1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài theo bộ luật dân sự 2015

76 18 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Pháp Luật Điều Chỉnh Quan Hệ Dân Sự Có Yếu Tố Nước Ngoài Theo Bộ Luật Dân Sự 2015
Tác giả Nguyễn Thu Sương
Người hướng dẫn PGS.TS Bành Quốc Tuấn
Trường học Trường Đại Học Công Nghệ Tp. Hcm
Chuyên ngành Luật Kinh Tế
Thể loại Khóa Luận Tốt Nghiệp
Năm xuất bản 2018
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 76
Dung lượng 884,67 KB

Cấu trúc

  • 1. Tính cấp thiết của đề tài (6)
  • 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (8)
  • 3. Phương pháp nghiên cứu (8)
  • 4. Kết cấu của khóa luận (8)
  • Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ DÂN SỰ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI (9)
    • 1.1 Khái niệm và đặc điểm quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài 4 (9)
      • 1.1.1 Khái niệm quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài (9)
      • 1.1.2 Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài theo Bộ Luật dân sự 2015 (13)
    • 1.2 Đặc điểm pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài 18 (23)
      • 1.2.1 Khái niệm pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài (23)
      • 1.2.2 Đặc điểm pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài (24)
    • 1.3 Quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài 28 (33)
      • 1.3.1 Quy phạm thực chất (34)
      • 1.3.2 Quy phạm xung đột (37)
    • 2.1 Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống quy phạm xung đột trong (42)
      • 2.1.1 Các loại quy phạm xung đột được xây dựng trong Bộ Luật dân sự 2015 39 (44)
      • 2.1.2 Phạm vi điều chỉnh của quy phạm xung đột trong Bộ Luật dân sự 2015 . 40 (45)
    • 2.2 Vấn đề xác định luật áp dụng điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài (46)
      • 2.2.1 Theo Bộ Luật dân sự 2015 (46)
      • 2.2.2 Theo các văn bản pháp luật khác có liên quan (63)
    • 2.3 Một số vấn đề kiến nghị hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài 62 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 (67)
  • KẾT LUẬN (41)

Nội dung

Tính cấp thiết của đề tài

Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, quan hệ quốc tế đã trở thành nhu cầu thiết yếu và mở rộng trên nhiều lĩnh vực của đời sống Không thể phủ nhận rằng sự phát triển của một quốc gia gắn liền với thành quả chung của nhân loại Điều này có nghĩa là bất kỳ quốc gia nào muốn phát triển cần phải kết hợp sức mạnh quốc gia với sức mạnh của cộng đồng Tại Việt Nam, quá trình đổi mới kinh tế và thực hiện chính sách mở cửa đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong việc thiết lập các mối quan hệ quốc tế.

Năm 1986 đã đánh dấu sự mở rộng và phát triển mạnh mẽ của quan hệ quốc tế, góp phần quan trọng vào đời sống kinh tế Hoạt động thương mại và đầu tư nước ngoài vào Việt Nam gia tăng đáng kể, chiếm lĩnh một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc gia.

Trước sự phát triển phức tạp của các quan hệ xã hội, pháp luật cần nhanh chóng điều chỉnh để quản lý các mối quan hệ mới phát sinh Bộ Luật Dân sự Việt Nam được xem là nguồn luật quan trọng nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đặc biệt trong việc điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.

Tòa án Việt Nam hiện nay ngày càng thụ lý nhiều vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, phản ánh sự phát triển của tư pháp quốc tế song song với đời sống quốc tế Sự gia tăng quan hệ dân sự quốc tế, bao gồm quá trình quốc tế hóa và di cư, đã dẫn đến nhiều tranh chấp pháp lý phức tạp Tuy nhiên, việc giải quyết các tranh chấp này gặp khó khăn do sự áp dụng đồng thời của nhiều hệ thống pháp luật khác nhau, tạo ra những bất cập trong quá trình xử lý.

Việc giải quyết kịp thời các vấn đề liên quan đến quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là rất quan trọng, vì nếu không sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của các bên tham gia, cũng như vấn đề lãnh sự, ngoại giao và chính trị của quốc gia Tuy nhiên, việc này không dễ dàng do liên quan đến ít nhất hai quốc gia, dẫn đến xung đột pháp luật và thẩm quyền xét xử Điều này ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng xét xử và gây thiệt thòi cho các bên trong việc chọn luật áp dụng.

Bộ Luật Dân sự 2015, được thông qua tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII và có hiệu lực từ ngày 01/01/2017, đã thay thế và cập nhật nhiều quy định mới so với Bộ Luật Dân sự 2005 Luật này không chỉ thể hiện tinh thần của Hiến pháp năm 2013 mà còn góp phần triển khai các chính sách của Đảng, đồng thời bảo đảm quyền con người và quyền công dân trong lĩnh vực dân sự Qua đó, Bộ Luật Dân sự 2015 đóng vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật tư pháp Việt Nam, điều chỉnh các quan hệ dân sự nói chung và quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nói riêng.

Bộ Luật Dân sự khẳng định vị trí và vai trò quan trọng trong hệ thống pháp luật, điều chỉnh các quan hệ xã hội dựa trên nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng và tự chịu trách nhiệm giữa các bên Điều này đảm bảo sự đồng bộ và thống nhất trong hệ thống pháp luật của Việt Nam.

Nghiên cứu đề tài “Pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài theo Bộ Luật dân sự 2015” là cần thiết để hiểu rõ hơn về pháp luật liên quan đến quan hệ dân sự quốc tế tại Việt Nam Việc nắm bắt tình hình phát triển của các quan hệ này trong bối cảnh hội nhập hiện nay giúp tìm ra giải pháp khắc phục khó khăn và phát huy những mặt tích cực Điều này nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật dân sự có yếu tố nước ngoài, góp phần tạo hành lang pháp lý ổn định cho các quan hệ dân sự quốc tế, thúc đẩy phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.

Nghiên cứu về pháp lý điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đã được thực hiện trước đây, tập trung vào cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến sở hữu và thừa kế Sự ra đời của Bộ Luật Dân sự 2015 đánh dấu bước tiến mới trong nền tư pháp Việt Nam, đáp ứng nhu cầu xây dựng đất nước Bộ luật này tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của việc nghiên cứu pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, đặc biệt là các quy định tại Phần thứ năm về "Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài" Việc này không chỉ góp phần nâng cao kiến thức mà còn là một nhu cầu thiết yếu, đồng thời mong nhận được ý kiến đóng góp từ các thầy cô để cải thiện công tác nghiên cứu trong tương lai.

Phương pháp nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu đề ra, khóa luận áp dụng một số phương pháp nghiên cứu, bao gồm phân tích, so sánh, cùng với việc liệt kê và tổng hợp thông tin.

Kết cấu của khóa luận

Nội dung khóa luận bao gồm 2 Chương:

Chương 1: Lý luận chung về pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài

Chương 2 của bài viết tập trung vào việc xác định luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài theo pháp luật hiện hành Đây là một nghiên cứu nghiêm túc của tác giả, mặc dù kiến thức còn hạn chế và việc tiếp cận thực tế gặp nhiều khó khăn, dẫn đến một số sai sót không tránh khỏi Tác giả xin chân thành cảm ơn và mong nhận được sự góp ý từ quý thầy cô để cải thiện kinh nghiệm nghiên cứu trong tương lai.

LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ DÂN SỰ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI

Khái niệm và đặc điểm quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài 4

1.1.1 Khái niệm quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài

Về phạm vi của “quan hệ dân sự”

Quan hệ dân sự là lĩnh vực chính của luật dân sự, tuy nhiên, các loại quan hệ dân sự cụ thể vẫn là vấn đề gây tranh cãi giữa các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước Sự khác biệt này xuất phát từ tư tưởng và quan điểm của các quốc gia với các hệ thống pháp luật khác nhau.

“Luật tư” (tư pháp - droit privé) đề cập đến các mối quan hệ giữa cá nhân với nhau hoặc giữa cá nhân và nhà nước trong khuôn khổ bình đẳng, trong khi đó, “luật công” (công pháp) quy định các mối quan hệ giữa nhà nước với cá nhân hoặc tổ chức, thể hiện quyền lực công cộng.

Luật công liên quan đến mối quan hệ giữa nhà nước và công dân, trong khi luật tư phục vụ lợi ích của cá nhân Luật tư bao gồm các lĩnh vực như dân sự, thương mại, kinh tế, hôn nhân gia đình, lao động, hàng hải và doanh nghiệp Các quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi luật tư thường dựa trên nguyên tắc bình đẳng và tự do thỏa thuận giữa các bên, trong đó quyền tự do ý chí là một nguyên tắc quan trọng Ở những quốc gia phân chia pháp luật thành luật công và luật tư như Pháp, Italia và Cộng hòa Liên bang Đức, luật tư bao gồm luật dân sự, thương mại và lao động.

Nước ta theo con đường xã hội chủ nghĩa dựa trên tư tưởng Mác-Lênin, với nền kinh tế tập trung, dẫn đến việc phân biệt giữa lợi ích công và lợi ích tư không được đặt ra Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu, cùng với việc tiếp nhận nền kinh tế thị trường, đã đưa đến việc các quốc gia này chấp nhận cả yếu tố “tư” trong kinh tế và pháp luật Do đó, Đảng và Nhà nước ta đã có những quan điểm mới về vấn đề này, phản ánh sự thay đổi trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

1 Võ Khánh Vinh: Xây dựng hệ thống pháp luật có hệ thống, đồng bộ, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Văn phòng Quốc Hội, 2004, số 10, tr 32

2 Trường Đại học Luật TP HCM: Tập bài giảng lý luận về pháp luật, Nhà xuất bản Hồng Đức, Hội Luật gia Việt Nam, 2014, tr 77

Nam vẫn chưa có sự phân định ranh giới một cách rõ ràng giữa luật công và luật tư như nhiều nước trên thế giới

Quan hệ dân sự được định nghĩa là những mối quan hệ phát sinh trong đời sống xã hội, bao gồm tài sản, quyền đối với tài sản, nhân thân và các mối quan hệ khác liên quan đến sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng Trong những quan hệ này, các chủ thể có địa vị bình đẳng và tự do thỏa thuận với nhau Điều 1 của Bộ Luật Dân sự 2015 quy định rõ về tính chất và phạm vi của các quan hệ này.

Bộ luật này quy định về địa vị pháp lý và chuẩn mực ứng xử của cá nhân và pháp nhân, bao gồm quyền và nghĩa vụ liên quan đến nhân thân và tài sản trong các quan hệ dân sự Quan hệ pháp luật dân sự được phân chia thành hai nhóm chính: quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân, trong đó quan hệ dân sự được hiểu theo nghĩa hẹp.

Quan hệ tài sản là mối liên hệ giữa các chủ thể thông qua tài sản, bao gồm tư liệu sản xuất, tiêu dùng hoặc dịch vụ, nhằm tạo ra một tài sản cụ thể Đây là hình thức thể hiện quan hệ kinh tế, liên quan đến việc chuyển nhượng tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác, bao gồm các quan hệ sở hữu, hợp đồng, thừa kế và tặng cho tài sản.

Quan hệ nhân thân bao gồm những mối quan hệ liên quan đến giá trị tinh thần, không mang tính kinh tế và không thể chuyển nhượng cho người khác, như quyền đứng tên tác giả, quyền đối với danh dự, nhân phẩm và uy tín Tại Việt Nam, quan hệ dân sự, cùng với quan hệ lao động, hôn nhân và gia đình, cũng như quan hệ kinh tế và thương mại, là một phần quan trọng trong việc điều chỉnh những mối quan hệ phổ biến trong đời sống.

Nghị định 138/2006/NĐ-CP ngày 25-11-2006 xác định “yếu tố nước ngoài” trong quan hệ dân sự, bao gồm các lĩnh vực như dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động Đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế mở rộng ra cả quan hệ thương mại, lao động và hôn nhân gia đình Tất cả các quan hệ này, thuộc lĩnh vực “tư”, được gọi là quan hệ dân sự theo nghĩa rộng, một thuật ngữ đã được nhiều tác giả tại Việt Nam sử dụng.

Quan hệ dân sự là tất cả các mối quan hệ phát sinh trong lĩnh vực "tư", giữa các chủ thể dân sự mà không có sự can thiệp của quyền lực nhà nước Những quan hệ này bao gồm các lĩnh vực như sở hữu, hợp đồng, và hôn nhân gia đình.

Theo quan điểm hiện nay, quan hệ dân sự được hiểu là những mối quan hệ giữa các chủ thể bình đẳng, có quyền tự do thiết lập, chấm dứt và tự định đoạt trong trường hợp xảy ra tranh chấp Những quan hệ này khác biệt rõ rệt so với các quan hệ trong lĩnh vực hành chính và hình sự.

Mặc dù các chủ thể trong quan hệ dân sự thuộc lĩnh vực “tư”, không phải tất cả đều mang tính chất dân sự Chẳng hạn, nhiều người nước ngoài đến Việt Nam thực hiện các hành vi lừa đảo và trộm cắp, gây ra hậu quả nghiêm trọng Những hành vi này, dù liên quan đến các chủ thể “tư”, lại nằm trong phạm vi điều chỉnh của “luật công”, cụ thể là pháp luật hình sự.

Các chủ thể công như Nhà nước và tổ chức quốc tế cũng có thể tham gia vào các quan hệ dân sự Chẳng hạn, khi một sứ quán nước A thuê căn hộ từ công dân Việt Nam cho nhân viên sử dụng, hợp đồng thuê này sẽ được coi là hợp đồng dân sự, thể hiện tính chất dân sự của mối quan hệ này.

Không phải mọi quan hệ pháp luật dân sự có sự tham gia của chủ thể nước ngoài đều mang yếu tố nước ngoài Chẳng hạn, trong trường hợp A và B, đều là công dân Việt Nam, có tranh chấp về hợp đồng mua bán tài sản, A đã ủy quyền cho C, một luật sư quốc tịch Canada, làm đại diện C tham gia không với tư cách là bên chủ thể mà chỉ là người đại diện theo ủy quyền.

Trong nghiên cứu về tư pháp quốc tế, có một số tài liệu quan trọng cần được tham khảo Đoàn Năng (2001) đã đề cập đến những vấn đề lý luận cơ bản trong cuốn sách của mình, xuất bản bởi Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Bên cạnh đó, giáo trình tư pháp quốc tế của Trường Đại học Luật Hà Nội (2017) cũng cung cấp những kiến thức thiết yếu về lĩnh vực này Ngoài ra, Lê Thị Nam Giang (2010) trong tác phẩm của mình đã trình bày các khái niệm quan trọng liên quan đến tư pháp quốc tế, được xuất bản bởi Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia TP HCM.

4 Bành Quốc Tuấn (2017): Giáo trình Tư pháp Quốc tế, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, TP HCM, tr.8

Đặc điểm pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài 18

1.2.1 Khái niệm pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài

Pháp luật là hệ thống quy phạm do Nhà nước ban hành, thể hiện ý chí của Nhà nước và phản ánh nhu cầu phát triển của các quan hệ xã hội Theo quan điểm Mác-Lênin, pháp luật là chuẩn mực xã hội mang tính quyền lực, được giai cấp cầm quyền sử dụng để quản lý và hợp pháp hóa quan hệ thống trị Để duy trì trật tự và kỷ cương, đảm bảo sự vận động và phát triển của xã hội, cần sử dụng các công cụ điều chỉnh như tập quán, quy định của tổ chức xã hội, đạo đức và đặc biệt là pháp luật.

Pháp luật chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản và quan trọng, không phải tất cả Nó không chỉ sắp xếp mà còn bảo vệ và phát triển các quan hệ xã hội theo định hướng nhất định Quá trình điều chỉnh pháp luật là sự tác động có mục đích nhằm tổ chức lại các quan hệ xã hội, đảm bảo sự phát triển và đạt được các mục tiêu đã đề ra.

Pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài bao gồm hệ thống quy phạm pháp luật bắt buộc cho các chủ thể tham gia Các quy định pháp luật này giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền đưa ra mệnh lệnh trong những tình huống đã được pháp luật dự liệu.

21 Trường Đại học Luật TP HCM: Tập bài giảng lý luận về pháp luật, Nhà xuất bản Hồng Đức, Hội Luật gia

22 Trường Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Nhà xuất bản Công an Nhân dân,

23 Trường Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Nhà xuất bản Công an Nhân dân,

1.2.2 Đặc điểm pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài Đối tượng điều chỉnh Đối tượng điều chỉnh của pháp luật là các quan hệ xã hội cơ bản, điển hình, phổ biến cần có sự điều chỉnh của pháp luật 24

Tư pháp quốc tế điều chỉnh nhiều quan hệ dân sự đa dạng, bao gồm quan hệ sở hữu, hôn nhân và gia đình, thừa kế, cũng như các hợp đồng thương mại quốc tế như mua bán hàng hóa và vận chuyển hàng hóa Những quan hệ này có yếu tố nước ngoài, tạo ra sự phức tạp trong việc áp dụng các quy định pháp lý.

Những quan hệ này thường là các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, đồng thời có hai đặc trưng cơ bản sau:

Thứ nhất, đó là các quan hệ dân sự

Thứ hai, đó là các quan hệ có yếu tố nước ngoài

Quan hệ dân sự là lĩnh vực chính mà Tư pháp quốc tế điều chỉnh, đặc biệt là những quan hệ có yếu tố nước ngoài Do đó, trong bối cảnh Việt Nam, Tư pháp quốc tế tập trung vào các quan hệ dân sự mang tính quốc tế, nhằm đảm bảo sự quản lý và giải quyết các vấn đề pháp lý liên quan đến yếu tố nước ngoài.

Quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế bao gồm hai điều kiện chính: đầu tiên, quan hệ này phải mang tính “quốc tế”, tức là các quan hệ dân sự vượt ra ngoài lãnh thổ của một quốc gia hoặc có sự tham gia của người nước ngoài, và thứ hai, nó phải là “quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa rộng”.

24 Trường Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Nhà xuất bản Công an Nhân dân,

Bài viết của Nguyễn Trung Tín và Nguyễn Ngọc Lâm đề cập đến việc xác định các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài theo nghĩa rộng trong pháp luật Việt Nam Nội dung được đăng tải trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 191, tháng 3/2004, trang 74.

Tại Việt Nam, có sự thống nhất trong quan điểm về đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế, điều này được công nhận và phản ánh trong nhiều giáo trình.

Tư pháp quốc tế ở Việt Nam 26

Tư pháp quốc tế không chỉ điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài mà còn bao gồm các quan hệ tố tụng dân sự quốc tế và trọng tài thương mại quốc tế Điều này thể hiện qua các vấn đề như thẩm quyền của tòa án quốc gia và quy trình công nhận, thi hành các bản án của tòa án nước ngoài trong các vụ việc dân sự.

Phạm vi các quan hệ mà tư pháp quốc tế điều chỉnh có thể rộng hay hẹp tùy thuộc vào quan điểm của từng quốc gia về lĩnh vực điều chỉnh của tư pháp quốc tế.

Tại Việt Nam, Liên Bang Nga và một số nước khác đối tượng điều chỉnh của

Tư pháp quốc tế bao gồm các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, với phạm vi điều chỉnh rộng lớn liên quan đến xung đột pháp luật, địa vị pháp lý của các chủ thể, quyền sở hữu, thừa kế, hợp đồng, thanh toán quốc tế, quan hệ lao động, tố tụng dân sự và trọng tài thương mại quốc tế Một số tác giả Việt Nam đã đề cập đến xung đột pháp luật, thẩm quyền xét xử, quy chế pháp lý của người nước ngoài, cùng với việc công nhận và thi hành bản án, quyết định nước ngoài Tuy nhiên, vấn đề quốc tịch chưa được đề cập một cách sâu sắc.

Tại các quốc gia như Anh, Mỹ, Singapore, Úc và một số nơi khác, Tư pháp quốc tế được nghiên cứu chủ yếu từ góc độ luật xung đột Nghiên cứu này tập trung vào ba vấn đề chính: xác định thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết tranh chấp liên quan đến quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, lựa chọn pháp luật áp dụng, và công nhận cũng như thi hành bản án, quyết định của tòa án và trọng tài nước ngoài.

Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến một số tài liệu quan trọng liên quan đến tư pháp quốc tế Đầu tiên, cuốn sách của Đoàn Năng (2001) mang đến những vấn đề lý luận cơ bản về tư pháp quốc tế, được xuất bản bởi Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Tiếp theo, tác phẩm của Đỗ Văn Đại và Mai Hồng Quỳ (2010) khám phá các mối quan hệ dân sự, lao động và thương mại có yếu tố nước ngoài trong tư pháp quốc tế Việt Nam, cũng được phát hành bởi Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội Những tài liệu này đóng góp vào việc hiểu rõ hơn về các khía cạnh pháp lý trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Nghệ TP HCM, Bành Quốc Tuấn (2017), Giáo trình Tư pháp Quốc tế, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, TP HCM, tr 8

Tác phẩm "27 Đoàn Năng: Một số vấn đề lý luận cơ bản về tư pháp quốc tế" được xuất bản bởi Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia tại Hà Nội vào năm 2001, đã chỉ ra rằng tại Anh và Mỹ, nhiều nhà nghiên cứu đang có xu hướng mở rộng phạm vi điều chỉnh của tư pháp quốc tế.

Quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài 28

Trong Tư pháp quốc tế hiện nay, có ba nhóm quan điểm chính về hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.

Thứ nhất, quy phạm của Tư pháp quốc tế chỉ gồm các quy phạm xung đột

Từ cuối thế kỉ XIX, quan điểm này xuất hiện ở các nước phương Tây và Liên

Xô trước những năm 1940 vẫn được công nhận tại một số quốc gia, với các đại diện nổi bật như A Daisi, J Treshir và P Nort từ Anh, cùng với D Bil và G Gudriche từ Hoa Kỳ.

Thứ hai, quy phạm của Tư pháp quốc tế gồm quy phạm xung đột và quy phạm pháp luật thực chất thống nhất

Vào thập niên 50 của thế kỷ XX, một quan điểm mới đã xuất hiện tại một số quốc gia châu Âu, bao gồm các nước Đông Âu như Đức, Hungary, và Bulgaria, cũng như Liên Xô và Thụy Sĩ Quan điểm này cũng được một số tác giả Việt Nam ghi nhận và nghiên cứu.

Quy phạm Tư pháp quốc tế không chỉ bao gồm các quy phạm xung đột mà còn cả các quy phạm pháp luật thực chất, bao gồm quy phạm thực chất thống nhất và quy phạm pháp luật thực chất trong luật quốc gia Quan điểm này đã gây ra nhiều tranh luận trong giới khoa học pháp lý Tư pháp quốc tế, không chỉ trong một quốc gia mà còn giữa các quốc gia, như trong cuộc tranh luận giữa các nhà nghiên cứu Đức, Hungary và Nga Một số tác giả, như L.A Luns từ Liên Bang Nga, cho rằng các quy phạm pháp luật thực chất có vai trò quan trọng trong các văn bản pháp lý.

41 Lê Thị Nam Giang (2010): Tư pháp quốc tế, Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia TP HCM, tr 43

Luật quốc gia, mặc dù điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, không thể được coi là quy phạm của Tư pháp quốc tế, vì điều này sẽ làm mờ ranh giới giữa Tư pháp quốc tế và Luật dân sự Tuy nhiên, nhiều tác giả như I.X Perecherski, M.M Bungaxlavski, và L.P Anufrieva từ Liên Bang Nga lại cho rằng những quy phạm này, dựa trên tính chất đối tượng mà chúng điều chỉnh, là quy phạm của Tư pháp quốc tế Các giáo trình Tư pháp quốc tế tại Việt Nam hiện nay cũng đang nghiêng về quan điểm này.

Hệ thống quy phạm pháp luật của Tư pháp quốc tế bao gồm quy phạm xung đột, bao gồm quy phạm xung đột trong nước và quy phạm xung đột trong các điều ước quốc tế, cùng với quy phạm thực chất, gồm quy phạm thực chất trong nước và quy phạm thực chất trong các điều ước quốc tế Các loại quy phạm bắt buộc và quy phạm pháp luật tố tụng cũng thuộc nhóm quy phạm xung đột và quy phạm thực chất.

Quy phạm pháp luật về Tư pháp quốc tế là công cụ quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, xác định quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên liên quan Quy phạm này cung cấp giải pháp cụ thể cho các vấn đề pháp lý mà không cần tham chiếu đến pháp luật của bất kỳ quốc gia nào khác, đảm bảo tính hiệu quả và sự rõ ràng trong việc áp dụng.

Căn cứ vào nguồn luật, quy phạm thực chất chia thành hai loại: Quy phạm thực chất thống nhất và quy phạm thực chất trong nước

Quy phạm thực chất thống nhất (các loại quy phạm thực chất trong các điều ước quốc tế, tập quán quốc tế):

Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thường liên quan đến nhiều hệ thống pháp luật khác nhau Để giải quyết các vấn đề phức tạp này, cần áp dụng các quy phạm trực tiếp xác định quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan.

43 Đoàn Năng (2001): Một số vấn đề lý luận cơ bản về tư pháp quốc tế (Sách tham khảo), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr 19-20

Đỗ Văn Đại và Mai Hồng Quỳ (2010) đã trình bày trong cuốn sách "Tư pháp quốc tế Việt Nam - Quan hệ dân sự, lao động, thương mại có yếu tố nước ngoài" những vấn đề quan trọng về pháp luật quốc tế liên quan đến các quan hệ dân sự, lao động và thương mại có yếu tố nước ngoài Cuốn sách, xuất bản bởi Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia tại Hà Nội, cung cấp cái nhìn sâu sắc về cách thức áp dụng pháp luật Việt Nam trong bối cảnh quốc tế, đặc biệt là trong các lĩnh vực có yếu tố nước ngoài Nội dung từ trang 183 đến 191 của tác phẩm này là nguồn tài liệu quý giá cho những ai nghiên cứu và làm việc trong lĩnh vực tư pháp quốc tế.

45 Xem: Lê Thị Nam Giang (2010): Tư pháp quốc tế, Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia TP HCM, tr 52-54

Trong giáo trình "Tư pháp Quốc tế" của Bành Quốc Tuấn (2017), Trường Đại học Công Nghệ TP HCM nhấn mạnh rằng để đạt được sự dung hòa giữa các hệ thống pháp luật khác nhau, các bên cần có giải pháp cụ thể thông qua quá trình đàm phán giữa các quốc gia Kết quả của quá trình này là việc hình thành các điều ước quốc tế, trong đó các quy phạm thực chất thống nhất chủ yếu được tìm thấy trong các điều ước, tập quán quốc tế và quyết định của trọng tài thương mại quốc tế.

Trong các Điều ước quốc tế, đặc biệt là về mua bán hàng hóa, Điều 11 Công ước Viên 1980 quy định rằng hợp đồng mua bán không cần phải được ký kết hay xác nhận bằng văn bản, và có thể được chứng minh bằng nhiều cách, bao gồm lời khai của nhân chứng Điều 68 của Công ước này quy định rằng người mua sẽ chịu rủi ro đối với hàng hóa trong quá trình vận chuyển từ khi hàng được giao cho người chuyên chở Tuy nhiên, nếu người bán biết hoặc lẽ ra phải biết rằng hàng hóa đã bị mất mát hoặc hư hỏng mà không thông báo cho người mua, thì người bán sẽ phải chịu trách nhiệm cho tổn thất đó Quy định này xác định rõ ai sẽ chịu rủi ro mà không cần xem xét đến pháp luật của quốc gia nào.

Quy phạm thực chất được ưu tiên áp dụng do khả năng giải quyết vấn đề một cách trực tiếp Chỉ khi quy phạm này không có quy định cụ thể thì mới xem xét đến các quy phạm khác.

Quy phạm thực chất trong luật quốc gia (quy phạm thực chất trong nước):

Pháp luật Việt Nam ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm quy định rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể nước ngoài, giúp giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng và hiệu quả với cơ chế áp dụng đơn giản Quy phạm này có đặc điểm tương tự như quy phạm thực chất thống nhất, chỉ khác ở phạm vi điều chỉnh Quy phạm thực chất trong luật quốc gia chủ yếu điều chỉnh các quan hệ trong nước, không trực tiếp quản lý các quan hệ tư pháp quốc tế, mà nếu có điều chỉnh thì thường là gián tiếp thông qua quy phạm xung đột.

Theo Khoản 4 Điều 680 Bộ Luật Dân sự 2015, thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài được xác định dựa trên pháp luật của quốc gia nơi người để lại di sản có quốc tịch tại thời điểm qua đời.

2 Việc thực hiện quyền thừa kế đối với bất động sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó.” Quy phạm này điều chỉnh vấn đề thừa kế có yếu tố nước ngoài và trực tiếp cho biết quyền của Nhà nước mà người để lại di sản có quốc tịch

Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống quy phạm xung đột trong

Từ năm 1945 đến 1975, quan hệ giao lưu dân sự và kinh tế giữa các nước còn hạn chế, chủ yếu tập trung vào sự tương trợ trong hệ thống xã hội chủ nghĩa do hoàn cảnh chiến tranh Trong giai đoạn này, Việt Nam áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, dẫn đến việc các quan hệ dân sự kinh tế có yếu tố nước ngoài gần như không phát sinh Tuy nhiên, Thông tư số 11/TATC ngày 12/07/1974 của Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn về nguyên tắc và thủ tục giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài, đồng thời quy định về thủ tục ủy thác và thi hành quyết định của Tòa án Việt Nam liên quan đến bản án của Tòa án nước ngoài Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu về Tư pháp quốc tế cũng đã được công bố trong giai đoạn này.

Sau khi thống nhất đất nước năm 1975, Việt Nam đã ban hành một số văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự, tuy nhiên nội dung còn khái quát và phạm vi điều chỉnh hẹp Trong giai đoạn này, Việt Nam cũng ký kết các Hiệp định Tương trợ tư pháp với các nước xã hội chủ nghĩa để giải quyết các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự Từ năm 1975 đến trước năm 1986, quy phạm xung đột chưa phát triển, chủ yếu là các quy phạm xung đột một chiều, dẫn đến hệ thống quy phạm xung đột của Tư pháp quốc tế Việt Nam vẫn chưa được hình thành.

Giai đoạn từ năm 1986 đến trước năm 1995

Trong bối cảnh thực hiện chính sách đổi mới, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn Điển hình là Điều 75 và Điều 81 của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001), cùng với Chương IX về quan hệ hôn nhân gia đình của công dân Việt Nam.

52 Bành Quốc Tuấn (Chủ nhiệm), Báo cáo tổng kết đề tài KH&CN: “Hoàn thiện hệ thống quy phạm xung đột của Bộ Luật dân sự năm 2005”, tháng 8/2015, tr 7

Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 cùng với các Hiệp định Tương trợ tư pháp đã góp phần quan trọng trong việc xây dựng và phát triển hệ thống quy phạm xung đột trong Tư pháp quốc tế tại Việt Nam.

Giai đoạn này đánh dấu sự xuất hiện của quy phạm xung đột hai chiều, là một cột mốc quan trọng trong sự phát triển của các quy phạm xung đột trong pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.

Giai đoạn từ năm 1995 đến năm 2005

Bộ Luật Dân sự 1995, được Quốc hội ban hành vào ngày 28/12/1995, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong hệ thống pháp luật dân sự tại Việt Nam Bộ luật này quy định 13 điều về các quy phạm xung đột từ Điều 826 đến Điều 838, cùng với một số quy phạm khác được nêu trong các văn bản chuyên ngành Tuy nhiên, sau 10 năm thực thi, Bộ Luật Dân sự 1995 đã bộc lộ nhiều bất cập không phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội thời điểm đó.

Giai đoạn từ năm 2005 đến nay

Vào ngày 14/06/2005, Quốc hội khóa XI đã thông qua Bộ Luật dân sự 2005 tại kỳ họp thứ 7, nhằm kế thừa và hoàn thiện Bộ Luật dân sự 1995 Bộ luật mới này bao gồm 20 điều (từ Điều 758 đến 777) và có những sửa đổi quan trọng, như quy định về thừa kế có yếu tố nước ngoài (Điều 767), xác định người không có, mất, hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự (Điều 763), giao kết hợp đồng vắng mặt (Điều 767), và thời hiệu khởi kiện (Điều 777).

Bộ Luật dân sự 2015, được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kì họp thứ 10 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2017, đã thay thế và cập nhật nhiều quy định mới so với Bộ Luật dân sự 2005 Đặc biệt, Bộ Luật này đã xây dựng 25 Điều luật (từ Điều 663 đến Điều 687) điều chỉnh các quy phạm xung đột, phù hợp hơn với các chuẩn mực pháp lý quốc tế Điều này không chỉ đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của Tư pháp quốc tế mà còn tạo ra nhiều cơ hội cho việc áp dụng pháp luật Việt Nam trong thực tiễn.

53 Bành Quốc Tuấn (Chủ nhiệm), Báo cáo tổng kết đề tài KH&CN: “Hoàn thiện hệ thống quy phạm xung đột của Bộ Luật dân sự năm 2005”, tháng 8/2015, tr 9

Các văn bản pháp lý như Bộ Luật Hàng hải 2015, Luật Đầu tư 2014, Luật Trọng tài thương mại 2010 và Luật Hôn nhân và gia đình 2014 đã được ban hành, góp phần tạo ra các quy phạm có thể xung đột trong hệ thống pháp luật.

2.1.1 Các loại quy phạm xung đột được xây dựng trong Bộ Luật dân sự 2015

Phần thứ Bảy Bộ Luật dân sự 2005 đã xuất hiện cả hai loại quy phạm xung đột

Cả quy phạm xung đột một chiều và hai chiều đều có số lượng tương đương, nhưng xu hướng hiện nay của các nhà lập pháp là ưu tiên áp dụng pháp luật Việt Nam Tuy nhiên, điều này dẫn đến việc các điều luật không bao quát được tất cả các tình huống quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, chủ yếu chỉ tập trung vào các quan hệ xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam mà không xem xét đến các mối quan hệ có thể xảy ra ở nước khác hoặc nước thứ ba Hệ quả là tính khả thi của việc áp dụng pháp luật này không cao, và việc xây dựng nhiều quy phạm xung đột một chiều còn không phù hợp với nguyên tắc cơ bản của Tư pháp quốc tế.

Phần thứ Năm Bộ Luật Dân sự 2015 đã giảm số lượng quy phạm xung đột một bên, đồng thời tăng cường quy phạm xung đột hai bên Cụ thể, có 25 Điều luật từ Điều 663 đến Điều 687, trong đó bao gồm 9 Điều luật quy định nguyên tắc chung và 16 Điều còn lại quy định về việc chọn luật áp dụng Đặc biệt, có 6 khoản quy phạm xung đột một bên áp dụng cho các quan hệ pháp luật liên quan đến pháp luật Việt Nam, trong đó quy định chọn luật áp dụng là pháp luật Việt Nam.

So với Bộ Luật dân sự 2005, số lượng quy phạm xung đột một bên đã giảm đáng kể, phản ánh sự thay đổi nhận thức của các nhà làm luật Sự điều chỉnh này giúp các quy phạm xung đột của Việt Nam phù hợp hơn với các chuẩn mực pháp lý quốc tế, đồng thời đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của Tư pháp quốc tế.

Bộ Luật Dân sự 2015 đã cải thiện những hạn chế của Bộ Luật Dân sự 2005, mở ra nhiều cơ hội hơn cho việc áp dụng pháp luật tại Việt Nam Điều này xảy ra do quy phạm xung đột một bên chỉ có thể được áp dụng khi quy phạm xung đột của Việt Nam được sử dụng, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc chọn lựa áp dụng pháp luật.

Quy phạm xung đột của Việt Nam năm 2005 chỉ áp dụng cho các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài diễn ra tại Việt Nam hoặc các tranh chấp thuộc thẩm quyền của tòa án Việt Nam Điều này đã góp phần khiến cho các quy phạm xung đột trong Bộ Luật dân sự 2005 chưa được áp dụng rộng rãi trong suốt mười năm qua.

2.1.2 Phạm vi điều chỉnh của quy phạm xung đột trong Bộ Luật dân sự 2015

Trong mô hình Tư pháp quốc tế tại Việt Nam, hệ thống quy phạm xung đột không yêu cầu một đạo luật riêng mà được quy định trong các văn bản pháp luật khác nhau Do đó, phạm vi điều chỉnh của các quy phạm xung đột sẽ khác nhau tùy thuộc vào từng văn bản pháp luật mà chúng được chứa đựng.

Vấn đề xác định luật áp dụng điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài

2.2.1 Theo Bộ Luật dân sự 2015

Quyền lựa chọn pháp luật áp dụng cho phép các bên thỏa thuận về hệ thống pháp luật của một quốc gia nhất định để điều chỉnh quan hệ giữa cá nhân và tổ chức trong lĩnh vực Tư pháp quốc tế Sự thỏa thuận này xác định hệ thống pháp luật cụ thể được áp dụng cho các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, theo quy định của pháp luật quốc gia hoặc quốc tế.

Pháp luật Việt Nam ngày càng chú trọng đến quyền lựa chọn pháp luật áp dụng của các bên trong giao dịch dân sự, thương mại quốc tế và lao động, điều này được thể hiện qua nhiều văn bản pháp luật Đặc biệt, trong lĩnh vực quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là loại hình giao dịch phổ biến nhất.

Nguyên tắc thỏa thuận chọn luật áp dụng

Nguyên tắc thỏa thuận chọn luật áp dụng là một trong những nguyên tắc cơ bản của Tư pháp quốc tế, giúp xác định luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.

Về phạm vi các quan hệ được thỏa thuận chọn luật áp dụng:

56 Bành Quốc Tuấn, Đề xuất bổ sung quy phạm xung đột của Phần thứ 5 Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi),

Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Viện nghiên cứu Lập pháp, 2015, số 19 (299), tr 27-28

Theo Bộ Luật Dân sự 2015, các bên có quyền lựa chọn pháp luật áp dụng cho các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân trong một số trường hợp nhất định.

Trong quan hệ quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản đang trên đường vận chuyển:

Khoản 2 Điều 678 Bộ Luật dân sự 2015 quy định: “1 Việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này

2 Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản là động sản trên đường vận chuyển được xác định theo pháp luật của nước nơi động sản được chuyển đến, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”

Trong quan hệ tài sản, quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản như quyền đối với bất động sản liền kề, quyền hưởng dụng và quyền bề mặt là rất quan trọng Bộ Luật dân sự 2005 đã khẳng định rằng các bên có quyền lựa chọn pháp luật áp dụng cho quyền sở hữu đối với động sản đang trong quá trình vận chuyển.

Pháp luật chủ đạo về tài sản chủ yếu phụ thuộc vào luật của quốc gia nơi tài sản đó được tọa lạc Đối với tài sản động sản đang trong quá trình vận chuyển, luật áp dụng là của quốc gia nơi tài sản được chuyển đến hoặc theo thỏa thuận giữa các bên liên quan Để đảm bảo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật, cần quy định cho phép các bên tự do lựa chọn hình thức và thời điểm, đồng thời có quyền thay đổi thỏa thuận mà không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bên thứ ba.

Trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Điều 773 Bộ Luật Dân sự 2005 không cho phép các bên lựa chọn pháp luật áp dụng, mà chỉ dựa vào nguyên tắc pháp luật của nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại hoặc nơi phát sinh hậu quả Tuy nhiên, Bộ Luật Dân sự 2015 đã mở rộng quyền thỏa thuận của các bên, cho phép họ có quyền lựa chọn luật áp dụng cho việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

57 Xem Khoản 2 Điều 766 Bộ Luật dân sự 2005

Theo Điều 687 Bộ Luật Dân sự 2015, các bên có quyền thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng cho việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, ngoại trừ một số trường hợp cụ thể Nếu không có thỏa thuận, pháp luật của nước nơi xảy ra sự kiện gây thiệt hại sẽ được áp dụng Thông tin này được nêu rõ trong bài viết của Vũ Thị Hương và Lê Hồng Sơn trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp năm 2015.

2 Trường hợp bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại có nơi cư trú, đối với cá nhân hoặc nơi thành lập, đối với pháp nhân tại cùng một nước thì pháp luật của nước đó được áp dụng” Khi thiết lập quan hệ hợp đồng, khi hợp đồng không được thực hiện, để tránh thiệt hại về lợi ích của các bên, dĩ nhiên sẽ có chế tài để buộc các bên chủ thể phải thực hiện nghĩa vụ của mình Do đó, vấn đề bồi thường thiệt hại thường được các bên thiết lập khi giao kết hợp đồng Đây là một vấn đề khá phức tạp đối với các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài

Quy tắc Rome II ngày 11 tháng 7 năm 2007 quy định tại Điều 14 rằng các bên có quyền tự do thỏa thuận về luật áp dụng cho nghĩa vụ ngoài hợp đồng, miễn là sự lựa chọn này hợp lý với hoàn cảnh của vụ việc và không gây tổn hại đến quyền lợi của bên thứ ba Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo sự công bằng và bảo vệ quyền lợi của tất cả các bên liên quan trong các thỏa thuận ngoài hợp đồng.

Theo Điều 686 Bộ Luật Dân sự 2015, trong quan hệ thực hiện công việc không có ủy quyền, các bên có quyền thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng Nếu không có thỏa thuận, pháp luật của nước nơi thực hiện công việc sẽ được áp dụng Quy định này là một điểm mới và quan trọng trong pháp luật Việt Nam, giúp các bên có sự linh hoạt trong việc xác định luật pháp áp dụng cho quan hệ của họ.

Trong quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài:

Trong các hợp đồng có yếu tố nước ngoài, quyền tự do lựa chọn pháp luật áp dụng là một quy định quan trọng, được công nhận rộng rãi trên toàn cầu, bao gồm 59 điều ước quốc tế và nhiều đạo luật quốc gia.

Bộ Luật Dân sự 2005 quy định quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng cho hợp đồng có yếu tố nước ngoài, nhưng vẫn tồn tại nhiều hạn chế cần khắc phục Nguyên tắc này tiếp tục được ghi nhận trong Điều 683 của Bộ Luật Dân sự 2015, đồng thời mở rộng phạm vi áp dụng và bổ sung nhiều vấn đề thiết yếu mà trước đây chưa được đề cập.

Ngày đăng: 11/07/2021, 17:29

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Trường Đại học Luật TP. HCM: Tập bài giảng lý luận về pháp luật, Nhà xuất bản Hồng Đức, Hội Luật gia Việt Nam, 2014 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tập bài giảng lý luận về pháp luật
Nhà XB: Nhà xuất bản Hồng Đức
2. Trường Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, Hà Nội, 2015 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật
Nhà XB: Nhà xuất bản Công an Nhân dân
3. Trường Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nhà xuất bản Tư pháp Hà Nội, 2017 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Tư pháp quốc tế
Nhà XB: Nhà xuất bản Tư pháp Hà Nội
4. Trường Đại học Công Nghệ TP. HCM, Bành Quốc Tuấn: Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2017 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Tư pháp quốc tế
Nhà XB: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật
6. Ngô Quốc Chiến: So sánh một số quy định chung của Tư pháp quốc tế Bỉ và Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Viện Nghiên cứu lập pháp, tháng 8/2014, số 15 (271), tr. 55-64 Sách, tạp chí
Tiêu đề: So sánh một số quy định chung của Tư pháp quốc tế Bỉ và Việt Nam
7. Ngô Quốc Chiến: Về điều kiện có hiệu lực của điều khoản lựa chọn pháp luật áp dụng cho quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, Tạp chí Tòa án Nhân dân, Tòa án Nhân dân Tối cao, 2016, số 17, tr. 16-20 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Về điều kiện có hiệu lực của điều khoản lựa chọn pháp luật áp dụng cho quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
8. Nguyễn Bá Chiến: Nguyên tắc bảo lưu trật tự công cộng trong việc áp dụng pháp luật nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, tháng 5/2014, số 193, tr. 61-66 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguyên tắc bảo lưu trật tự công cộng trong việc áp dụng pháp luật nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam
9. Nguyễn Bá Chiến: Quyền lựa chọn pháp luật áp dụng của các cá nhân, tổ chức trong lĩnh vực Tư pháp quốc tế, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, tháng 2/1016, số 214, tr. 72-78 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyền lựa chọn pháp luật áp dụng của các cá nhân, tổ chức trong lĩnh vực Tư pháp quốc tế
10. Đỗ Văn Đại, Mai Hồng Quỳ: Tư pháp quốc tế Việt Nam – Quan hệ dân sự, lao động, thương mại có yếu tố nước ngoài (Sách chuyên khảo), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tư pháp quốc tế Việt Nam – Quan hệ dân sự, lao động, thương mại có yếu tố nước ngoài (Sách chuyên khảo)
Nhà XB: Nxb. Chính trị Quốc gia
12. Đỗ Văn Đại: Quyền lựa chọn pháp luật trong tư pháp quốc tế Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 02+03 (234+235), tháng 03/2013, tr. 46-55 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyền lựa chọn pháp luật trong tư pháp quốc tế Việt Nam
13. Đỗ Văn Đại: Trao đổi về bài viết “Một số ý kiến về xác định nội dung của môn học Tư pháp quốc tế tại Việt Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý, 2007, số 3, tr. 55-58 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trao đổi về bài viết “Một số ý kiến về xác định nội dung của môn học Tư pháp quốc tế tại Việt Nam”
14. Đỗ Văn Đại: Tư pháp quốc tế Việt Nam và vấn đề dẫn chiếu trong lĩnh vực hợp đồng, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, 2003, số 10, tr. 64-71 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tư pháp quốc tế Việt Nam và vấn đề dẫn chiếu trong lĩnh vực hợp đồng
16. Vũ Thị Hương, Lê Hồng Sơn: Hình thức và thời điểm thỏa thuận lựa chọn pháp luật của các bên trong Tư pháp quốc tế Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Viện Nghiên cứu Lập pháp, 2015, số 19 (299), tr. 32-35; 41 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hình thức và thời điểm thỏa thuận lựa chọn pháp luật của các bên trong Tư pháp quốc tế Việt Nam
17. Đoàn Năng: Một số vấn đề lý luận cơ bản về tư pháp quốc tế (Sách tham khảo), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề lý luận cơ bản về tư pháp quốc tế (Sách tham khảo)
Nhà XB: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
18. Nguyễn Như Phát, Lê Thị Thu Thủy: Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về pháp luật hợp đồng hiện nay, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, số 10/ 2003, tr. 74-77 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về pháp luật hợp đồng hiện nay
Nhà XB: Nhà xuất bản Công an Nhân dân
19. Ngô Hữu Phước, Lê Đức Phương: Các hiệp định Tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với nước ngoài (Phục vụ học tập, nghiên cứu luật dân sự, tố tụng dân sự, hình sự, tố tụng hình sự, luật quốc tế, tư pháp quốc tế, thương mại quốc tế), Nhà xuất bản Hồng Đức, 2014 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các hiệp định Tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với nước ngoài (Phục vụ học tập, nghiên cứu luật dân sự, tố tụng dân sự, hình sự, tố tụng hình sự, luật quốc tế, tư pháp quốc tế, thương mại quốc tế)
Nhà XB: Nhà xuất bản Hồng Đức
20. Trần Thị Thu Phương: Thỏa thuận pháp luật áp dụng trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài theo Bộ luật dân sự 2015, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, 2016, số 5 (337), tr.40-44 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thỏa thuận pháp luật áp dụng trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài theo Bộ luật dân sự 2015
21. Bành Quốc Tuấn: Áp dụng pháp luật nước ngoài trong tư pháp quốc tế Việt Nam, Trường Đại học Công Nghệ TP. HCM - Khoa Luật, Kỷ yếu hội thảo khoa học pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, tháng 11/2017, tr. 89-92 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Áp dụng pháp luật nước ngoài trong tư pháp quốc tế Việt Nam
22. Bành Quốc Tuấn (Chủ nhiệm), Báo cáo tổng kết đề tài KH&CN: “Hoàn thiện hệ thống quy phạm xung đột của Bộ Luật dân sự năm 2005”, tháng 12/2015, tr. 7- 121 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Hoàn thiện hệ thống quy phạm xung đột của Bộ Luật dân sự năm 2005”
23. Bành Quốc Tuấn: Đề xuất bổ sung quy phạm xung đột của Phần thứ năm Dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi), Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Viện nghiên cứu lập pháp, 2015, số 19 (299), tr. 26-31 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đề xuất bổ sung quy phạm xung đột của Phần thứ năm Dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w