Tình hình nghiên cứu
Nội dung vi phạm hành chính là một vấn đề phức tạp, nhưng nhiều nghiên cứu đã được thực hiện để làm rõ tầm quan trọng của nó Một trong những công trình tiêu biểu là luận văn Thạc sĩ Luật học của Lê Nguyễn Nam Ninh (2004), tập trung vào vi phạm pháp luật hành chính về đất đai ở Thái Bình, phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp khắc phục hậu quả.
Nội dung bài viết đề cập đến pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính, bao gồm lý luận và thực tiễn trong luận văn Thạc sĩ Luật học của Bùi Tiến Đạt (2008) tại Hà Nội Bên cạnh đó, các giáo trình như Giáo trình Luật hành chính và Giáo trình Luật Đất đai, đều do Đại học Luật Hà Nội xuất bản năm 2008, cũng cung cấp kiến thức liên quan Ngoài ra, một số công trình khác như "Vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính" của nhóm chuyên gia pháp luật hành chính (2018) và "Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" của Đoàn Thị Vân Thúy cũng đề cập đến vấn đề này một cách hạn chế.
Các công trình hiện tại chủ yếu tập trung vào vi phạm pháp luật và hành chính nói chung, nhưng chưa đề cập đến việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, đặc biệt là tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng phương pháp nghiên cứu của triết học Mác-Lênin; kết hợp với các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê
Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo khóa luận có kết cấu gồm 2 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Khái quát xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
Chương 2: Thực trạng xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
KHÁI QUÁT XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI
Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
1.1.1 Khái niệm vi phạm hành chính
1.1.1.1 Khái niệm vi phạm hành chính
Căn cứ tính chất vi phạm và trách nhiệm pháp lý thì vi phạm pháp luật chia thành các loại sau:
+ Vi phạm pháp luật hình sự
+ Vi phạm pháp luật dân sự
+ Vi phạm kỷ luật nhà nước
Vi phạm hành chính là một loại vi phạm pháp luật phổ biến trong xã hội, với mức độ nguy hiểm thấp hơn so với vi phạm pháp luật hình sự Một số tác giả đã đưa ra định nghĩa về vi phạm hành chính, nhấn mạnh tính chất và đặc điểm của loại vi phạm này.
Vi phạm hành chính là những hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa đến lợi ích của nhà nước, tập thể, cá nhân và cộng đồng Nếu không được ngăn chặn và xử lý kịp thời, những vi phạm này có thể dẫn đến tình trạng phạm tội trong xã hội.
Vi phạm hành chính là hành động của cá nhân hoặc tổ chức gây ra lỗi cố ý hoặc vô ý, vi phạm quy định pháp luật về quản lý nhà nước mà không được coi là tội phạm Những hành vi này sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật.
Trước khi khái niệm "vi phạm hành chính" ra đời, thuật ngữ "vi cảnh" đã được đề cập trong các văn bản pháp luật Khái niệm này được chính thức công nhận trong "Điều lệ xử phạt vi cảnh" theo Nghị định số 143/CP do Hội đồng Chính phủ ban hành.
Ngày 27 tháng 05 năm 1977, Điều lệ xử phạt vi cảnh quy định rằng tất cả các hành vi xâm phạm trật tự an toàn xã hội, có tính chất đơn giản, rõ ràng và hậu quả không nghiêm trọng, sẽ được coi là phạm pháp vi cảnh Những hành vi này không đủ điều kiện để bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc áp dụng các biện pháp hành chính khác.
Theo Điều 2 của Điều lệ về phạt vi cảnh, hành vi xâm phạm trật tự an toàn xã hội được coi là phạm pháp vi cảnh khi có tính chất đơn giản, rõ ràng và hậu quả không nghiêm trọng, chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc xử phạt bằng các biện pháp hành chính khác.
Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính được ban hành vào ngày 30 tháng 11 năm 1989 bởi Ủy ban thường vụ Quốc hội đã chính thức định nghĩa khái niệm “vi phạm hành chính” lần đầu tiên.
Vi phạm hành chính là hành động của cá nhân hoặc tổ chức, có thể do cố ý hoặc vô ý, vi phạm các quy tắc quản lý Nhà nước mà không thuộc về tội phạm hình sự Theo quy định pháp luật, những hành vi này sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính.
Theo khoản 2, Điều 1 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002, vi phạm hành chính được hiểu là hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm quy định pháp luật về quản lý nhà nước, không phải tội phạm và phải bị xử phạt hành chính Đến Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, định nghĩa vi phạm hành chính đã được làm rõ hơn: đó là hành vi có lỗi của cá nhân, tổ chức vi phạm quy định pháp luật về quản lý nhà nước, không phải tội phạm và phải chịu hình thức xử phạt hành chính.
Theo các văn bản pháp luật, mặc dù có sự khác biệt trong cách diễn đạt, nhưng các quy định về vi phạm hành chính đều thống nhất về những dấu hiệu nhận biết Dựa trên nội dung đã được quy định trong các văn bản này, có thể định nghĩa vi phạm hành chính như sau:
Vi phạm hành chính là hành vi của cá nhân hoặc tổ chức, có thể là cố ý hoặc vô ý, vi phạm các quy định pháp luật mà không cấu thành tội phạm Những hành vi này theo quy định của pháp luật sẽ phải chịu hình thức xử phạt hành chính.
1.1.1.2 Dấu hiệu vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính có các dấu hiệu sau:
Một là, vi phạm hành chính là hành vi trái pháp luật
- Vi phạm hành chính có hình thức biểu hiện là hành vi, thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động của cá nhân hay tổ chức
+ Hành vi vi phạm hành chính thể hiện dưới dạng hành động:
Hành vi viết, phát tán và lưu hành tài liệu có nội dung xuyên tạc, bịa đặt hoặc vu cáo gây ảnh hưởng đến uy tín của tổ chức và cá nhân được coi là vi phạm pháp luật hành chính Theo quy định tại điểm l khoản 3 Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP, hành vi này bị xử phạt trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội, phòng, chống tệ nạn xã hội, phòng cháy và chữa cháy, cũng như phòng, chống bạo lực gia đình.
+ Hành vi vi phạm hành chính biểu hiện dưới dạng không hành động:
Người điều khiển và hành khách trên xe ô tô phải thắt dây an toàn khi xe đang di chuyển, theo quy định tại điểm k và điểm l khoản 1 Điều 5 Nghị định số 46/2016/NĐ-CP Vi phạm quy định này sẽ bị xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt.
Nhưng suy nghĩ, tư tưởng không phải là vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính là hành vi cụ thể không chịu sự điều chỉnh của suy nghĩ và tư tưởng con người Như Mác đã nói, "Ngoài hành vi của tôi ra, tôi không tồn tại đối với pháp luật", điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của hành vi trong việc xác định trách nhiệm pháp lý.
- Vi phạm hành chính là hành vi trái pháp luật Tính trái pháp luật của hành vi được thể hiện như sau:
+ Thực hiện hành vi mà pháp luật cấm:
Hành vi đi xe máy ngược chiều trên đường một chiều bị cấm theo quy định tại điểm i khoản 4 Điều 6 Nghị định số 46/2016/NĐ-CP.
+ Không thực hiện hành vi mà pháp luật buộc phải thực hiện:
Qui định của pháp luật hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
1.2.1 Các loại vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
Nghị định số 102/2014/NĐ-CP, ban hành ngày 10 tháng 11 năm 2014, quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, bao gồm 25 điều và quy định 54 hành vi vi phạm cần xử phạt Nghị định này thay thế Nghị định số 105/2009/NĐ-CP, được ban hành ngày 11 tháng 11 năm 2009, cũng quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
Nhóm 1: Chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép:
- Chuyển mục đích sử dụng sang đất trồng cây lâu năm, đất trồng rừng
- Chuyển mục đích sử dụng sang đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối
- Chuyển mục đích sử dụng sang đất phi nông nghiệp
Nhóm 2: Tự ý chuyển mục đích sử dụng đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép:
- Chuyển mục đích sử dụng sang đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối, đất nông nghiệp khác
- Chuyển mục đích sử dụng sang đất phi nông nghiệp
Nhóm 3: Chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp không phải là đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép:
Chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ đất trồng cây hàng năm sang đất nuôi trồng thủy sản nước mặn, đất làm muối, cũng như đất nuôi trồng thủy sản dưới hình thức ao, hồ, đầm, là một xu hướng ngày càng phổ biến Việc này không chỉ giúp tối ưu hóa việc sử dụng đất mà còn góp phần vào phát triển kinh tế bền vững trong lĩnh vực thủy sản.
- Chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp không phải là đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng sang đất phi nông nghiệp
Nhóm 4: Chuyển mục đích sử dụng đất phi nông nghiệp sang mục đích khác trong nhóm đất phi nông nghiệp mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép:
- Hành vi tự ý chuyển đất phi nông nghiệp không phải là đất ở sang đất ở mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép
Hành vi chuyển đổi đất xây dựng công trình sự nghiệp, đất công cộng phục vụ kinh doanh, và đất sản xuất phi nông nghiệp thành đất thương mại, dịch vụ mà không có sự cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là vi phạm pháp luật Việc chuyển nhượng đất thương mại, dịch vụ và đất xây dựng công trình sự nghiệp sang đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp cũng cần phải tuân thủ quy định của pháp luật để đảm bảo tính hợp pháp và tránh rủi ro pháp lý.
- Đối với hành vi lấn, chiếm đất nông nghiệp không phải là đất trồng lúa, đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất
Hành vi lấn chiếm đất trồng lúa, đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất và đất phi nông nghiệp không phải là đất ở sẽ bị xử lý nghiêm Tuy nhiên, có những quy định riêng đối với hành vi lấn chiếm đất ở.
Hành vi lấn chiếm đất trong hành lang bảo vệ an toàn công trình sẽ bị xử phạt theo quy định tại Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong nhiều lĩnh vực, bao gồm xây dựng, kinh doanh bất động sản, khai thác và sản xuất vật liệu xây dựng, quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật, phát triển nhà và công sở, giao thông đường bộ và đường sắt, văn hóa, thể thao, du lịch, quảng cáo, cũng như khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi, đê điều và phòng, chống lụt bão.
Nhóm 6: Gây cản trở cho việc sử dụng đất của người khác
Hành vi đưa chất thải, chất độc hại, vật liệu xây dựng hoặc các vật khác lên thửa đất của người khác hoặc thửa đất của chính mình gây cản trở cho việc sử dụng đất của người khác là hành vi vi phạm pháp luật Việc này không chỉ ảnh hưởng đến môi trường mà còn xâm phạm quyền sử dụng đất hợp pháp của các cá nhân và tổ chức khác.
- Đối với hành vi đào bới, xây tường, làm hàng rào gây cản trở hoặc gây thiệt hại cho việc sử dụng đất của người khác
Nhóm 7: Không đăng ký đất đai:
- Hành vi không đăng ký đất đai lần đầu
Theo quy định tại các Điểm a, b, h, i, k và l Khoản 4 Điều 95 của Luật Đất đai, những trường hợp biến động đất đai không thực hiện đăng ký biến động theo quy định sẽ gặp phải những hệ lụy pháp lý nghiêm trọng.
Nhóm 8: Tự ý chuyển quyền sử dụng đất khi không đủ điều kiện theo quy định tại Điều 188 của Luật Đất đai: Đối với hành vi tự ý chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê, cho thuê lại, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi chưa có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đất đang có tranh chấp, đất đang bị kê biên để bảo đảm thi hành án, đất đã hết thời hạn sử dụng nhưng không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền gia hạn
Nhóm 9: Tự ý chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp mà không đủ điều kiện quy định:
Hành vi hộ gia đình hoặc cá nhân tự ý chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp cho người khác trong cùng xã, phường, thị trấn mà chưa có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc quyết định giao đất là vi phạm pháp luật Điều này cũng áp dụng đối với đất đang có tranh chấp, đất bị kê biên để bảo đảm thi hành án, hoặc đất đã hết thời hạn sử dụng mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền gia hạn.
Hành vi của hộ gia đình hoặc cá nhân tự ý chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp cho hộ gia đình hoặc cá nhân khác không thuộc cùng xã, phường, thị trấn là vi phạm quy định pháp luật về quản lý đất đai.
Nhóm 10: Tự ý chuyển nhượng quyền sử dụng đất dưới hình thức phân lô, bán nền trong dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở:
Hành vi tự ý chuyển nhượng quyền sử dụng đất thông qua việc phân lô và bán nền trong các dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc cho thuê mà chưa có sự chấp thuận của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là vi phạm pháp luật.
Nhóm 11: Tự ý chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn với chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở mà không đủ điều kiện: