1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Trình bày các loại luật có thể được áp dụng điều chỉnh quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài và điều kiện áp dụng các quy định đó

10 201 1

Đang tải... (xem toàn văn)

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 10
Dung lượng 32,71 KB

Nội dung

Pháp luật quốc gia Hệ thống pháp luật quốc gia có thể được áp dụng nếu như các bên trong hợp đồng có thỏa thuận lựa chọn.. Việc lựa chọn một hệ thống pháp luật quốc gia là luật điều chỉn

Trang 1

Mục lục

MỞ ĐẦU 1

NỘI DUNG 1

I HỢP ĐỒNG TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ 1

II CÁC LOẠI LUẬT CÓ THỂ ÁP DỤNG 2

1 Pháp luật quốc gia 2

2 Điều ước quốc tế 2

3 Tập quán quốc tế 3

III ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ HỢP ĐỒNG CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI 5

1 Trường hợp các bên thỏa thuận việc chọn luật áp dụng 5

2 Trường hợp các bên không thỏa thuận luật áp dụng 7

KẾT LUẬN 8

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 9

Trang 2

MỞ ĐẦU

Quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài là quan hệ hợp đồng phổ biến được

tư pháp quốc tế điều chỉnh Việc xác định luật áp dụng đối với hợp đồng có yếu tố nước ngoài có ý nghĩa quan trọng trong việc xem xét giá trị pháp lý của hợp đồng cũng như việc giải thích, bổ sung những khiếm khuyết của hợp đồng có yếu tố nước ngoài Nhận thức được ý nghĩa của vấn đề, nhóm chúng em chọn đề tài:

“Trình bày các loại luật có thể được áp dụng điều chỉnh quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài và điều kiện áp dụng các quy định đó”.

NỘI DUNG

I HỢP ĐỒNG TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ

Hợp đồng trong tư pháp quốc tế là hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài

Mà“Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi và chấm dứt các quyền và ngĩa vụ dân sự” (Điều 388 BLDS 2005) Yếu tố nước

ngoài của hợp đồng trong tư pháp quốc tế được thể hiện ở một trong những dấu hiệu sau:

Thứ nhất, các bên chủ thể ký kết hợp đồng có quốc tịch khác nhau Vì có sự khác nhau về quốc tịch của các bên chủ nên hệ thống luật của mỗi bên chủ thể cùng điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên phát sinh từ hợp đồng

Thứ hai, hợp đồng ký kết ở nước ngoài (nước các bên chủ thể ký kết không mang quốc tịch hoặc không có trụ sở) Trong trường hợp này, luật điều chỉnh hợp đồng không chỉ là luật của các chủ thể mang quốc tịch mà luật nơi ký kết hợp đồng cũng có thể điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hợp đồng trên cơ sở Lex Loci Contratus

Thứ ba, đối tượng của hợp đồng là tài sản ở nước ngoài Trong trường hợp mặc dù các bên chủ thể có cùng quốc tịch, hợp đồng ký kết ở nước mà các bên mang quốc tịch nhưng đối tượng của hợp đồng là tài sản ở nước ngoài thì đương nhiên quan hệ hợp đồng này trở thành đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế bởi vì quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể trong hợp đồng này cùng một lúc

Trang 3

chịu sự điều chỉnh bởi luật của nước mà họ mang quốc tịch và luật của nước nơi có tài sản

II CÁC LOẠI LUẬT CÓ THỂ ÁP DỤNG

1 Pháp luật quốc gia

Hệ thống pháp luật quốc gia có thể được áp dụng nếu như các bên trong hợp đồng có thỏa thuận lựa chọn Việc lựa chọn một hệ thống pháp luật quốc gia là luật điều chỉnh đối với quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài tạo cơ sở pháp lý vững chắc trong quan hệ hợp đồng, bổ sung những khiếm khuyết, bất đồng giữa các bên Tuy nhiên do tính chất của các hợp đồng quốc tế, các bên trong hợp đồng ít hiểu biết về hệ thống pháp luật của nhau, nên việc lựa chọn một hệ thống pháp luật quốc gia của một trong các bên không phải là biện pháp tối ưu được các bên ưa chuộng

Vì vậy đòi hỏi các bên khi giao kết hợp đồng cần có sự hiểu biết về hệ thống pháp luật mà mình lựa chọn

Nhìn vào các hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài, đặc biệt là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế chúng ta thấy ngoài những nội dung cơ bản được ghi nhận tương tự với hợp đồng dân sự trong nước như chủ thể, đối tượng, quyền và nghĩa vụ của các bên… còn xuất hiện điều khoản luật áp dụng (applicable law) Vận dụng nguyên tắc này, pháp luật Việt Nam đã quy định quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng cho hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài trong nhiều văn bản pháp luật: Bộ luật Hàng hải năm 2005 (khoản 2 Điều 4); Luật Thương mại 2005 (khoản

2, khoản 3 Điều 4); Luật Hàng không dân dụng Việt Nam 2006 (khoản 2, khoản 3

Điều 4) Đặc biệt, đoạn 1 khoản 1 Điều 769 BLDS năm 2005 quy định: “Quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng được xác định theo pháp luật của nước nơi thực hiện hợp đồng, nếu không có thỏa thuận khác” Như vậy, theo quy định của

pháp luật Việt Nam hiện hành, cơ sở đầu tiên để xác định luật áp dụng cho quyền

và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên tham gia quan

hệ hợp đồng

2 Điều ước quốc tế

Quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài là một trong những vấn đề phức tạp của tư pháp quốc tế, bởi vì nó có liên quan đến các chủ thể thuộc các quốc gia khác

Trang 4

nhau, hoặc những đối tượng, tài sản tồn tại trên lãnh thổ của các quốc gia khác,…

Để tránh các rủi ro trong việc lựa chon một hệ thống pháp luật quốc gia của một trong các bên, các chủ thể có thể tham gia quan hệ có thể lựa chọn các điều ước quốc tế khi giao kết hợp đồng Vì điều ước quốc tế được các quốc gia thành viên xây dựng và được coi là khuôn mẫu, chuẩn mực quốc tế trong lĩnh vực hợp đồng Hiện nay có rất nhiều điều ước song phương và đa phương quy định về vấn đề này, tiêu biểu như: Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế; Công ước Lahay 15/6/1955 về luật áp dụng đối với việc mua bán các bất động sản hữu hình (bổ sung ngày 30/10/1985); Để điều chỉnh quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài, các điều ước quốc tế song phương hay đa phương có những quy định

rõ ràng và cụ thể

Về việc xác định tính hợp pháp của hợp đồng, các điều ước quốc tế song phương thường áp dụng luật nơi kí kết hợp đồng để giải quyết Tuy nhiên, cũng có những quy định áp dụng luật nơi có tài sản trong trường hợp hợp đồng liên quan

đến bất động sản Ví dụ: Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Cuba, Hiệp

định tương trợ tư pháp về dân sự, gia đình và hình sự giữa Việt Nam và Liên Xô

Để xác định năng lực hành vi kí kết hợp đồng có yếu tố nước ngoài của các chủ thể tham gia hợp đồng, các điều ước quốc tế song phương hầu hết quy định áp dụng luật quốc tịch của các bên chủ thể hợp đồng Mặt khác, trong các điều ước quốc tế đa phương, nguyên tắc tự do lựa chọn luật của các bên tham gia được xem

là nguyên tắc cơ bản để xác định tính hợp pháp của hợp đồng Ví dụ: trong Công

ước Rome năm 1980 về luật áp dụng cho trách nhiệm hợp đồng, công ước Lahay ngày 14/3/1987 về luật áp dụng cho đại lý, công ước Lahay ngày 30/10/1986 về luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Về hình thức hợp đồng, Điều 11 Công ước Liên hợp quốc năm 1980 về hợp

đồng mua bán hàng hóa quốc tế quy định như sau:“không yêu cầu hợp đồng mua bán phải được kí hoặc phải được xác nhận bằng văn bản hoặc phải tuân thủ một yêu cầu nào đó về mặt hình thức”.

3 Tập quán quốc tế

Ngoài pháp luật quốc gia và các điều ước quốc tế, tập quán quốc tế cũng là nguồn được lựa chọn khi giao kết hợp đồng đặc biệt là trong quan hệ thương mại

Trang 5

quốc tế Vì vậy, trong thương mại quốc tế, tập quán quốc tế được coi là “luật giữa các thương nhân” Thông thường, tập quán, tập quán thương mại quốc tế trở thành luật áp dụng chung đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế khi các bên lựa chọn Một trong những tập quán thông dụng trong thương mại quốc tế hiện nay là các điều kiện thương mại quốc tế – Incoterms (International Commercial Terms)

do Phòng thương mại quốc tế – ICC ban hành năm 1936, được sửa đổi bổ sung năm 1953, 1967, 1980, 1990 và gần đây nhất là năm 2000; Quy tắc chung về tập quán và thực hành tín dụng chứng từ (UCP 500); Bộ nguyên tắc của UNIDROIT; Luật mẫu của trọng tài UNCITRAL ban hành năm 1985; Công ước New York năm 1958

Tập quán thương mại quốc tế được áp dụng trong trường hợp mặc dù các bên không có thoả thuận về việc sử dụng nó trong hợp đồng Pháp luật của tất cả các quốc gia đều cho phép các bên trong hợp đồng thương mại quốc tế sử dụng tập quán thương mại quốc tế để điều chỉnh quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng

Ví dụ: Khoản 2 điều 5 Luật Thương mại 2005 quy định: “các bên trong giao dịch thương mại có yếu tố nước ngoài được thoả thuận áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế nếu pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc

tế đó không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam Đây cũng là một

cách thức để giải quyết xung đột pháp luật – phương pháp thực chất thống nhất, làm cho việc ký kết, thực hiện hợp đồng trở nên nhanh chóng, đơn giản và hiệu quả hơn, đáp ứng được yêu cầu linh hoạt của hoạt động thương mại

Theo nguyên tắc, bản thân tập quán thương mại quốc tế không có hiệu lực pháp lý như một quy phạm pháp luật, tập quán thương mại quốc tế có hiệu lực

pháp lý khi thoả mãn cả hai điều kiện sau đây: thứ nhất,quốc gia của các bên trong hợp đồng thương mại quốc tế công nhận bằng văn bản hiệu lực của tập quán thương mại quốc tế như là của quy phạm pháp luật.thứ hai các bên thoả thuận áp dụng tập quán và đưa chúng vào hợp đồng Đây là căn cứ của việc sử dụng tập

quán thương mại quốc tế là ý chí của các bên

Tập quán thương mại chỉ có giá trị bổ sung cho hợp đồng Khi áp dụng tập quán thương mại quốc tế, các bên phải chứng minh nội dung của tập quán đó Do

đó, nếu các bên có thể tìm hiểu thông tin về tập quán đó trước khi bước vào đàm phán sẽ rất thuận lợi Các thông tin đó, các bên có thể tìm hiểu thông qua sách báo,

Trang 6

tài liệu hoặc ở các văn bản của các phòng thương mại, các Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài Nếu có tập quán chung và tập quán riêng thì tập quán riêng có giá trị trội hơn Ví dụ: FOB Incortems 2000 là tập quán chung FOB cảng đến (ship to destination) của Hoa Kỳ là tập quán riêng nên FOB shipment to destination của Hoa Kỳ sẽ được ưu tiên áp dụng Nếu có tập quán mặt hàng và tập quán ngành hàng thì tập quán mặt hàng sẽ được ưu tiên áp dụng

III ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ HỢP ĐỒNG CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI

1 Trường hợp các bên thỏa thuận việc chọn luật áp dụng

Xuất phát từ nguyên tắc tự do thỏa thuận trong quan hệ hợp đồng, pháp luật các nước đều thừa nhận thỏa thuận luật áp dụng trong hợp đồng có yếu tố nước ngoài Sự lựa chọn này phải đáp ứng những điều kiện do chính hệ thống pháp luật

đó đặt ra Vận dụng nguyên tắc này, pháp luật Việt Nam đã quy định quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng cho hợp đồng có yếu tố nước ngoài trong nhiều văn bản pháp luật: Bộ luật Hàng hải năm 2005 (khoản 2 Điều 4); Luật Thương mại 2005 (khoản 2, khoản 3 Điều 4); Luật Hàng không dân dụng Việt Nam 2006 (khoản 2, khoản 3 Điều 4) Đặc biệt, đoạn 1 khoản 1 Điều 769 BLDS năm 2005 quy định rõ:

“Quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng được xác định theo pháp luật của nước nơi thực hiện hợp đồng, nếu không có thỏa thuận khác” Như vậy, theo quy

định của pháp luật Việt Nam hiện hành, cơ sở đầu tiên để xác định luật áp dụng cho quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên tham gia quan hệ hợp đồng Tuy nhiên, để có thể áp dụng điều khoản thỏa thuận chọn luật áp dụng cho hợp đồng, sự thỏa thuận này cần phải đáp ứng những điều kiện sau:

Thứ nhất, sự lựa chọn phải nằm trong phạm vi mà pháp luật cho phép lựa

chọn luật áp dụng cho hợp đồng Cụ thể, khoản 1 Điều 769 BLDS năm 2005 chỉ cho phép các bên thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng đối với quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng; còn đối với vấn đề hình thức hợp đồng, các bên không được thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng mà phải tuân theo pháp luật của nước nơi giao kết hợp đồng (Điều 770); hoặc vấn đề xác định nơi giao kết hợp đồng trong trường hợp giao kết hợp đồng vắng mặt thì phải tuân theo pháp luật của nước nơi

Trang 7

cư trú của cá nhân hoặc nơi có trụ sở chính của pháp nhân là bên đề nghị giao kết hợp đồng (Điều 771)

Bên cạnh đó, quyền thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng của các bên còn bị hạn chế, ngay cả trong những vấn đề luật cho phép lựa chọn luật áp dụng Cụ thể: đoạn

2 khoản 1 Điều 769 BLDS 2005 quy định nếu hợp đồng được giao kết tại Việt Nam và thực hiện hoàn toàn tại Việt Nam thì phải tuân theo pháp luật Việt Nam Ngoài ra, thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng của các bên cũng sẽ vô hiệu do điều

khoản về bảo lưu trật tự công cộng như quy định tại Điều 759 BLDS 2005: “nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng không trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” Pháp luật Việt Nam có

khuynh hướng giới hạn đến mức có thể, phạm vi những vấn đề của hợp đồng dân

sự có yếu tố nước ngoài mà các bên được quyền thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng

Thứ hai, việc chọn luật không trái với điều ước quốc tế mà quốc gia là thành

viên

* Trường hợp Việt Nam là thành viên của điều ước quốc tế thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó

*Khi các bên trong giao dịch thương mại có yếu tố nước ngoài được thoả thuận áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế thi quy định đó không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam

*Đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, trong trường hợp pháp luật Việt Nam chưa có quy định, các bên có thể thỏa thuận trong hợp đồng việc áp dụng pháp luật nước ngoài và tập quán đầu tư quốc tế nếu việc áp dụng pháp luật nước ngoài và tập quán đầu tư quốc tế đó không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam

Như vậy, về cơ bản, quy định của BLDS 2005 cho phép các bên tham gia quan hệ hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài được thỏa thuận chọn luật áp dụng cho hợp đồng

Trang 8

2 Trường hợp các bên không thỏa thuận luật áp dụng

Pháp luật Việt Nam quy định rõ ràng về quyền thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng cho quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài Tuy nhiên, khi các bên tham gia giao kết hợp đồng quốc tế mà không có sự thỏa thuận

về việc chọn luật áp dụng thì các quy đinh sẽ được áp dụng theo nguyên tắc và điều kiện sau:

* Nguyên tắc áp dụng luật về hình thức

Theo quy định tại khoản 1 Điều 769 BLDS năm 2005, thì chỉ cho phép các bên thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng đối với quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng; còn đối với vấn đề hình thức hợp đồng, các bên không được thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng mà phải tuân theo pháp luật của nước nơi giao kết hợp

đồng (Điều 770 Theo đó, Điều 770 BLDS quy định “hình thức của hợp đồng phải tuân theo pháp luật của các nước nới giao kết hợp đồng” Quy định này là phù

hợp với nhu cầu thực tế, nó cho phép các bên tham gia ký kết hợp đồng tiến hành một cách thuận tiện các thủ tục về hình thức tại nơi ký kết hợp đồng mà pháp luật nơi ký kết hợp đồng yêu cầu Bên cạnh đó, quy định này cũng nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia hợp đồng cũng như quyền lợi của quốc gia nơi giao kết hợp đồng

* Nguyên tắc áp dụng luật về nội dung

Điều 769 BLDS quy định: “quyền, nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng dân sự được xác định theo pháp luật của nước nơi thực hiện hợp đồng nếu không

có thỏa thuận khác” Như vậy BLDS Việt Nam đã cho phép các bên lựa chọn pháp

luật áp dụng cho hợp đồng Thường thì các bên lựa chọn pháp luật của một nước liên quan đến hợp đồng, nhất là pháp luật của nước mà một trong các bên của hợp đồng có quốc tịch Ngoài ra, BLDS cũng quy định một số ngoại lệ hạn chế tự do lựa chọn luật áp dụng, trong các trường hợp như: đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; khi hợp đồng liên quan đến bất động sản

Khoản 2 Điều 769 BLDS 2005 cũng quy định nếu hợp đồng được giao kết tại Việt Nam và thực hiện hoàn toàn tại Việt Nam thì phải tuân theo pháp luật Việt Nam Ngoài ra, thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng của các bên cũng sẽ vô hiệu

Trang 9

do điều khoản về bảo lưu trật tự công cộng như tại Điều 759 BLDS 2005: “nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng không trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”

* Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng

Theo pháp luật Việt Nam, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng được xác định theo pháp luật của nước nơi ký kết hợp đồng hay luật nơi thực hiện hợp đồng, nếu hợp đồng liên quan đến bất động sản thì điều kiện có hiệu lực của hợp đồng sẽ áp dụng luật nơi có tài sản BLDS 2005 quy định, hợp đồng có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hay pháp luật quy định khác Thời điểm giao kết hợp đồng bằng miệng là thời điểm các bên thỏa thuận về nội dung chủ yếu của hợp đồng Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm các bên ký vào văn bản Nếu hợp đồng cần có công chứng, chứng thực, thì hợp đồng có hiệu lực kể từ thời điểm hợp đồng có chứng nhận, chứng thực

Việc chọn luật và việc áp dụng hệ thống pháp luật được chọn không trái với

hệ thống pháp luật quốc gia các bên Việc áp dụng hay hậu quả của việc áp dụng pháp luật được chọn không được trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam Ví dụ, Điều 5 Luật Thương mại quy định nội dung pháp luật được chọn không được trái với pháp luật Việt Nam; Điều 759 BLDS 2005 quy định việc chọn pháp luật không được trái với các quy định của pháp luật Việt Nam Luật được chọn phải là luật thực chất, có nghĩa là hệ thống pháp luật do các bên lựa chọn phải

có các quy phạm pháp luật thực chất có thể được áp dụng để giải quyết xung đột giữa các bên Việc các bên chọn luật áp dụng không đồng nghĩa với việc các bên chọn cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp và ngược lại

KẾT LUẬN

Qua đó, chúng ta có thể thấy do tính chất đặc thù của hợp đồng quốc tế nên

hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ này cũng rất đa dạng và phong phú Những quy định này của pháp luật được các chủ thể của hợp đồng quan tâm để có thể bảo

vệ quyền và lợi ích của mình khi tham gia giao kết hợp đồng quốc tế Hiện nay, pháp luật của Việt Nam cũng đang dần hoàn thiện để theo kịp với xu hướng của thế giới góp phần thúc đẩy sự hợp tác quốc tế

Trang 10

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình tư pháp quốc tế, Nxb Công an

Nhân dân, Hà Nội, 2009

2 Đỗ Văn Đại, Mai Hồng Quỳ, Tư pháp quốc tế Việt Nam, Nxb ĐHQG Thành

phố Hồ Chí Minh, 2006

3 Bộ luật dân sự năm 2005

4 Luật Thương mại năm 2005

5 ThS Bùi Thị Thu, Giáo trình Luật tư pháp quốc tế, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2010

6 Bài đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 210-211-thang-1-2-2012 ngày 01/01/2012) ThS Bành Quốc Tuấn - Khoa Luật, Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh

Chú thích

- BLDS 2005: Bộ luật Dân sự năm 2005

Ngày đăng: 21/03/2019, 15:46

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w