TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH CHĂN NUÔI Ở VIỆT NAM VÀ BẾN TRE TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
Tình hình chăn nuôi và tiêu thụ thịt ở Việt Nam
Ngành chăn nuôi heo đóng góp quan trọng cho GDP nông nghiệp Việt Nam, nhưng cũng gây ra vấn đề ô nhiễm môi trường nghiêm trọng do hoạt động chăn nuôi.
Phát triển chăn nuôi theo hướng tập trung và chuyên môn hóa cao là yếu tố quan trọng trong công nghiệp hóa nông nghiệp Việt Nam Với dân số đạt 87,84 triệu người vào năm 2011, nhu cầu thực phẩm ngày càng tăng đòi hỏi sự hiện đại hóa trong sản xuất nông nghiệp Diện tích đất nông nghiệp giảm do đô thị hóa và phát triển công nghiệp, vì vậy việc nâng cao quy mô và năng suất chăn nuôi là xu thế cần thiết để cung cấp thực phẩm chất lượng cho người dân và xuất khẩu.
Theo Tổng cục Thống kê, vào năm 2012, tổng đàn gia súc gia cầm của cả nước ghi nhận 26,5 triệu con heo, giảm 2,1% so với năm 2011 Trong số đó, đàn heo nái có 4,0 triệu con, giảm 0,5%; đàn trâu đạt 2,6 triệu con, giảm 3,1%; và đàn bò có 5,2 triệu con, giảm 4,5%.
Hình 1.1 Biểu đồ mức tăng trưởng giá trị trung bình/năm của ngành chăn nuôi qua các giai đoạn
Hình 1.2 Biểu đồ sản lượng xẻ thịt qua các năm
Theo xu hướng tiêu dùng hiện nay, nhu cầu thịt đang gia tăng, với thịt heo vẫn chiếm ưu thế cao nhất, đạt từ 63 - 65% tổng lượng tiêu thụ các loại thịt.
Vì vậy ngành chăn nuôi heo vẫn đóng một vai trò rất quan trọng trong cung cấp thực phẩm tiêu dùng của con người
Trong những năm gần đây, chăn nuôi bò sữa đã có sự phát triển mạnh mẽ, không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu thụ sữa tươi mà còn cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy chế biến sữa Theo thống kê của Tổng cục ngày 1/10/2012, ngành chăn nuôi bò sữa đang ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế nông nghiệp.
Thống kê thì tổng đàn bò sữa năm 2012 của cả nước đạt khoảng 167 ngàn con, tăng hơn 24 ngàn con, với tốc độ tăng trưởng đạt 17%/năm [12]
Bảng 1.1 Số lượng gia súc và sản lượng sản phẩm chăn nuôi nước ta năm
(Nguồn: Tổng Cục Thống kê Việt Nam, 2011)
Các hệ thống chăn nuôi
Sản xuất chăn nuôi tại Việt Nam chủ yếu diễn ra ở quy mô nhỏ, với hơn 92% người chăn nuôi sử dụng lao động gia đình, theo báo cáo của IFPRI và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Các hộ chăn nuôi không chỉ tập trung vào hoạt động chăn nuôi mà còn đa dạng hóa sang trồng trọt và các hoạt động phi nông nghiệp khác Đông Nam Bộ hiện là khu vực có mật độ gia trại chăn nuôi gia cầm hàng hóa lớn nhất cả nước.
Tùy thuộc vào điều kiện sinh thái và thực tiễn của từng địa phương, các hình thức chăn nuôi trang trại có thể được lựa chọn đa dạng Các loại hình chăn nuôi này sẽ phù hợp với đặc điểm và nhu cầu cụ thể của từng khu vực.
Trang trại chăn nuôi hộ gia đình theo quy hoạch (chỉ một chủ trang trại đầu tư)
Trang trại gắn với khu chăn nuôi tập trung (có nhiều chủ trang trại đầu tư)
Loại gia súc Đơn vị tính Đầu con Sản phẩm (ngàn tấn)
Heo Ngàn con 27627,7 2908,5 Ngựa Ngàn con 102,2
Trang trại chăn nuôi hỗn hợp (vừa chăn nuôi vừa trồng trọt kết hợp nuôi trồng thuỷ sản)
Tất cả các loại hình chăn nuôi trang trại cần tuân thủ quy hoạch lâu dài của địa phương, đảm bảo cách xa khu dân cư và khu công nghiệp, đồng thời phải đáp ứng các tiêu chí vệ sinh thú y và bảo vệ môi trường sinh thái.
Xu hướng phát triển
Chăn nuôi đang khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế nông nghiệp và nông thôn Việt Nam, với giá trị ước đạt 11.000 tỷ USD và tốc độ tăng trưởng từ 6 - 8% mỗi năm Xu hướng chuyển từ hình thức chăn nuôi nhỏ lẻ sang các trang trại quy mô lớn, sử dụng trang thiết bị hiện đại và quy trình công nghệ tiên tiến đang diễn ra mạnh mẽ Điều này không chỉ đảm bảo vệ sinh môi trường và sản xuất thực phẩm an toàn mà còn giúp ngành chăn nuôi cạnh tranh hơn và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, đồng thời hướng tới xuất khẩu.
Trong những năm gần đây, nhiều biện pháp xử lý chất thải đã được áp dụng rộng rãi nhờ vào nỗ lực nghiên cứu của các nhà quản lý và nhà khoa học Xu hướng xây dựng trang trại chăn nuôi thân thiện với môi trường không chỉ giải quyết vấn đề chất thải mà còn đảm bảo tính bền vững, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm Việc kết hợp giữa chăn nuôi và bảo vệ môi trường là xu hướng tất yếu cho sự phát triển bền vững của ngành chăn nuôi, đồng thời khuyến cáo các mô hình sản xuất thân thiện với môi trường là cần thiết trong bối cảnh hội nhập kinh tế nông thôn hiện nay.
Giới thiệu về Bến Tre
Hình 1.3 Bản đồ tỉnh Bến Tre
Bến Tre, một trong 13 tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long, có diện tích tự nhiên 2.315 km², được hình thành từ các cù lao An Hoá, Bảo và Minh Tỉnh này được bồi tụ bởi phù sa từ bốn nhánh sông Cửu Long, bao gồm sông Tiền dài 83 km, sông Ba Lai dài 59 km, sông Hàm Luông dài 71 km và sông Cổ Chiên dài 82 km.
1.4.1 Điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội
Tỉnh Bến Tre có hình dạng như một chiếc quạt, với đầu nhọn nằm ở thượng nguồn và hệ thống kênh rạch dày đặc Phía Bắc, tỉnh giáp với Tiền Giang qua sông Tiền, trong khi phía Tây và Nam tiếp giáp với Vĩnh Long và Trà Vinh qua sông Cổ Chiên Bên cạnh đó, tỉnh còn có bờ biển dài 65 km hướng ra biển Đông ở phía Đông.
Bến Tre nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, với nhiệt độ trung bình hàng năm dao động từ 26°C đến 27°C, ít biến đổi trong năm Lượng mưa trung bình hàng năm ở đây từ 1.250 mm đến 1.500 mm, trong đó mùa khô chỉ chiếm khoảng 2-6% tổng lượng mưa cả năm Địa hình Bến Tre chủ yếu bằng phẳng, có những giồng cát xen kẽ với ruộng vườn, không có rừng cây lớn, chỉ có một số rừng chồi và dải rừng ngập mặn ven biển.
Bến Tre có hệ thống sông ngòi phong phú với các cửa sông chính như cửa Đại, cửa Ba Lai, cửa Hàm Luông và cửa Cổ Chiên, kết nối từ biển Đông đến tận Campuchia, tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông thủy và phát triển kinh tế Với khoảng 6.000 km kênh rạch, nơi đây bồi đắp phù sa cho ba dải cù lao, hỗ trợ cho kinh tế vườn và trao đổi hàng hóa với các tỉnh lân cận Tàu bè từ Bến Tre có thể dễ dàng di chuyển đến thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Tây, trong khi đó, tất cả tàu bè từ thành phố Hồ Chí Minh đều phải đi qua Bến Tre Tỉnh có độ cao trung bình từ 1 - 2 m so với mực nước biển, với địa hình bờ biển chủ yếu là bãi bồi rộng, thuận lợi cho nuôi trồng hải sản khi triều rút.
Bến Tre có diện tích trồng lúa lớn nhờ phù sa sông Cửu Long, đặc biệt tại Hàm Luông Lúa là cây lương thực chính, trong khi khoai lang, bắp và rau cũng đóng vai trò quan trọng Mía được trồng nhiều ở các vùng đất phù sa ven sông, nổi bật nhất là các loại mía tại Mỏ Cày và Giồng Trôm Ngoài ra, Mỏ Cày còn nổi tiếng với diện tích trồng thuốc lá, đặc biệt là loại thuốc thơm.
Hình 1.4 Cánh đồng lúa ở Bến Tre
Hình 1.5 Làng trồng hoa, cây cảnh ở Chợ Lách
Bến Tre nổi tiếng với nhiều loại cây ăn trái như cam, quít, sầu riêng, chuối, và măng cụt, chủ yếu trồng ở các huyện Chợ Lách, Giồng Trôm, Mỏ Cày và Châu Thành Ngoài ra, địa phương còn có đặc sản kẹo dừa, bánh tráng Mỹ Lồng và bánh phồng Sơn Đốc Làng nghề Cái Mơn tại huyện Chợ Lách cung cấp hàng triệu giống cây ăn quả và cây cảnh nổi tiếng mỗi năm Năm 2012, Bến Tre đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế 10%, cải thiện đời sống nhân dân, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống 11%, và đảm bảo an sinh xã hội, giữ vững ổn định chính trị.
Chăn nuôi là một nghề truyền thống quan trọng của người dân Nam Bộ, đặc biệt là ở Bến Tre Người dân thường sinh sống gần các kênh rạch, nên chuồng trại cho gia súc và gia cầm thường được xây dựng gần nguồn nước hoặc thả rong Mặc dù số lượng gia súc, gia cầm đã giảm do dịch cúm gia cầm vào năm 2003 và 2004, nhưng sau đó, ngành chăn nuôi đã phục hồi và tiếp tục phát triển mạnh mẽ.
2008, và đến năm 2012 thì tổng đàn heo toàn tỉnh đạt 440.000 con, tăng 2% so cùng
12 kỳ; đàn bò ước 164.000 con, giảm 1,5% so cùng kỳ, đàn gia cầm xấp xỉ 5 triệu con, tăng 4,9% so cùng kỳ [29]
Theo báo cáo về tình hình thực hiện Nghị quyết Hội đồng Nhân dân tỉnh Bến Tre, chăn nuôi tại tỉnh tiếp tục phát triển với chất lượng và hiệu quả nhờ áp dụng phương pháp lai tạo và nhân giống mới Giá thịt gia súc, gia cầm tăng, giúp nâng cao thu nhập cho người chăn nuôi Các dịch bệnh nguy hiểm như heo tai xanh, cúm gia cầm không xảy ra, trong khi các bệnh thông thường như tụ huyết trùng, phó thương hàn, tiêu chảy chỉ xuất hiện rải rác và được điều trị kịp thời Ngành chức năng và các địa phương đang tăng cường tuyên truyền về phòng chống dịch bệnh, thực hiện vệ sinh chuồng trại và quản lý chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học.
Từ cuối quý 1/2012, ngành chăn nuôi heo gặp khó khăn do giá heo hơi thấp và thông tin về chất cấm trong chăn nuôi Tuy nhiên, đàn heo vẫn giữ ổn định, trong khi đàn gia cầm tăng so với cùng kỳ Ngược lại, đàn bò giảm do nhu cầu tiêu thụ tăng và giá thịt bò cao, với số lượng bò xuất chuồng tăng nhanh hơn số sinh mới Mô hình chăn nuôi tiếp tục phát triển theo hướng trang trại và an toàn sinh học.
Hiện trạng quản lý chất thải chăn nuôi tại tỉnh Bến Tre
1.5.1 Đặc điểm của chất thải chăn nuôi
1.5.1.1 Nguồn phát sinh chất thải
Trong quá trình chăn nuôi, chất thải chăn nuôi phát sinh bao gồm:
Chất thải do bản thân vật nuôi: phân, nước tiểu, lông, vẩy da,
Nước: từ quá trình tắm rửa gia súc, vệ sinh chuồng trại, vệ sinh vật dụng trong chăn nuôi,
Thức ăn thừa, thức ăn rơi vãi, vật dụng chăn nuôi, vật phẩm thú y, vỏ bao chứa thức ăn,
Khí thải từ chuồng nuôi; từ hố chứa phân, nước thải; nơi chế biến thức ăn cho gia súc
Tiếng ồn phát sinh chủ yếu từ chuồng nuôi gia súc
1.5.1.2 Khối lượng chất thải chăn nuôi
Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO), hệ số tải lượng thải của gia súc và gia cầm được xác định như sau: 4 tấn/con/năm đối với bò, 0,2 tấn/con/năm đối với trâu, 0,7 tấn/con/năm đối với heo, và 0,02 tấn/con/năm đối với gia cầm Tổng khối lượng chất thải trong chăn nuôi tại một số xã, huyện đã được thống kê trong bảng 1.2.
Bảng 1.2 Lượng chất thải chăn nuôi phát sinh trên địa bàn 25 xã năm 2012
Xã Trâu, bò Dê Heo Gia cầm
Khối lượng chất thải (tấn/năm)
(Nguồn: Trung tâm Kỹ thuật Môi trường, năm 2012) [10]
Hoạt động chăn nuôi sản sinh ra một lượng lớn chất thải rắn và lỏng, bao gồm phân, nước tiểu, nước rửa chuồng, ổ lót, xác chết vật nuôi và thức ăn thừa, gây ô nhiễm môi trường Nguồn thải chủ yếu đến từ các trang trại chăn nuôi, khu dân cư và cánh đồng nông nghiệp, ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng môi trường, đặc biệt là nguồn nước nếu không được quản lý đúng cách Khối lượng chất thải từ vật nuôi trong 24 giờ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chủng loại, loài, giai đoạn sinh trưởng, chế độ dinh dưỡng, trọng lượng gia súc và phương thức vệ sinh chuồng trại.
1.5.2 Thu gom và xử lý chất thải chăn nuôi tại địa phương
Tỉnh hiện có hơn 400.000 con heo, với khoảng 30.000 hộ chăn nuôi, bao gồm cả trang trại và hộ gia đình Số lượng chăn nuôi chủ yếu tập trung tại hai huyện Mỏ Cày Bắc.
Huyện Mỏ Cày Bắc có 1.952 hộ chăn nuôi, trong đó 1.434 hộ đã xây dựng hầm biogas để xử lý chất thải, chủ yếu là các hộ chăn nuôi quy mô nhỏ dưới 50 con heo không có hầm biogas Huyện Mỏ Cày Nam có 12.498 hộ chăn nuôi, cho thấy sự phát triển của ngành chăn nuôi trong khu vực.
Tại 15 hộ chăn nuôi, có 6.858 hộ đã lắp đặt hầm biogas để xử lý chất thải, trong khi các hộ còn lại đã xây dựng hầm tự hoại từ 2 đến 3 ngăn nhằm xử lý chất thải hiệu quả.
Mặc dù việc thu gom và xử lý chất thải trong chăn nuôi đã được thực hiện hiệu quả thông qua việc xây dựng hầm ủ Biogas, giúp ngành chăn nuôi trở nên bền vững hơn, nhưng nhiều hộ chăn nuôi vẫn gặp khó khăn như bệnh tật phát sinh và chi phí đầu tư cao cho thiết kế, xây dựng hầm biogas, điện, nước và công chăm sóc.
Hiện trạng môi trường các cơ sở chăn nuôi tại tỉnh Bến Tre
Ô nhiễm môi trường do chăn nuôi tại tỉnh Bến Tre đang ở mức báo động, đặc biệt là ở các xã có mật độ hộ chăn nuôi heo cao Các hộ chăn nuôi quy mô nhỏ (dưới 50 con heo) chiếm đa số và thường không xử lý chất thải, dẫn đến việc xả thải trực tiếp ra môi trường Nguyên nhân chủ yếu là do thu nhập thấp và thiếu khả năng đầu tư vào hệ thống xử lý chất thải Địa hình thấp và hệ thống kênh rạch chằng chịt tại Bến Tre càng làm cho việc kiểm soát ô nhiễm và dịch bệnh trở nên khó khăn, khi chuồng trại nằm gần khu dân cư và nguồn nước Mặc dù các cơ sở chăn nuôi quy mô trung bình và lớn thường áp dụng công nghệ xử lý bằng hầm tự hoại, nhưng hiệu quả vẫn chưa đạt yêu cầu, với các chỉ tiêu ô nhiễm vượt mức cho phép Chất thải chăn nuôi chứa nhiều Coliform, E.coli và vi khuẩn Salmonella, làm tăng nguy cơ ô nhiễm và phát sinh dịch bệnh.
Hình 1.6 Đàn vịt được chăn thả ngay bên bờ sông
Hình 1.7 Một hộ chăn nuôi ở xã Thành Thới B, huyện Mỏ Cày Nam xả trực tiếp phân heo ra mương vườn
Hình 1.8 Một hộ chăn nuôi tại xã Thành Thới A – huyện Mỏ Cày Nam
Do quy mô sản xuất chăn nuôi chủ yếu là vừa và nhỏ, việc bảo vệ môi trường trong chăn nuôi gặp nhiều khó khăn Đầu tư cho hệ thống xử lý chất thải, hóa chất sát trùng và xây dựng chuồng trại hợp lý vượt quá khả năng của nhiều hộ nông dân Chính sách bảo vệ môi trường hiện nay chưa tiếp cận hiệu quả với các hộ dân, trong khi các cơ chế xây dựng khu xử lý chất thải và hầm biogas khó áp dụng tại hộ gia đình Kinh phí hỗ trợ cho các dự án này rất hạn chế, phụ thuộc vào ngân sách tỉnh và sự hỗ trợ từ các tổ chức bảo vệ môi trường.
Hình 1.9 Hầm ủ biogas chưa xử lý hiệu quả chất thải
Hiện trạng chăn nuôi tại huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre
1.7.1 Số lượng đàn gia súc
Hình 1.10 Bản đồ huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre
Châu Thành là huyện thuộc tỉnh Bến Tre, nằm trong đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam, với diện tích 224,82 km² và dân số 157.138 người Huyện lị là thị trấn Châu Thành, cách thành phố Bến Tre khoảng 10 km về phía bắc và thành phố Mỹ Tho khoảng 7 km về phía nam Mặc dù phát triển kinh tế xã hội ở huyện diễn ra tương đối thuận lợi, tình hình chăn nuôi heo gặp khó khăn do giá heo hơi thấp từ cuối quý 1/2012, ảnh hưởng bởi thông tin về việc sử dụng chất cấm trong chăn nuôi Theo thông tin từ Cục thú y huyện Châu Thành năm 2012, tổng đàn gia súc được thống kê theo bảng 3.1.
Bảng 1.3 Tổng đàn gia súc huyện Châu Thành 11/2012
Tổng cộng Nái Nọc Thịt Theo mẹ
Theo thống kê tháng 11/2012, huyện có hơn 42.000 con heo, gần 2.000 trâu, bò, trên 3.000 con dê, 324.000 con gà và 18.000 con vịt, cho thấy tình hình chăn nuôi vẫn đa dạng và duy trì ổn định Tuy nhiên, nông hộ nuôi heo đang gặp khó khăn về giá đầu ra, hiện giá heo hơi chỉ khoảng 42.000 đồng/kg, trong khi giá thức ăn đã tăng gấp 4 lần so với năm trước.
10 ngàn đến 15 ngàn đồng/bao/lần [11]
Thời gian gần đây, huyện Châu Thành chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ trong hoạt động sản xuất, đặc biệt là chăn nuôi heo, điều này đã ảnh hưởng lớn đến môi trường sống của cộng đồng Khi thành phố Bến Tre quyết định di dời các ngành sản xuất gây ô nhiễm, Châu Thành trở thành điểm đến mới cho những cơ sở này Tuy nhiên, nhiều cơ sở chưa thực hiện tốt các biện pháp bảo vệ môi trường, thường không hợp đồng thu gom chất thải mà thay vào đó, họ tập trung chất thải để đốt hoặc thải trực tiếp ra môi trường, dẫn đến ô nhiễm nguồn nước và không khí, đặc biệt trong lĩnh vực chăn nuôi heo.
Hình 1.11 Chất thải chăn nuôi được thải trực tiếp ra sông
Hình 1.12 Phân bò vương vãi khắp nơi, rất hôi thối, dơ bẩn
Huyện Châu Thành chủ yếu phát triển chăn nuôi heo quy mô vừa và nhỏ, với chỉ một cơ sở lớn tại xã Hữu Định nuôi 1.400 con Nhiều hộ chăn nuôi có thu nhập thấp, chủ yếu nhằm tích lũy vốn, trong khi giá thị trường không ổn định Việc đầu tư vào xử lý chất thải và nước thải trong chăn nuôi chưa được quan tâm đúng mức.
Hình 1.13 Một dòng kênh ô nhiễm ở Châu Thành
Việc phát thải khí nhà kính từ hoạt động chăn nuôi gia súc đang trở thành một vấn đề đáng lo ngại Theo Vụ Khoa Học Công Nghệ Và Môi Trường thuộc Bộ Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn, lượng phân thải từ bò ước tính vào khoảng 10 – 15 tấn mỗi năm.
22 kg/con/ngày, trâu là 15 – 20 kg/con/ngày, heo là 2,5 - 3,5 kg/con/ngày và dê cừu là
Số phân không được xử lý và tái sử dụng, với lượng 90 gram/người/ngày, là nguồn phát thải chính các khí nhà kính, góp phần làm nóng lên toàn cầu Ngoài ra, việc này còn gây ra rối loạn độ phì nhiêu của đất, ô nhiễm kim loại nặng, ô nhiễm đất và nước, gây phì dưỡng và mùi hôi khó chịu, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của cộng đồng xung quanh.
Bảng 1.4 Khối lượng chất thải rắn vật nuôi của huyện Châu Thành
Tổng số đầu con năm
Chất thải rắn bình quân (kg/con/ngày)
Tổng chất thải rắn/năm (ngàn tấn)
Nhiều cơ sở chăn nuôi trung bình đã đầu tư vào hầm biogas và sử dụng chế phẩm EM cùng với tường bao để giảm tiếng ồn và hạn chế mùi Tuy nhiên, hiệu quả kiểm soát môi trường chỉ đạt được ở những hộ kinh doanh có diện tích vườn rộng, cách ly với vành đai an toàn hoặc có cách bố trí chăn nuôi hợp lý.
Bảng 1.5 Chất lượng môi trường không khí ở một số cơ sở chăn nuôi ở huyện Châu Thành
TT Chỉ tiêu Ngoài khu vực chăn nuôi
(Nguồn: Điều tra, đánh giá nguồn ô nhiễm tại Bến Tre, năm 2008)
Hình 1.14 Các chuồng trại chăn nuôi được xây gần nơi ở
Mặc dù biogas đã được áp dụng, tỷ lệ xây dựng hệ thống biogas vẫn còn thấp, chỉ khoảng 30% Đa số các hộ gia đình vẫn xử lý chất thải cục bộ như thu gom phân và xây dựng hố xử lý nước thải sinh học, dẫn đến tình trạng rò rỉ nước thải ra môi trường và mùi hôi cục bộ phổ biến Đặc biệt, nhiều hộ chăn nuôi quy mô dưới 50 con heo không có hầm biogas, gây ra những vấn đề về ô nhiễm môi trường.
Trong xã Hữu Định, huyện Châu Thành, Bến Tre, số lượng đàn gia súc rất đáng kể, với 2.660 con heo và 407 con bò Do đó, nghiên cứu này sẽ tập trung vào khu vực này để phân tích đặc điểm và tình hình chăn nuôi.
1.7.3 Giới thiệu sơ lược về xã Hữu Định thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre
Hình 1.15 Bản đồ xã Hữu Định, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre
Xã Hữu Định, thuộc huyện Châu Thành, nằm cách trung tâm huyện khoảng 13 km về phía Đông và là xã vành đai của TP Bến Tre Tổng diện tích tự nhiên của xã là 1.358,37 ha.
Phía Bắc giáp với xã Phước Thạnh
Phía Tây giáp với xã Tam Phước và Sơn Đông
Phía Nam giáp với xã Phong Nẫm
Phía Đông giáp với xã Phú Hưng, phường Tân Phú
Xã có địa hình bằng phẳng với hệ thống kênh rạch chằng chịt, bao gồm sông Nhỏ và hai kênh Chẹt Sậy, Thương Binh Đất chủ yếu là phù sa và đất phèn, tạo điều kiện thuận lợi cho nông nghiệp Khí hậu phân hóa thành hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 với gió mùa Tây Nam, và mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau với gió mùa Đông Bắc Lượng mưa trung bình thấp khoảng 1.400 – 1.600 mm.
Trong thời gian qua, nền kinh tế xã đã phát triển bền vững, với sự cải thiện trong sản xuất và an sinh xã hội Tình hình sản xuất nông nghiệp thuận lợi nhờ vào việc phòng trị dịch bệnh kịp thời và giá cả sản phẩm ổn định, thúc đẩy sự phát triển của người dân Ý thức bảo vệ môi trường trong chăn nuôi của người dân đã được nâng cao, với số hộ có chuồng trại hợp vệ sinh tăng lên, bao gồm cả việc sử dụng hầm biogas để xử lý chất thải Tuy nhiên, các hệ thống này vẫn chưa đạt yêu cầu vi sinh cần thiết, và việc vận hành không đúng kỹ thuật đã ảnh hưởng đến nguồn nước sinh hoạt và gây ô nhiễm môi trường Hiện tại, xã có một trang trại nuôi heo lớn với khoảng 1400 con và 14 hộ sử dụng hầm biogas để xử lý chất thải chăn nuôi.
TỔNG QUAN VỀ CÔNG NGHỆ KHÍ SINH HỌC
Giới thiệu khí sinh học
Khí sinh học là hỗn hợp khí bao gồm khí cacbonic và khí metan, được hình thành từ quá trình phân hủy xác động thực vật dưới sự tác động của vi khuẩn trong môi trường không có oxy Với khả năng cháy, khí metan làm cho khí sinh học trở thành nguồn năng lượng tái tạo bền vững và không bao giờ cạn kiệt.
Mỗi năm, khoảng 590 – 880 triệu tấn metan được thải vào khí quyển do hoạt động của vi khuẩn Khoảng 90% lượng metan này có nguồn gốc sinh học từ sự phân hủy của sinh khối, trong khi phần còn lại xuất phát từ nguồn gốc hóa thạch, chủ yếu là do quá trình hóa dầu.
Từ năm 1770, Volta A đã nghiên cứu khí đầm lầy trong trầm tích hồ ở miền bắc Italy, và vào năm 1821, Avogadro A đã xác định công thức hóa học của khí metan Năm 1884, Pasteur L tiến hành thí nghiệm sản xuất khí sinh học từ chất thải rắn, đề xuất sử dụng phân gia súc ở Paris để sản xuất khí đốt chiếu sáng Đến năm 1897, một bệnh viện phong ở Bombay, Ấn Độ, đã xây dựng nhà máy sản xuất khí biogas cho chiếu sáng Năm 1906, kỹ sư Imhoff tại khu vực Ruhr, Đức, đã thiết lập hệ thống yếm khí để xử lý nước thải, với khí thu hồi được dùng để sưởi ấm lò lên men và cung cấp nhiệt điện Trong Thế chiến II, để đáp ứng nhu cầu nhiên liệu khí đốt, chất thải rắn hữu cơ được đưa vào hệ thống xử lý yếm khí Năm 1947, Đại học Kỹ thuật Darmstadt đã xây dựng nhà máy khí sinh học cho nông nghiệp với bể lên men ngang, được gọi là "hệ thống Darmstadt".
Ngày nay, khí thiên nhiên được khai thác quy mô công nghiệp, cung cấp nguyên liệu cho nhiều ngành kinh tế Tại Việt Nam, sự phát triển của ngành chăn nuôi và kinh tế chung đã thúc đẩy công nghệ khí sinh học phát triển, nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao.
26 môi trường và năng lượng Khí sinh học được bắt đầu nghiên cứu và ứng dụng từ những năm 1960 trên cả nước
Lịch sử phát triển khí sinh học có thể được chia thành 3 thời kỳ: Thời kỳ 1960 -
Mặc dù khí sinh học đã được nghiên cứu ứng dụng từ những năm 1960 ở cả miền Bắc và miền Nam, nhưng không được phát triển mạnh mẽ Sau khi đất nước thống nhất vào năm 1975, trong bối cảnh khủng hoảng năng lượng quốc tế, khí sinh học đã thu hút sự chú ý với vai trò là nguồn năng lượng tiềm năng, đặc biệt trong giai đoạn 1991.
Năm 2002, ngành chăn nuôi đã có sự phát triển mạnh mẽ, kéo theo sự phát triển của khí sinh học, thu hút sự tham gia của nhiều tổ chức trong lĩnh vực nông nghiệp.
2003 đến nay, nhiều dự án khí sinh học trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được triển khai
Ngoài ra Hội Làm vườn Việt Nam (VACVINA) cũng phổ cập ứng dụng khí sinh học trong việc phát triển mô hình VAC (vườn, ao, chuồng).
Cơ sở sinh học và nguyên lý hoạt động của quá trình tạo khí sinh học
2.2.1 Sự chuyển hóa sinh học trong quá trình khí sinh học
Chất hữu cơ là nguyên liệu chính để sản xuất khí sinh học qua một quá trình biến đổi sinh học đặc thù, diễn ra qua nhiều giai đoạn Các nghiên cứu hiện tại đều đồng thuận rằng quá trình này bao gồm hai giai đoạn chính, có thể chia thành ba giai đoạn nhỏ: giai đoạn thủy phân và lên men, giai đoạn sinh axit, và giai đoạn sinh metan Hai giai đoạn đầu được gọi là giai đoạn không sinh metan, trong khi giai đoạn ba được xác định là giai đoạn sinh metan.
Hình 2.1 Các giai đoạn biến đổi sinh học của quá trình tạo khí sinh học
2.2.1.1 Giai đoạn thủy phân và lên men
Giai đoạn phân hủy các chất hữu cơ phức tạp như protein, cellulose, lignin và lipid diễn ra khi chúng được chuyển hóa thành những đơn phân tử hòa tan như axit amin, glucozo, axit béo và glycerol.
Quá trình phân hủy kỵ khí diễn ra chậm, điều này có thể hạn chế khả năng phân hủy của một số chất thải có nguồn gốc từ xenluloza hoặc chứa lignin.
Có các vi sinh vật như: Hydrolitic bacteria, Clostricticum, Thernocellem Giai đoạn lên men axit:
Trong giai đoạn này, quá trình chuyển hóa các sản phẩm từ giai đoạn thủy phân tạo ra nhiều axit hữu cơ như axetic, propionic, butyric và lactic Ngoài ra, còn có sự hình thành của các loại alcol như etanol, metanol, glycerol và axetol, cùng với các hợp chất axetat.
Axetat là sản phẩm chính trong quá trình lên men cacbonhydrat, và các sản phẩm tạo thành có sự khác biệt tùy thuộc vào loại vi khuẩn cũng như các điều kiện nuôi cấy như nhiệt độ, pH và thế oxi hóa khử.
Thủy phân và lên men
Chất hữu cơ, carbohydrates, chất béo, protein
Acid propionic, Acid butyric, Các rượu khác và các thành phần khác
Có sự tham gia của các vi sinh vật: Bacteroides, Suminicola, Bijidobacterium
2.2.1.2 Giai đoạn tạo Axit acetic và
Giai đoạn chuyển hóa các axit hữu cơ, các alcol, axeton từ giai đoạn 2 tạo thành axetic
Vi sinh vật tham gia quá trình này có: Syntrobacter, wolini, Syntrophowalfei
Là giai đoạn quan trọng nhất, dưới tác dụng của vi sinh vật axetic được chuyển thành metan
Nhóm vi khuẩn metan chia thành 2 nhóm phụ:
Nhóm vi khuẩn Metan hydrogenotrophic, sử dụng hydrogen tự dưỡng chuyển hydro và cacbon thành metan:
Nhóm vi khuẩn Metan acetotrophic: còn gọi là vi khuẩn phân giải axetat, chúng chuyển hóa axetat thành metan và cacbon
2.2.2 Vi sinh vật khí sinh học
Trong quá trình tạo khí sinh học, có ba giai đoạn chuyển hóa sinh hóa học quan trọng, trong đó hệ vi khuẩn đóng vai trò chủ đạo Hệ vi khuẩn này bao gồm hai nhóm chính với chức năng khác nhau, hoạt động tương hỗ lẫn nhau Nhóm vi khuẩn không sinh metan, bao gồm hai loại vi khuẩn, là một phần thiết yếu trong quá trình này.
29 thủy phân – lên men và vi khuẩn sinh hydro và axit), nhóm vi khuẩn metan (Zeikus,
Hình 2.2 Vi khuẩn phân hủy chất hữu cơ tạo khí sinh học
2.2.2.1 Vi khuẩn không sinh metan
Các vi khuẩn không sinh metan đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển hóa các chất hữu cơ phức tạp thành các dạng đơn giản hơn, như hydro và axetat Nhóm vi sinh vật này bao gồm vi khuẩn, nấm và protozoa, nhưng vi khuẩn là nhóm có vai trò chủ chốt trong quá trình tạo khí sinh học Trong giai đoạn này, các chất hữu cơ cao phân tử được phân hủy thành các chất hữu cơ hòa tan, cho phép chúng thấm qua vách tế bào vi khuẩn.
Vi khuẩn thủy phân và lên men như: Anaerovibrio lipotica, Butyrivibrio fibrissolvens, Bacteroides ruminicola, Hemixenluloza Các chất hữu cơ bị phân
Các chất hữu cơ: Cacbohydrat, Protein, chất béo
30 hủy bởi các men ngoại bào do vi khuẩn sinh ra như xenlulaza, amilaza, proteaza, lipaza
Vi khuẩn sinh hydro và axit như: Butyric clostridia, Lactobacilli,
Micrococci Vi khuẩn trong giai đoạn không sinh metan này thuộc loại kỵ khí bắt buộc hoặc không bắt buộc và có thể phát triển trong môi trường axit
Các vi khuẩn trong giai đoạn phân hủy kỵ khí đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái, tiếp tục phân hủy các hợp chất có phân tử lượng thấp Chúng chuyên hóa hydro, cacbonic và axit axetic thành metan, được gọi là vi khuẩn sinh metan Loại vi khuẩn này thường xuất hiện ở các vùng đất sình lầy, bể phân hủy kỵ khí, trong dạ dày động vật nhai lại, và trong bùn lắng ở đáy sông, hồ.
Hầu hết các vi khuẩn sinh metan trong bể phân hủy rất chuyên hóa và được chia thành hai loại chính: loại sinh metan từ axetat và loại sinh metan từ sự đồng hóa cacbon Các chất ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của chúng đóng vai trò quan trọng trong quá trình này.
Vi khuẩn sinh metan từ hydro và cacbonic như: Methanothix soehngenii,
Methanosarcina thermophila, Methanobacterium omelianskii Khi có và , vi khuẩn sinh metan phát triển rất nhanh, và chuyển gần như toàn bộ thành metan
Vi khuẩn sinh metan từ axit axetic như: Methanosarcina barkeri No.227,
Acetotrophic Methanogen chuyển hóa axetat thành metan và cacbonic Khoảng
70% lượng metan sinh ra là qua con đường này
2.2.3 Nguyên lý hoạt động của bể khí sinh học
Nguyên liệu được đưa vào bể phân huỷ qua cửa nạp cho đến khi ngập mép dưới của cửa Khi áp suất khí trong bể phân giải đạt P = 0, khí sinh ra từ quá trình phân hủy vi sinh vật sẽ tích tụ trong ngăn chứa Sự tích tụ này làm dịch phân giải dâng lên qua cửa nạp và cửa xả, tạo ra độ chênh lệch giữa hai bề mặt dịch.
Quá trình phân giải tại cửa nạp, cửa xả và ngăn chứa khí tạo ra áp suất, giúp đẩy khí vào ống thu và dẫn khí đến nơi sử dụng Khi biogas được sử dụng cho nấu nướng hoặc thắp sáng, áp suất khí giảm dần và trở về 0 khi sử dụng hết, cho phép thiết bị trở lại trạng thái ban đầu và tiếp tục quá trình sinh biogas Với thiết kế cửa nạp cao hơn cửa xả, dịch phân giải chỉ thoát ra qua cửa xả mà không tràn về cửa nạp Trong suốt quá trình hoạt động, bề mặt dịch phân hủy liên tục dao động, làm thay đổi tiết diện và có tác dụng phá váng hiệu quả.
2.2.4 Một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình sản sinh ra khí sinh học 2.2.4.1 Ảnh hưởng của nhiệt độ
Nhiệt độ và sự biến đổi nhiệt độ trong ngày cũng như các mùa có tác động lớn đến tốc độ phân hủy chất hữu cơ Trong quá trình xử lý yếm khí, biên độ nhiệt độ là yếu tố quan trọng cần được chú ý.
25, 40 o C: đây là khoảng nhiệt độ thích hợp cho các vi sinh vật ưa ấm
50, 65 o C: nhiệt độ thích hợp cho các vi sinh vật ưa nhiệt
2.2.4.2 Ảnh hưởng của pH Độ pH trong hầm ủ nên được điều chỉnh ở mức 6,6 - 7,6 tối ưu trong khoảng 7 - 7,2 vì tuy rằng vi khuẩn tạo axit có thể chịu được pH thấp khoảng 5,5 nhưng vi khuẩn tạo metan bị ức chế ở pH đó Độ pH của hầm ủ có khi hạ xuống thấp hơn 6,6 do sự tích tụ quá độ các axit béo do hầm ủ bị nạp quá tải hoặc do các độc tố trong nguyên liệu nạp ức chế hoạt động của vi khuẩn metan
2.2.4.3 Các chất dinh dưỡng Để bảo đảm năng suất sinh khí của hầm ủ, nguyên liệu nạp nên phối trộn để đạt được tỉ số C/N từ 25/1, 30/1 bởi vì các vi khuẩn sử dụng carbon nhanh hơn sử dụng đạm từ 25, 30 lần Các nguyên tố khác như P, Na, K và Ca cũng quan trọng đối với quá trình sinh khí, tuy nhiên C/N được coi là nhân tố quyết định
2.2.4.4 Ảnh hưởng của lượng nguyên liệu nạp Ảnh hưởng của lượng nguyên liệu nạp có thể biểu thị bằng 2 nhân tố đó là hàm lượng chất hữu cơ biểu thị bằng kg.COD/m 3 /ngày hay VS/m 3 /ngày và thời gian lưu trữ hỗn hợp nạp trong hầm ủ
Thiết bị khí sinh học
2.3.1 Các thiết bị khí sinh học trên thế giới
Các thiết bị khí sinh học gồm các bộ phận chính sau:
Bể phân hủy có chức năng chứa nguyên liệu và môi trường cho quá trình phân hủy khí xảy ra một cách thuận lợi (1)
Đầu vào là nơi nạp nguyên liệu mới vào bể phân hủy (2)
Đầu ra là nơi nguyên liệu đã phân hủy ra khỏi bể phân hủy (3)
Bộ phận chứa khí (nếu có nhu cầu thu khí) có chức năng thu và giữ khí sinh học sinh ra để sử dụng khi cần thiết (4)
Đầu lấy khí ra từ bộ phận chứa khí (5)
Hình 2.3 Sơ đồ cấu tạo thiết bị khí sinh học
Đến nay, nhiều loại thiết bị khí sinh học đã được phát minh, nhưng bài viết này chỉ tập trung vào một số loại phổ biến và đơn giản, sử dụng nguyên liệu từ chất thải nông nghiệp Dựa vào phương pháp thu tích khí, các thiết bị khí sinh học đơn giản được phân loại thành ba nhóm.
2.3.1.1 Thiết bị khí sinh học nắp nổi
Nguyên lý cấu tạo và hoạt động của thiết bị này bắt nguồn từ Ấn Độ, được phát triển bởi tổ chức KVIC (Khadi and Village Industries Commission) Bộ phận chứa khí là một nắp hình thùng, đặt trực tiếp lên dịch phân hủy Khí sinh ra từ bể phân hủy được thu giữ, làm cho nắp nổi lên cao hơn khi lượng khí tích tụ tăng Trọng lượng của nắp tạo áp suất nén vào khí, và khi khí được sử dụng, nắp sẽ dần chìm xuống.
Hệ thống KVIC được cải tiến với vành đai chứa nước quanh cổ bể phân hủy, giúp phân không tiếp xúc với không khí, đảm bảo điều kiện kỵ khí tốt hơn Việc này cũng bảo vệ phân khỏi tác động của mưa nắng, đồng thời ngăn ngừa nguyên liệu tràn ra ngoài khi qua bể nạp.
Hình 2.4 Thiết bị nắp nổi không có gioăng nước kiểu của Ấn Độ
Hình 2.5 Thiết bị nắp nổi có gioăng nước kiểu của Viện Năng lượng Ưu điểm:
Dễ đảm bảo kín khí do nắp được chế tạo riêng tại công xưởng bằng vật liệu thích hợp như thép hoặc xi măng lưới thép hay composit
Dịch phân hủy được giữ ở điều kiện kỵ khí tốt vì không tiếp xúc với không khí, cả với thiết bị có kích thước lớn
Áp suất khí không thay đổi khi sử dụng khí
Biết được lượng khí hiện có một cách trực quan thông qua độ nổi của nắp
Kỹ thuật xây trát quen thuộc
Chi phí chế tạo và vận chuyển nắp cao, chiếm trên 30% tổng chi phí của công trình
Áp suất thấp, sử dụng để thắp sáng kém hiệu quả
Nhiệt độ của dịch phân hủy thay đổi theo nhiệt độ khí trời vì nắp kim loại truyền nhiệt tốt
Tuổi thọ nắp không dài
Phải định kỳ sơn lại nắp thép và khung đỡ để chống han rỉ
Một số kiểu thiết bị nắp nổi của các nước
Hình 2.6 Thiết bị nắp nổi không có gioăng của Đức
2.3.1.2 Thiết bị khí sinh học nắp cố định
Nguyên lý cấu tạo và hoạt động của loại bể này được phát triển đầu tiên tại Trung Quốc, với bộ phận chứa khí và bể phân hủy được kết nối chặt chẽ thành một bể kín.
Khi 37 sinh ra được tích lại ở phía trên, nó tạo ra áp suất nén xuống mặt dịch phân huỷ, đẩy một phần dịch này tràn lên bể điều áp nối với lối ra Giữa bề mặt dịch phân huỷ trong bể và không khí bên ngoài tồn tại một độ chênh áp suất nhất định, cho thấy áp suất khí trong thiết bị Độ chênh này càng lớn khi lượng khí tích lại nhiều Khi lấy khí sử dụng, dịch phân huỷ từ bể điều áp sẽ dồn vào bể phân huỷ, đồng thời đẩy khí ra ngoài.
Giá thành hạ do không phải dùng nắp chứa khí đắt tiền
Sử dụng vật liệu thông thường, dễ có ở địa phương
Không cần tới công xưởng, thợ địa phương có thể xây dựng được
Tiết kiệm được mặt bằng vì có thể đặt ngầm toàn bộ dưới mặt đất
Nhiệt độ ổn định và ít thay đổi theo điều kiện không khí, cho phép thiết bị hoạt động hiệu quả ngay cả trong mùa đông lạnh giá, khi nhiệt độ ngoài trời giảm xuống dưới mức bình thường.
Ít đòi hỏi phải bảo dưỡng, sửa chữa, thay thế vì không có bộ phận chuyển động, không có bộ phận bị ăn mòn, han rỉ
Tuổi thọ dài (trên 20 năm)
Áp suất khí cao cho phép sử dụng khí để đun nấu và thắp sáng bằng đèn mạng, mang lại hiệu suất cao hơn so với các loại nắp nổi và túi.
Phải có thêm bộ phận điều áp
Đòi hỏi kỹ thuật xây dựng cao hơn để đảm bảo giữ kín khí
Áp suất khí không ổn định trong quá trình sử dụng
Điều kiện kỵ khí trong bể phân huỷ bị ảnh hưởng tiêu cực do dịch phân huỷ bị đẩy lên bể điều áp, nơi tiếp xúc với không khí và hòa tan oxy Khi dịch trở lại bể phân huỷ, nó mang theo lượng oxy hòa tan này, làm giảm hiệu quả phân huỷ Vấn đề này càng trở nên nghiêm trọng hơn đối với thiết bị có kích thước lớn.
Một số kiểu thiết bị nắp cố định của các nước
Hình 2.7 Thiết bị nắp cố định kiểu phổ biến hiện nay của Trung Quốc
Hình 2.8 Thiết bị nắp cố định kiểu bán cầu ống lấy khí lắp ở cổ bể phân hủy của Đức
2.3.1.3 Thiết bị túi chất dẻo
Thiết bị bằng túi chất dẻo đầu tiên, được phát triển tại Đài Loan vào năm 1974, sử dụng chất dẻo bùn đỏ (Red Mud Plastic - RMP) và được xem như một biến thể của nắp cố định Bể phân huỷ này được cấu tạo từ chất dẻo hoặc cao su, với phần dưới thiết kế đặc biệt để phục vụ mục đích sử dụng hiệu quả.
Bể 39 được thiết kế với phần dưới là bể phân huỷ và phần trên là kho chứa khí áp suất, có khả năng tạo ra áp suất cần thiết bằng cách đặt vật nặng lên túi Nhờ vào cấu trúc này, bể không cần sử dụng bể điều áp, mang lại nhiều ưu điểm cho quá trình vận hành.
Có thể sản xuất hàng loạt nên dễ tiêu chuẩn hoá
Giá thành hạ nên đầu tư ban đầu thấp
Kỹ thuật lắp đặt đơn giản, nhanh chóng
Tốn diện tích mặt bằng
Tuổi thọ ngắn, dễ hư hỏng (thủng, chuột dễ cắn)
Độ an toàn thấp (nguy cơ hoả hoạn, ngạt)
Nếu xây kè thành hố và đổ tấm đan đậy thì giá thành không thấp so với thiết bị nắp cố định
Khó lấy bỏ váng và lắng cặn Sau một thời gian (khoảng 3 năm) bể sẽ đầy và phải thay túi
Trong mùa đông lạnh giá, việc bảo ôn không hiệu quả dẫn đến thiết bị hoạt động kém, gây áp suất thấp và sử dụng khí hiệu suất thấp, làm cho việc dẫn khí đi xa trở nên khó khăn.
Một số kiểu thiết bị túi chất dẻo của các nước
Hình 2.9 Thiết bị túi chất dẻo của Đức
2.3.1.4 Loại thiết bị có bộ phận tích khí riêng
Loại khí này thường được sử dụng cho các công trình lớn, với khí sinh ra từ nhiều bể phân huỷ được tích trữ chung trong một bộ tích khí tách biệt Bộ tích khí thường được thiết kế dưới dạng một nắp nổi trong một bể nước.
2.3.2 Một số thiết bị khí sinh học hiện tại ở Việt Nam
Một số tỉnh như Đồng Nai và Tiền Giang vẫn còn sử dụng kiểu nắp chứa khí bằng thép, được đặt úp vào khe chứa nước xung quanh cổ bể phân hủy.
Hình 2.10 Thiết bị nắp nổi kiểu Viện Năng lượng và kiểu Đồng Nai
2.3.2.2 Loại thiết bị có bộ phận chứa khí tách riêng
2.3.2.2.1 Túi ni lông có túi chứa khí tách riêng
Trường Đại học Nông Lâm Tp HCM và một số địa phương đang phát triển một kiểu mới, trong khi nhiều tổ chức khác đã ngừng áp dụng do gặp quá nhiều nhược điểm.
Hình 2.11 Thiết bị kiểu túi ni long với túi khí tách riêng
2.3.2.2.2 Kiểu bể tự hoại có túi chứa khí tách riêng
Trường Đại học Nông lâm Tp HCM và một số nơi đang phát triển kiểu này, trong khi nhiều tổ chức khác đã ngừng áp dụng do những nhược điểm quá lớn.
Hình 2.12 Thiết bị kiểu bể tự hoại có túi chứa khí tách riêng
2.3.2.3 Thiết bị nắp cố định
Loại hình hộp: kiểu RDAC (mới)
Van an toàn Túi dự trữ
Hồ lắng Đầu vào Đầu ra
Hệ thống túi gas dự trữ
Khu nhà bếp Hầm ủ biogas
Mô hình vườn – ao – chuồng (VAC)
VAC là hệ thống nông trang viên, được Hội Làm vườn Việt Nam khởi xướng từ năm 1986, nhằm phát triển nông nghiệp tổng hợp sau khi Chính sách giao đất lâu dài cho nông dân có hiệu lực Mô hình này tập trung vào thâm canh sinh học cao, với các hoạt động chính bao gồm trồng trọt, nuôi trồng thủy sản và chăn nuôi gia súc gia cầm Sự liên kết chặt chẽ giữa các hoạt động này tạo ra một hệ thống canh tác tổng thể, giúp tối ưu hóa việc sử dụng đất đai, nước và năng lượng mặt trời, từ đó đạt hiệu quả kinh tế cao với mức đầu tư thấp.
2.4.1 Một số địa phương đã áp dụng mô hình VAC
Cựu chiến binh Cao Danh Trự tại xã Quang Vinh, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên đã áp dụng mô hình vườn ao hiệu quả, mang lại thu nhập 150 triệu đồng mỗi năm Nhờ nắm bắt nhu cầu thị trường, ông đã đầu tư nuôi 7 heo nái giống Mường, xuất bán hơn 100 con heo thịt hàng năm với giá từ 140.000 – 150.000đ/kg Bên cạnh đó, ông còn trồng nhiều cây ăn quả như bưởi diễn và nhãn xung quanh các bờ ao để tăng thêm nguồn thu nhập.
Hình 2.25 Mô hình nuôi lợn rừng của ông Trự, xã Quang Vinh, huyện Ân
Ông Ngô Kim Lý, cư trú tại ấp Công Điền, thị trấn Phú Lộc, tỉnh Sóc Trăng, đã đạt được thu nhập 64 triệu đồng mỗi năm nhờ áp dụng các mô hình kết hợp như VAC + R (vườn ao chuồng, ruộng) và V + R (vườn rẫy).
Ông Nguyễn Trọng Ứng, đến từ xã Phong Chương, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế, đã thành công trong việc xây dựng mô hình kinh tế tổng hợp VAC từ hai bàn tay trắng, với doanh thu hàng năm vượt quá 400 triệu đồng nhờ cung ứng vật tư, phân bón và thức ăn gia súc.
Ông Lê Đình Xuân ở Khánh Hòa đã phát triển mô hình vườn ao chuồng VAC hiệu quả, kết hợp trồng xoài, thả cá và nuôi lợn rừng Mô hình này, tọa lạc tại thôn Tân Hải, xã Cam Hải Tây, huyện Cam Lâm, đang mang lại thu nhập hàng năm lên đến vài trăm triệu đồng.
Hình 2.27 Ông Lê Đình Xuân giới thiệu mô hình của mình
Tại xã Xuân Tâm, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, nông dân như ông Nguyễn Kính đã thành công trong việc mở trang trại chăn nuôi để thoát nghèo, với mô hình vườn - ao - chuồng mang lại hiệu quả kinh tế cao Ông đã khéo léo tận dụng nguồn thức ăn thừa để nâng cao năng suất chăn nuôi.
Ông nuôi 52 con vịt và thêm 500 con gà thả vườn, đồng thời tận dụng nguồn nước từ vịt để đào ao nuôi hơn 3.000 con cá trê phục vụ cho thị trường.
Mô hình VAC của ông Lê Minh Đầm tại thị trấn Nam Ban, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng có diện tích khoảng 1,2 hecta, bao gồm ao nuôi cá với sản lượng thu hoạch hàng năm từ 8 – 10 tấn thịt Ông tận dụng mặt nước để chăn nuôi gia cầm như gà, vịt, ngỗng nhằm cung cấp trứng và thịt Phần diện tích còn lại được sử dụng để xây dựng chuồng trại cho các loài vật khác như nhím, heo, cùng với việc trồng chuối la ba và tre lấy măng Đặc biệt, gia đình ông còn nuôi hươu để cung cấp giống và nhung hươu cho người dân địa phương và các vùng lân cận.
2.4.2 Một số trang trại áp dụng mô hình VAC ở tỉnh Bến Tre và các khu vực lân cận
2.4.2.1 Mô hình VAC ở tỉnh Bến Tre
Mô hình kết hợp vườn - ao - chuồng trong chăn nuôi của anh Lê Quang Long ở xã Bình Phú, thành phố Bến Tre, đã mang lại hiệu quả kinh tế cao Năm 2012, gia đình anh thu nhập trên 80 triệu đồng/ha/năm từ việc trồng sơ ri và rau nhút, kết hợp với chăn nuôi heo, gà, vịt, và sử dụng kháp rượu lấy hèm để chăn nuôi.
Anh Nguyễn Phương Kha ở ấp Bình Long, xã Châu Bình, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre đã áp dụng mô hình nuôi ong mật trong vườn dừa, mang lại hiệu quả kinh tế cao với lợi nhuận hàng tháng khoảng 3,8 triệu đồng từ dừa khô và 3,6 triệu đồng từ 100 thùng ong mật Mô hình trồng xen, nuôi xen trong vườn dừa giúp tăng thu nhập cho nông dân từ 0,3-0,5 lần so với cây trồng chính Nhờ vào kết quả tích cực, huyện Giồng Trôm đã mở rộng các mô hình này, bao gồm nuôi tôm càng xanh trên 0,3 ha, nuôi chim bồ câu với 800 cặp sinh sản, và trồng cây ca cao trên 5ha/hộ dân.
2.4.2.2 Mô hình VAC ở các khu vực lân cận
Mô hình VAC độc đáo của ông Đoàn Văn Khanh tại ấp Mỹ Thạnh, xã Song Thuận, huyện Châu Thành, Tiền Giang kết hợp giữa nuôi rắn và trồng cây ăn trái, tạo ra sản phẩm nông nghiệp đa dạng và bền vững Sự kết hợp này không chỉ tối ưu hóa diện tích đất mà còn mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người nông dân.
Đặc sản rắn không chỉ có giá trị kinh tế cao mà còn bảo vệ môi trường Trong mô hình nuôi rắn ri cá, ông đã kết hợp trồng 100 gốc dừa sáp, cùng với ít gốc mận An Phước, bưởi Da xanh và nhãn, tạo nên sự hấp dẫn cho du khách khi đến thăm vùng quê sapô và vú sữa đặc sản Tiền Giang.
Ông Trần Văn Khải ở ấp Ông Gồng, xã Tân Đông, huyện Gò Công, tỉnh Tiền Giang đã thành công với mô hình vườn - ao - chuồng - ruộng (VACR), mang lại thu nhập 100 triệu đồng/năm Mô hình của ông không chỉ kết hợp trồng sơ ri và cỏ nuôi dê, mà còn bao gồm trồng lúa, rau màu và nuôi gà vịt, thể hiện sự siêng năng và cần cù trong nông nghiệp.
Gia đình anh Lư Văn Đầy ở ấp Phước Bình, xã Lộc Hòa, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long áp dụng mô hình kết hợp vườn – ao – chuồng, tạo ra sự ổn định kinh tế Anh sử dụng 4.000 m² trong tổng số 7 công đất để ương cá giống bán, trong khi xung quanh ao trồng nhãn và phần còn lại dành cho chuồng nuôi heo, gà nòi và vịt xiêm Bên cạnh đó, anh còn thuê thêm hơn 1 ha mặt nước để tăng cường sản xuất cá giống Nhờ mô hình này, gia đình anh thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm.