp, được phân loại thành các loại rừng khác nhau: rừng đặc dụng (2,1 triệu ha), rừng phòng hộ (4,46 triệu ha) và rừng sản xuất (6,66 triệu ha) Ngoài ra, còn có một phần diện tích ngoài quy hoạch cho ba loại rừng Cả nước có 164 khu rừng đặc dụng với tổng diện tích 2,2 triệu ha, được quản lý bởi 31 vườn quốc gia, 58 khu bảo tồn thiên nhiên, 11 khu bảo tồn loài, 45 khu bảo vệ cảnh quan và 20 khu rừng nghiên cứu, thí nghiệm khoa học.

Rừng thuộc về 14 chủ rừng khác nhau, bao gồm cá nhân, hộ gia đình, cộng đồng, công ty lâm nghiệp và các tổ chức nhà nước như VQG, Ban quản lý, quân đội và chính quyền địa phương Đến cuối năm 2014, gần 27,7% diện tích đất rừng đã được giao cho hộ gia đình và cá nhân, 33% cho các tổ chức nhà nước, và chỉ 1,7% cho cộng đồng Ngoài ra, khoảng 17,7% (2,8 triệu ha) rừng vẫn chưa được giao, hiện do UBND các xã quản lý Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) được cấp cho hộ gia đình và cộng đồng nhiều hơn ở các tỉnh miền Trung và miền Bắc so với miền Nam, bao gồm cả tỉnh Lâm Đồng.

Tùy thuộc vào diện tích và loại rừng, các chủ rừng có thể thành lập lực lượng Kiểm lâm hoặc đội bảo vệ rừng Các chủ rừng này có thể chịu sự quản lý và giám sát từ Bộ NN&PTNT, UBND tỉnh, Sở NN&PTNT, hoặc UBND huyện/xã Hiện tại, mỗi kiểm lâm viên quản lý khoảng 1000 ha rừng sản xuất hoặc 500 ha rừng đặc dụng theo Nghị định 119/2006/NĐ-CP.

13 QĐ 3158/2015/QĐ-BNN-TCLN về Công bố hiện trạng rừng 2015

14 Trong báo cáo này đó là những người có GCNQSDĐ, hợp đồng, hoặc các giấy tờ tương đương

15 QĐ 1467/2014/QĐ-BTNMT về phê duyệt và công bố kết quả thống kê diện tích đất đai năm 2013

16 Mặc dù Nghị định 119 chỉ quy định định biên kiểm lâm mà không bắt buộc việc dàn đều lực lượng kiểm lâm

Đồng Quản lý như một phương thức quản lýrừng

2.2.1 Sơ lược về Đồng quản lý Đồng Quản lý (Co-management) được dùng rộng rãi để chỉ một mô hình quản lý có sự hợp tác của các bên liên quan khác nhau với các mức độ tham gia khác nhau về quyền lực và trách nhiệm Một định nghĩa chặt chẽ và được chấp nhận phổ biến hơn nói rằng “Đồng quản lý là một quan hệ đối tác trong đó, hai hay nhiều hơn các chủ thể xã hội liên quan thương thảo, đồng thuận, đảm bảo và thực hiện một sự chia sẻ công bằng các chức năng quản lý, quyền lợi, và trách nhiệm đối với một vùng, lãnh thổ cụ thể hay một số tài nguyên thiên nhiên” (Borrini-Feyerabend et al 2007, p.69) Như vậy, theo định nghĩa này cần có một sự trao đổi và thỏa thuận công bằng giữa các bên về các vấn đề có liên quan khác nhau; và một khu vực diện tích hoặc một tập hợp các nguồn tài nguyên thiên nhiên cần phải được xác định Các mô hình đồng quản lý có thể dựa trên lợi ích từ khai thác tài nguyên và / hoặc lợi ích từ cung cấp dịch vụ hệ sinh thái tùy theo tình hình địa phương Đồng quản lý bao gồm nhiều mô hình khác nhau tùy thuộc vào mức độ chuyển giao quyền lực Thật vậy, xem xét các mô hình Đồng quản lý, một số cụm từ và hoạt động sau đây thường xuất hiện: quá trình nhiều bên liên quan, lựa chọn đại diện của các bên, đàm phán và thảo luận về các mục tiêu và vai trò, quyền, và trách nhiệm; xác định mức độ tham gia và hòa nhập, tổn thất và bồi thường, chia sẻ lợi ích, chia sẻ quyền lực, cam kết và thực thi Một số thuật ngữ và khái niệm phổ biến xác định các mô hình đồng quản lý được trình bày trong Phụ lục 3

Mô tả tóm tắt một số mô hình đồng quản lý ở các cấp độ quyền lực khác nhau được trình bày dưới đây:

Quản lý nhà nước mở rộng là phương thức quản lý đặc trưng bởi việc các cơ quan Nhà nước thừa nhận nhu cầu và nguyện vọng của các bên liên quan khác Trong mô hình này, các tổ chức phi nhà nước được tham khảo ý kiến và thông báo về các vấn đề quản lý tài nguyên thiên nhiên, tuy nhiên họ không tham gia vào quá trình quản lý Đây được coi là phương thức đơn giản và hạn chế nhất của đồng quản lý (Swan 2010).

Quản trị chia sẻ (Shared governance) là quá trình phân chia quyền lực, trách nhiệm và trách nhiệm giải trình trong quản lý tài nguyên thiên nhiên Quản trị bao gồm sự tương tác giữa các cấu trúc, quy trình và truyền thống, từ đó xác định cách thức thực thi quyền lực, đưa ra quyết định và đảm bảo tiếng nói của các bên liên quan Trong lĩnh vực quản lý tài nguyên thiên nhiên, quản trị nhấn mạnh ai là người nắm quyền và trách nhiệm, cũng như ai là người phải giải trình (Swan 2010).

Quản lý tài nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng (CBNRM) là mô hình cho phép cộng đồng được giao quyền quản lý và hưởng lợi hợp pháp từ tài nguyên thiên nhiên, với trách nhiệm chính trong việc sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên Mô hình này phải tuân thủ pháp luật và quy định quốc gia Quản lý rừng cộng đồng (Community Forest Management) là một hình thức của CBNRM, nơi việc phân quyền cho cộng đồng được thực hiện mạnh mẽ nhất Đồng quản lý có thể áp dụng linh hoạt trong nhiều hệ sinh thái, cho phép thiết kế và xây dựng phù hợp với bối cảnh chính trị và điều kiện kinh tế xã hội địa phương Theo Swan (2010), đồng quản lý đóng vai trò quan trọng trong bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển sinh kế bền vững, mặc dù cũng có nhiều trường hợp thất bại trong việc đạt được cả hai mục tiêu này.

2.2.2 Đồng quản lý tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam Đồng quản lý đã được đưa vào Việt Nam đầu những năm 1990 sau chính sách đổi mới

Các hình thức đồng quản lý lâm nghiệp bắt đầu từ việc giao đất cho các hộ gia đình theo chương trình 327, với sự hỗ trợ từ nhiều tổ chức trong và ngoài nước như FAO, SIDA và GIZ Đồng quản lý đã được nghiên cứu và thực hiện chủ yếu trong bốn lĩnh vực: lâm nghiệp cộng đồng, quản lý vùng ven biển, du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng và quản lý hợp tác ở rừng đặc dụng (Swan, 2010).

Đồng quản lý là một phương pháp quan trọng nhằm tăng cường bình đẳng và mang lại nhiều lợi ích cho cộng đồng địa phương, đồng thời nâng cao hiệu quả trong việc bảo vệ rừng và vùng ven biển Quá trình này thường liên quan đến việc ra quyết định và chia sẻ lợi ích giữa các bên liên quan để bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên Mặc dù nhiều bên có thể tham gia vào quá trình ra quyết định, mức độ tham gia thường khác nhau tùy theo từng trường hợp Trong đồng quản lý rừng đặc dụng, các bên có thể tham gia vào các giai đoạn quy hoạch, thực hiện, quản lý và quản trị Tuy nhiên, ở Việt Nam, quyền ra quyết định trong các mô hình đồng quản lý thường không công bằng, với các cơ quan nhà nước hoặc cơ quan quản lý thường nắm giữ quyền lực lớn hơn.

Việc chia sẻ lợi ích giữa các bên liên quan trong bảo vệ rừng có sự khác biệt rõ rệt Các chủ rừng và chính quyền địa phương thường nhận được lợi ích từ việc bảo vệ rừng hiệu quả hơn, giúp họ hoàn thành trách nhiệm của mình Trong khi đó, người dân thường yêu cầu lợi ích phải cụ thể, như tiền hoặc hiện vật từ tài nguyên thiên nhiên, bao gồm động vật hoang dã, mây tre, cây thuốc, trái rừng, theo Quyết định 126/2012/QĐ-TTg, hoặc từ các khoản chi trả dịch vụ hệ sinh thái theo Nghị định 99/2010/NĐ-CP.

Mặc dù đồng quản lý nâng cao cơ hội tham gia và quyền lợi cho nhiều bên ngoài nhà nước, nó cũng có thể dẫn đến xung đột tài nguyên thiên nhiên do sự chồng chéo quyền tiếp cận, chia sẻ lợi ích không công bằng, và thâu tóm đất đai Đồng quản lý thường được thiết kế phù hợp với từng hoàn cảnh địa phương, nhưng các mô hình này vẫn có những điểm chung như thỏa thuận hợp tác giữa cơ quan chính quyền và người dân địa phương, cùng với quy định giám sát cam kết và lợi ích cho người sử dụng tài nguyên Dù vậy, sự khác biệt giữa các mô hình rất đa dạng; trong nhiều trường hợp, quyền quản lý tài nguyên thiên nhiên vẫn thuộc về Nhà nước, trong khi một số mô hình khác cho phép người dân địa phương nắm giữ quyền này, như ở Buôn Tul - Đắk Lắk và Đạ Sar - Lâm Đồng Khu vực đồng quản lý có thể được xác định rõ ràng hoặc không, và đại diện người dân có thể đến từ cấp xã hoặc thôn, bao gồm cả đại diện từ các ban ngành và tổ chức xã hội.

Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc phân bổ quyền lực quản lý giữa các bên, xác định mô hình quản lý có hương ước đầy đủ hay chỉ dựa trên một số nguyên tắc cơ bản Sự tồn tại và cách thức vận hành của quỹ thôn cũng cần được xem xét, bên cạnh việc đánh giá khả năng đàm phán giữa các bên liên quan.

Lâm nghiệp cộng đồng là một mô hình phổ biến ở Việt Nam, nằm ở cuối phổ phân quyền của các mô hình Đồng Quản lý, trong đó người dân địa phương thường được giao rừng và thực hiện quyền quản lý Tuy nhiên, nhiều người không coi lâm nghiệp cộng đồng là mô hình Đồng Quản lý thực sự, vì cộng đồng phải chịu trách nhiệm về rừng trong tất cả các khía cạnh, mặc dù vẫn phụ thuộc vào lực lượng kiểm lâm để bảo vệ rừng Trong một số trường hợp, lâm nghiệp cộng đồng còn được sử dụng như chiến lược hỗ trợ cho các Vườn quốc gia và Ban quản lý Khu bảo tồn Kết quả của mô hình này rất đa dạng; một số cộng đồng như Kala Tongu ở Lâm Đồng và Thuỷ Yên Thượng ở Thừa Thiên Huế quản lý rừng hiệu quả, trong khi nhiều cộng đồng khác như Đạ Sar ở Lâm Đồng và Yang Mao ở Đắk Lắk lại mất rừng.

Một số mô hình Đồng quản lý sẽ được thảo luận chi tiết ở phần 3.1.

Khung chính sách cho Đồng Quản lý

2.3.1 Cơ sở chính sách cho sự tham gia của cộng đồng

Trong những năm gần đây, cơ sở pháp lý cho sự tham gia của cộng đồng và nhóm hộ gia đình đã được mở rộng, với các quy định quan trọng từ Luật Đất đai 2003 (Điều 29) và Luật Bảo vệ và Phát triển rừng 2004 Những luật này, được chi tiết hóa qua các nghị định như Nghị định 181/2004/NĐ-CP và Nghị định 23/2006/NĐ-CP, đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao rừng cho cộng đồng, hộ gia đình và cá nhân Sự tham gia của các nhóm hộ gia đình với tư cách là thực thể pháp lý cũng trở nên dễ dàng hơn thông qua hình thức nhóm hợp tác hoặc hợp tác xã mới, theo các quy định tại Điều 111, Luật Dân sự 2005 và Luật Dân sự 2015 Để thúc đẩy việc thực hiện, chính phủ đã ban hành Quyết định 304/2005/QĐ-TTg về giao và khoán rừng cho hộ gia đình.

17 Nghị định này hỗ trợ thành lập hợp tác xã và các tổ chức dựa vào cộng đồng

Năm 2006, Quyết định 106/2006/QĐ-BNN đã hỗ trợ các gia đình bản xứ và cộng đồng ở Tây Nguyên trong việc giao rừng và xác định trách nhiệm của cộng đồng Đến năm 2007, Bộ NN & PTNT đã ban hành Thông tư 38/2007/TT-BNN hướng dẫn phân bổ và cho thuê rừng cho hộ gia đình và cộng đồng Nhà nước cũng đã cung cấp cơ sở pháp lý qua Thông tư 70/2007/TT-BNN, Quyết định 106/2006/QĐ-BNN và Quyết định 17/2015/QĐ-TTg, nhằm hỗ trợ người dân xây dựng quy chế và quản lý rừng cộng đồng.

Nhà nước đã thể hiện sự quan tâm đến việc tham gia của các bên liên quan ngoài nhà nước trong quản lý rừng đặc dụng thông qua Quyết định 07/2012/QĐ-TTg, tạo điều kiện cho đồng quản lý rừng Quyết định số 104/2007/QĐ-BNN và Nghị định 117/2010/NĐ-CP đã xác định rõ phạm vi và lĩnh vực mà Ban quản lý rừng đặc dụng cần phối hợp với các bên liên quan để phát triển du lịch sinh thái và duy trì nguồn tài nguyên thiên nhiên bền vững.

Chia sẻ lợi ích từ rừng cho các bên liên quan, đặc biệt là cộng đồng địa phương tham gia bảo vệ và quản lý rừng, đang trở thành xu hướng quan trọng Quyết định 126/2012/QĐ-TTg thí điểm việc chia sẻ lợi ích và trách nhiệm quản lý rừng cho người dân tại một số vườn quốc gia và khu bảo tồn Các quyết định số 08/2001/QĐ-TTg và 178/2001/QĐ-TTg quy định chi tiết về việc chia sẻ lợi ích và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân trong việc quản lý rừng và đất lâm nghiệp, bao gồm rừng tự nhiên, rừng sản xuất và đất trống để phục hồi hay bảo tồn Nghị định 99/2010/NĐ-CP cũng hỗ trợ cho quá trình này.

18 Ban hành “Bản hướng dẫn quản lý rừng cộng đồng dân cư thôn”

19 Hướng dẫn xây dựng tổ chức thực hiện quy ước bảo vệ phát triển rừng cộng đồng dân cư thôn

20 Ban hành hướng dẫn quản lý rừng cộng đồng dân cư thôn

Quy chế quản lý rừng phòng hộ đã được ban hành, trong đó quy định rằng UBND xã có trách nhiệm hướng dẫn cộng đồng dân cư thôn trong việc xây dựng và thực hiện quy ước quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.

22 Ban hành quy chế quản lý hoạt động du lịch sinh thái tại các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên

23 Về tổ chức quản lý hệ thống rừng đặc dụng

24 Chi tiết về quyền hưởng lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được giao, được thuê, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp

Chương trình chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) đã mang lại lợi ích đáng kể cho hộ gia đình và cộng đồng ở nhiều khu vực Nghị định 75/2015/NĐ-CP gần đây đã nâng cao quyền lợi cho các hộ nhận khoán, giúp họ hưởng lợi nhiều hơn từ nguồn tài chính này Bên cạnh đó, Quyết định 24/2012/QĐ-TTg cũng đã hỗ trợ các thôn trong vùng đệm của rừng đặc dụng, cung cấp nguồn tài chính quan trọng cho sự tham gia của người dân địa phương.

Tỉnh Lâm Đồng cũng đẩy mạnh vai trò của các bên liên quan ngoài nhà nước Trong CV số

Vào ngày 19/3/2009, UBND tỉnh Lâm Đồng đã chỉ đạo tăng cường giao và khoán rừng cho các hộ gia đình và cộng đồng, theo Quyết định 1704/UBND-LN Tiếp đó, Sở NN&PTNT ban hành Công văn 887/SNN-KL ngày 21/4/2009 để hướng dẫn quy trình này Vào ngày 05/07/2010, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định 22/2010/QĐ-UBND, quy định việc giao rừng cho thôn và cộng đồng, cho phép UBND huyện giao rừng sản xuất, phòng hộ cho cộng đồng thôn với thời hạn lên đến 50 năm Đồng thời, UBND tỉnh cũng thực hiện quyết định 561/QĐ-UBND ngày 13/3/2009 nhằm hỗ trợ giảm nghèo bền vững, mang lại nhiều lợi ích cho các hộ nghèo.

2.3.2 Một số khó khăn về khung pháp lý cho Đồng Quản lý

Theo Luật Bảo vệ và Phát triển rừng (BVPTR), các cộng đồng thôn có khả năng được giao rừng, nhưng quyền sử dụng rừng của họ không hoàn toàn đầy đủ (Điều 5, Luật BVPTR) Định nghĩa về cộng đồng được quy định rõ ràng trong Luật BVPTR.

Theo Điều 3 năm 2004, "Cộng đồng dân cư thôn" được định nghĩa là toàn bộ các hộ gia đình và cá nhân sống trong cùng một thôn, làng, bản, ấp, buôn, phum, sóc hoặc đơn vị tương đương Tuy nhiên, định nghĩa này không phản ánh đúng thực tế hiện nay, khi cộng đồng thôn thường không đồng nhất mà bao gồm nhiều nhóm dân cư khác nhau Hơn nữa, việc cộng đồng không được công nhận là một thực thể pháp lý đã gây khó khăn cho việc giao rừng và đất rừng, cũng như cho việc thực hiện đồng quản lý tài nguyên.

Thông tư 35/2001/TT-BNNPTNT đặt ra nhiều yêu cầu kỹ thuật đối với khai thác rừng, nhưng những yêu cầu này lại quá phức tạp và không khả thi cho các hộ gia đình và cộng đồng bản địa Điều này dẫn đến chi phí khai thác cao, làm giảm sự tham gia của cộng đồng, như đã được chứng minh qua nhiều mô hình giao rừng cộng đồng.

Để khai thác rừng tự nhiên, cần tuân thủ 10 yêu cầu quan trọng, bao gồm: lập phương án khai thác, thiết kế khai thác, và bản đồ khu thiết kế Ngoài ra, cần có phiếu bài cây, biên bản thẩm định thiết kế, hồ sơ thiết kế khai thác, cùng với giấy phép khai thác Cuối cùng, biên bản nghiệm thu gỗ và bảng kê lâm sản cũng là những tài liệu không thể thiếu trong quy trình này.

Quyết định 186/2006/QĐ-TTg đã tạo điều kiện cho hoạt động du lịch sinh thái trong rừng đặc dụng, nhưng các quy định về sử dụng rừng vẫn rất hạn chế và không cho phép người dân địa phương khai thác tài nguyên Quyết định 178/2001/QĐ-TTg về chia sẻ lợi ích từ trữ lượng tăng thêm của rừng tự nhiên chỉ áp dụng cho những khu vực rừng giàu, làm cho việc khai thác trở nên khó khăn cho các hộ gia đình nghèo sống xa rừng Hơn nữa, quyết định này không đề cập đến cộng đồng, gây khó khăn cho việc hỗ trợ những người sống phụ thuộc vào rừng.

Mức chi trả DVMTR theo Nghị định 99/2010/NĐ-CP có sự chênh lệch lớn giữa các lưu vực và huyện, dẫn đến tỷ lệ chi trả thấp ở nhiều nơi, không thu hút được sự tham gia của cộng đồng và gây ra xung đột giữa những người dân nhận mức chi trả khác nhau Ở một số tỉnh, DVMTR được coi như chính sách xã hội, phân bổ tiền chi trả rộng rãi cho các hộ gia đình không có nhiều đóng góp cho việc bảo vệ rừng, từ đó tạo ra mâu thuẫn trong cộng đồng.

CÁC MÔ HÌNH ĐỒNG QUẢN LÝ Ở VIỆT NAM

Rà soát một số mô hình Đồng quản lý

Nhóm nghiên cứu đã khảo sát tám mô hình tại năm tỉnh, bao gồm Đạ Sar, Bidoup-Núi Bà (Lâm Đồng), Buôn Tul (Đăk Lăk), Hương Lộc, Thủy Yên Thượng và Thượng Nhật (Thừa Thiên Huế), Ngọc Sơn (Hòa Bình), và Xuân Sơn (Phú Thọ) Các mô hình này nằm trong vùng đệm của các Vườn quốc gia như Bidoup Núi Bà, Chư Yang Sin, Bạch Mã, Xuân Sơn, hoặc Khu bảo tồn Ngọc Sơn Đặc điểm chính của các mô hình được mô tả chi tiết trong Phụ lục 4 Hiện nay, hầu hết rừng tự nhiên không còn được phép khai thác, đặc biệt là đối với gỗ quý và lớn.

Người dân chỉ được khai thác gỗ từ trữ lượng tăng thêm, điều này có nghĩa là nhiều cộng đồng phải chờ đợi hàng thập kỷ nếu họ được giao rừng nghèo hoặc trung bình.

Trong số 8 mô hình, có 4 mô hình quản lý rừng cộng đồng, bao gồm Hương Lộc, Thủy Yên Thượng, Buôn Tul và Đạ Sar, với rừng đã được giao cho cộng đồng thông qua Giấy Chứng Nhận Quyền Sử Dụng Đất hoặc hợp đồng.

Bài viết đề cập đến bốn mô hình quản lý hợp tác, trong đó các cơ quan nhà nước vẫn giữ quyền quản lý rừng hoặc đất rừng, nhưng hợp tác với cộng đồng địa phương để bảo vệ rừng Các mô hình này bao gồm Thượng Nhật, Ngọc Sơn, Xuân Sơn và Bidoup Núi Bà, và hầu hết bắt đầu từ khoảng năm trước.

Vào năm 2010, sự hỗ trợ tài chính từ các tổ chức quốc tế như ICCO, EU, JICA và từ nhà nước thông qua VCF, cùng với sự hỗ trợ kỹ thuật từ các viện, trường và tổ chức phi chính phủ trong nước như CRD và Panature đã đóng góp quan trọng cho các dự án phát triển.

Các dự án nhằm nâng cao nhận thức, cải thiện sinh kế và tăng cường sự tham gia của cộng đồng trong quản lý rừng, hướng tới quản lý bền vững tài nguyên rừng Một số mô hình như Hương Lộc, Thủy Yên Thượng, Xuân Sơn, Ngọc Sơn và Bidoup-Núi Bà vẫn hoạt động hiệu quả sau khi dự án kết thúc, trong khi những mô hình khác như Buôn Tul đang dần yếu đi hoặc đã thất bại như Đạ Sar và Thượng Nhật Mặc dù một số mô hình tiếp tục tồn tại, nhưng hiệu quả bảo vệ rừng và tác động đến sinh kế vẫn là thách thức lớn Tại Thủy Yên Thượng, Ngọc Sơn và Xuân Sơn, các vi phạm lâm luật đã giảm đáng kể, nhưng lợi ích từ rừng cho người dân vẫn hạn chế Ở Hương Lộc, người dân có thể hưởng lợi trong tương lai từ rừng cộng đồng, nhưng sự đóng góp của họ trong việc bảo vệ Vườn quốc gia Bạch Mã vẫn còn chưa rõ ràng.

Giới thiệu sơ lược về các mô hình được trình bày dưới đây trong đó mô hình ở VQG Bidoup- Núi Bà được trình bày thành một phần riêng

Mô hình Hương Lộc (Tỉnh Thừa Thiên – Huế)

Năm 2005, VQG Bạch Mã đã chuyển giao 980 ha rừng nghèo cho xã Hương Lộc quản lý Đến năm 2009, UBND xã đã giao rừng cho cộng đồng địa phương với Giấy Chứng Nhận Quyền Sử Dụng Đất cấp cho tập thể Trong số 170 hộ gia đình tại xã nghiên cứu, có 34 hộ đã đăng ký tham gia dự án rừng cộng đồng và nhận được 173 ha rừng, bao gồm 120 ha rừng tự nhiên để bảo vệ và phát triển.

Trên 50 ha đất trống đang được cộng đồng sử dụng để trồng cây keo, với các phương án giao rừng đã được Trung tâm Phát triển Nông thôn (CRD) thuộc Đại học Nông Lâm Huế chuẩn bị và thực hiện, được hỗ trợ tài chính từ ICCO Mô hình này vẫn tiếp tục phát triển và duy trì hiệu quả.

Mặc dù hiện tại người dân chưa thực sự được hưởng lợi từ rừng cộng đồng, nhưng kỳ vọng rằng mô hình này sẽ mang lại nguồn lợi lớn cho những người tham gia Người dân đã tích cực bảo vệ rừng cộng đồng, tuy nhiên, hiệu ứng bảo vệ cho VQG Bạch Mã lân cận vẫn còn chưa chắc chắn.

Mô hình Thượng Nhật (Tỉnh Thừa Thiên – Huế)

Xã Thượng Nhật, huyện Nam Đông đã được chọn thí điểm Quyết định 126/2012/TTg về chia sẻ lợi ích từ rừng đặc dụng tại Vườn quốc gia Bạch Mã Từ năm 2011, bảy thôn người Cơ Tu đã hợp tác với Vườn Quốc gia Bạch Mã trong quản lý và bảo vệ rừng, nhận lại quyền thu hái một số sản phẩm rừng có kiểm soát như heo rừng, thỏ, rắn, ốc, tre nứa, măng, lan rừng, và mật ong Sáu trong số các thôn này cũng được giao rừng để cộng đồng quản lý Mặc dù mô hình quản lý hợp tác đã kết thúc, cộng đồng vẫn duy trì hoạt động khai thác rừng ở một mức độ nhất định, tuy nhiên việc kiểm soát khai thác lâm sản trong VQG vẫn gặp khó khăn.

Mô hình Thủy Yên Thượng (Tỉnh Thừa Thiên-Huế)

Rừng ở xã này rất giàu nhưng đã bị khai thác mạnh sau năm 1975 cho mục đích thương mại Trận lũ lụt lớn năm 1999 đã gây thiệt hại nghiêm trọng và thay đổi nhận thức của cộng đồng về vai trò của rừng Đáp ứng đề nghị của cộng đồng, năm 2000, UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế đã giao hơn 400 ha rừng cho Ban quản lý cộng đồng để quản lý và bảo vệ Mô hình này vẫn được duy trì đến nay, giúp giảm thiểu vi phạm khai thác rừng và nâng cao đời sống người dân.

Mô hình Ngọc Sơn Ngổ Luông (Tỉnh Hòa Bình)

Khu Bảo tồn Ngổ Luông, được thành lập vào năm 2004 trên diện tích 19.000 ha, chủ yếu là đất lâm nghiệp đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) cho các hộ gia đình địa phương Sau khi KBT được thành lập, rừng bị khai thác mạnh mẽ do lo ngại mất quyền tiếp cận của người dân Chính quyền địa phương gặp khó khăn trong việc thu hồi GCNQSDĐ vì lý do kinh phí đền bù, dẫn đến việc Khu bảo tồn đề xuất một mô hình hợp tác nhằm giải quyết tình hình này.

Mô hình CM được thành lập vào năm 2010 với sự hỗ trợ tài chính từ EU nhằm đáp ứng nhu cầu của hai bên, bao gồm năm cộng đồng với đại diện là Ban quản lý thôn Hiện tại, khu bảo tồn chưa có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) cho phần lớn diện tích quản lý, khiến người dân không thể thực hiện đầy đủ quyền lợi theo GCNQSDĐ, mà chỉ hưởng lợi từ các dịch vụ sinh thái như nguồn nước và điều hòa khí hậu Tuy nhiên, tình trạng khai thác trái phép lâm sản, đặc biệt là gỗ, đã giảm mạnh và mô hình này vẫn tiếp tục được duy trì.

Mô hình Xuân Sơn (Tỉnh Phú Thọ)

Từ 1980-1995, rừng tại khu vực Phú Thọ bị khai thác nghiêm trọng bởi người nhập cư và các lâm trường, dẫn đến tình trạng cạn kiệt tài nguyên rừng và gia tăng thiên tai Để bảo tồn tài nguyên thiên nhiên còn lại, UBND tỉnh Phú Thọ đã thành lập KBT Xuân Sơn Cuối những năm 1990, nhờ chương trình 327, khu bảo tồn đã giao rừng cho các hộ gia đình quản lý, giúp phủ xanh nhiều diện tích đất trống Từ năm 2000, với sự hỗ trợ của Chương trình 661, KBT Xuân Sơn (sau này là VQG Xuân Sơn) đã hợp tác với cộng đồng địa phương trong việc tuần tra và bảo vệ rừng Cộng đồng được chỉ định khu vực cụ thể để quản lý, nhận hỗ trợ tài chính theo chương trình 661 và các quỹ bảo vệ tài nguyên Mô hình này vẫn tiếp tục hoạt động hiệu quả, nhờ vào lợi ích sinh thái mà rừng mang lại cho người dân.

Hình 1 Rừng cộng đồng được khoán bảo vệ ở VQG Xuân Sơn

Mô hình Buôn Tul (Tỉnh Đăk Lăk)

Buôn Tul, nằm trong vùng đệm của VQG Chư Yang Sin ở Đắk Lắk, là một phần của khu rừng liên tục có giá trị sinh thái cao cùng với VQG Bidoup Núi Bà Trước năm 2000, rừng Buôn Tul được quản lý bởi các lâm trường quốc doanh và hợp đồng với các hộ gia đình để bảo vệ Năm 2001, 14 lô rừng với tổng diện tích 964 ha được giao cho Buôn Tul nhằm thúc đẩy chính sách lâm nghiệp cộng đồng Đến năm 2008, Đại học Tây Nguyên, với sự tài trợ của GTZ, đã phát triển kế hoạch 5 năm cho phép cộng đồng khai thác gỗ bền vững Tuy nhiên, sau hai lần thu hoạch, dự án dừng lại vì lý do kỹ thuật và chính sách Hiện tại, cộng đồng Buôn Tul đang bảo vệ 384 ha rừng để nhận chi trả DVMTR, nhưng đã mất khoảng 600 ha từ năm 2001 do việc giao rừng chồng chéo và quản lý không hiệu quả.

Mô hình Đạ Sar (Tỉnh Lâm Đồng)

Quản lý hợp tác ở VQGBNB

Mô hình đồng quản lý tại VQGBNB, được thực hiện từ 2010-2014 với sự tài trợ của JICA, nhằm tăng cường năng lực quản lý tài nguyên thiên nhiên cùng với người dân địa phương Dự án tập trung vào 05 thôn mục tiêu: Đạ Blah, Đạ Ra Hoa, Đạ Tro (xã Đa Nhim), Bon Đưng I (thị trấn Lạc Dương) và B'Nor B (xã Lát) Ba hợp phần chính của dự án bao gồm Du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng (CBET), Tùy chọn sinh kế thân thiện với môi trường (EFLO) và Quản lý hợp tác (CM), nhằm cải thiện sinh kế cho cộng đồng và giảm sự phụ thuộc vào rừng, đồng thời tăng cường sự phối hợp với Vườn quốc gia để bảo vệ nguồn tài nguyên tự nhiên.

Dự án đối mặt với nhiều thách thức do sự bùng nổ của các công ty du lịch sinh thái và việc mở rộng đất đai của các công ty rau hoa Hơn nữa, sự hỗ trợ của chính quyền xã trong việc thực thi lâm luật còn hạn chế, cùng với việc thiếu sự phối hợp giữa các chủ rừng trong việc bảo vệ vùng đệm của vườn quốc gia.

Sau hai năm kết thúc dự án, các rà soát đầu năm 2016 cho thấy mô hình ở các thôn mục tiêu vẫn duy trì hoạt động, mặc dù phạm vi đã bị thu hẹp.

3.2.2 Cấu trúc mô hình và hoạt động

Mô hình quản lý rừng chủ yếu có sự tham gia của VQGBNB và cộng đồng địa phương, trong đó VQGBNB giữ vai trò quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng Người dân tham gia quản lý rừng thông qua các hộ nhận khoán và tuân thủ các quy định về bảo vệ rừng Do đó, sự đóng góp của cộng đồng dự án vào việc quản lý và bảo vệ rừng không khác biệt nhiều so với các cộng đồng khác trong khu vực.

Trong giai đoạn 2010-2013, dự án đã tập trung vào việc xây dựng năng lực cho cộng đồng thông qua tổ chức lại cộng đồng và cải thiện các hoạt động sinh kế Những hộ gia đình trong thôn đã tích cực tham gia vào các hoạt động này.

27 dự án đã tự tổ chức thành các nhóm từ 5-10 hộ gia đình và bầu ra một ban quản lý gồm 5 thành viên Ban quản lý này có nhiệm vụ điều phối các hoạt động trong thôn và làm cầu nối với các bên liên quan.

Các hộ tham gia thực hiện các hoạt động sinh kế và bảo vệ tài nguyên dựa trên các quy tắc đồng thuận như Quy ước thôn (VR) và quy chế chia sẻ lợi ích (BSM), đồng thời nhận được sự hỗ trợ từ quỹ phát triển thôn (VDF).

Hàng tháng, ban quản lý thôn phối hợp với cán bộ chuyên trách của VQG để tổ chức các hoạt động sinh kế và bảo vệ rừng, đồng thời giám sát cộng đồng thôn Ban Quản lý thôn có trách nhiệm quản lý và báo cáo việc sử dụng quỹ thôn cho cộng đồng Tuy nhiên, sự tham gia của các bên liên quan khác, bao gồm chủ rừng ở khu vực vùng đệm và chính quyền địa phương, vẫn còn hạn chế.

3.2.3 Cơ chế chia sẻ lợi ích

Người dân tham gia dự án được hưởng nhiều quyền lợi cả hữu hình lẫn vô hình Các quyền lợi hữu hình bao gồm tiền mặt và phân bón với lãi suất thấp từ quỹ thôn Bên cạnh đó, họ còn thu được các lợi ích vô hình như kiến thức từ các lớp tập huấn về ươm giống, bón phân, tỉa cành cà phê, đan lát và dệt thổ cẩm Ngoài ra, một số hộ trong thôn cũng tham gia vào các hoạt động cộng đồng như cung cấp lao động, hướng dẫn du lịch và cung cấp dịch vụ cồng chiêng, từ đó nâng cao đời sống và phát triển kinh tế địa phương.

Hiệu quả của dự án đã được chứng minh khi nhiều hộ không chỉ áp dụng kiến thức đã học mà còn chia sẻ với cộng đồng Tham gia hoạt động của dự án giúp họ tăng cường tính cộng đồng và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống.

Hình 5 Tham vấn với Chính quyền huyện về quy ước thôn ở B’Nor B, VQGBNB

Quỹ thôn (VDF) được thành lập để tiếp nhận, giữ và chia sẻ lợi ích từ các dự án và hoạt động liên quan đến tài nguyên rừng, cùng với sự đóng góp tự nguyện của người dân và các tổ chức Đây là động lực cần thiết để cộng đồng thực hiện các hoạt động hợp tác Ban đầu, quỹ có khoảng 160 triệu đồng và một quỹ phân bón xoay vòng, hiện tại (2016) quỹ đã tăng lên khoảng 220 triệu đồng Quỹ chủ yếu được Ban Quản lý sử dụng để cho các hộ thành viên vay đầu tư sản xuất với lãi suất 0,8%/tháng (trung bình 5.000.000 đồng/hộ) và hỗ trợ người dân trong các tình huống khẩn cấp Hầu hết các hộ tham gia dự án đều được hưởng lợi từ quỹ thôn.

3.3 Các vấn đề tồn tại và bài học kinh nghiệm

3.3.1Các vấn đề tồn tại

Việc giao rừng cộng đồng có thể nâng cao trách nhiệm của người dân đối với khu rừng được giao, tuy nhiên, họ có thể thiếu trách nhiệm bảo vệ rừng đặc dụng lân cận Giao rừng cộng đồng trong vùng đệm có thể tạo ra vành đai bảo vệ cho vùng lõi, nhưng cần có sự liên kết và phối hợp chặt chẽ giữa các nhóm cộng đồng và các ban quản lý rừng đặc dụng để đạt hiệu quả cao.

Việc quản lý rừng đặc dụng gặp nhiều thách thức do hiện tượng rò rỉ và sự xâm nhập của người dân vào rừng, dẫn đến khai thác quá mức và không đúng quy định Mặc dù có lợi ích hữu hình được quy định trong quyết định 126/2012/QD-TTg, nhưng nguồn lợi này quá nhỏ so với nhu cầu thực tế, khiến người dân không tuân thủ quy định Tại VQGBNB, sự không rõ ràng trong trách nhiệm quản lý giữa VQG và cộng đồng làm giảm hiệu quả bảo vệ rừng Các dự án như CBET và EFLO chưa chứng minh được tác động tích cực trong việc ngăn chặn xâm chiếm đất rừng Mối quan hệ giữa cải thiện sinh kế và bảo vệ rừng còn yếu, do thiếu các chỉ số giám sát thích hợp.

Một số bên liên quan quan trọng, như UBND xã và các công ty đầu tư phát triển địa phương, chưa được tích cực tham gia vào mô hình Quản lý hợp tác, dẫn đến hiệu quả hạn chế trong việc giải quyết nguyên nhân mất rừng và suy thoái rừng Do đó, cần thiết áp dụng cách tiếp cận quy hoạch đất đai và cảnh quan tổng thể hơn Mối quan hệ giữa các thành viên trong mô hình và cộng đồng dân cư cũng như với các cộng đồng khác thường không được giải quyết, gây ra nguy cơ tác động rò rỉ.

Một rà soát vào đầu năm 2016 tại VQGBNB (Sugawara, 2016) chỉ ra rằng các mô hình Đồng quản lý gặp phải vấn đề chung khi Ban quản lý thôn đồng thời là tổ chức quản lý quỹ thôn, dẫn đến thiếu minh bạch, trách nhiệm giải trình, công bằng và bền vững tài chính Hơn nữa, quy mô nhỏ của quỹ thôn gây khó khăn trong việc sử dụng hiệu quả nguồn lực, làm hạn chế số lượng hộ được vay và giảm khả năng tiếp cận quỹ cho các thành viên mới.

Ngày đăng: 12/07/2021, 02:55

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN