1. Trang chủ
  2. » Thể loại khác

THỰC TRẠNG VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN STRESS, TRẦM CẢM, LO ÂU CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ THUỘC TT Y TẾ HUYỆN SÓC SƠN, KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

76 47 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Thực Trạng Và Các Yếu Tố Liên Quan Đến Stress, Trầm Cảm, Lo Âu Của Nhân Viên Y Tế Thuộc Trung Tâm Y Tế Huyện Sóc Sơn
Tác giả Lưu Thị Liên
Người hướng dẫn TS. Vũ Ngọc Hà, ThS. Nguyễn Thành Trung
Trường học Đại học Quốc gia Hà Nội
Chuyên ngành Y Đa Khoa
Thể loại khoá luận tốt nghiệp
Năm xuất bản 2020
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 76
Dung lượng 916,96 KB

Cấu trúc

  • Chương 1: TỔNG QUAN (13)
    • 1.1. Giới thiệu về stress, lo âu, trầm cảm (13)
      • 1.1.1. Khái niệm (13)
        • 1.1.1.1. Khái niệm stress (13)
        • 1.1.1.2. Khái niệm lo âu (14)
        • 1.1.1.3. Khái niệm trầm cảm (15)
        • 1.1.1.4. Khái niệm Nhân viên y tế (NVYT) (15)
        • 1.1.1.5. Stress nhân viên y tế (15)
      • 1.1.2. Các yếu tố liên quan đến stress, lo âu và trầm cảm ở nhân viên y tế (16)
        • 1.1.2.1. Nguyên nhân gây ra stress, lo âu và trầm cảm (16)
        • 1.1.2.2. Những yếu tố gây ra rối loạn tâm thần trong lao động (16)
        • 1.1.2.3. Những điều kiện gây rối loạn tâm thần trong ngành y tế (17)
      • 1.1.3. Hậu quả của rối loạn tâm thần lên sức khoẻ (17)
    • 1.2. Giới thiệu về các thang đo lường stress, lo âu, trầm cảm và bộ công cụ (18)
  • DASS 21 của Lovibond (18)
    • 1.3. Một số nghiên cứu về stress, lo âu, trầm cảm trên thế giới và tại Việt Nam (19)
      • 1.3.1. Một số nghiên cứu trên thế giới (19)
      • 1.3.2. Thực trạng stress, lo âu và trầm cảm của nhân viên y tế tại Việt Nam (21)
    • 1.4. Giới thiệu về địa điểm nghiên cứu (23)
  • Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (26)
    • 2.1. Đối tượng nghiên cứu (26)
      • 2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn (26)
      • 2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ (26)
    • 2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu (26)
    • 2.3. Phương pháp nghiên cứu (26)
      • 2.3.1. Thiết kế nghiên cứu (26)
      • 2.3.2. Cỡ mẫu nghiên cứu (26)
      • 2.3.3. Các chỉ số và biến số nghiên cứu (27)
    • 2.4. Công cụ nghiên cứu (29)
    • 2.5. Phương pháp thu thập số liệu (30)
    • 2.6. Phương pháp phân tích số liệu (30)
    • 2.7. Các sai số và cách khắc phục (30)
    • 2.8. Đạo đức trong nghiên cứu (31)
    • 2.9. Hạn chế của nghiên cứu (31)
  • Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (32)
    • 3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu (32)
      • 3.1.1. Đặc điểm cá nhân của đối tượng nghiên cứu (32)
      • 3.1.2. Đặc điểm công việc của nhân viên y tế huyện Sóc Sơn (35)
    • 3.2. Xác định tỉ lệ stress, trầm cảm và lo âu của nhân viên y tế tại huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội năm 2019 (39)
    • 3.3. Xác định một số yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm và lo âu của nhân viên y tế thuộc Trung tâm y tế huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội (42)
      • 3.3.1. Phân bố mức độ rối loạn tâm thần ở nhân viên y tế theo đặc điểm cá nhân (42)
      • 3.3.2. Phân bố mức độ rối loạn tâm thần ở nhân viên y tế theo đặc điểm công việc (45)
    • 3.4. Phân tích đa biến giữa các yếu tố liên quan với stress, trầm cảm, lo âu (49)
  • Chương 4: BÀN LUẬN (53)
    • 4.1. Đặc điểm của nhân viên y tế thuộc Trung tâm y tế huyện Sóc Sơn năm (53)
    • 4.2. Mô tả thực trạng về tình trạng stress, lo âu, trầm cảm của nhân viên y tế thuộc Trung tâm y tế huyện Sóc Sơn năm 2019 (54)
      • 4.3.1. Mối liên quan giữa các yếu tố cá nhân với tình trạng stress, lo âu, trầm cảm (59)
      • 4.3.2. Mối liên quan giữa các yếu tố về đặc điểm công việc với tình trạng stress, (62)
  • KẾT LUẬN (64)
  • PHỤ LỤC (71)

Nội dung

TỔNG QUAN

Giới thiệu về stress, lo âu, trầm cảm

“Stress” là thuật ngữ tiếng Anh có nguồn gốc từ chữ La tinh “strictus” và phần từ “stringere”, mang ý nghĩa căng thẳng, bất hạnh và nghịch cảnh Ban đầu, stress được sử dụng trong vật lý học để chỉ sức nén mà vật liệu phải chịu, nhưng đến thế kỷ 17, thuật ngữ này đã được áp dụng trong y học và tâm lý học để diễn tả sức ép hay xâm phạm tác động lên con người, gây ra phản ứng căng thẳng.

Trong nghiên cứu lý luận và thực tiễn, stress được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, tùy thuộc vào quan điểm của từng tác giả Mỗi tác giả đưa ra những quan niệm riêng biệt về vấn đề này.

Vào năm 1914, W.B Cannon lần đầu tiên giới thiệu thuật ngữ stress trong nghiên cứu y sinh học, nhưng Hans Selye, nhà sinh lý học người Canada, là người đã phát triển khái niệm này một cách khoa học Ông định nghĩa stress là phản ứng sinh học không đặc hiệu của cơ thể trước các kích thích từ môi trường, nhằm khôi phục trạng thái cân bằng nội môi và giúp cơ thể thích nghi với các điều kiện sống biến đổi Stress thường giúp con người thích nghi, nhưng nếu phản ứng với stress không đầy đủ hoặc không phù hợp, cơ thể sẽ mất cân bằng, dẫn đến rối loạn chức năng và xuất hiện các triệu chứng bệnh lý về thể chất và tâm lý Học thuyết của Selye nhấn mạnh mối liên hệ giữa cảm xúc và sức khỏe thể chất, là nguyên nhân của một số bệnh tâm thể như loét dạ dày – tá tràng và hen phế quản.

Theo nghiên cứu của H Selye, stress đã trở thành chủ đề nghiên cứu sâu rộng của nhiều nhà khoa học Nhà tâm lý học Richard Lazarus định nghĩa stress là trạng thái cảm xúc mà con người trải qua khi nhận thấy các yêu cầu từ môi trường bên ngoài và bên trong có tính chất đe dọa, vượt quá khả năng và nguồn lực mà họ có thể huy động.

Nhà tâm lý học Mc Grath định nghĩa "stress" là sự mất cân bằng giữa yêu cầu và khả năng đáp ứng Khi khả năng đáp ứng không đủ, sẽ dẫn đến những hậu quả tiêu cực.

Trong cuốn sách “Stress từ bệnh học tâm thần đến cách tiếp cận trị liệu” của Giáo sư Ferreri, được dịch bởi Giáo sư Nguyễn Việt, stress được định nghĩa là mối liên hệ giữa con người và môi trường xung quanh Stress không chỉ là tác nhân gây áp lực mà còn là phản ứng của cơ thể trước tác nhân đó, tạo nên một tương tác giữa kích thích và phản ứng sinh lý.

Theo bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, stress có hai nghĩa trong tiếng Anh: một là mối kích động mạnh mẽ tác động đến con người, và hai là phản ứng sinh lý – tâm lý của họ Các mối kích động này có thể đến từ nhiều nguồn như tác nhân vật lý, hóa học, vi khuẩn hoặc các yếu tố tâm lý xã hội, thường là những tình huống căng thẳng bất ngờ yêu cầu con người huy động khả năng thích ứng Phản ứng của con người đối với stress bao gồm hai khía cạnh: phản ứng đặc thù cho từng loại kích động và phản ứng chung cho nhiều loại kích động khác nhau.

Stress có thể được hiểu theo nhiều định nghĩa khác nhau, từ nguyên nhân đến hậu quả Một số người xem stress dưới góc độ sinh học như là phản ứng sinh lý của cơ thể, trong khi các nhà tâm lý học thường kết hợp cả yếu tố sinh học và tâm lý Trong nghiên cứu này, chúng tôi áp dụng định nghĩa về stress của Richard Lazarus, vì nó phù hợp với điều kiện, định hướng và thang công cụ đo lường trong nghiên cứu.

Lo âu là một phản ứng cảm xúc tự nhiên của con người trước những mối đe dọa, khó khăn và thử thách, thể hiện qua cảm giác sợ hãi và khó chịu cùng với các rối loạn cơ thể Đây là tín hiệu cảnh báo cho cá thể về những nguy cơ từ bên trong hoặc bên ngoài, giúp họ nhận thức được các khó khăn và tìm ra giải pháp phù hợp để tồn tại và phát triển.

Khi lo âu trở nên dai dẳng và lan tỏa mà không liên quan đến một sự kiện cụ thể nào, nó mất đi tính chất thời sự và trở thành một vấn đề cần được chú ý.

Lo âu có thể trở thành bệnh lý khi nó gây cản trở cho công việc, học tập và sinh hoạt hàng ngày, ảnh hưởng tiêu cực đến các mối quan hệ cá nhân Tình trạng này được gọi là rối loạn lo âu.

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), trầm cảm là một rối loạn tâm thần phổ biến, thể hiện qua cảm giác buồn rầu, thiếu hứng thú, cảm giác tội lỗi và giá trị bản thân thấp Người mắc trầm cảm cũng thường gặp khó khăn trong giấc ngủ, ăn uống và khả năng tập trung.

Theo DSM-IV (1984) của Hiệp hội Tâm thần học Mỹ, trầm cảm được định nghĩa là một rối loạn cảm xúc, thể hiện qua sự giảm khí sắc, mất hứng thú và giảm năng lượng, dẫn đến mệt mỏi gia tăng ngay cả sau những nỗ lực nhỏ Tình trạng này kéo dài ít nhất hai tuần.

Trầm cảm là một rối loạn khí sắc phổ biến trong các rối loạn tâm thần, đặc trưng bởi cảm giác buồn chán và giảm hứng thú kéo dài, ảnh hưởng đến các hoạt động hàng ngày như công việc, học tập, và các mối quan hệ gia đình, xã hội Tuy nhiên, trầm cảm là một rối loạn tâm thần có thể điều trị hiệu quả.

Với các khái niệm trên, trầm cảm được xem xét biểu hiện ở các mặt: cảm xúc, nhận thức, cơ thể và hành vi

1.1.1.4 Khái niệm Nhân viên y tế (NVYT)

Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới năm 2006, nhân viên y tế (NVYT) bao gồm tất cả những người tham gia vào hành động nhằm tăng cường sức khỏe, như bác sĩ, điều dưỡng viên, nữ hộ sinh, nha sĩ, dược sĩ, và kỹ thuật viên phòng thí nghiệm Ngoài ra, NVYT còn bao gồm các quản lý và công nhân hỗ trợ như quản lý bệnh viện, quan chức tài chính, đầu bếp, và nhân viên vệ sinh Như vậy, NVYT là những người hoạt động trong lĩnh vực y tế, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cộng đồng.

Giới thiệu về các thang đo lường stress, lo âu, trầm cảm và bộ công cụ

Hiện nay, có nhiều bộ công cụ nghiên cứu và đánh giá sức khoẻ tâm thần (SKTT) được sử dụng rộng rãi, bao gồm bộ câu hỏi đánh giá cảm nhận về stress (PSS 10), thang đánh giá stress (GHO 12), thang tự đánh giá lo âu của Zung (SAS), thang đánh giá lo âu của Beck (BAI), thang đo đánh giá trầm cảm của Beck (BDI), thang đánh giá trầm cảm và lo âu (AKUADS), cùng với thang đánh giá stress, lo âu, trầm cảm của Lovibond (DASS 21 và DASS 42).

Năm 1995, Lovibond S.H và Lovibond P.F tại Đại học New South Wales, Australia đã phát triển thang đo DASS 42 để đánh giá stress, lo âu và trầm cảm Đến năm 1997, phiên bản rút gọn DASS 21 cũng được ra mắt Trong khi DASS 42 thích hợp cho các ứng dụng lâm sàng, DASS 21 cung cấp một lựa chọn nhanh gọn hơn cho việc đánh giá tâm lý.

của Lovibond

Một số nghiên cứu về stress, lo âu, trầm cảm trên thế giới và tại Việt Nam

1.3.1 Một số nghiên cứu trên thế giới

Hiện nay, sức khoẻ tâm thần đang nhận được sự quan tâm ngày càng lớn Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra các vấn đề như stress, lo âu và trầm cảm ở nhiều nhóm đối tượng khác nhau, bao gồm công nhân, học sinh, sinh viên, nhân viên lái xe buýt và cựu chiến binh Đặc biệt, nhân viên y tế, những người chăm sóc sức khoẻ cho cộng đồng, cũng là đối tượng được nghiên cứu kỹ lưỡng.

Nghiên cứu của Refai Yassen Al-Hussein và Ahmed Moshirf Al-Mteiwty

Năm 2007, một nghiên cứu đã sử dụng thang đo DASS 21 để đánh giá tỉ lệ nhân viên y tế bị trầm cảm, lo âu và stress tại 07 bệnh viện ở thành phố Mosul, Iran Mẫu nghiên cứu bao gồm hai nhóm đối tượng khác nhau.

Một nghiên cứu đã khảo sát 250 điều dưỡng và 250 nhân viên y tế khác, bao gồm nhân viên X-quang, nhân viên phòng xét nghiệm, dược sĩ và cán bộ vật lý trị liệu Kết quả cho thấy 16% điều dưỡng bị trầm cảm, trong khi tỷ lệ này ở nhóm nhân viên còn lại chỉ là 7,6% Bên cạnh đó, 20,8% điều dưỡng gặp rối loạn lo âu, so với 7,6% ở nhóm còn lại, và 10% điều dưỡng bị stress, trong khi nhóm khác chỉ có 6% Nghiên cứu khẳng định rằng điều dưỡng có nguy cơ mắc các rối loạn tâm thần nhiều hơn so với các nhân viên y tế khác, tuy nhiên vẫn chưa xác định được nguyên nhân cụ thể.

10 dẫn đến kết luận cũng như các yếu tố liên quan đến vấn đề SKTT của các nhóm đối tượng [40]

Nghiên cứu của Khalid S Al-Gelban (2009) đã sử dụng thang đo DASS 42 để đánh giá tình trạng stress, lo âu và trầm cảm của 304 bác sĩ tại vùng Aseer, Saudi Arabia Kết quả cho thấy tỷ lệ mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần là khá thấp, với 7,6% trầm cảm, 8,6% lo âu và 7,2% stress Nghiên cứu cũng đã phân tích mối liên quan giữa các yếu tố như tuổi, giới tính, quốc tịch, tình trạng hôn nhân, bằng cấp và số năm kinh nghiệm Hai yếu tố có ý nghĩa thống kê liên quan đến stress và lo âu là giới tính và trình độ chuyên môn, trong đó nữ giới có tỷ lệ mắc stress và lo âu cao hơn nam giới.

Nghiên cứu của Asad Zandi và cộng sự (2011) đã khảo sát tỉ lệ stress, lo âu và trầm cảm ở 272 điều dưỡng tại 29 khoa phòng của một bệnh viện quân đội, sử dụng thang đo DASS 21 Kết quả cho thấy 24,9% điều dưỡng mắc trầm cảm, 27,9% lo âu và 23,8% stress, với nữ giới có tỉ lệ cao hơn nam giới Nghiên cứu cũng chỉ ra mối quan hệ thống kê giữa các yếu tố như tuổi tác, trình độ học vấn, số giờ làm thêm và nơi làm việc với tình trạng tâm lý Tuy nhiên, nghiên cứu chưa xem xét các yếu tố cá nhân như mối quan hệ gia đình, bạn bè và xã hội.

Nghiên cứu của Mostafa A F.Abbas, Lamiaa Z.Abu Zaid và Mona Hussaein (2013) tại King Fahad Medical City, Saudi Arabia, đã khảo sát tình trạng lo âu và trầm cảm ở 715 điều dưỡng viên bằng bộ công cụ HADS Kết quả cho thấy 25% điều dưỡng có triệu chứng trầm cảm, trong đó 10% có thể mắc bệnh; 27% có triệu chứng lo âu, với 20% có khả năng mắc rối loạn lo âu Nghiên cứu chỉ ra rằng ly hôn/goá, ít vận động và hút thuốc lá là những yếu tố nguy cơ cho tình trạng lo âu, trầm cảm của nhân viên y tế Đặc biệt, tác giả không phát hiện mối liên quan có ý nghĩa giữa các yếu tố công việc như trực đêm và tăng ca với tình trạng lo âu, trầm cảm.

Nghiên cứu của Creedy D.K (2017) sử dụng thang đo DASS 21 để khảo sát tình trạng stress, lo âu và trầm cảm ở 1037 điều dưỡng và nữ hộ sinh tại Australia, cho thấy tỷ lệ stress là 22,1%, trầm cảm 17,3% và lo âu 20,4% Nghiên cứu cũng nhấn mạnh rằng các rối loạn tâm thần của nhân viên y tế có mối liên hệ đáng kể với đặc điểm công việc, mặc dù chưa đi sâu vào phân tích các yếu tố này.

1.3.2 Thực trạng stress, lo âu và trầm cảm của nhân viên y tế tại Việt Nam

Tại Việt Nam, sức khỏe tâm thần (SKTT) đang ngày càng được chú trọng, nhưng nghiên cứu về stress, lo âu và trầm cảm trong nhân viên y tế (NVYT) vẫn còn hạn chế, chủ yếu tập trung vào stress nghề nghiệp Một số công trình nghiên cứu đáng chú ý đã được thực hiện trong lĩnh vực này.

Nghiên cứu của Lê Thành Tài và cộng sự (2008) đã đánh giá tình trạng stress nghề nghiệp của điều dưỡng tại các bệnh viện đa khoa ở Cần Thơ và Hậu Giang, sử dụng bộ công cụ đánh giá của David Fontana Kết quả cho thấy Bệnh viện đa khoa Trung ương Cần Thơ có tỷ lệ stress cao nhất (53,1%), tiếp theo là Bệnh viện đa khoa thành phố Cần Thơ (33,9%) và thấp nhất là Bệnh viện đa khoa Châu Thành – Hậu Giang (32,5%) Các yếu tố gây stress bao gồm thâm niên công tác, thời gian làm việc kéo dài (>8h/ngày), áp lực công việc, thiếu hứng thú, điều kiện làm việc không thuận lợi, tiếp xúc với mầm bệnh, và mâu thuẫn với đồng nghiệp, cấp trên, cùng với thu nhập chưa thỏa đáng và cơ hội thăng tiến hạn chế.

Nghiên cứu của Đỗ Nguyễn Nhựt Trần và cộng sự (2008) tại Đồng Nai cho thấy 79% nhân viên y tế huyện Nhơn Trạch gặp phải tình trạng stress, trong đó 27% thường xuyên bị stress Các yếu tố liên quan đến stress bao gồm trình độ học vấn, tính chất công việc, mức độ hài lòng, hoạt động thể lực, thời gian nghỉ ngơi không hợp lý, áp lực hoàn thành công việc, thiếu sự quan tâm từ cấp trên, bị quấy rối và phân biệt đối xử, cũng như thiếu trang thiết bị Mặc dù nghiên cứu cũng xem xét các yếu tố cá nhân như mối quan hệ với gia đình và bạn bè, nhưng không tìm thấy mối liên hệ rõ ràng giữa những yếu tố này và trạng thái stress.

Nghiên cứu của Trần Thị Thúy (2011) đánh giá mức độ stress ở 120 nhân viên y tế tại Bệnh viện Ung bướu Hà Nội, sử dụng thang đo DASS 21 để xác định ba trạng thái: stress, lo âu và trầm cảm Kết quả cho thấy 36,9% nhân viên y tế có biểu hiện stress, 41,5% lo âu và 15,3% trầm cảm, trong đó mức độ nặng của stress, lo âu và trầm cảm lần lượt là 0,9%, 4,5% và 1,8% Phân tích hồi quy logistic đa biến chỉ ra rằng một số yếu tố như số buổi trực trên 4 buổi và cảm nhận công việc ít hứng thú có liên quan đến việc gia tăng trạng thái stress.

Tiếp xúc với hóa chất độc hại có thể ảnh hưởng tiêu cực đến mối quan hệ với người bệnh Nghiên cứu hiện tại chưa đánh giá đầy đủ các yếu tố tác động đến tình trạng stress, như đời sống cá nhân, gia đình và các mối quan hệ bên ngoài công việc Hơn nữa, nghiên cứu chỉ tập trung vào các yếu tố liên quan đến stress mà chưa xem xét các yếu tố liên quan đến lo âu và trầm cảm.

Nghiên cứu của Nguyễn Trung Tần (2012) về stress của nhân viên y tế tại Bệnh viện tâm thần Tiền Giang chỉ ra rằng 75,7% nhân viên y tế thỉnh thoảng trải qua stress, trong khi 14,7% gặp phải tình trạng stress thường xuyên.

Nghiên cứu của Đậu Thị Tuyết (2013) sử dụng thang đo DASS 21 để đánh giá tình trạng stress, lo âu, và trầm cảm của nhân viên y tế tại hai bệnh viện ở Nghệ An Kết quả cho thấy tỉ lệ nhân viên y tế gặp stress, lo âu, và trầm cảm tương đối cao, với các mức trung bình lần lượt là 20,4%, 29%, và 13,6% Bệnh viện đa khoa thành phố Vinh có tỉ lệ stress và trầm cảm thấp hơn nhưng lại cao hơn về lo âu so với bệnh viện đa khoa khu vực 115 Nghệ An, mặc dù sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê Phân tích hồi quy logistic xác định 11 yếu tố liên quan đến tình trạng này, mà không có yếu tố chung giữa hai bệnh viện Một số yếu tố chính bao gồm: tại bệnh viện đa khoa thành phố Vinh, stress liên quan đến mức độ hứng thú trong công việc, trong khi trầm cảm liên quan đến cơ sở vật chất; tại bệnh viện đa khoa 115 Nghệ An, stress liên quan đến nguy cơ lây nhiễm và lo âu liên quan đến sự rõ ràng trong phân công công việc Nghiên cứu cũng xem xét một số yếu tố tác động khác như cá nhân, gia đình, và môi trường xã hội, nhưng chỉ dừng lại ở mô tả chung mà chưa phân tích sâu hơn.

Nghiên cứu của Ngô Thị Kiều My và cộng sự (2014) trên 370 điều dưỡng và hộ sinh tại BV Phụ Sản – Nhi Đà Nẵng cho thấy tỷ lệ bị stress, lo âu và trầm cảm lần lượt là 18,1%, 33,2% và 18,4% Phân tích hồi quy logistic đa biến chỉ ra rằng các yếu tố liên quan đến stress bao gồm công việc chưa ổn định, diện tích nơi làm việc chật chội và mối quan hệ không tốt với cấp trên Đối với lo âu, các yếu tố liên quan gồm thiếu vận động, gặp biến cố cá nhân, sức khỏe kém và sự không công bằng trong đánh giá công việc Cuối cùng, tình trạng sức khỏe cũng là yếu tố liên quan đến trầm cảm.

13 không tốt, chưa tự chủ trong công việc, ít tham gia hoạt động văn thể mỹ tại bệnh viện, quan hệ với cấp trên không tốt [14]

Giới thiệu về địa điểm nghiên cứu

Sóc Sơn là một huyện ngoại thành thuộc Hà Nội, nằm cách trung tâm thành phố khoảng 35km về phía Bắc Huyện này bao gồm 26 đơn vị hành chính, trong đó có thị trấn Sóc Sơn và 25 xã như Bắc Phú, Bắc Sơn, Đông Xuân, Đức Hoà, Hiền Ninh, Hồng Kỳ, Kim Lũ, Mai Đình, Minh Phú, Nam Sơn, Phú Cường, Phù Linh, Phù Lỗ, Phú Minh, Quang Tiến, Tân Dân, Tân Hưng, Tân Minh, Thanh Xuân, Tiên Dược, Trung Giã, Việt Long, Xuân Giang và Xuân Thu.

Sóc Sơn đã phát huy nội lực và tận dụng xu thế phát triển để trở thành ngoại thành của trung tâm kinh tế lớn thứ hai tại Việt Nam Với hạ tầng ngày càng hoàn thiện và sự xuất hiện của các trung tâm công nghiệp như Trung tâm công nghiệp Nội Bài, Sóc Sơn đã chuyển mình từ huyện thuần nông sang cơ cấu kinh tế đa dạng hơn với công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp Bên cạnh thành tựu kinh tế, lĩnh vực văn hóa xã hội cũng ghi nhận sự phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là các chỉ tiêu y tế đạt nhiều kết quả khả quan.

Trung tâm Y tế huyện Sóc Sơn được thành lập năm 1988 theo quyết định số

Ngày 30/06/1988, UBND Thành phố Hà Nội ban hành quyết định số 3025, và sau đó, Quyết định số 494 của UBND huyện Sóc Sơn vào ngày 22/07/1988 Đến tháng 10 năm 2008, 26 Trạm Y tế xã và thị trấn đã được sát nhập, nâng tổng số cơ sở y tế trực thuộc lên 30 đơn vị Theo chỉ đạo của Sở Y tế Hà Nội, vào ngày 10/05/2016, Trung tâm Y tế huyện Sóc Sơn đã tổ chức hội thảo xây dựng mô hình bác sĩ gia đình tại Hà Nội Hiện tại, Trung tâm có 5 khoa chuyên môn, 3 phòng chức năng, 4 phòng khám khu vực và 26 trạm y tế xã, thị trấn đạt chuẩn, với đội ngũ 417 cán bộ chuyên môn, bao gồm 2 bác sĩ chuyên khoa II, 14 bác sĩ chuyên khoa I, 11 thạc sĩ, 4 dược sĩ đại học, 55 bác sĩ và 41 dược sĩ trung học, cùng nhiều nhân lực có trình độ chuyên môn cao.

Trung tâm không chỉ chú trọng vào nguồn nhân lực mà còn đầu tư mạnh mẽ vào cơ sở hạ tầng, đảm bảo đầy đủ các phòng chuyên môn theo quy định Đặc biệt, trung tâm đã trang bị các thiết bị kỹ thuật hiện đại như máy siêu âm màu, máy nội soi các loại, máy X-quang kỹ thuật số, điện tim, máy đo tật khúc xạ, ghế răng, máy xét nghiệm, kính sinh hiển vi và máy khí dung, nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của bệnh nhân và nâng cao chất lượng khám chữa bệnh.

Để nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, Trung tâm y tế huyện Sóc Sơn đã hợp tác với các bệnh viện lớn tuyến 1 và tuyến 2 tại Hà Nội, bao gồm BV Châm cứu Trung ương, BV Tim Hà Nội, BV Lão khoa Trung Ương, BV Ung bướu Hà Nội, BV Mắt Hà Nội và BV Bắc Thăng Long.

Trung tâm Y tế Sóc Sơn cam kết phục vụ người bệnh với phương châm “Người bệnh là trung tâm phục vụ”, từ đó khẳng định vai trò quan trọng trong hoạt động chuyên môn Trung tâm không chỉ là nơi bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân mà còn góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực y tế.

Huyện Sóc Sơn đang tích cực thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng nông thôn mới, nhằm trở thành một trong những huyện phát triển năng động của Thủ đô Hà Nội.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là cán bộ và nhân viên y tế làm việc tại các Trạm Y tế, Phòng khám Đa khoa khu vực và Phòng khám Đa khoa huyện ở huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.

Nhân viên y tế, bao gồm bác sĩ, dược sĩ, y tá, điều dưỡng viên và kỹ thuật viên, hiện đang làm việc tại các Trạm Y tế và Phòng khám Đa khoa khu vực, cũng như Phòng khám Đa khoa huyện thuộc huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.

- Cán bộ phải công tác tại đơn vị từ 6 tháng trở lên tính đến ngày làm nghiên cứu điều tra tại đơn vị đó

- Đối tượng không đủ các tiêu chuẩn trên

- Đối tượng vắng mặt tại thời điểm điều tra (nghỉ thai sản, nghỉ phép, nghỉ do ốm đau bệnh tật…)

- Đối tượng từ chối tham gia nghiên cứu.

Địa điểm và thời gian nghiên cứu

- Địa điểm nghiên cứu: Các Trạm Y tế, Phòng khám đa khoa khu vực, Phòng khám đa khoa huyện trên địa bàn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội

- Thời gian nghiên cứu: Tháng 06 năm 2019.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu mô tả cắt ngang

Tất cả 355 nhân viên y tế tại Trung tâm y tế huyện Sóc Sơn đã được liên hệ và phát phiếu tự điền, đáp ứng đầy đủ tiêu chí chọn đối tượng Mọi nhân viên đều đồng ý tham gia và đã hoàn thành thông tin trong phiếu điều tra, đạt tỷ lệ 100%.

2.3.3 Các chỉ số và biến số nghiên cứu

Bảng 2.1 Các chỉ số và biến số nghiên cứu

Mục tiêu Biến số Định nghĩa Phân loại biến Đặc trưng cá nhân và đặc điểm công việc

Tuổi Tuổi dương lịch, lấy 2019 trừ đi năm sinh của ĐTNC Định lượng Giới tính Là giới nam hay nữ Định tính

Dân tộc Dân tộc của ĐTNC Định tính

Tôn giáo Tôn giáo của ĐTNC Định tính Nơi ở hiện tại Nơi ở hiện tại của ĐTNC Định tính

Là chưa kết hôn/kết hôn/ly thân, ly dị hay goá bụa Định tính

Số con Số con mà ĐTNC hiện có Định lượng

Lĩnh vực chuyên môn Chuyên ngành được đào tạo Định tính

Trình độ học vấn cao nhất mà ĐTNC hoàn thành (trung cấp, cao đẳng, đại học, CK1, CK2, thạc sĩ) Định tính

Thời gian công tác trong ngành y

Số năm công tác của ĐTNC trong ngành y Định lượng

Thời gian công tác tại PK/TYT

Số năm công tác của ĐTNC trong TYT và PK Định lượng

Mục tiêu Biến số Định nghĩa Phân loại biến

Hình thức lao đông của ĐTNC (hợp đồng/ biên chế) Định tính

Chức vụ của ĐTNC ở PK,

Mức thu nhập hàng tháng

Mức thu nhập hàng tháng của ĐTNC (triệu VNĐ/tháng) Định lượng

Thời gian làm việc hàng ngày

Thời gian làm việc hàng ngày của ĐTNC (giờ) Định lượng

Xác định tỉ lệ stress, trầm cảm và lo âu của nhân viên y tế thuộc

Trung tâm y tế huyện Sóc

Sơn, thành phố Hà Nội năm 2019.

Mức độ stress của NVYT theo thang điểm DASS 21 (không stress, stress nhẹ, vừa, nặng hoặc rất nặng) Định tính

Mức độ lo âu của NVYT theo thang điểm DASS 21 (không lo âu, lo âu nhẹ, vừa, nặng hoặc rất nặng) Định tính

Mức độ trầm cảm của NVYT theo thang điểm DASS 21 (không trầm cảm, trầm cảm nhẹ, vừa, nặng hoặc rất nặng) Định tính

Xác định một số yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm và lo âu của nhân viên

Nhóm tuổi Nhóm tuổi £30 hoặc >30 Định tính

Giới tính Nam hoặc nữ (theo giấy khai sinh) Định tính

Nhóm tình trạng hôn nhân

Có gia đình hoặc nhóm độc thân, ly thân, ly dị, goá Định tính

Mục tiêu Biến số Định nghĩa Phân loại biến y tế thuộc

Trung tâm y tế huyện Sóc

Sơn, thành phố Hà Nội

Có con Đã có con hoặc không Định tính

Nhóm lĩnh vực chuyên môn

Nhóm bác sĩ, y sĩ, điều dưỡng hoặc khác Định tính

Nhóm thời gian công tác trong ngành y

Nhóm thời gian công tác trong ngành y

Ngày đăng: 12/07/2021, 01:45

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. 10,7% người lao động bị rối loạn tâm thần (2008), truy cập ngày 11/11/2013, tại trang web http://www.baomoi.com/107-nguoi-lao-dong-bi-roi-loan-tam-than/82/1881892.epi Sách, tạp chí
Tiêu đề: 10,7% người lao động bị rối loạn tâm thần
Tác giả: 10,7% người lao động bị rối loạn tâm thần
Năm: 2008
4. Bộ Y tế (2012), Gánh nặng tâm thần trong lao động, Sức khoẻ nghề nghiệp - Sách đào tạo Bác sỹ chuyên khoa Định hướng Y học dự phòng, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Gánh nặng tâm thần trong lao động
Tác giả: Bộ Y tế
Nhà XB: Nhà xuất bản Y học
Năm: 2012
6. Nguyễn Hữu Chiến (2016), Rối loạn trầm cảm, truy cập ngày-2020, tại trang webhttp://www.bvtttw1.gov.vn/?lang=V&func=newsdetail&newsid=845&CatID=34&MN=7 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Rối loạn trầm cảm
Tác giả: Nguyễn Hữu Chiến
Năm: 2016
8. Đại học Y tế Công cộng (dự án VINE) (2011), Gánh nặng bệnh tật và chấn thương ở Việt Nam 2008, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, 48-50 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Gánh nặng bệnh tật và chấn thương ở Việt Nam 2008
Tác giả: Đại học Y tế Công cộng (dự án VINE)
Nhà XB: Nhà xuất bản Y học
Năm: 2011
9. Nguyễn Ý Đức (2013), Đời sống và stress, truy cập ngày, tại trang web https://tailieu.vn/doc/doi-song-va-stress-bs-nguyen-y-uc--1439230.html Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đời sống và stress
Tác giả: Nguyễn Ý Đức
Năm: 2013
10. Trương Thị Hoà (2018), Rối loạn trầm cảm ở người nhiễm HIV/AIDS tại phòng khám ngoại trú huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh, Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Rối loạn trầm cảm ở người nhiễm HIV/AIDS tại phòng khám ngoại trú huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả: Trương Thị Hoà
Năm: 2018
11. Nguyễn Thị Huyền (2018), TTYT huyện Sóc Sơn: Phát triển toàn diện theo mô hình Bác sĩ gia đình quản lý sức khỏe toàn dân, truy cập ngày, tại trang web http://soyte.hanoi.gov.vn/vi/news/hoat-dong-co-so/ttyt-huyen-soc-son-phat-trien-toan-dien-theo-mo-hinh-bac-si-gia-dinh-quan-ly-suc-khoe-toan-dan-3315.html Sách, tạp chí
Tiêu đề: TTYT huyện Sóc Sơn: Phát triển toàn diện theo mô hình Bác sĩ gia đình quản lý sức khỏe toàn dân
Tác giả: Nguyễn Thị Huyền
Năm: 2018
12. Nguyễn Thanh Hương, Nguyễn Hữu Xuân Trường và Trần Thị Giáng Hương (2012), "Rối loạn lo âu và một số yếu tố liên quan ở cán bộ bệnh viện tâm thần Đà Nẵng", Tạp chí Y Tế Công cộng, 29(29), tr. 11-16 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Rối loạn lo âu và một số yếu tố liên quan ở cán bộ bệnh viện tâm thần Đà Nẵng
Tác giả: Nguyễn Thanh Hương, Nguyễn Hữu Xuân Trường và Trần Thị Giáng Hương
Năm: 2012
13. Đặng Phương Kiệt (2001), Cơ sở tâm lý học ứng dụng, Nhà xuất bản ĐHQG Hà Nội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cơ sở tâm lý học ứng dụng
Tác giả: Đặng Phương Kiệt
Nhà XB: Nhà xuất bản ĐHQG Hà Nội
Năm: 2001
14. Ngô Thị Kiều My, Trần Đình Vinh và Đỗ Mai Hoa (2014), Đánh giá tình trạng stress, lo âu, trầm cảm của điều dưỡng và hộ sinh khối lâm sàng Bệnh viện Phụ sản Nhi Đà Nẵng năm 2014, Tạp chí Y Tế Công cộng, Trường Đại học Y tế Công cộng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đánh giá tình trạng stress, lo âu, trầm cảm của điều dưỡng và hộ sinh khối lâm sàng Bệnh viện Phụ sản Nhi Đà Nẵng năm 2014
Tác giả: Ngô Thị Kiều My, Trần Đình Vinh và Đỗ Mai Hoa
Năm: 2014
15. Nguyễn Huỳnh Ngọc (2010), Tâm lý y học y đức, Vol. 2, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, tr. 67-68 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tâm lý y học y đức
Tác giả: Nguyễn Huỳnh Ngọc
Nhà XB: Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam
Năm: 2010
16. Lê Thanh Nhuận và Phạm Cự Linh (2009), "Sự hài lòng đối với công việc của nhân viên y tế tuyến cơ sở", Tạp chí Y Tế Công cộng, 13(13), tr. 51 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sự hài lòng đối với công việc của nhân viên y tế tuyến cơ sở
Tác giả: Lê Thanh Nhuận và Phạm Cự Linh
Năm: 2009
17. Jean Marc Olivé (2008), Bài bình luận nhân ngày sức khoẻ tâm thần thế giới 10/10/2008, truy cập ngày 11/11/2013, tại trang web http://www.wpro.who.int/vietnam/mediacentre/releases/2008/10102008/vi/index.html Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bài bình luận nhân ngày sức khoẻ tâm thần thế giới 10/10/2008
Tác giả: Jean Marc Olivé
Năm: 2008
18. Lê Thành Tài, Trần Ngọc Xuân và Trần Trúc Linh (2008), "Tình hình stress nghề nghiệp của nhân viên điều dưỡng", Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, 12(4), tr. 216-220 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tình hình stress nghề nghiệp của nhân viên điều dưỡng
Tác giả: Lê Thành Tài, Trần Ngọc Xuân và Trần Trúc Linh
Năm: 2008
19. Ngô Ngọc Tản và Nguyễn Văn Ngân (2007), Tâm thần học và tâm lý y học, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tâm thần học và tâm lý y học
Tác giả: Ngô Ngọc Tản và Nguyễn Văn Ngân
Nhà XB: Nhà xuất bản Quân đội nhân dân
Năm: 2007
20. Nguyễn Trung Tần (2012), Stress của nhân viên y tế tại bệnh viện tâm thần Tiền Giang, Luật văn Thạc sĩ Tâm lý học, Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Stress của nhân viên y tế tại bệnh viện tâm thần Tiền Giang
Tác giả: Nguyễn Trung Tần
Năm: 2012
21. Nguyễn Viết Thêm và Võ Tăng Lâm (2001), "Lo âu, trầm cảm trong thực hành tâm thần học", Nội san tâm thần học, 6, tr. 31-37 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lo âu, trầm cảm trong thực hành tâm thần học
Tác giả: Nguyễn Viết Thêm và Võ Tăng Lâm
Năm: 2001
5. Cẩm nang bệnh, truy cập ngày 26/04/2020, tại trang web http://www.camnangbenh.com/stress/ Link
28. Trung tâm Y tế huyện Sóc Sơn, truy cập ngày 07/05/2020, tại trang web http://trungtamytesocson.org.vn/gioi-thieu.htm Link
51. World Health Organization (1946), 1948, New York, truy cập ngày, tại trang web https://www.who.int/about/who-we-are/frequently-asked-questions Link

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w