GIỚI THIỆU TỔNG QUAN ĐỀ TÀI
Tổng quan đề tài
Để cải cách hành chính, Quốc hội đã thông qua Luật giao dịch điện tử vào năm 2005 Kể từ đó, chính phủ đã liên tục ban hành các văn bản pháp luật hướng dẫn nhằm nâng cao tính pháp lý cho giao dịch điện tử.
Vào tháng 09/2009, Tổng cục thuế đã triển khai quy trình nộp hồ sơ khai thuế qua Internet (iHTKK) nhằm cải cách hành chính, giảm chi phí in ấn và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp Chủ doanh nghiệp có thể ký và gửi hồ sơ khai thuế từ bất kỳ đâu có kết nối Internet, giúp giảm tình trạng quá tải tại cơ quan thuế và thúc đẩy giao dịch thương mại điện tử.
Cơ quan thuế mỗi khi đến kỳ hạn nộp hồ sơ khai thuế
Tổng cục thuế khuyến khích doanh nghiệp thực hiện khai thuế qua mạng Internet, nhưng lựa chọn giữa khai thuế trực tiếp truyền thống và qua mạng hoàn toàn phụ thuộc vào doanh nghiệp Cơ quan thuế cam kết hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận thông tin qua băng rôn, áp phích, hội nghị chuyên đề, và tổ chức tập huấn quy trình, đồng thời thiết lập đường dây nóng để hỗ trợ kịp thời các vướng mắc trong quá trình khai thuế trực tuyến.
Để thúc đẩy kê khai thuế qua mạng trở thành hình thức chính trong tương lai, cần xác định những yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn hình thức này Câu hỏi đặt ra là: "Yếu tố nào có tác động mạnh mẽ và yếu tố nào tác động ở mức độ thấp hơn?" Điều này sẽ giúp cơ quan nhà nước xây dựng các phương hướng hành động nhằm gia tăng số lượng người nộp thuế chọn kê khai qua mạng Nghiên cứu này tập trung vào các yếu tố quyết định lựa chọn kê khai thuế qua mạng tại Chi cục Thuế huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu đề tài gồm các vấn đề sau:
-Xác định các yếu tố quyết định lựa chọn khai thuế qua mạng
-Xác định mức độ tác động của các yếu tố đến mức độ hài lòng chung của người nộp thuế
- Đưa ra một số hàm ý quản trị nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ khai thuế qua mạng trong thời gian tới.
Phương pháp nghiên cứu
1.3.1 Dữ liệu dùng cho nghiên cứu
Nghiên cứu này sử dụng nhiều nguồn dữ liệu như:
Dữ liệu thứ cấp: các báo cáo kế hoạch của các Phòng hổ trợ kê khai chi cục thuế huyện Thống Nhất Tỉnh Đồng Nai
Dữ liệu sơ cấp: điều tra khảo sát, thu thập và lấy ý kiến các doanh nghiệp đang làm việc để thực hiện nghiên cứu định lượng
Sử dụng 02 phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên cứu định lượng
1.3.2.1 Phương pháp nghiên cứu định tính
Dựa vào các tài liệu đã nghiên cứu từ các chuyên gia và các nghiên cứu khảo sát về mô hình kê khai thuế
1.3.2.2 Phương pháp nghiên cứu định lượng
Sau khi nghiên cứu định tính, tiến hành nghiên cứu định lượng về kê khai thuế tại chi cục thuế huyện Thống Nhất Tỉnh Đồng Nai
Bảng câu hỏi được xây dựng dựa trên thang đo Likert 5 mức độ nhằm đánh giá mức độ quan trọng của các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn khai thuế qua mạng Nghiên cứu này tập trung vào tình huống tại Chi cục Thuế huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai.
Phân tích và lựa chọn nhân tố tối ưu là rất quan trọng trong việc đo lường các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định khai thuế qua mạng Sử dụng phần mềm SPSS 20, nghiên cứu này tập trung vào Chi cục Thuế huyện Thống Nhất tỉnh Đồng Nai để xác định các nhân tố chính tác động đến hành vi của người nộp thuế Kết quả từ việc phân tích sẽ cung cấp những thông tin giá trị nhằm cải thiện quy trình khai thuế trực tuyến.
Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Đề tài này nhằm cung cấp thông tin về các yếu tố đo lường chất lượng dịch vụ khai thuế qua mạng mà người nộp thuế mong muốn từ cơ quan thuế Từ đó, lãnh đạo cơ quan thuế có thể đề ra các biện pháp cụ thể để nâng cao sự hài lòng của người nộp thuế đối với dịch vụ khai thuế trực tuyến.
-Phân tích được thực trạng dịch vụ kê khai thuế qua mạng hiện nay tại Chi cục thuế huyện Thống Nhất
-Đóng góp một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ khai thuế qua mạng.
Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu này tập trung vào các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn khai thuế trực tuyến tại Chi cục thuế huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai Địa bàn khảo sát được tiến hành tại huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai.
Thời gian nghiên cứu từ tháng 06/2017 đến tháng 03/2018
Kết cấu đề tài
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Phân tích và thảo luận
Chương 5: Kết luận và kiến nghị
Chương 1 tác giả đã giới thiệu lý tính cấp thiết, mục tiêu nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu của đề tài “Các yếu tố quyết định lựa chọn khai thuế qua mạng: nghiên cứu tình huống tại Chi cục Thuế huyện Thống Nhất tỉnh Đồng Nai”
Sử dụng 02 phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên cứu định lượng
Đề tài được cấu trúc thành 5 chương: Chương 1 cung cấp cái nhìn tổng quan về nghiên cứu, Chương 2 trình bày cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu, Chương 3 mô tả phương pháp nghiên cứu được áp dụng, Chương 4 trình bày kết quả nghiên cứu, và Chương 5 tổng hợp các kết quả chính, đồng thời nêu rõ hạn chế cũng như hướng nghiên cứu trong tương lai.
Trong bài viết này, tác giả sẽ trình bày cơ sở lý thuyết về khai báo thuế qua mạng và các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn hình thức khai thuế này tại Chi cục Thuế huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai Nghiên cứu sẽ xác định các thành phần trong mô hình các nhân tố tác động đến việc lựa chọn khai thuế qua mạng, thông qua việc phân tích tình huống cụ thể tại Chi cục Thuế huyện Thống Nhất.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
Khái niệm về kê khai thuế qua mạng
2.1.1 Khái niệm của thế giới
Kê khai thuế qua mạng, theo Lai, Siti Normala & Ahamed Kameel (2004), là hệ thống sử dụng công nghệ Internet, trang web và phần mềm thuế để quản lý và tuân thủ nghĩa vụ thuế Quá trình này bao gồm việc chuẩn bị, nộp tờ khai thuế và thanh toán thuế, bắt đầu khi người nộp thuế hoặc đại lý thuế điền thông tin vào tờ khai và gửi qua Internet đến trung tâm xử lý của cơ quan Thuế.
Kê khai thuế qua mạng là quá trình truyền tải thông tin thuế trực tiếp đến cơ quan quản lý thông qua Internet Các hình thức kê khai bao gồm: (1) kê khai trực tuyến sử dụng máy tính cá nhân và phần mềm khai thuế, (2) nộp hồ sơ trực tuyến qua máy tính của chuyên gia thuế Người nộp thuế có thể thực hiện kê khai tại nhà, tại trang web của tình nguyện viên, thư viện, tổ chức tài chính, nơi làm việc, trung tâm mua sắm, cửa hàng, hoặc tại văn phòng của chuyên gia thuế.
2.1.2 Khái niệm của Việt Nam
Khai thuế qua mạng là dịch vụ công tiện ích do cơ quan thuế cung cấp, giúp người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ thuế một cách nhanh chóng và tiết kiệm chi phí.
Khai thuế qua mạng là quá trình gửi thông tin thuế trực tiếp qua Internet đến cơ quan quản lý thuế Nói cách khác, đây là việc ứng dụng công nghệ thông tin và điện tử, như máy tính và truyền thông, để thực hiện hoạt động kê khai thuế một cách hiệu quả.
1Ming-Ling Lai, Siti Normala Sheikh Obid and Ahamed Kameel Meera, 2004 Towards
An ElectronicFiling System: A Malaysian survey E Journal of Tax Research, 1(2), 100- 112
2 Denise Edwards-Dowe - CARTAC Tax Adviser, 2008 E-Filing and E-Payments – The Way Forward Paper presented at Caribbean Organization of Tax Administration (COTA)
General Assembly, Belize City, Belize, July 2008.
Theo tác giả, kê khai thuế qua mạng là quá trình doanh nghiệp sử dụng máy tính để thực hiện việc khai thuế và gửi thông tin đến cơ quan quản lý thuế qua Internet, thay vì gửi qua bưu điện hoặc nộp trực tiếp.
Tổng quan về khai thuế qua mạng
Nộp hồ sơ khai thuế qua mạng Internet là phương thức cho phép người nộp thuế gửi hồ sơ khai thuế trực tiếp từ máy tính của mình đến cơ quan thuế mà không cần sử dụng bưu điện hay nộp giấy Đây là hình thức giao dịch điện tử được quy định trong thông tư 180/2010/TT-BTC ngày 10/11/2010 của Bộ Tài chính, nhằm tạo thuận lợi cho người nộp thuế và nâng cao hiệu quả quản lý thuế.
Hình 2.1: Mô hình khai thuế qua mạng (Nguồn: http://kekhaithue.gdt.gov.vn)
Người nộp thuế đáp ứng điều kiện sau đây được tự nguyện đăng ký nộp hồ sơ khai thuế qua mạng (quy định tại quyết định 1830/QĐ-BTC ngày 29/7/2009):
1) Là các tổ chức, doanh nghiệp đã được cấp mã số thuế và đang hoạt động
2) Thực hiện lập hồ sơ khai thuế bằng phần mềm ứng dụng Hỗ trợ kê khai do Tổng cục thuế cung cấp miễn phí và thường xuyên cập nhật phiên bản mới nhất theo hướng dẫn của Tổng cục Thuế
3) Đã được cấp chứng thư số của tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số công cộng do Bộ thông tin và Truyền thông cấp phép hoạt động (sau đây gọi tắt là tổ chức chứng thực chữ ký số công cộng) Chứng thư số được cấp phải đang còn hiệu lực Người nộp thuế có trách nhiệm thực hiện thủ tục xin cấp chứng thư số với tổ chức chứng thực
4) Có khả năng truy cập và sử dụng mạng Internet và có địa chỉ thư điện tử liên lạc ổn định với cơ quan thuế.
Lý luận cơ bản về dịch vụ công
2.3.1 Khái niệm về dịch vụ công
Dịch vụ công và hàng hóa công cộng có mối liên hệ chặt chẽ, trong đó hàng hóa công cộng có những đặc điểm quan trọng như: (1) Khó loại trừ người khác khỏi việc sử dụng sau khi đã được tạo ra; (2) Việc tiêu dùng của một cá nhân không làm giảm khả năng tiêu dùng của người khác.
Hàng hoá công cộng thuần tuý là những sản phẩm không thể bị vứt bỏ và tồn tại ngay cả khi không được tiêu dùng, đồng thời thoả mãn cả ba đặc tính quan trọng Ngược lại, hàng hoá công cộng không thuần tuý không đáp ứng đầy đủ các đặc tính này.
Có nhiều khái niệm về dịch vụ công, theo Từ điển Petit Larousse (Pháp,
Dịch vụ công được định nghĩa là hoạt động vì lợi ích chung, do cơ quan nhà nước hoặc tư nhân đảm nhiệm Theo Từ điển Oxford, dịch vụ công bao gồm các dịch vụ như giao thông và chăm sóc sức khỏe do nhà nước hoặc tổ chức chính thức cung cấp cho toàn bộ người dân trong một xã hội cụ thể, nhằm giúp đỡ mọi người thay vì kiếm lợi nhuận Bộ trưởng Bộ Nội vụ Đỗ Quang Trung nhấn mạnh rằng dịch vụ công phục vụ nhu cầu thiết yếu của nhân dân, hoạt động không vụ lợi và không vì mục đích kinh doanh, tuân theo các tiêu chí và quy định của nhà nước TS Lê Chi Mai từ Học viện Hành chính quốc gia cũng cho rằng dịch vụ công là hoạt động của các cơ quan nhà nước trong việc thực thi chức năng quản lý hành chính và đảm bảo cung ứng hàng hóa công phục vụ lợi ích chung của xã hội Tóm lại, dịch vụ công là hoạt động không vụ lợi của cơ quan nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của nhân dân.
Các hoạt động xã hội phục vụ lợi ích chung của cộng đồng đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp dịch vụ thiết yếu, đảm bảo cuộc sống bình thường và an toàn cho mọi người.
Các hoạt động cung ứng dịch vụ công được thực hiện bởi các cơ quan công quyền hoặc những tổ chức được chính quyền ủy nhiệm Trong quá trình này, các cơ quan nhà nước và tổ chức ủy quyền sẽ giao tiếp với người dân ở nhiều mức độ khác nhau để đảm bảo cung cấp dịch vụ hiệu quả.
Việc trao đổi dịch vụ công qua quan hệ thị trường cho thấy người sử dụng thường không trực tiếp trả tiền, mặc dù có một số dịch vụ yêu cầu họ chi trả một phần hoặc toàn bộ chi phí Dù vậy, Nhà nước vẫn có trách nhiệm đảm bảo cung ứng dịch vụ này mà không nhằm mục tiêu thu lợi nhuận Tất cả công dân đều có quyền được hưởng dịch vụ công tối thiểu, như một đối tượng phục vụ của chính quyền.
Dịch vụ thuế là dịch vụ công do cơ quan thuế cung cấp miễn phí cho người dân Giống như các hàng hóa công khác, dịch vụ này không có tính cạnh tranh và không thể loại trừ Tuy nhiên, do tính chất chấp hành, người dân buộc phải sử dụng dịch vụ thuế này.
2.3.2 Chất lượng dịch vụ công
3Đỗ Quang Trung, 2005 Dịch vụ công: Phải là một “sản phẩm” chất lượng Diễn đàn doanh nghiệp ngày 26/6/2005.
4Lê Chi Mai, 2008 Dịch vụ công Tạp chí Bảo hiểm xã hội Số 3/2008.
Trong nhiều năm, các nhà nghiên cứu đã nỗ lực định nghĩa và đo lường chất lượng dịch vụ Theo Kotler (Fandy Tjiptono, 2003: 61), chất lượng dịch vụ bắt nguồn từ nhu cầu của khách hàng và kết thúc ở nhận thức của họ Điều này có nghĩa là sự cảm nhận về chất lượng dịch vụ không chỉ dựa vào nhà cung cấp mà còn phụ thuộc vào quan điểm của khách hàng Cảm nhận này là một đánh giá toàn diện về lợi ích mà dịch vụ mang lại Lehtinen & Lehtinen (1982) cho rằng chất lượng dịch vụ cần được đánh giá qua hai khía cạnh: quá trình cung cấp dịch vụ và kết quả của dịch vụ.
Theo Gronroos (1984), chất lượng dịch vụ bao gồm hai thành phần chính: (1) chất lượng kỹ thuật, tức là những gì khách hàng nhận được, và (2) chất lượng chức năng, liên quan đến cách thức dịch vụ được cung cấp Để hiểu rõ hơn về chất lượng dịch vụ, chúng ta không thể không nhắc đến định nghĩa của Parasuraman và các cộng sự (1988), cho rằng "chất lượng dịch vụ là mức độ khác nhau giữa sự mong đợi của người tiêu dùng và nhận thức của họ về kết quả dịch vụ."
Sự hài lòng của khách hàng về dịch vụ khai thuế qua mạng
2.4.1 Khái niệm về sự hài lòng của khách hàng
Theo Doyle (2002), sự hài lòng của khách hàng là yếu tố quyết định đến lợi nhuận và giá trị của doanh nghiệp Chính vì vậy, ngày nay, nhiều tổ chức và doanh nghiệp đã đặt việc nâng cao sự hài lòng của khách hàng là mục tiêu hàng đầu trong các hoạt động kinh doanh của họ.
Theo Tse và Wilton (Fandy Tjiptono, 1997: trang 24), sự hài lòng của khách hàng là phản ứng đánh giá mức độ khác biệt giữa kỳ vọng và thực tế dịch vụ nhận được Sự hài lòng này phản ánh cảm nhận của khách hàng về dịch vụ mà họ trải nghiệm.
5Philip Kotler, 2003 Quản trị Marketing NXB Thống Kê.
6Lehtinen, J.R and lehtinen, U., 1982 Service quality: a study of quality dimensions, unpublished Working Paper, Service Management Institute, Helsinki.
7Gronroos, C., 1984 A service quality model and its marketing implications European Journal of Marketing.
Parasuraman, Zeithaml, and Berry (1988) introduced SERVQUAL, a multi-item scale designed to measure consumer perceptions of service quality This framework emphasizes the role of customer expectations and the actual performance of service quality, providing valuable insights for businesses aiming to enhance customer satisfaction and loyalty By assessing the gap between expected and perceived service, organizations can identify areas for improvement and optimize their service delivery.
Theo Philip Kotler, sự thỏa mãn là cảm giác của một người khi so sánh kết quả từ sản phẩm với kỳ vọng của họ Sự thỏa mãn được chia thành ba cấp độ khác nhau.
1) Nếu mức độ nhận được của khách hàng nhỏ hơn kỳ vọng thì khách hàng cảm nhận không hài lòng
2) Nếu mức độ nhận được của khách hàng bằng kỳ vọng thì khách hàng hài lòng
3) Nếu mức độ nhận được của khách hàng lớn hơn kỳ vọng thì khách hàng cảm thấy thích thú
2.4.2 Sự hài lòng của khách hàng về dịch vụ thuế
Trong lĩnh vực thuế, chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của người nộp thuế đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy mức độ tuân thủ thuế Nghiên cứu của Richardson (2006) trên 45 quốc gia cho thấy sự hài lòng với tính công bằng của hệ thống thuế có mối quan hệ tiêu cực với hành vi trốn thuế Cụ thể, nếu người nộp thuế cảm thấy hệ thống thuế công bằng, họ sẽ ít có xu hướng trốn thuế Phát hiện này cũng được hỗ trợ bởi nghiên cứu của Belkaoui.
Nghiên cứu năm 2004 cho thấy rằng sự hài lòng với hiệu quả của pháp luật có mối quan hệ tích cực với mức độ tuân thủ Cụ thể, người nộp thuế có xu hướng sẵn sàng tuân thủ các quy định về thuế nếu họ cảm thấy hài lòng với hiệu quả của hệ thống pháp luật.
Nghiên cứu gần đây cho thấy sự hài lòng của người nộp thuế đối với dịch vụ của cơ quan thuế bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố Cụ thể, cung cách phục vụ của cơ quan thuế, bao gồm việc cung cấp thông tin về thuế, tính đơn giản của các thủ tục thuế, và khả năng phục vụ của cán bộ thuế, đều góp phần quan trọng vào mức độ hài lòng này.
9Richardson, G., 2006 Determinants of Tax Evasion: A Cross Country Investigation
Journal of International Accounting, Auditing & Taxation 15 150-169
10 Belkaoui, A.R 2004 Relationship between Tax Compliance Internationally and Selected Determinants of Tax Morale Journal of International
Accounting, Auditing & Taxation, 13, 135-143. thiết bị phục vụ của ngành thuế
2.4.3 Sự hài lòng của người nộp thuế về dịch vụ khai thuế qua mạng
Theo tác giả, sự hài lòng của người nộp thuế về dịch vụ kê khai thuế trực tuyến chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố chất lượng dịch vụ Qua việc phân tích và kiểm định mô hình nghiên cứu, chúng ta sẽ xác định được những thành phần nào có tác động trực tiếp và những thành phần nào ít ảnh hưởng đến sự hài lòng của người nộp thuế khi sử dụng dịch vụ này.
2.4.4 Mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ khai thuế qua mạng và sự hài lòng của người nộp thuế
Một số tác giả cho rằng chất lượng dịch vụ và hài lòng khách hàng có sự trùng khớp và có thể thay thế cho nhau Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu khác lại chỉ ra rằng hai khái niệm này khác nhau: hài lòng khách hàng là kết quả, trong khi chất lượng dịch vụ là nguyên nhân Hài lòng khách hàng mang tính dự báo mong đợi, còn chất lượng dịch vụ được xem như một chuẩn lý tưởng.
Theo Zeithaml và Bitner (2000), chất lượng dịch vụ và hài lòng khách hàng là hai khái niệm khác nhau Chất lượng dịch vụ tập trung vào các thành phần cụ thể của dịch vụ, trong khi hài lòng khách hàng là một khái niệm tổng quát hơn.
Theo nghiên cứu của Parasuraman (1985, 1988), chất lượng dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao mức độ thỏa mãn của khách hàng Chất lượng dịch vụ được xác định bởi nhiều yếu tố khác nhau, và nó là một trong những nhân tố quyết định chính ảnh hưởng đến sự thỏa mãn của người tiêu dùng.
Theo Cronin và Taylor (1992), mặc dù chưa có sự đồng thuận hoàn toàn giữa các nhà nghiên cứu về các khái niệm liên quan, nhưng hầu hết đều đồng ý rằng có mối liên hệ chặt chẽ giữa chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng.
Dịch vụ thuế mang tính chất chấp hành, do đó người nộp thuế buộc phải sử dụng các dịch vụ do cơ quan thuế cung cấp, dù họ có hài lòng hay không Tuy nhiên, tác giả cho rằng giữa chất lượng dịch vụ thuế và sự hài lòng của người nộp thuế có mối liên hệ chặt chẽ cần được xem xét.
11Zeithaml, Valarie A and Mary Jo Bitner, 2000 Services Marketing New York:
The relationship between taxpayer satisfaction and service quality is closely intertwined; when the quality of services improves, taxpayer satisfaction also increases.
Theo tác giả, chất lượng dịch vụ khai thuế qua mạng và sự hài lòng của người nộp thuế có mối quan hệ tương tác mật thiết; chất lượng tốt sẽ nâng cao sự hài lòng của người nộp thuế Dịch vụ khai thuế qua mạng hiện đã trở thành yêu cầu bắt buộc Việc khảo sát và đánh giá mức độ hài lòng của người nộp thuế sẽ giúp cơ quan thuế cải thiện chất lượng dịch vụ, phục vụ tốt hơn cho người nộp thuế Đồng thời, điều này cũng tạo điều kiện cho người nộp thuế làm quen với hình thức giao dịch điện tử, hướng tới sự phát triển trong tương lai.
Các lý thuyết mô hình
2.5.1.Thuyết hành động hợp lý ( TRA – Theory of Reasoned Action)
Thuyết hành động hợp lý, do Ajzen và Fishbein phát triển từ năm 1967 và được điều chỉnh qua thời gian, nhấn mạnh rằng xu hướng tiêu dùng là yếu tố quan trọng trong việc dự đoán hành vi tiêu dùng Mô hình TRA (Ajzen và Fishbein, 1975) chỉ ra rằng để hiểu rõ hơn về các yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng mua sắm, cần xem xét hai yếu tố chính: thái độ và chuẩn chủ quan của khách hàng.
Hình 2 2: Thuyết hành động hợp lý (TRA)
2.5.2 Thuyết hành vi dự định (TPB – Theory of Planned Behaviour)
Thuyết hành động hợp lý (TRA) gặp khó khăn trong việc dự đoán hành vi của người tiêu dùng khi họ không thể kiểm soát; các yếu tố như thái độ và chuẩn chủ quan không đủ để giải thích hành động Để khắc phục điều này, Ajzen đã phát triển Thuyết hành vi dự định (TPB) bằng cách bổ sung yếu tố nhận thức kiểm soát hành vi (Perceived Behavioral Control - PBC) vào mô hình TRA Yếu tố PBC phản ánh mức độ dễ dàng hay khó khăn trong việc thực hiện hành vi, từ đó giúp hiểu rõ hơn về quyết định của người tiêu dùng.
Niềm tin với những thuộc tính sản phẩm Đo lường niềm tin đối với những thuộc tính sản phẩm
Niềm tin về những người ảnh hưởng sẽ nghĩ rằng nên hay không mua sản phẩm này
Sự thúc đẩy làm theo ý muốn của những người ảnh hưởng
Xu hướng hành vi khó khăn trong việc thực hiện hành vi phụ thuộc vào sự sẵn có của các nguồn lực và cơ hội.
Hình 2 3: Thuyết hành vi dự định (TPB)
(Nguồn: trang web của Azjen: http://www.people.umass.edu/aizen/tpb.diag.html)
2.5.3 Mô hình kết hợp TAM-TPB
Mô hình TAM không tích hợp các yếu tố ảnh hưởng xã hội và nhận thức kiểm soát hành vi, mặc dù những yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu về hành vi chấp nhận công nghệ thông tin, như đã được chỉ ra trong các nghiên cứu của Mathieson (1991), Moore & Benbasat (1991), Taylor & Todd (1995) và Thompson, Higgins & Howell (1991).
Taylor và Todd (1995) đã mở rộng mô hình Chấp nhận Công nghệ (TAM) bằng cách bổ sung hai yếu tố quan trọng: chuẩn chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi Sự bổ sung này nhằm cung cấp một kiểm định toàn diện về các yếu tố ảnh hưởng đến việc sử dụng công nghệ thông tin, dẫn đến việc hình thành "mô hình TAM được gia tăng" (Augmented TAM) hay còn gọi là mô hình kết hợp TAM và Thuyết Hành vi Dự đoán (C-TAM-TPB).
Mô hình TAM tập trung vào tác động của nhận thức đến việc chấp nhận của người sử dụng, trong khi các biến thái độ trong TPB đóng vai trò quan trọng trong việc giải thích sự nhận thức này Việc kết hợp hai mô hình TAM và TPB trong cùng một lĩnh vực sẽ mang lại sức mạnh dự đoán tốt hơn so với việc sử dụng riêng lẻ từng mô hình.
Nhận thức kiểm soát hành vi
Hình 2.4: Mô hình kết hợp TAM và TPB (C-TAM-TPB)
Taylor và Todd cho rằng việc bổ sung các yếu tố vào Mô hình Chấp nhận Công nghệ (TAM) bằng cách kết hợp với Thuyết Hành vi Dự định (TPB) sẽ tạo ra một mô hình phù hợp hơn cho việc sử dụng sản phẩm công nghệ thông tin Mô hình C-TAM-TPB có thể dự đoán xu hướng sử dụng của những người chưa từng sử dụng công nghệ trước đây, cũng như thói quen sử dụng của những người đã quen thuộc với công nghệ.
Mô hình kết hợp TAM –TPB trong nghiên cứu xu hướng chọn khai thuế qua mạng
Khai thuế qua mạng là dịch vụ công trực tuyến do cơ quan thuế cung cấp, nhằm thực hiện chức năng quản lý nhà nước và đáp ứng mong đợi của các nhóm lợi ích Nghiên cứu xu hướng chọn khai thuế qua mạng cần dựa trên việc thực thi pháp luật đúng quy định, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Ngoài ra, cần xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng sử dụng dịch vụ, bao gồm nhận thức về sự hữu ích, theo mô hình kết hợp TAM và TPB.
Nhận thức sự hữu ích
Nhận thức tính dễ sử dụng
Kiểm soát hành vi cảm nhận
Bài viết đề xuất bổ sung yếu tố niềm tin vào mô hình để đo lường cảm nhận của đối tượng thụ hưởng về việc nộp hồ sơ qua mạng Điều này liên quan đến tính pháp lý, an toàn và bảo mật của hồ sơ khai thuế, nhằm thực hiện chức năng quản lý nhà nước và đáp ứng mong đợi của người sử dụng dịch vụ Nhận thức về tính dễ sử dụng, chuẩn chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi cũng là những yếu tố quan trọng trong quá trình này.
Rào cản chuyển đổi ( Switching Barrier)
2.6.1 Tổng quan các nghiên cứu trước
Yếu tố rào cản chuyển đổi (Switching Barrier) là khái niệm quan trọng, được áp dụng trong nhiều lĩnh vực như kinh tế học, tâm lý học và nghiên cứu thị trường Những rào cản này ảnh hưởng đến quyết định của người tiêu dùng khi chuyển từ sản phẩm hoặc dịch vụ này sang sản phẩm hoặc dịch vụ khác Việc hiểu rõ về các yếu tố này giúp các doanh nghiệp xây dựng chiến lược tiếp thị hiệu quả hơn và giữ chân khách hàng.
Nhiều nghiên cứu (Cronin&Taylor, 1992; Fornell, 1992; Anderson &
Nghiên cứu của Sullivan (1990), Boulding, Kalra, Stealing & Zeithaml (1993), Taylor & Baker (1994), de Ruyter, Wetzels & Bloemer (1996), và Zeithaml, Berry & Parasuraman (1996) chỉ ra rằng sự hài lòng của người dùng dịch vụ không thể giải thích đầy đủ sự lựa chọn dịch vụ của họ Thực tế, có nhiều loại ràng buộc khác nhau kết hợp với sự hài lòng, dẫn đến quyết định chọn dịch vụ (Bendapudi & Berry, 1997) Trong nghiên cứu này, các ràng buộc được đề cập chính là rào cản chuyển đổi (Switching Barrier).
Rào cản chuyển đổi đề cập đến những khó khăn mà người dùng gặp phải khi chuyển từ dịch vụ này sang dịch vụ khác Do đó, rào cản càng lớn thì áp lực giữ chân khách hàng càng cao.
Tore Nilssen (1992) phân loại rào cản chuyển đổi thành hai loại: chi phí chuyển đổi nội sinh và ngoại sinh, nhấn mạnh nguồn gốc của chúng Chi phí nội sinh, liên quan đến quá trình chuyển đổi, giữ người dùng ở lại với dịch vụ hiện tại, trong khi chi phí ngoại sinh, tức sự hấp dẫn của dịch vụ thay thế, thu hút người dùng chuyển sang dịch vụ khác Hai loại chi phí này có mối quan hệ nghịch đảo với nhau.
Burnham và cộng sự (2003) tổng hợp các loại rào cản chuyển đổi và đề nghị
Có ba loại rào cản chuyển đổi chính: rào cản thủ tục, rào cản tài chính và rào cản quan hệ Nghiên cứu của Thomas A Burnham, Judy K Frels và Vijay Mahajan (2003) cho thấy rằng rào cản chuyển đổi còn có thể được phân loại thành Chi phí vật chất và Chi phí tinh thần Dưới đây là bảng tổng kết các nghiên cứu nổi tiếng về rào cản chuyển đổi.
Bảng 2.1: Tổng kết các loại rào cản đã được nghiên cứu
Tác giả Năm Phân loại rào cản
Pail 1987 Chi phí tìm hiểu (nỗ lực để đạt được mức độ
Klemperer 1995 thuận tiện, tiện nghi bằng với mức độ đang có với nhà cung cấp hiện tại)
Chi phí giả tạo (được tạo ra bằng hoạt động có chủ ý của nhà cung cấp như tặng quà, giảm giá, khuyến mãi… để giữ khách hàng)
Chi phí giao dịch (phát sinh khi bắt đầu quan hệ mới hay chấm dứt quan hệ cũ)
Tore Nilssen 1992 Chi phí ngoại sinh (sự hấp dẫn về hình ảnh, chất lượng, giá của mạng khác)
Chi phí nội sinh (chi phí phát sinh khi chuyển đổi)
Mark Colgate 2001 Chi phí chuyển đổi (vật chất, cơ hội)
& Boro Lang Đầu tư thiết lập quan hệ (tinh thần)
Nhiều chọn lựa (sản phẩm đa dạng, hấp dẫn, nhiều nhà cung cấp khác nhau)
Michael 2002 Chi phí nhận biết được (vật chất, tinh thần)
A.Jones, David L Chi phí quan hệ cá nhân (tinh thần)
Mothersbaugh & Nhiều chọn lựa (sản phẩm đa dạng, hấp dẫn,
Sharon E Beatty nhiều nhà cung cấp khác nhau)
Thomas 2003 Chi phí thủ tục (thời gian, công sức)
A.Burnham, Judy Chi phí tài chính (tiền bạc, vật chất)
K.Frels & Vijay Chi phí quan hệ cá nhân (tinh thần)
2.6.2 Các loại rào cản khi chọn khai thuế qua mạng
Phần lý thuyết về rào cản chuyển đổi đã tổng hợp các nghiên cứu và khái niệm liên quan Trong nghiên cứu này, tác giả chỉ tập trung vào chi phí chuyển đổi và sự hấp dẫn của hình thức khai thuế thay thế Đối với chi phí chuyển đổi, nếu người nộp thuế chấp nhận chi phí khi chuyển sang khai thuế qua mạng, họ sẽ có xu hướng lựa chọn hình thức này; ngược lại, nếu họ cảm thấy chi phí chuyển đổi quá cao, họ sẽ không khai thuế trực tuyến Về sự hấp dẫn của hình thức khai thuế thay thế, chất lượng dịch vụ công hiện tại của cơ quan thuế sẽ ảnh hưởng đến quyết định chọn khai thuế qua mạng Nếu người nộp thuế cảm thấy phương thức khai thuế truyền thống hiệu quả và chất lượng dịch vụ tốt, họ sẽ ít có động lực để chuyển sang khai thuế trực tuyến.
Khi bàn về chất lượng dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ công, vai trò quan trọng của Parasuraman không thể bị bỏ qua Ông đã có những đóng góp lớn lao trong việc định hình và nâng cao tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ.
Chất lượng dịch vụ được định nghĩa bởi Parasuraman và cộng sự (1988, 1991) là "mức độ khác nhau giữa sự mong đợi của người tiêu dùng về dịch vụ và nhận thức của họ về kết quả của dịch vụ" (Parasuraman & ctg, 1988, trang 17).
Mô hình chất lượng dịch vụ của Parasuraman và các cộng sự (1988, 1991) cung cấp cái nhìn tổng quan về chất lượng dịch vụ, với 10 thành phần chính: Tin cậy, Đáp ứng, Năng lực phục vụ, Tiếp cận, Lịch sự, Thông tin, Tín nhiệm, An toàn, Hiểu biết khách hàng và Phương tiện hữu hình Tuy nhiên, mô hình này khá phức tạp, dẫn đến việc các nhà nghiên cứu đã rút gọn thành 5 thành phần cơ bản: Tin cậy, Đáp ứng, Năng lực phục vụ, Đồng cảm và Phương tiện hữu hình Đối với dịch vụ công, 5 thành phần này được thể hiện rõ nét trong quá trình cung cấp dịch vụ.
1 Tin cậy (reliability) thể hiện qua khả năng thực hiện dịch vụ công đúng như quy trình thủ tục đã cam kết ngay lần đầu tiên
2 Đáp ứng (responsiveness) thể hiện qua sự mong muốn và sẵn sàng của viên chức cung cấp dịch vụ công kịp thời
3 Năng lực phục vụ (assurance) thể hiện qua trình độ chuyên môn, thái độ lịch sự, niềm nở của công chức
4 Đồng cảm (empathy) thể hiện sự đồng cảm, quan tâm
5 Phương tiện hữu hình (tangibles) thể hiện qua ngoại hình trang phục, trang thiết bị làm việc, nơi làm việc
Bài viết áp dụng mô hình kết hợp giữa TAM và TPB để nhận diện các yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng khai thuế qua mạng, dựa trên sự khác biệt giữa dịch vụ công trực tuyến và dịch vụ tiêu dùng cá nhân Tác giả cũng xem xét những rào cản trong việc khai thuế trực tuyến và điều chỉnh thang đo cho nghiên cứu.
Các nghiên cứu trước
2.7.1 Các yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng mua thương hiệu máy tính, laptop
Tác giả Nguyễn Xuân Hà (2006) đã đề xuất một mô hình nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng mua thương hiệu máy tính, bao gồm bảy yếu tố chính: nhận biết thương hiệu, thuộc tính sản phẩm, lợi ích tinh thần, và các chuẩn chủ quan từ mức độ ủng hộ của cha/mẹ, vợ/chồng, con cái, cũng như bạn bè và đồng nghiệp.
2.7.2 Xác định các yếu tố ảnh hưởng xu hướng sử dụng dịch vụ hội nghị đa phương (Audio Conference) (2008)
Tác giả Trịnh Thị Tâm Như đề xuất một mô hình nghiên cứu với bốn yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng sử dụng (BI), bao gồm: (1) nhận thức sự hữu ích (PU), (2) nhận thức tính dễ sử dụng (PEU), (3) chuẩn chủ quan (SN), và (4) nhận thức kiểm soát hành vi (PBC) Mô hình này nhằm làm rõ các yếu tố quyết định đến hành vi sử dụng công nghệ.
2.7.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng sử dụng dịch vụ 3G tại Việt Nam
Tác giả Bùi Xuân Dương đã đề xuất một mô hình nghiên cứu với năm yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng sử dụng dịch vụ 3G tại Việt Nam, trong đó yếu tố đầu tiên là nhận thức về sự hữu ích của dịch vụ.
(2) nhận thức tính dễ sử dụng, (3) chuẩn chủ quan, (4) nhận thức kiểm soát hành vi và (5) nhận thức chi phí chuyển đổi
Các nghiên cứu trước đây về thái độ, xu hướng và dự định sử dụng sản phẩm - dịch vụ trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn thông thường áp dụng các lý thuyết và mô hình như thuyết hành vi dự định (TPB), mô hình chấp nhận công nghệ (TAM) và thuyết hành động hợp lý (TRA).
Khai thuế qua mạng là việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giao dịch giữa người nộp thuế và cơ quan thuế, nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ công trực tuyến Việc này đòi hỏi xem xét kỹ lưỡng các lý thuyết và mô hình nghiên cứu để xây dựng cơ sở lý thuyết vững chắc và đề xuất mô hình nghiên cứu phù hợp cho đề tài.
Mô hình nghiên cứu
2.8.1 Mô hình nghiên cứu đề xuất
Dựa trên lý thuyết và các nghiên cứu trước, tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu cho đề tài, kết hợp giữa hai mô hình: (1) Mô hình TAM và TPB (1995) đã được áp dụng rộng rãi và (2) Mô hình rào cản chuyển đổi trong lĩnh vực thông tin di động (2004) Mô hình này dựa trên 6 yếu tố chính ảnh hưởng đến xu hướng chọn khai thuế qua mạng của người nộp thuế, bao gồm: (1) Nhận thức sự hữu ích, (2) Nhận thức tính dễ sử dụng, (3) Chuẩn chủ quan, (4) Nhận thức kiểm soát hành vi, (5) Niềm tin, và (6) Nhận thức về rào cản chuyển đổi.
Hình 2.5: Mô hình nghiên cứu đề xuất
Các yếu tố quyết định lựa chọn khai thuế qua mạng:
Quyết định của người nộp thuế về việc khai thuế qua mạng phụ thuộc vào xu hướng lựa chọn của họ Xu hướng này đóng vai trò quan trọng trong việc xác định hành vi thực tế của người nộp thuế khi thực hiện khai thuế trực tuyến.
Nhận thức sự hữu ích:
Trong mô hình chấp nhận công nghệ (TAM), nhận thức về sự hữu ích là mức độ mà người dùng tin rằng việc sử dụng một hệ thống cụ thể, như sản phẩm công nghệ thông tin, sẽ cải thiện hiệu quả và kết quả công việc của họ (Davis, 1989).
Nhận thức tính dễ sử dụng:
Trong mô hình chấp nhận công nghệ (TAM), nhận thức về tính dễ sử dụng đề cập đến niềm tin của người sử dụng rằng việc sử dụng một hệ thống cụ thể (sản phẩm công nghệ thông tin) sẽ không đòi hỏi nhiều nỗ lực và sẽ dễ dàng trong quá trình sử dụng.
Trong thuyết hành vi dự định (TPB), chuẩn chủ quan thể hiện mức độ tin tưởng rằng sự ủng hộ hoặc phản đối từ những người xung quanh sẽ tác động đến hành vi của cá nhân.
H1(+) Nhận thức tính dễ sử dụng
Nhận thức kiểm soát hành vi
Niềm tin Nhận thức rào cản chuyển đổi
Các yếu tố quyết định lựa chọn khai thuế qua mạng bao gồm nhận thức về sự hữu ích và động cơ của người sử dụng Để hiểu rõ xu hướng này, cần đo lường yếu tố chuẩn chủ quan ảnh hưởng đến quyết định của người nộp thuế, thông qua ý kiến của những người có liên quan như lãnh đạo doanh nghiệp và cơ quan thuế Mức độ tác động của yếu tố này phụ thuộc vào sự ủng hộ hoặc phản đối đối với việc khai thuế qua mạng, cũng như động cơ của người sử dụng trong việc tuân theo mong muốn của những đối tượng có ảnh hưởng Nếu thái độ phản đối từ các đối tượng ảnh hưởng mạnh, doanh nghiệp có khả năng điều chỉnh xu hướng khai thuế của mình Ngược lại, nếu có sự ủng hộ từ những người có tầm ảnh hưởng lớn, xu hướng chọn khai thuế qua mạng của doanh nghiệp sẽ gia tăng.
Nhận thức kiểm soát hành vi:
Trong thuyết hành vi dự định (TPB), nhận thức kiểm soát hành vi phản ánh mức độ tin tưởng vào sự sẵn có của các nguồn lực và cơ hội khai thuế qua mạng, cũng như các yếu tố cản trở từ bên trong và bên ngoài Theo Taylor và Todd (1995), nhận thức này bao gồm hai thành phần: điều kiện thuận lợi và hiệu quả cá nhân Điều kiện thuận lợi liên quan đến việc tin tưởng vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật của doanh nghiệp hỗ trợ cho việc khai thuế trực tuyến, trong khi hiệu quả cá nhân thể hiện sự tự tin của doanh nghiệp trong khả năng thực hiện hành vi này Nếu doanh nghiệp cảm thấy tự tin, họ sẽ có thái độ tích cực hơn trong việc kiểm soát hành vi khai thuế qua mạng (George, 2004).
Nhận thức về niềm tin:
Nhận thức về niềm tin trong giao dịch điện tử thể hiện sự tin tưởng của người nộp thuế đối với việc khai thuế qua mạng Niềm tin này bao gồm các yếu tố quan trọng, tạo nên sự an tâm và hiệu quả trong quá trình khai thuế trực tuyến.
-Niềm tin của người nộp thuế với mức độ an toàn của hồ sơ khai thuế qua mạng
-Niềm tin của người nộp thuế với mức độ bảo mật của hồ sơ khai thuế qua mạng
Niềm tin của người nộp thuế vào tính pháp lý của hồ sơ khai thuế qua mạng ngày càng tăng cao, điều này phản ánh sự tin cậy vào phương thức nộp hồ sơ điện tử Sự phát triển công nghệ thông tin và các biện pháp bảo mật đã giúp người nộp thuế cảm thấy an tâm hơn khi thực hiện các thủ tục khai thuế trực tuyến Việc cải tiến hệ thống và cung cấp thông tin minh bạch cũng góp phần nâng cao mức độ tin cậy của người nộp thuế đối với hình thức nộp hồ sơ khai thuế qua mạng.
Nhận thức về rào cản chuyển đổi:
Nhận thức về rào cản chuyển đổi ảnh hưởng đến sự chấp nhận của người nộp thuế đối với chi phí chuyển đổi và sự hấp dẫn của phương thức khai thuế thay thế Nếu người nộp thuế thấy chi phí chuyển sang khai thuế qua mạng là hợp lý và tương xứng với tiện ích nhận được, họ sẽ chấp nhận phương thức này Ngược lại, nếu họ cảm thấy tiện ích không đủ để bù đắp cho chi phí hoặc chi phí chuyển đổi quá cao, họ sẽ không chọn khai thuế qua mạng Hơn nữa, nếu hình thức khai thuế trực tiếp vẫn thu hút họ, động lực để chuyển đổi sang khai thuế qua mạng sẽ giảm.
2.8.2 Các giả thiết trong mô hình nghiên cứu
Nhận thức về sự hữu ích có mối tương quan tích cực với xu hướng lựa chọn khai thuế qua mạng Khi người nộp thuế cảm thấy sự hữu ích của việc khai thuế trực tuyến tăng lên, họ có xu hướng quyết định khai thuế qua mạng nhiều hơn, và ngược lại.
Nhận thức về tính dễ sử dụng có mối tương quan tích cực với xu hướng lựa chọn khai thuế trực tuyến Khi người nộp thuế cảm thấy việc khai thuế trực tuyến dễ dàng hơn, khả năng họ chọn hình thức này sẽ tăng lên, và ngược lại.
Chuẩn chủ quan có mối tương quan dương với xu hướng chọn khai thuế qua mạng; khi chuẩn chủ quan tăng, quyết định lựa chọn khai thuế trực tuyến cũng gia tăng và ngược lại.
Giả thuyết H4 cho rằng nhận thức về kiểm soát hành vi có mối tương quan tích cực với xu hướng chọn khai thuế trực tuyến Khi nhận thức của người nộp thuế về khả năng kiểm soát hành vi của mình tăng lên, quyết định khai thuế qua mạng cũng sẽ tăng theo, và ngược lại.
Giả thuyết H5 cho rằng niềm tin có mối tương quan tích cực với xu hướng lựa chọn khai thuế qua mạng Cụ thể, nếu mức độ tin cậy của người nộp thuế đối với hình thức khai thuế trực tuyến tăng lên, thì quyết định chọn khai thuế qua mạng cũng sẽ tăng theo Ngược lại, nếu niềm tin giảm, xu hướng này sẽ giảm theo.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
Tác giả áp dụng phương pháp nghiên cứu hỗn hợp, bao gồm nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng, nhằm tìm hiểu đối tượng là người nộp thuế do Chi cục thuế huyện Thống Nhất quản lý.
Nghiên cứu định tính đóng vai trò quan trọng trong việc xác định và phát triển các biến quan sát nhằm đo lường các khái niệm nghiên cứu Quá trình này thường được thực hiện thông qua việc phân tích các mô hình nghiên cứu trước đây để rút ra những hiểu biết sâu sắc và hướng dẫn cho nghiên cứu tiếp theo.
Mô hình nghiên cứu được giới thiệu trong chương 2 là nền tảng cho việc phân tích các yếu tố quyết định lựa chọn khai thuế qua mạng tại Chi cục Thuế huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai Đây là nghiên cứu đầu tiên về chủ đề này, và tác giả đã xác định được 6 nhân tố ảnh hưởng đến quyết định khai thuế trực tuyến tại địa phương.
Dàn bài thảo luận bao gồm các câu hỏi lựa chọn và câu hỏi mở nhằm thu thập ý kiến để phục vụ cho việc thảo luận (phụ lục 1) Các câu hỏi mở được xây dựng dựa trên sự trao đổi với các chuyên gia tham gia Đối tượng tham vấn gồm Ban lãnh đạo, cán bộ quản lý của một số bộ phận và người nộp thuế từ các doanh nghiệp trong khu vực.
Các ý kiến đều thống nhất rằng ba nhóm nhân tố quan trọng nhất trong việc đánh giá công nghệ bao gồm: (1) Nhận thức về sự hữu ích, (2) Nhận thức về tính dễ sử dụng, và (3) Chuẩn chủ quan.
(4) Nhận thức kiểm soát hành vi, (5) Niềm tin và (6) Nhận thức về rào cản chuyển đổi
Tác giả đã quyết định sử dụng phiếu khảo sát để tiến hành nghiên cứu chính thức, giữ nguyên mô hình nghiên cứu với 6 nhân tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn khai thuế trực tuyến tại Chi cục Thuế huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai.
Hình 3.1 Mô hình lý thuyết (sau khi thảo luận nhóm) về quyết định lựa chọn khai thuế qua mạng tại Chi cục Thuế huyện Thống Nhất tỉnh Đồng Nai
Nghiên cứu định lượng được thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp người nộp thuế do Chi cục thuế huyện Thống Nhất quản lý
Mục đích của việc sử dụng phương pháp định lượng:
Đánh giá mức độ chính xác của thang đo trong nghiên cứu chính thức
Đánh giá mức độ quan trọng của các nhân tố ảnh hưởng nghiên cứu định lượng
Nghiên cứu nhằm kiểm tra sự khác biệt trong mức độ cảm nhận của người nộp thuế về xu hướng khai thuế trực tuyến tại Chi cục Thuế huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai, dựa trên các nhóm đặc trưng khác nhau.
H1(+) Nhận thức tính dễ sử dụng
Nhận thức kiểm soát hành vi
Nhận thức rào cản chuyển đổi
Xu hướng khai thuế qua mạng Nhận thức sự hữu ích
Hình 3.2 Quy trình nghiên cứu các nhân tố quyết định lựa chọn khai
Nghiên cứu định lượng (n = 210) Đo lường độ tin cậy
- Kiểm tra hệ số Cronbach alpha biến tổng
- Loại các biến có hệ số tương quan biến tổng nhỏ
Phân tích nhân tố khám phá EFA
- Kiểm tra phương sai trích
- Kiểm tra các nhân tố rút trích
- Loại các biến có mức tải nhân tố nhỏ
Phân tích mô hình hồi quy đa biến
- Kiểm định sự phù hợp của mô hình
- Đánh giá mức độ quan trọng của các nhân tố lên mô hình
Bài viết này kiểm tra sự khác biệt trong cảm nhận giữa các nhóm nam và nữ, độ tuổi, chức vụ, thời gian làm việc tại doanh nghiệp, thời gian hoạt động của doanh nghiệp, loại hình doanh nghiệp, doanh thu năm 2017, và khoảng cách thuế qua mạng tại Chi cục Thuế huyện Thống Nhất tỉnh Đồng Nai Phương pháp chọn mẫu sẽ được áp dụng để thu thập dữ liệu chính xác và đáng tin cậy.
Phương pháp thuận tiện được tác giả lựa chọn để tiến hành nghiên cứu, cho phép nhà nghiên cứu dễ dàng tiếp cận tổng thể nghiên cứu dựa trên sự thuận lợi của chính mình (Trần Tiến Khai, 2012).
Kích thước mẫu trong nghiên cứu được xác định dựa trên yêu cầu của phân tích nhân tố khám phá EFA và hồi quy đa biến Theo Hair và cộng sự (1998), kích thước quan sát tối thiểu cho EFA là N > 5*x, trong đó x là tổng số biến quan sát Bên cạnh đó, Tabachnick và Fidell (1996) chỉ ra rằng để thực hiện phân tích hồi quy hiệu quả, cỡ quan sát tối thiểu cần đạt N > 50 + 8m, với m là số biến độc lập.
Bài nghiên cứu nhằm tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn khai thuế trực tuyến tại Chi cục Thuế huyện Thống Nhất, Đồng Nai, với 6 nhân tố chính Tác giả tính toán cỡ mẫu tối thiểu cần thiết theo công thức 50 + 8*m, trong đó m là số nhân tố, dẫn đến số lượng mẫu khảo sát tối thiểu là 98 Để đảm bảo tính chính xác và giảm thiểu sai sót trong quá trình phỏng vấn, tác giả dự kiến phát ra 210 phiếu khảo sát cho người nộp thuế do Chi cục Thuế huyện Thống Nhất quản lý.
3.1.6 Thiết kế bảng câu hỏi
Dựa trên nghiên cứu định tính, tác giả đã tổng hợp và phân tích các yếu tố thuộc tính để thiết kế bảng câu hỏi phục vụ cho khảo sát định lượng.
Tác giả sử dụng thang đo Likert 5 mức độ, từ 1 điểm (hoàn toàn không đồng ý) đến 5 điểm (hoàn toàn đồng ý), để khảo sát ý kiến người nộp thuế tại Chi cục Thuế huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai Mỗi câu hỏi trong khảo sát sẽ phản ánh một tiêu chí quan trọng liên quan đến xu hướng khai thuế qua mạng Qua đó, người nộp thuế sẽ đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn phương thức khai thuế trực tuyến của doanh nghiệp.
Bảng câu hỏi phác thảo bao gồm 20 câu hỏi, được phân chia thành 6 nhân tố ảnh hưởng đến quyết định khai thuế trực tuyến tại Chi cục Thuế huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai Ngoài ra, bảng còn chứa 6 câu hỏi liên quan đến xu hướng khai báo thuế qua mạng.
XÂY DỰNG THANG ĐO
Sau khi tổng hợp và chỉnh sửa ý kiến phù hợp với phạm vi nghiên cứu, tác giả đã xác định được 06 nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn khai thuế qua mạng tại Chi cục Thuế huyện Thống Nhất tỉnh Đồng Nai, bao gồm: (1) Nhận thức sự hữu ích, (2) Nhận thức tính dễ sử dụng, (3) Chuẩn chủ quan, (4) Nhận thức kiểm soát hành vi, (5) Niềm tin và (6) Nhận thức về rào cản chuyển đổi.
3.2.1 Thang đo lường nhân tố Nhận thức sự hữu ích
Nhân tố Nhận thức sự hữu ích được ký hiệu là HUUICH và được đo lường bằng 5 biến quan sát sau:
HUUICH1: Khai thuế qua mạng Internet giúp tiết kiệm thời gian so với khai thuế truyền thống (thời gian đi lại)
HUUICH2: Khai thuế qua mạng Internet giúp tiết kiệm chi phí so với khai thuế truyền thống (phí đi lại, in ấn tờ khai)
HUUICH3: Khai thuế trực tuyến trở nên đơn giản hơn với cổng thông tin nhận hồ sơ khai thuế thông thoáng, không bị quá tải vào các ngày hạn chót nộp tờ khai.
Khai thuế qua mạng mang lại nhiều lợi ích, bao gồm việc thực hiện nhanh chóng hơn với thời gian chờ đợi giảm thiểu Ngoài ra, hình thức khai thuế này cũng rất thuận tiện, không bị giới hạn về không gian và thời gian nộp hồ sơ, giúp người nộp thuế dễ dàng hoàn thành nghĩa vụ của mình.
3.2.2 Thang đo lường nhân tố Nhận thức tính dễ sử dụng
Nhân tố Nhận thức tính dễ sử dụng được ký hiệu là DESD và được đo lường bằng 3 biến quan sát sau:
DESD1:Quy trình khai thuế qua mạng thật dễ hiểu
DESD2: Học cách khai thuế qua mạng thật dễ dàng
DESD3: Dễ sử dụng thành thạo các thao tác khi khai thuế qua mạng
3.2.3 Thang đo lường nhân tố Chuẩn chủ quan
Nhân tố Chuẩn chủ quan được ký hiệu là CHUANCQ và được đo lường bằng
Lãnh đạo Công ty và những nhân viên trực tiếp thực hiện công việc kê khai thuế đều ủng hộ việc nộp hồ sơ khai thuế qua mạng, cho thấy sự đồng thuận và khuyến khích áp dụng công nghệ trong quy trình này.
CHUANCQ 3: Các cơ quan thuế khuyến khích khai thuế qua mạng
3.2.4 Thang đo lường nhân tố Nhận thức kiểm soát hành vi
Nhân tố Nhận thức kiểm soát hành vi được ký hiệu là NHANTHUC và được đo lường bằng 3 biến quan sát sau:
Công ty NHANTHUC1 có đầy đủ điều kiện để thực hiện khai thuế trực tuyến, bao gồm máy tính với bộ vi xử lý 2GHz, RAM 1GB, cổng USB, trình duyệt Internet Explorer 7.8 hoặc 8.0 và kết nối Internet ổn định.
NHANTHUC2:Công ty tôi có đủ kiến thức và khả năng cần thiết để khai thuế qua mạng
NHANTHUC3: Công ty tôi cảm thấy thoải mái khi khai thuế qua mạng
3.2.5 Thang đo lường nhân tố Niềm tin
Nhân tố Niềm tin được ký hiệu là NTIN và được đo lường bằng 3 biến quan sát sau:
NTIN1: Hồ sơ khai thuế qua mạng được an toàn (hệ thống tự động gởi thông báo xác nhận đã nhận hồ sơ khai thuế)
NTIN2: Hồ sơ khai thuế qua mạng được bảo mật (hệ thống tự động xác minh chữ ký điện tử)
NTIN3:Hồ sơ khai thuế qua mạng có tính pháp lý cao (được pháp luật về thuế quy định)
3.2.6 Thang đo lường nhân tố Nhận thức về rào cản chuyển đổi
Nhân tố Nhận thức về rào cản chuyển đổi được ký hiệu là RAOCAN và được đo lường bằng 3 biến quan sát sau:
RAOCAN 1:Công ty tôi sẵn sàng đầu tư chi phí để khai thuế qua mạng (thuê chữ ký điện tử, nâng cấp máy tính, đường truyền, sử dụng phần mầm hỗ trợ kê khai của đơn vị dịch vụ nếu cần)
RAOCAN 2: Chúng tôi sẵn sàng tốn thời gian và công sức để nghiên cứu sử dụng khai thuế qua mạng
RAOCAN 3: Chất lượng dịch vụ công chưa như mong đợi (như mức độ tin cậy, đáp ứng của cơ quan thuế chưa cao, năng lực phục vụ, sự đồng cảm của nhân viên chưa cao, phương tiện làm việc, địa điểm trụ sở chưa thoáng, rộng rãi) làm tôi không muốn đến cơ quan thuế nộp hồ sơ khai thuế nên chọn khai thuế qua mạng
3.2.7 Thang đo lường quyết định lựa chọn khai thuế qua mạng
Quyết định lựa chọn khai thuế qua mạng tại Chi cục Thuế huyện Thống Nhất tỉnh Đồng Nai ký hiệu XH, được đo lường bằng 6 biến quan sát sau:
XH1: Nói chung, khai thuế qua mạng mang lại sự hữu ích
XH2: Nói chung, khai thuế qua mạng dễ sử dụng
XH3: Nói chung, khai thuế qua mạng được những người có liện quan ủng hộ XH4: Nói chung, cơ sở hạ tầng và đặc điểm Công ty thuận lợi
XH5: Nói chung, khai thuế qua mạng đáng tin cậy
Chúng tôi cam kết vượt qua những thách thức về chi phí chuyển đổi và tận dụng lợi ích của phương thức khai thuế trực tuyến thay thế.
THỰC HIỆN NGHIÊN CỨU ĐỊNH LƯỢNG
3.3.1 Thu thập dữ liệu nghiên cứu định lượng
Phương pháp nghiên cứu định lượng được tiến hành thông qua phỏng vấn trực tiếp trực tiếp người nộp thuế do Chi cục thuế huyện Thống Nhất quản lý
Mục tiêu của cuộc khảo sát là thu thập thông tin sơ cấp để phân tích và đánh giá, với các dữ liệu này trở thành nền tảng cho nghiên cứu Để đảm bảo tính chính xác của thông tin, tác giả đã giải thích chi tiết cho người tham gia khảo sát về ý nghĩa của từng nhân tố Sau khi phỏng vấn, tác giả sẽ rà soát các bảng câu hỏi và nếu phát hiện câu hỏi chưa được trả lời từ đối tượng khảo sát là người nộp thuế do Chi cục thuế huyện Thống Nhất quản lý, sẽ tiến hành phỏng vấn lại.
Sau khi hoàn tất điều tra, tác giả tiến hành làm sạch dữ liệu bằng cách loại bỏ các bảng câu hỏi chưa được trả lời đầy đủ để đảm bảo kết quả phân tích không bị sai lệch Sau khi nhập liệu, tác giả sử dụng bảng tần số để phát hiện các ô trống hoặc giá trị trả lời không nằm trong thang đo, từ đó kiểm tra lại bảng câu hỏi và mã hóa dữ liệu một cách chính xác, có thể loại bỏ hoặc nhập liệu lại nếu cần thiết.
Tổng cộng, 210 bảng câu hỏi khảo sát đã được phát ra và thu về, trong đó có 5 bảng không hợp lệ Cuối cùng, 205 bảng phỏng vấn hợp lệ đã được sử dụng để mã hóa dữ liệu.
Bảng 3.1 Tình hình thu thập dữ liệu nghiên cứu định lượng
Số bảng câu hỏi phát ra 210 -
Số bảng câu hỏi thu về 210 100
Số bảng câu hỏi hợp lệ 205 97.6
Số bảng câu hỏi không hợp lệ 5 2.4
Chương 3 trình bày phương pháp nghiên cứu được sử dụng để xây dựng và đánh giá thang đo các khái niệm nghiên cứu, kiểm định mô hình lý thuyết
Phương pháp nghiên cứu được thực hiện qua khảo sát ý kiến người nộp thuế tại Chi cục thuế huyện Thống Nhất, từ đó xây dựng thang đo chính thức cho 210 mẫu Thang đo này bao gồm 6 nhân tố ảnh hưởng đến quyết định khai thuế trực tuyến tại Chi cục Thuế huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai Chương tiếp theo sẽ trình bày phương pháp phân tích dữ liệu và kết quả nghiên cứu, trong đó có đánh giá thang đo bằng Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá (EFA) và kiểm định mô hình lý thuyết thông qua hồi quy tuyến tính đa biến.