1 Kim ngạch xuất khẩu hồ tiêu của Việt Nam qua thị trường EU 1 2 Sản lượng xuất khẩu hồ tiêu của Ấn Độ qua thị trường EU 6 3 Lợi thế cạnh tranh của Việt Nam có được 7 4 Mô hình kim cương của Porter 11 a. Tính sẵn có của các yếu tố sản xuất 11 b Các điều kiện về nhu cầu 22 c Các ngành công nghiệp liên kết và phụ trợ 23 d Chiến lược, cơ cấu và năng lực của doanh nghiệp 24 5 Những điều kiện mang tính biến thiên 26 6 Chiến lược thâm nhập thị trường Mỹ 32 7 Đối thủ cạnh tranh 33 Tài liệu tham khảo 40
Kim ngạch xuất khẩu hồ tiêu của Việt Nam qua thị trường EU
- Sản lượng xuất khẩu hồ tiêu của Việt Nam qua thị trường EU
( Nguồn: theo thống kê số liệu xuất khẩu hồ tiêu năm 2015 của VPA)
Năm 2015, Việt Nam xuất khẩu 133.569 tấn hồ tiêu, trong đó có 115.446 tấn tiêu đen và 18.123 tấn tiêu trắng, với tổng kim ngạch đạt 1 tỷ 276,2 triệu USD Mặc dù lượng xuất khẩu giảm 14,6% so với năm 2014, kim ngạch xuất khẩu lại tăng 5,46% Giá xuất khẩu bình quân tiêu đen đạt 9.019 USD/tấn, tăng 1.620 USD so với năm trước, trong khi tiêu trắng đạt 12.967 USD/tấn, tăng 2.320 USD.
Mỹ tiếp tục là thị trường nhập khẩu hồ tiêu lớn nhất từ Việt Nam với 26.787 tấn, chiếm 20,06% tổng lượng xuất khẩu Tuy nhiên, so với năm 2014, Mỹ đã giảm 15,9% tương đương 5.067 tấn Singapore ghi nhận sự giảm mạnh nhất, từ 15.658 tấn năm 2014 xuống còn 9.614 tấn năm 2015 Các thị trường truyền thống như Hà Lan, Ấn Độ và Ai Cập cũng giảm lượng nhập khẩu, trong khi Ả Rập và Hàn Quốc duy trì ổn định Đặc biệt, Đức đã tăng nhập khẩu lên 6.031 tấn năm 2015, nhưng vẫn thấp hơn mức trung bình trên 10.000 tấn/năm so với các năm trước.
(Nguồn: theo thống kê số liệu xuất khẩu hồ tiêu năm 2016 của VPA)
Năm 2016, Việt Nam đạt kỷ lục xuất khẩu hồ tiêu với 179.233 tấn, bao gồm 159.171 tấn tiêu đen và 20.062 tấn tiêu trắng, mang về kim ngạch 1 tỷ 439,87 triệu USD So với năm 2015, lượng xuất khẩu tăng 34,19% (45.664 tấn) và giá trị tăng 12,83% (163,7 triệu USD) Giá xuất khẩu bình quân tiêu đen là 7.636 USD/tấn, tiêu trắng là 11.191 USD, trong đó giá tiêu đen giảm 1.383 USD và tiêu trắng giảm 1.777 USD so với cùng kỳ.
Năm 2016, Việt Nam xuất khẩu hồ tiêu đến 109 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó Mỹ dẫn đầu với 39.902 tấn, tăng 48,96% so với năm trước, chiếm 22,39% tổng xuất khẩu hồ tiêu của Việt Nam Trung Quốc cũng ghi nhận lượng nhập khẩu hồ tiêu chính ngạch đạt 9.100 tấn, tăng 292,4% Các thị trường Pakistan và Philippines có sự tăng trưởng mạnh mẽ, với Pakistan đạt 7.586 tấn, tăng 336,8%, và Philippines đạt 7.642 tấn, tăng 261,6% Một số thị trường khác như Ấn Độ và Đức cũng tăng nhập khẩu, lần lượt 32,39% và 18,98% Ngược lại, một số thị trường như Singapore, Hà Lan và Anh lại giảm lượng nhập khẩu Đặc biệt, trong 5 tháng cuối năm 2016, Papua New Guinea đã nhập khẩu 3.662 tấn hồ tiêu, trong khi các năm trước gần như không có nhập khẩu.
Năm 2016, ngành xuất khẩu Hồ tiêu ghi nhận sự tham gia của hơn 150 doanh nghiệp, trong đó có hai doanh nghiệp đạt doanh thu trên 100 triệu USD Phúc Sinh dẫn đầu với 162,43 triệu USD, chiếm 11,28% tổng giá trị xuất khẩu Hồ tiêu Việt Nam và tăng 44,97% so với năm 2015 Olam theo sau với 136,77 triệu USD, chiếm 9,5% và tăng 3,03% Nhiều doanh nghiệp khác cũng có mức tăng trưởng ấn tượng, như Vĩnh Hiệp với 26,71 triệu USD, tăng từ 2,19 triệu USD năm 2015; Liên Thành tăng 335,6%; Hanfimex tăng 237,7%; Nông sản DK tăng 56,85%; Trân Châu tăng 44,6%; và Ngô Gia tăng 44,2%.
(Nguồn: theo thống kê số liệu xuất khẩu hồ tiêu năm 2017 của VPA)
Đến hết tháng 9, Việt Nam đã xuất khẩu 181.012 tấn hồ tiêu, trong đó có 160.674 tấn tiêu đen và 20.338 tấn tiêu trắng Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 966,32 triệu USD, với tiêu đen chiếm 815,93 triệu USD và tiêu trắng đạt 150,39 triệu USD.
Trong cùng kỳ năm 2016, xuất khẩu hạt tiêu đã ghi nhận mức tăng 21,85%, tương đương 32.457 tấn, nhưng giá trị xuất khẩu lại giảm 19,93%, tương ứng với 240,53 triệu USD Giá xuất khẩu bình quân của tiêu đen trong 9 tháng đạt 5.078 USD/tấn, trong khi tiêu trắng đạt 7.394 USD/tấn So với cùng kỳ năm 2016, giá xuất khẩu tiêu đen đã giảm 2.647 USD và tiêu trắng giảm 3.935 USD.
Trong 9 tháng đầu năm 2017, lượng nhập khẩu Hồ tiêu từ Philippines giảm mạnh từ 6.795 tấn xuống còn 3.335 tấn, tương đương giảm 3.460 tấn Mĩ tiếp tục là thị trường nhập khẩu Hồ tiêu lớn nhất của Việt Nam với 31.963 tấn, chiếm 17,66%, nhưng cũng ghi nhận sự giảm 2.494 tấn so với cùng kỳ năm 2016 Ngoài ra, một số thị trường lớn khác như Tây Ban Nha, Indonesia, Pháp, Mexico và Nhật Bản cũng có sự sụt giảm lượng nhập khẩu lần lượt là 1.738 tấn, 1.076 tấn, 489 tấn, 347 tấn và 248 tấn.
Trong năm qua, 13 thị trường đã ghi nhận lượng nhập khẩu tăng trên 1.000 tấn so với cùng kỳ năm trước, với Papua New Guinea dẫn đầu tăng 10.764 tấn, theo sau là Ấn Độ với 3.318 tấn và Sri Lanka với 3.281 tấn Các thị trường khác như Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập, Trung Quốc, Senegal, Ả Rập, Pakistan, Myanmar, Ireland và Thái Lan cũng có mức tăng đáng kể, từ 1.040 tấn đến 2.793 tấn Sự tăng trưởng này đã góp phần vào kỷ lục xuất khẩu Hồ tiêu Việt Nam trong 9 tháng qua.
2017 cao hơn lượng xuất khẩu của cả năm 2016.
Giá xuất khẩu tiêu đen chỉ bằng 65,73% và tiêu trắng chỉ bằng 65,27% so với cùng kỳ
Trong tháng 9 năm 2017, giá trị xuất khẩu của hầu hết các doanh nghiệp giảm, ngoại trừ một số công ty như Trân Châu, Simexco Đăk Lăk, Expo Commodities, Cà phê Petec, Gia vị Hà Nội, TH & D Việt Nam, Am Huy, Vilaconic và Hanfimex, đã ghi nhận sự tăng trưởng.
Việt Nam và Ấn Độ hiện là hai nước phát triển hàng đầu cung cấp gia vị xay/nghiền cho EU, với Việt Nam chiếm 20% tổng lượng nhập khẩu và Ấn Độ chiếm 11%.
Indonesia (chiếm 1,5% tương đương 441 tấn trong năm 2013, tăng gấp 15 lần so với năm 2009) và Madagascar (chiếm 0,3% tương đương 86 tấn, nhiều hơn gần 50 lần so với năm 2009).
Sản lượng xuất khẩu hồ tiêu của Ấn Độ qua thị trường EU
• Sản lượng hồ tiêu xuất khẩu sang EU của top 3 quốc gia đang phát triển năm 2016
Nhập khẩu hạt tiêu của EU từ các nước đang phát triển biến động theo chất lượng thu hoạch, giá cả trên thị trường quốc tế, nhu cầu và sản xuất tại nước xuất khẩu Từ năm 2013 đến 2016, nhập khẩu từ Việt Nam giảm 2,1% mỗi năm, trong khi nhập khẩu từ Sri Lanka tăng 34% Năm 2016, Việt Nam là nhà cung cấp hạt tiêu lớn nhất cho EU, chiếm 40% tổng nhập khẩu, tiếp theo là Brazil (16%), Indonesia (11%) và Ấn Độ (7,1%).
Lợi thế cạnh tranh của Việt Nam có được
Tiêu được trồng ở Việt Nam đã hơn 200 năm, nhưng diện tích trồng chỉ được mở rộng từ năm 1990, đặc biệt là sau năm 1998 khi giá hồ tiêu tăng cao Tốc độ tăng diện tích tiêu trung bình đạt 11,7% mỗi năm và 6,2% trong 10 năm tiếp theo Đến cuối năm 2010, diện tích trồng tiêu tại Việt Nam đạt khoảng 51.000 ha, trong đó 80% diện tích là thu hoạch.
Vùng trồng tiêu lớn nhất hiện nay tập trung chủ yếu ở các tỉnh Đông Nam Bộ, đặc biệt là Bình Phước, Bà Rịa-Vũng Tàu và Đồng Nai Ngoài ra, Tây Nguyên cũng là vùng quan trọng với các tỉnh Đăk Nông, Đăk Lăk và Gia Lai Những khu vực này sở hữu nguồn tài nguyên đất đai và khí hậu lý tưởng cho cây tiêu, đồng thời còn nhiều tiềm năng để mở rộng diện tích và nâng cao năng suất.
Năng suất tiêu của Việt Nam vượt trội so với mức trung bình toàn cầu, với năng suất thu hoạch bình quân đạt khoảng 2,2 tấn/ha, và ở nhiều khu vực có thể đạt từ 4-5 tấn/ha, đặc biệt là một số vùng tại Gia Lai Sản lượng hạt tiêu đã tăng đáng kể kể từ sau năm
Từ năm 1998, sản lượng hồ tiêu của Việt Nam đã tăng từ 15.000 tấn lên hơn 110.000 tấn, chiếm hơn 1/3 sản lượng tiêu toàn cầu Kể từ năm 2002, Việt Nam đã trở thành quốc gia dẫn đầu về sản lượng và là nhà cung cấp hồ tiêu lớn nhất trên thị trường thế giới Hiện tại, Việt Nam có 18 nhà máy chế biến tiêu sạch với công suất khoảng 70.000 tấn/năm, trong đó 14 nhà máy sử dụng công nghệ hiện đại, xử lý tiêu bằng hơi nước, tạo ra sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng của Mỹ (ASTA), châu Âu (ESA) và Nhật Bản (JSSA).
Chế biến tiêu trắng (tiêu sọ) đang ngày càng được chú trọng tại Việt Nam, với tỷ trọng xuất khẩu tăng từ 17-19% trong ba năm qua Kể từ năm 2009, Việt Nam đã vươn lên dẫn đầu về xuất khẩu tiêu sọ, chiếm 50% tổng lượng tiêu sọ xuất khẩu toàn cầu Hạt tiêu Việt Nam nổi bật với chất lượng hương vị thơm ngon, không thua kém tiêu của Indonesia và Ấn Độ Các vùng trồng tiêu ở Phú Quốc và Bắc Trung Bộ có khí hậu thuận lợi, giúp hạt tiêu chắc và mang hương vị đặc trưng.
Việt Nam sở hữu lợi thế cạnh tranh với chi phí nhân công thấp và lực lượng lao động chăm chỉ, cùng với nhiều ý tưởng sáng tạo Những yếu tố này đã giúp xây dựng các vườn cây với chi phí thấp nhưng năng suất cao, cho phép Việt Nam duy trì vị thế trên thị trường ngay cả trong bối cảnh giá cả giảm.
Tỷ lệ xuất khẩu tiêu hàng năm đạt 95% sản lượng sản xuất, đóng góp khoảng 450 – 500 triệu USD vào ngân sách ngoại tệ, tăng mạnh so với chỉ 100 triệu USD/năm cách đây 10 năm.
Năm 2012, xuất khẩu hạt tiêu đạt 800 triệu USD, phản ánh sự kết hợp giữa tăng năng suất và phát triển công nghệ chế biến Hiện nay, sản phẩm hạt tiêu trắng chiếm từ 17-20% tổng xuất khẩu, tăng đáng kể so với chỉ 4% vào đầu những năm 2000.
Tiêu Việt Nam đã được xuất khẩu đến 80 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn cầu, cho thấy sự đa dạng của thị trường nhập khẩu Trước năm 2000, chủ yếu xuất khẩu sang các nước châu Á, đặc biệt là Singapore Hiện nay, thị trường châu Á vẫn tiếp tục phát triển, trong khi thị trường châu Âu ghi nhận sự tăng trưởng mạnh mẽ Ngoài ra, các thị trường châu Mỹ, đặc biệt là Hoa Kỳ (chiếm 15% tổng xuất khẩu) và các nước châu Phi cũng có sự gia tăng đáng kể.
Giá tiêu đen đã trải qua nhiều biến động từ những năm 1970, ổn định vào đầu những năm 1990 Tuy nhiên, từ năm 1998, khi sản lượng tiêu tăng mạnh, giá lại giảm và chỉ phục hồi vào năm 2004 trong mùa bội thu tại Việt Nam Sự suy thoái kinh tế đã làm giá tiêu giảm vào năm 2009, nhưng sau đó đã phục hồi và duy trì ổn định cho đến nay Hiện tại, giá tiêu của Việt Nam vẫn thấp hơn so với một số đối thủ cạnh tranh như Malaysia, Ấn Độ và Thái Lan.
Cây hồ tiêu được trồng ở 70 nước trên thế giới với tổng diện tích 476.514 ha (IPC
Diện tích trồng tiêu toàn cầu chủ yếu tập trung ở các nước vùng xích đạo, với Ấn Độ và Indonesia chiếm gần 70% tổng diện tích Năng suất tiêu thế giới chỉ đạt khoảng 0,7 tấn/ha và tăng rất chậm Mặc dù Ấn Độ và Indonesia có diện tích lớn, năng suất bình quân của họ chỉ khoảng 0,4 tấn/ha Trong khi đó, Thái Lan và Việt Nam có năng suất cao hơn, khoảng 2,2 tấn/ha, nhưng sản lượng tiêu của Thái Lan lại không đáng kể Tổng sản lượng tiêu thế giới chỉ tăng trung bình khoảng 0,6% mỗi năm trong giai đoạn 2001-2010, đạt 338,38 ngàn tấn vào năm 2010.
Ngành tiêu Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ với sự hình thành của nhiều công ty xuất khẩu lớn Hiện nay, có gần 200 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thu mua, chế biến và xuất khẩu hồ tiêu, trong đó có 13 doanh nghiệp nước ngoài Hơn 70 doanh nghiệp tham gia chế biến và xuất khẩu trực tiếp hồ tiêu, với khoảng 20 doanh nghiệp có năng lực xuất khẩu trên 10 triệu USD mỗi năm.
Việt Nam đã thành công trong việc xây dựng thương hiệu Hồ tiêu Chư Sê (Gia Lai), chuyển từ xuất khẩu hàng thô giá rẻ sang sản phẩm tiêu chuẩn chất lượng cao Thương hiệu này đã tạo được tiếng vang trong nước và thu hút sự chú ý từ nhiều quốc gia Hiện tại, Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam (VPA) đang nỗ lực phát triển thương hiệu hồ tiêu cho các vùng như Bà Rịa-Vũng Tàu, Phú Quốc và Lộc Ninh (Bình Phước).
Nhu cầu hạt tiêu hiện nay không chỉ giới hạn trong ẩm thực mà còn mở rộng ra lĩnh vực dược phẩm Bên cạnh đó, dầu hạt tiêu được ứng dụng trong nhiều ngành nghề khác như mỹ phẩm, nước hoa và các sản phẩm vệ sinh cá nhân, bao gồm kem đánh răng và nước súc miệng.
Theo số liệu từ Ủy ban Hạt tiêu Quốc tế (IPC), tiêu thụ hạt tiêu toàn cầu đã tăng khoảng 3% mỗi năm trong suốt 10 năm qua kể từ năm 2001 Dự báo trong tương lai, thế giới sẽ gặp phải tình trạng thiếu hụt nguồn cung hạt tiêu với con số ước tính lên tới vài chục ngàn tấn mỗi năm.
Mô hình kim cương của Porter
Porter giả thiết rằng có bốn thuộc tính chung của quốc gia ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh cho các công ty địa phương Một trong những thuộc tính quan trọng là tính sẵn có của các yếu tố sản xuất, bao gồm các điều kiện về tài nguyên cần thiết cho hoạt động kinh doanh.
Hồ tiêu được trồng chủ yếu từ Nghệ An trở vào phía Nam, với 18 tỉnh có diện tích trồng trên 100ha, và tổng diện tích trồng hồ tiêu rải rác khoảng 650ha Hai vùng trồng hồ tiêu tăng nhanh nhất là Đông Nam Bộ và Tây Nguyên Tại Đông Nam Bộ, tỉnh Bình Phước và Bà Rịa-Vũng Tàu có tổng diện tích khoảng 21.000ha, trong khi ba tỉnh Tây Nguyên gồm Đăk Lăk, Gia Lai và Đăk Nông cũng có diện tích lớn Ở Bắc Trung Bộ, tỉnh Quảng Trị và tỉnh Bình Thuận ở Duyên Hải Nam Trung Bộ cũng có diện tích trồng hồ tiêu đáng kể.
•Vùng hồ tiêu Bình Phước Điều kiện tự nhiên
Bình Phước có tổng diện tích 685.700ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 305.604ha, tiếp theo là đất lâm nghiệp và các loại đất khác Theo Vũ Cao Thái và Phạm Quang Khánh (1994), tỉnh có đầy đủ các loại đất từ miền đồi núi như đất đỏ, đen, xám đến đồng bằng như đất phù sa và cát biển Đặc biệt, đất đỏ chiếm tỷ lệ lớn và đất xám rất màu mỡ Đặc điểm đa dạng của đất đai đã tạo điều kiện cho sự phát triển các vùng sản xuất cây ăn quả và cây công nghiệp truyền thống lâu đời tại Bình Phước.
Tỉnh Bình Phước chịu ảnh hưởng của khí hậu gió mùa, với các đặc trưng:
- Lượng mưa trung bình hàng năm 2.667 mm, tập trung từ tháng 5 đến tháng 10(77,9% tổng lượng mưa cả năm).
- Lượng bốc hơi hàng năm 825mm, cao nhất vào tháng 2 và thấp nhất vào tháng 9.
- Độ ẩm trung bình hàng năm 81,7%, độ ẩm cao dần từ tháng 4 và bắt đầu giảm từ tháng 11, tháng có độ ẩm cao nhất là tháng 9.
- Tổng số giờ nắng trong năm 2.309 giờ, tập trung vào tháng 1 đến tháng 5, tháng có số giờ nắng cao nhất là tháng 4.
- Nhiệt độ trung bình hàng năm 26,50C, nhiệt độ cao vào tháng 4, nhiệt độ thấp nhất vào tháng 12. Điều kiện kinh tế xã hội
Bình Phước, một tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, có dân số 783.600 người và mật độ dân số 114 người/km² Theo niên giám thống kê năm 2004, dân số nông thôn chiếm 84,8% tổng số dân của tỉnh, với 664.500 người Trong cùng năm, tổng sản phẩm của tỉnh đạt khoảng 2.200 tỷ đồng, trong đó nông lâm nghiệp chiếm 58,4%, tiếp theo là công nghiệp-xây dựng và dịch vụ.
Bình Phước, giống như các tỉnh khác ở Miền Đông Nam Bộ, có tổng diện tích đất nông nghiệp lên tới 305.604 ha, chiếm tỷ lệ cao so với các loại đất khác Khu vực này sở hữu đa dạng các loại đất, tạo điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp, đặc biệt là các loại cây công nghiệp dài ngày.
Bình Phước có diện tích bình quân mỗi hộ dân từ 1-2ha, với một số hộ sở hữu tới 100ha Tỉnh này nổi bật với địa hình cao, ít bị ngập nước trong mùa mưa, tạo điều kiện thuận lợi cho việc trồng các cây công nghiệp dài ngày Hiện nay, các loại cây trồng chủ lực bao gồm điều, hồ tiêu, cà-phê, cùng với các loại cây ăn quả như sầu riêng, xoài, nhãn và cam quýt.
Vào năm 2003, tỉnh có diện tích hồ tiêu khoảng 14.195ha, với 8.350ha thu hoạch và sản lượng đạt 19.010 tấn Tuy nhiên, đến năm 2004, diện tích hồ tiêu giảm 4,4% xuống còn 13.571ha do giá thấp, chi phí vật tư và lao động tăng, cùng với sự tấn công của sâu bệnh Mặc dù diện tích giảm, nhưng diện tích thu hoạch lại tăng 19,6% (10.389ha) nhờ vào các vườn tiêu mới trồng từ 1997-2002, dẫn đến sản lượng tăng 23,7% (24.933 tấn) so với năm trước Tại Bình Phước, diện tích trồng hồ tiêu chủ yếu tập trung ở các huyện Lộc Ninh (3.758ha), Bình Long (3.519ha) và Bù Đốp (1.149ha), trong khi các huyện khác có diện tích trồng không đáng kể Trung bình mỗi hộ trồng hồ tiêu khoảng 0,5-1,0ha, nhưng nhiều hộ có diện tích lên tới 2-3ha, và một số hộ đặc biệt có thể lên đến vài chục hecta.
• Vùng tiêu Bà Rịa-Vũng Tàu Điều kiện tự nhiên
Bà Rịa-Vũng Tàu có khí hậu nhiệt đới cận xích đạo với ảnh hưởng của gió mùa, tổng bức xạ ổn định từ 390-520 cal/cm2/ngày Nhiệt độ trung bình năm đạt 27,48°C, thấp nhất vào tháng 1 là 25,7°C và cao nhất vào tháng 4 là 28,9°C Tổng tích ôn hàng năm là 9.217°C và số giờ nắng đạt 2.377 giờ/năm, đặc biệt các tháng mùa khô có từ 193,2 đến 271,5 giờ nắng/tháng Ít bão và sương mù cũng là những yếu tố thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của cây hồ tiêu.
Yếu tố chi phối lớn nhất của khí hậu đối với sản xuất hồ tiêu là mưa và phân bố mưa.
Bà Rịa-Vũng Tàu có lượng mưa trung bình hàng năm đạt 1.933mm, với lượng mưa tăng dần từ phía Nam lên phía Bắc Mùa mưa mang lại lượng mưa cao, trong khi mùa khô kéo dài và gay gắt, ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây trồng và chi phí tưới tiêu, thoát nước Tuy nhiên, điều kiện khí hậu tại đây nhìn chung rất thuận lợi cho sự phát triển của hồ tiêu.
Bà Rịa-Vũng Tàu có tổng diện tích tự nhiên là 197.537ha, với 9 nhóm đất chính, trong đó đất đỏ bazan và đất đỏ vàng chiếm 40,8%, đất xám 14,3% và đất cát biển 10,2% Sự đa dạng về đất đai tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nhiều loại cây trồng, đặc biệt là các cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao.
Bà Rịa-Vũng Tàu, tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, là một phần của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam với dân số năm 2003 đạt 885.166 người, mật độ 448 người/km² Khu vực nông thôn có hơn 108.350 hộ với 525.991 nhân khẩu, chiếm 57,33% tổng dân số, tạo nguồn nhân lực thuận lợi cho phát triển nông nghiệp lâu năm Tổng sản phẩm GDP năm 2003 đạt 62.000 tỷ đồng, tăng 24,74% so với năm 2002, và nộp vào ngân sách Nhà nước 41.000 tỷ đồng.
Bà Rịa-Vũng Tàu là tỉnh có tiềm năng lớn trong khai thác dầu khí, dịch vụ du lịch và chế biến thủy hải sản Sự phát triển của cây lâu năm không chỉ cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp hóa nông nghiệp mà còn giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và tạo việc làm cho người dân ở khu vực nông thôn.
Bà Rịa-Vũng Tàu có diện tích tự nhiên 198.200 ha, trong đó 89.188 ha (44,9%) dành cho sản xuất nông lâm nghiệp Đặc biệt, diện tích đất đỏ bazan 63.934 ha (32,36%) mang lại nhiều tiềm năng cho phát triển cây lâu năm Tương tự như các tỉnh miền Đông Nam Bộ, Bà Rịa-Vũng Tàu chủ yếu đầu tư vào các cây trồng như tiêu, điều, cao su, cà phê và các loại cây ăn quả có giá trị kinh tế cao Trong số đó, cây hồ tiêu chiếm 12% tổng diện tích đất canh tác.
Hầu hết các huyện trong tỉnh đều trồng hồ tiêu, ngoại trừ huyện Côn Đảo có diện tích không đáng kể Diện tích hồ tiêu chủ yếu tập trung ở các huyện Châu Đức (5.330,5ha), Xuyên Mộc (1.244,7ha), Tân Thành (366,5ha) và thị xã Bà Rịa (263,5ha), nơi có nhiều đất đỏ bazan phù hợp cho sự phát triển của cây hồ tiêu Các huyện còn lại có diện tích trồng hồ tiêu không đáng kể.
Bà Rịa-Vũng Tàu có sự chênh lệch lớn về diện tích trồng hồ tiêu giữa các hộ và các vùng, với diện tích bình quân khoảng 0,4ha/hộ Năm 2003, tổng sản lượng hồ tiêu của tỉnh đạt 9.911 tấn, chủ yếu từ những vùng trồng hồ tiêu có diện tích lớn.
Những điều kiện mang tính biến thiên
Khi đầu tư xuất khẩu mặt hàng này, các doanh nghiệp sẽ có những thuận lợi – cơ hội và gặp những thách thức – khó khăn:
Thuận lợi – Cơ hội: Điều kiện tự nhiên: Thiên nhiên ưu đãi, đất đai và khí hậu phù hợp cho cây tiêu sinh trưởng và phát triển tốt.
Việt Nam sở hữu nguồn nhân lực dồi dào với lực lượng lao động nông nghiệp lớn mạnh Nông dân Việt Nam không chỉ cần cù, chăm chỉ mà còn có nhiều kinh nghiệm trong việc canh tác các loại cây trồng kỹ thuật cao như cây tiêu Họ cũng có khả năng tiếp cận công nghệ sản xuất và chế biến hạt tiêu, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm.
Chi phí đầu tư cho vườn tiêu là tương đối thấp so với các loại cây công nghiệp khác như cà phê, điều và cao su Do đó, cây hạt tiêu trở thành lựa chọn ưu tiên cho những ai muốn bắt đầu kinh doanh nông nghiệp với nguồn vốn hạn chế.
Việt Nam hiện chiếm khoảng 50% nguồn cung hạt tiêu toàn cầu, và bất kỳ biến động nào từ ngành hạt tiêu Việt Nam đều có thể ảnh hưởng đến thị trường thế giới Nông dân tại Đắc Lắc thường bán tiêu chủ yếu từ tháng 2 đến tháng 7, trong khi sản phẩm từ Quảng Trị lại được tiêu thụ mạnh vào cuối năm, từ tháng 7 đến tháng 12 Đặc biệt, hạt tiêu Phú Quốc có mùa vụ bán hàng cao từ tháng 2 đến tháng 4 Sự phân bổ mùa vụ này giữa các vùng sản xuất chính giúp tạo ra nguồn hàng ổn định quanh năm cho các nhà xuất khẩu, đồng thời mang lại giá bán cao hơn cho nông dân trong những thời điểm nhất định.
Năng suất hạt tiêu của Việt Nam cao hơn so với nhiều quốc gia sản xuất tiêu khác, nhờ vào độ tuổi trẻ của các vườn tiêu, thường từ 10-15 năm, thời điểm mà cây hạt tiêu đạt năng suất tối ưu nhất.
Ngành hạt tiêu Việt Nam nổi bật với sản lượng và chất lượng ổn định, duy trì mức sản lượng cao từ năm 2002 đến nay, ngay cả khi giá hạt tiêu toàn cầu giảm Hạt tiêu Việt Nam không chỉ có hương vị thơm ngon, cay nồng mà còn đạt tiêu chuẩn lý hóa tương đương với hạt tiêu Indonesia và Ấn Độ, tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ Điều này khiến các nhà nhập khẩu yên tâm khi lựa chọn hạt tiêu Việt Nam.
Phát triển cây hạt tiêu tại Việt Nam hiện nay chủ yếu diễn ra một cách tự phát, thiếu quy hoạch cụ thể và định hướng sinh thái tối ưu Sản xuất hạt tiêu vẫn chủ yếu ở quy mô nhỏ lẻ, phụ thuộc nhiều vào điều kiện khí hậu và dịch bệnh Sự gia tăng nhanh chóng diện tích trồng tiêu trong những năm gần đây xuất phát từ việc nông dân chuyển đổi từ trồng cà phê sang trồng tiêu khi giá tiêu tăng cao.
Hầu hết nông dân Việt Nam thiếu vốn đầu tư cho sản xuất và chế biến hạt tiêu, dẫn đến sự không ổn định trong kinh doanh Hạt tiêu thường được thu hoạch vào mùa mưa, nhưng do thiếu vốn, nông dân không thể đầu tư vào thiết bị sấy, khiến độ ẩm hạt không được kiểm soát và chế biến chủ yếu diễn ra theo phương pháp thủ công Hiện tại, chỉ có khoảng 6 doanh nghiệp đầu tư dây chuyền chế biến bằng hơi nước và 7 doanh nghiệp có dây chuyền tách tạp chất, điều này lý giải tại sao Việt Nam chưa thể nâng cao tiêu chuẩn và thương hiệu cho hạt tiêu, thường xuyên phải bán với giá thấp hơn do áp lực từ người mua.
Chất lượng tiêu của Việt Nam đang bị ảnh hưởng bởi việc các đơn vị kinh doanh chủ yếu tập trung vào thu mua để xuất khẩu mà không chú trọng đến công nghệ chế biến sau thu hoạch Điều này dẫn đến việc giá hạt tiêu xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn từ 100 đến 200 USD/tấn so với tiêu của các nước khác Để nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm, cần đầu tư vào công nghệ chế biến hiện đại.
Mặc dù Việt Nam đã dẫn đầu thế giới về xuất khẩu hạt tiêu từ năm 2002, nhưng đến nay, sau khi gia nhập WTO, vẫn chưa có thương hiệu hạt tiêu nào mang tên “Made in Vietnam”.
Nông dân trồng tiêu, nhà chế biến và nhà xuất khẩu tiêu ở Việt Nam đang thiếu thông tin cập nhật về ngành, dẫn đến việc khi giá tiêu thế giới tăng cao, lượng hàng xuất khẩu của Việt Nam chỉ còn khoảng 40% Nguyên nhân chính là do doanh nghiệp thiếu thông tin và không dự báo được cung cầu, trong khi các nhà buôn quốc tế đã nhanh chóng mua hàng với giá thấp Thêm vào đó, các nhà xuất khẩu Việt Nam không có kế hoạch cụ thể trong phương thức buôn bán, chỉ mua khi có hàng và ngừng khi không có, trái ngược với các nhà buôn quốc tế có chiến lược rõ ràng về sản lượng và thị trường.
Mối liên hệ giữa nông dân và doanh nghiệp hiện còn yếu, thiếu các cuộc đối thoại trực tiếp để trao đổi thông tin và giải quyết những khúc mắc giữa nhà nước, doanh nghiệp và nông dân Hệ thống kiểm soát chất lượng chế biến chưa được thực hiện chặt chẽ, dẫn đến quản lý sản phẩm trong vụ và sau vụ chế biến còn lỏng lẻo.
Phương thức sản xuất tiêu ở Việt Nam hiện nay vẫn lạc hậu, chủ yếu dựa vào các tập quán cũ và thiếu kiến thức về phòng ngừa sâu bệnh, dẫn đến việc sử dụng nhiều phân hữu cơ Nông dân không được đào tạo bài bản, và đa số chưa xem việc trồng tiêu là sản xuất hàng hóa, trong khi khoảng 50% diện tích trồng tiêu không có vành đai chắn gió, dễ gây xói mòn đất và giảm chất lượng cây trồng Thêm vào đó, khoảng 30% vườn tiêu đã trên 20 năm tuổi cần cải tạo, nhưng giá tiêu giảm liên tục đã ảnh hưởng đến khả năng tái đầu tư của nông dân Thiếu thông tin thị trường và chi phí sản xuất cao cũng là những yếu tố khiến sản lượng và chất lượng tiêu thấp, tạo ra nguy cơ giảm sản lượng trong các mùa vụ tới.
Ngành hạt tiêu của Việt Nam đang đối mặt với hạn chế trong tầm nhìn phát triển, khi cả sản xuất, chế biến và xuất khẩu đều thiếu chiến lược dài hạn Cần có chính sách phù hợp và mục tiêu cụ thể để thúc đẩy sự phát triển bền vững cho ngành này.
Hồ tiêu Việt Nam hiện chiếm gần 60% thị phần nguồn cung toàn cầu và có mặt tại 100 quốc gia và vùng lãnh thổ, đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết nguồn cung mặt hàng này trên toàn thế giới, mặc dù vẫn gặp nhiều khó khăn.
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, năm 2016, Mỹ, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống Nhất và Ấn Độ là ba thị trường xuất khẩu hồ tiêu lớn nhất của Việt Nam, chiếm hơn 40% thị phần.