Mục đích của Khoá luận nhằm đánh giá được tình hình sinh trưởng của 6 loài cây họ Đậu (Fabaceae) trồng trong mô hình vườn thực vật tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. Đánh giá tình hình sâu bệnh hại của của 6 loài cây họ Đậu (Fabaceae) trồng trong mô hình vườn thực vật tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. Mời các bạn cùng tham khảo!
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Một số nét chung
Điều tra sinh trưởng cây rừng và các loài cây bản địa là yếu tố quan trọng trong khôi phục rừng và xây dựng vườn thực vật Việc lựa chọn các loài cây phù hợp cho từng khu vực giúp nâng cao hiệu quả trồng rừng và làm giàu nguồn tài nguyên thực vật Do đó, mô hình vườn thực vật đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tác giả trong thời gian qua.
Vườn thực vật là không gian trồng và chăm sóc cây cối, thường được sắp xếp theo từng nhóm loại Tại đây, người ta cũng trồng các loại cây từ nhiều quốc gia và vùng khí hậu khác nhau Các vườn thực vật thường do các Trường Đại học quản lý và được sử dụng làm cơ sở cho nghiên cứu khoa học.
Tình hình nghiên cứu trên thế giới
2.2.1 Nghiên cứu về xây dựng các vườn thực vật
Trước tình hình đa dạng sinh học đang bị đe dọa, việc bảo tồn các loài thực vật quý hiếm đang có nguy cơ tuyệt chủng trở nên cấp thiết Các vườn thực vật chuyển vị đã được xây dựng trên toàn thế giới nhằm kết hợp giữa tham quan giải trí và giáo dục về thiên nhiên, từ đó nâng cao nhận thức và tạo điều kiện cho con người học tập, nghiên cứu và thư giãn Hiện nay, có khoảng 1800 vườn bách thảo tại 150 quốc gia, chủ yếu tập trung ở các khu vực có khí hậu ôn hòa, với 400 vườn ở Châu Âu và 200 ở Bắc Mỹ.
Có khoảng 150 vườn bách thảo ở Nga và số lượng này đang gia tăng ở Đông Á, thu hút khoảng 150 triệu du khách mỗi năm Trong quá khứ, các vườn bách thảo đã trao đổi cây cối thông qua việc phát hành danh sách hạt giống, không chỉ để chia sẻ thực vật mà còn để truyền đạt thông tin giữa các vườn Tại Châu Âu, vườn bách thảo Arboretum von Trsteno gần Dubrovnik đã tồn tại từ năm 1492, với tổng diện tích rộng lớn.
Trong suốt 5 thế kỷ tồn tại, các yếu tố của thời kỳ Phục Hưng, Baroque và Romanticism đã ảnh hưởng đến kiến trúc cảnh quan, với nhiều loại cây trồng Địa Trung Hải như ô liu, cây sung, và cây có múi, cùng với các cây cọ, bạch đàn, laurel và xương rồng Năm 1808, Vườn thực vật Jardim Botnico ở Rio de Janeiro, Brazil, với diện tích 240.000 m2 và khoảng 6.500 loài thực vật, được xem là một trong hai khu vườn đẹp nhất thế giới Khu vườn Kirstenbosch ở Nam Phi, ra đời năm 1913, chiếm 35,6 hecta và sở hữu hơn 20.000 loài cây, nhằm bảo tồn hệ thực vật địa phương Vườn hoa Berlin-Dahlem, mở cửa từ năm 1910, rộng 43 hecta với hơn 43.000 loài thực vật, là một điểm du lịch nổi bật ở Đức Vườn thực vật hoàng gia Kew, thành lập năm 1840, có bộ sưu tập 30.000 loài thực vật sống khác nhau, trong khi vườn thực vật Na Aina Kai ở Mỹ có khoảng 240 loài.
Vào cuối thế kỷ 19, một khu vườn rộng 13 hecta trồng khoảng 4000 loại thực vật đã được mở cửa, cùng với nhiều vườn thực vật nổi tiếng khác như Vườn Butchart ở British Columbia, Canada, Villa D’este ở Italy, và Villa Eprhussa de Rothchild ở Pháp, nhằm bảo vệ các loài thực vật quý hiếm và tạo không gian giải trí cho con người Ở Đức, các vườn bách thảo đầu tiên được thành lập tại Leipzig (1580), Jena (1586), Heidelberg (1593), Gieòen (1609) và Freiburg (1620), thường thuộc về khoa Y học, trong khi Vườn bách thảo Kiel, được thành lập bởi Johann Daniel Major vào năm 1669, là vườn bách thảo đầu tiên theo nghĩa hiện đại Tại Bồ Đào Nha, vườn bách thảo đầu tiên được xây dựng bởi Grafen von Pombal thuộc Đại học Coimbra vào năm 1772 Ở Châu Á, Trung Quốc có 152 vườn thực vật, trong đó Vườn Thực Vật Bắc Kinh, thành lập năm 1953 với diện tích 564.000 m², chứa 6.000 loài thực vật, bao gồm nhiều loài quý hiếm Vườn thực vật Nam Trung Quốc, trước đây là Viện Nông Lâm nghiệp của Đại học Sun Yat-Sen, cũng là một phần quan trọng trong hệ thống vườn thực vật của khu vực này.
Vườn Bách thảo Nhiệt đới Xishuangbanna, thuộc Học viện Khoa học Trung Quốc, được thành lập vào năm 1959 Với diện tích 148 hecta, Vườn thực vật Kadoorie và Vườn Bách thảo Kadoorie nằm trải dài trên sườn núi phía bắc và chân núi của ngọn núi cao nhất Hồng Kông, Tai.
Vườn thực vật Vũ Hán, được thành lập vào năm 1956 và mở cửa cho công chúng từ năm 1958, là một phần của Học viện Khoa học Trung Quốc, với hơn 10.000 loài thực vật và 16 vườn đặc sản Vườn thực vật Xiamen, nằm trên núi Wanshi, chứa hơn 6.300 loại cây cảnh nhiệt đới và cận nhiệt đới Ấn Độ có 131 vườn thực vật nổi tiếng, trong đó có Vườn thực vật Jawaharlal Nehru tại Kerala, bảo tồn nhiều loài cây nhiệt đới Vườn thực vật Acharya Jagadish Chandra Bose, thành lập năm 1786, thu thập và giới thiệu cây bản địa Tại Indonesia, Vườn Bách thảo Bali là một trong năm vườn nổi bật Nhật Bản có 64 vườn thực vật, đáng chú ý là Vườn thực vật Đại học Tokyo Lào có Vườn thực vật Pha Tad Ke, mở cửa vào năm 2015, và Malaysia có Rimba Ilmu, một khu vườn nhiệt đới tại Đại học Malaya Singapore Botanic Gardens, thành lập năm 1859, bảo tồn hơn 30.000 loài thực vật và nổi tiếng với Vườn lan Quốc gia Hàn Quốc có 54 vườn thực vật, trong đó Vườn Bách Thảo Namsan và Vườn Sinh thái Eco Yanggu là những điểm nổi bật Sri Lanka có Vườn Bách Thảo Hoàng Gia Sri Lanka tại Peradeniya, nổi tiếng với bộ sưu tập hoa phong lan Đài Loan và Thái Lan cũng sở hữu nhiều vườn thực vật quan trọng, trong đó Vườn Bách Thảo Queen Sirikit là vườn thực vật lâu đời nhất ở Thái Lan, chuyên về bảo tồn hệ thực vật địa phương.
Vườn thực vật Nong Nooch, nằm cách Pattaya 20km về phía Nam, Thái Lan, có diện tích khoảng 2,4 km² và sở hữu khoảng 20.000 loại cây nhiệt đới khác nhau, trong đó đặc biệt có hơn 670 loài hoa lan Ngoài nhiệm vụ bảo tồn nguồn gen quý của các loài cây, Nong Nooch còn là một điểm đến du lịch hấp dẫn, mang đến trải nghiệm giải trí và khám phá vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên.
2.2.2 Nghiên cứu về kỹ thuật trồng các loài cây bản địa
Trong những năm gần đây, nhiều quốc gia trên thế giới đã tích cực nghiên cứu và thử nghiệm trồng rừng thành công với các loài cây bản địa Đặc biệt, các cây thuộc chi Paulownia đang thu hút sự chú ý của nhiều nước trong khu vực và toàn cầu.
Tại Malaysia vào năm 1999, một dự án xây dựng rừng nhiều tầng đã giới thiệu mô hình trồng rừng hỗn loại với ba đối tượng chính: rừng tự nhiên, rừng Acacia mangium từ 10-15 tuổi và từ 2-3 tuổi Dự án này đã sử dụng 23 loài cây bản địa có giá trị, được trồng theo băng 30 m trong rừng tự nhiên với 6 hàng cây Đối với rừng Acacia mangium, băng 10 m được trồng 3 hàng cây, băng 20 m trồng 7 hàng cây, và băng 40 m trồng 15 hàng cây với 14 loài cây khác nhau.
B chặt 1 hàng keo trồng 1 hàng, chặt 2 hàng trồng 2 hàng, chặt 4 hàng trồng 4 hàng, và sau 5 năm trồng 3 loài, sau 7 năm trồng 7 loài Trong 14 loài cây trồng khối A, ba loài S roxburrghii, S ovanlis và S leprosula có sự sinh trưởng chiều cao và đường kính tốt nhất Tỉ lệ sống không khác biệt, với sinh trưởng chiều cao tốt ở băng 10 m và băng 40 m, trong khi băng 20 m không đáp ứng điều kiện sinh trưởng Khối B cho thấy tỷ lệ sống và sinh trưởng chiều cao tốt khi trồng 1 hàng, và sinh trưởng đường kính tốt khi áp dụng công thức trồng 6 hàng Ảnh hưởng của mật độ đến sự phát triển của tán lá rất rõ rệt; nghiên cứu về rừng trồng loài Pinus patula cho thấy rừng 19 tuổi chưa tỉa thưa có độ dài tán chỉ 29% tổng chiều dài thân, trong khi rừng đã tỉa thưa 1 lần vào tuổi 9 có độ dài tán lên tới 40% Ngoài ra, nghiên cứu của Hunt (1969) về Pinus strobus cho thấy sau 5 năm từ thời điểm tỉa thưa, tổng trọng lượng lá cây của lâm phần qua tỉa thưa gấp 3 lần so với lâm phần chưa tỉa thưa.
Nghiên cứu của Vanlaar (1976) về độ thưa của cây ở các lâm phần với mật độ khác nhau cho thấy, đối với loài cây Pinus trồng tại Nam Phi, lâm phần có mật độ cao (3000 cây/ha) có giá trị hình số là 0,565, trong khi lâm phần mật độ thấp (125 cây/ha) chỉ đạt giá trị hình số 0,495.
Nghiên cứu đã chỉ ra mối quan hệ rõ ràng giữa các chỉ tiêu hình thái và chất lượng cây với mật độ cây trồng Kết luận này không chỉ mang ý nghĩa lý luận trong nghiên cứu mà còn có giá trị thực tiễn trong lĩnh vực lâm sinh.
Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam
2.3.1 Những nghiên cứu về xây dựng vườn thực vật
Việc bảo vệ động thực vật tại Việt Nam đang được chú trọng thông qua việc xây dựng các vườn thực vật nhằm bảo tồn nguồn gen quý hiếm, đồng thời tạo không gian cho du khách tham quan và giáo dục về bảo vệ thiên nhiên Thảo Cầm Viên ở thành phố Hồ Chí Minh, vườn thực vật lâu đời nhất Việt Nam được thành lập vào năm 1864, hiện có 590 loài động vật và 1.830 cây thuộc 260 loài, trong đó nhiều loài đã trên 100 tuổi Vườn còn sở hữu 20 loài phong lan, 32 loài cây xương rồng và 34 loài cây cảnh, được chia thành khu bảo tồn động vật, khu bảo tồn thực vật, vườn lan và công viên giải trí Nơi đây có nhiều loài thực vật quý hiếm, bao gồm những loài không có nguồn gốc tại Việt Nam, cũng như nhiều loài xương rồng, dương xỉ và thực vật nhập khẩu từ Châu Phi và Mỹ.
Vườn Bách Thảo Hà Nội, được xây dựng từ năm 1890, hiện chỉ còn 10 ha nhưng vẫn giữ được sự đa dạng sinh học phong phú Nơi đây tạo nên một cảnh quan thu nhỏ với núi, rừng và hồ nước, chứa nhiều loài cây gỗ quý hiếm đặc trưng cho rừng ẩm nhiệt đới phương Nam Hơn 2/3 số loài cây là bản địa, trong khi 1/3 còn lại là cây nhập từ các châu lục như Mỹ, Phi và Đại Dương Du khách có cơ hội chiêm ngưỡng những cây gỗ khổng lồ, cây cảnh sặc sỡ và các loài phong lan rực rỡ Ngoài ra, một số vườn thực vật như vườn tại thôn Cà Đâng và vườn Phong Nha - Kẻ Bàng không chỉ phục vụ bảo tồn mà còn mang lại giá trị giáo dục và kinh tế cho cộng đồng.
Chúng tôi đã xây dựng các vườn thực vật trong trường học, tạo điều kiện cho học sinh học tập ngoài giờ lý thuyết và bảo tồn các loài thực vật Ví dụ, trường tiểu học Lương Thế Vinh với diện tích 300m2 đã trồng hơn 100 loại cây Ngoài ra, Vườn Thực vật Cúc Phương, rộng khoảng 90 ha, cũng đã sưu tập và bảo tồn nhiều loài thực vật quý hiếm.
Vườn thực vật Bảo tàng Tài nguyên rừng Việt Nam, nằm tại xã Vĩnh Quỳnh, huyện Thanh Trì, cách Hà Nội 12 km, có diện tích khoảng 3 ha và được xây dựng cách đây 50 năm Tại đây, có 535 loài cây, bao gồm 210 loài gỗ Cúc Phương, 85 loài gỗ từ các vùng khác của Việt Nam, 5 loài nhập nội, 25 loài thuộc họ ráy, 20 loài cây ăn quả, 15 loài tre trúc, 15 loài cau dừa, 20 loài cây thuốc và 140 loài lan Các loài cây được chăm sóc và theo dõi sinh trưởng, nhiều loài đã ra hoa kết quả và cung cấp giống cho chương trình trồng rừng bằng cây bản địa Vườn có hơn 4.000 cây thuộc 30 bộ, 60 họ và hơn 200 loài, trong đó gần 30 loài có tên trong Sách đỏ Việt Nam và Thế giới như Sưa, Thông nàng Những vườn thực vật này không chỉ bảo tồn nguồn gen quý mà còn là địa điểm tham quan, giải trí, học tập và nghiên cứu khoa học, phản ánh sự thay đổi tích cực trong nhận thức của con người về bảo vệ thiên nhiên.
2.3.2 Nghiên cứu về trồng cây bản địa Ở nước ta, việc tuyển chọn các loại cây bản địa có những ưu thế sinh trưởng nhanh, có giá trị cao và khả năng bảo vệ tài nguyên đất nước tốt là việc làm mang ý nghĩa thực tiễn và có cơ sở khoa học Trong những năm gần đây, đã có nhiều tác giả đi sau nghiên cứu bảo tồn và phát triển một số loài cây bản địa ở Việt Nam
Năm 2009, Phạm Văn Bốn thực hiện nghiên cứu về khả năng sinh trưởng của cây Lim xanh (Erythrophloeum fordii Oliv) tại Bình Phước, cho thấy cây Lim xanh rất thích hợp để trồng trên đất khu vực Đông Nam Bộ Kết quả cho thấy trong mô hình làm giàu rừng theo rạch, sau 10 năm, tỷ lệ sống đạt 53%-75%, với tăng trưởng bình quân 1,25cm/năm về đường kính và 1,35m/năm về chiều cao Trong khi đó, mô hình rừng trồng thuần loài sau 3 năm có tỷ lệ sống 81,81%, với tăng trưởng 2,15cm/năm về đường kính và 1,93m/năm về chiều cao Tuy nhiên, đây chỉ là kết quả bước đầu, cần tiếp tục mở rộng nghiên cứu trên nhiều loại đất khác nhau để bổ sung cây Lim xanh vào danh mục cây trồng chủ yếu cho rừng sản xuất và góp phần bảo tồn nguồn gen trong khu vực sinh thái Đông Nam Bộ.
Vào năm 1960, nhóm nghiên cứu gồm Lưu Phạm Hoành, Lê Cảnh Nhuệ và Trần Nguyên Giảng đã tiến hành cải tạo và làm giàu rừng bằng cách sử dụng các loài cây bản địa như Lim xanh, Chò nâu, Ràng ràng mít và Vạng trứng Họ áp dụng các phương thức cải tạo như chặt trắng, cải tạo theo băng và trồng cây dưới tán rừng.
Chương trình 327 tập trung vào việc trồng rừng phòng hộ theo mô hình hỗn loài, bao gồm 500 cây bản địa và 1000 cây phụ trợ Đến nay, hơn 60 tỉnh thành đã triển khai trồng nhiều mô hình rừng hỗn loài với sự đa dạng của hơn 70 loài cây khác nhau.
Theo nghiên cứu của Thẩm Đức Thuận năm 2017, tình hình sinh trưởng của một số loài cây bản địa trồng trong mô hình rừng phòng hộ đầu nguồn tại Cao Phong - Hòa Bình cho thấy cây Lim xẹt có đường kính tán lá dao động từ 3,5 - 4,1 m, trung bình là 4,0 m với hệ số biến động 18,7% và tăng trưởng bình quân đạt 0,3 m/năm Trong khi đó, cây Re hương có đường kính tán lá từ 6,1 - 6,7 m, trung bình 6,4 m, hệ số biến động trung bình là 22,7% và tăng trưởng bình quân về đường kính tán lá đạt 0,4 m/năm.
Cây Lim xanh có đường kính tán lá dao động từ 4,4 đến 4,9 m, với trung bình 3 OTC là 4,6 m và hệ số biến động từ 16,0 đến 20,8%, trung bình 17,7% Tăng trưởng bình quân về đường kính tán lá của cây Lim xanh đạt 0,3 m mỗi năm.
Triệu Văn Hùng (1993) đã nghiên cứu về đặc tính sinh vật học của một số loài cây làm giàu rừng, như Trám trắng và Lim xẹt Ông nhận xét rằng trong tổ thành rừng tự nhiên, Trám trắng chỉ chiếm 3,87% về số cây và 6,84% về chữa lượng ô tiêu chuẩn Ở trạng thái rừng IIIA1, tỷ lệ Trám trắng cao hơn so với IIIA2 Loài cây này thường xuất hiện cùng với một số loài bạn như Kháo vàng, Giẻ, Lim xẹt, Hu đay, Sau sau, Xoan nhừ, Xoan ta và Vối thuốc.
Trong nghiên cứu của Trần Quang Việt và Nguyễn Bá Chất về đề tài “Xác định cơ cấu cây trồng và xây dựng quy định hướng dẫn kỹ thuật trồng cho một số loài cây chủ yếu phục vụ chương trình 327” trong giai đoạn 1997 - 1998, nhóm đã lựa chọn được 70 loài cây trồng và phát triển quy trình kỹ thuật cho 20 loài cây tiêu biểu như Lát hoa, Muống đen, Trám trắng, Tếch, Dầu rái.
Nguyễn Hoàng Nghĩa (1997) đã chỉ ra những nghịch lý quan trọng liên quan đến cây bản địa, bao gồm những thách thức trong việc trồng cây bản địa tại Việt Nam.
Trong báo cáo chuyên đề về cây Huỷnh (Tarrietia javannica Kost), Bùi Đoàn nhấn mạnh rằng cây Huỷnh là một trong những loài cây bản địa quan trọng cho công tác trồng rừng tại Nam Trung Bộ, đặc biệt là ở tỉnh Quảng Bình.
Phùng Ngọc Lan (1994) đã nghiên cứu các đặc tính sinh thái của loài Lim xanh và xác nhận rằng loài này có vùng phân bố rộng rãi, trải dài trên hầu hết các tỉnh phía Bắc Việt Nam, từ đèo Hải Vân trở ra, với độ cao phân bố từ 900 m ở phía Nam và 500 m ở phía Bắc Loài Lim xanh sinh trưởng tốt nhất ở các vùng núi bát úp tháp, nơi có độ dốc nhỏ hơn 20 độ, hoặc ở chân đồi, chân núi với điều kiện dốc tụ.
Khái quát một số đặc điểm tự nhiên khu vực nghiên cứu
Mô hình vườn thực vật thuộc Khoa Lâm nghiệp tại trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên có diện tích khoảng 0.8 hecta, trong đó diện tích nghiên cứu là 0.26 hecta Đất đai của mô hình được hình thành từ hai nguồn gốc chính: đất hình thành tại chỗ do phong hóa đá mẹ và đất hình thành từ phù sa bồi tụ.
Nhóm đất phù sa chiếm tỷ lệ nhỏ và thường xuất hiện ở các khu vực địa hình bằng phẳng, được hình thành từ sản phẩm phù sa do dòng chảy của suối và quá trình thời tiết Đất phù sa có đặc điểm là không được bồi tụ hàng năm, có tính chất trung tính và ít chua, với thành phần cơ giới chủ yếu là thịt trung bình, và một số vùng có cát pha thịt nhẹ.
Nhóm đất xám bạc màu phát triển trên đất phù sa cổ, có sản phẩm Feralitic trên nền cơ giới nặng Đây là loại đất bạc màu với thành phần cơ giới nhẹ, dễ bị xói mòn và rửa trôi.
Nhóm đất Feralit chủ yếu phân bố ở địa hình đồi núi, phát triển trên phù sa cổ, dăm cuội kết và cát kết với diện tích lớn Tại khu vực mô hình khoa Lâm nghiệp, đất là dốc tụ pha cát lẫn đá nhỏ, có màu xám đen và hàm lượng dinh dưỡng thấp do đã sử dụng lâu năm Nguồn gốc của đất feralit xuất phát từ đá sa thạch, có độ pH thấp và nghèo mùn Với độ màu mỡ thấp, cây con chỉ sinh trưởng và phát triển ở mức trung bình, thỉnh thoảng có cây phát triển kém.
Khái quát một số đặc điểm của 6 loài cây bản địa được chọn để nghiên cứu
Theo các tài liệu nghiên cứu và quy trình kỹ thuật trồng rừng của Viện Khoa học Lâm nghiệp, một số đặc điểm sinh thái học quan trọng của các loài cây như Vàng anh, Cẩm lai, Giáng hương, Sưa đỏ, Lim xanh và Lim xẹt đã được xác định.
Vàng anh là một cây gỗ nhỏ đến vừa, cao từ 5-20m với đường kính thân cây lên tới 25 cm Cây có tán hình tròn, vỏ màu nâu xám, và cành non có màu tía trước khi chuyển sang xanh và già hóa thành nâu xẫm Lá của cây là lá kép lông chim với 5-6 cặp lá chét, lá non thường rủ xuống và có màu tía Các lá chét có hình trứng hoặc thuôn dài, với đầu nhọn hoặc có mũi nhọn, đuôi lá tù lệch cuống và có hệ gân lông chim từ 8-11 cặp gân phụ Hoa của cây có màu vàng, có thể lưỡng tính hoặc đơn tính cùng gốc, với cánh đài tiêu biến Thời gian ra hoa từ tháng 4 đến tháng 5 và mùa quả từ tháng 7 đến tháng 10.
Hình 2.1 Cây Vàng anh trong vườn thực vật
2.5.1.2 Đặc tính sinh học và sinh thái
Cây phân bố ở Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ: Cây mọc ở hầu hết các tỉnh vùng núi đá vôi miền bắc và miền trung, trong rừng mưa nhiệt đới [11]
Thế giới: Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản
Việt Nam cây mọc rải rác ở các rừng nguyên sinh hoặc thứ cấp ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Vĩnh Phú, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Núi Chúa-Ninh Thuận… [11]
Gỗ mềm có thớ mịn và thẳng, rất dễ sử dụng, dễ bóc và dễ chày, vì vậy thường được dùng để làm diêm Ngoài ra, vỏ, rễ và quả của cây cũng có thể được sử dụng làm thuốc.
Cây gỗ lớn có chiều cao lên tới 25 mét và đường kính có thể đạt 1 mét, thường có gốc bạnh vè Vỏ cây nhẵn, có màu xám nâu và chứa nhiều xơ, với các vết đẽo dày màu vàng nhạt đến đỏ nâu.
Cây có cành nhiều, cành non mảnh và nhẵn, với các nốt sần lốm đốm Lá kép lông chim mọc cách, dài từ 15-20 cm, cuống lá dài 10-17 cm mang 7-9 lá chét hình trái xoan, đầu nhọn và có mũi ngắn Hoa mọc thành chùm hoặc xim viên chùy ở nách lá, với các lá bắc sớm rụng Hoa lưỡng tính không đênu, đài hợp gốc, đỉnh xẻ 5 thùy và tràng hoa màu trắng Nhị có công thức 9+1, quả đậu mỏng dài 5-6 cm, rộng 1 cm, chứa 1-2 hạt màu nâu, hạt nổi gồ ở quả.
Hình 2.2 Cây Cẩm lai trong vườn thực vật 2.5.2.2 Đặc tính sinh học và sinh thái
Cây sinh trưởng chậm, thường gặp trong rừng ẩm với đất bằng phẳng hoặc có độ dốc nhỏ, có tầng đất dày và thoát nước tốt, ở độ cao từ 800-900 m Mùa hoa diễn ra vào tháng 12 đến tháng 1 năm sau, trong khi quả chín từ tháng 2 đến tháng 4 năm sau, và cây tái sinh chủ yếu bằng hạt.
Trong nước, các tỉnh thành nổi bật bao gồm Kon Tum (Sa Thầy), Gia Lai, Đắk Lắk (Ea Sup, Lắk), Đắk Nông (Đắk Mil), Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Phước, Tây Ninh, Đồng Nai, và Bà Rịa-Vũng Tàu.
Thế giới: Mianma, Thái Lan, Lào, Campuchia
Gỗ quý đặc biệt với độ bền cao và vẻ đẹp nổi bật về màu sắc và vân gỗ, thường được sử dụng để sản xuất đồ nội thất cao cấp như bàn, ghế, tủ, giường và các sản phẩm mỹ nghệ khác như khắc, trạm, tiện.
Cây dáng hương là loài cây cao từ 10m đến 30m, với đường kính thân có thể đạt tới 1,7m Lá cây dài từ 20 cm đến 35 cm, có hình dạng lông chim với 9 đến 11 lá chét Hoa của cây có màu vàng, với cành hoa dài từ 5 cm đến 9 cm Quả của cây có đường kính từ 4,5 cm đến 7 cm, bên trong chứa hai hoặc ba hạt Cây có khả năng tái sinh thông qua chồi hoặc hạt.
Hình 2.3 Cây Giáng hương trong vườn thực vật 2.5.3.2 Đặc tính sinh học và sinh thái
Giáng hương là loài cây thường phát triển ở độ cao từ 100-800m so với mực nước biển, có khả năng chịu đựng nhiệt độ từ 4,4-44,4 độ C Loài cây này phát triển tốt trong vùng có lượng mưa hàng năm từ 1270 đến 1520 mm và có thể mọc trên nhiều loại đất, bao gồm đất xám và đất đỏ bazan.
Nghệ An, Quảng Bình, Kon Tum (Sa Thầy), Gia Lai (Chư Prông, Mang Yang, An Khê), Đắk Nông (Đắk Mil), Phú Yên (Sơn Hoà), Tây Ninh, Bình Phước, Bình Dương và Đồng Nai là những địa phương nổi bật trong nước.
Làm thuốc: Một số báo cáo cho biết loài cây này có chứa hoạt chất chữa bệnh đái tháo đường týp 2
Gỗ dáng hương quả to tại Việt Nam được xếp vào nhóm 1 nhờ vào vẻ đẹp, mùi thơm nhẹ và độ cứng cao Loại gỗ này có vân hoa đẹp, ít nứt nẻ và không bị mối mọt, làm cho nó trở thành lựa chọn lý tưởng cho nhiều ứng dụng Hơn nữa, nhựa cây còn có thể được sử dụng để làm thuốc nhuộm màu đỏ.
Gỗ giáng hương thường được dùng để làm đồ gỗ cao cấp nhạc cụ, đồ thủ công mỹ nghệ
Cây gỗ nhỡ này có chiều cao từ 6-12m, đôi khi đạt tới 15m, với đặc điểm rụng lá theo mùa và sinh trưởng trung bình Thân cây có dạng hợp trục và dáng phân tán, vỏ thân mang màu vàng nâu hoặc xám và thường nứt dọc Cành non của cây có màu xanh và phủ một lớp lông mịn thưa.
Lá mọc cách, có cấu tạo dạng kép lông chim lẻ với 9-17 lá chét đính so-le trên cuống chính Lá chét hình xoan thuôn, đầu nhọn hoặc có mũi ngọn, đuôi tròn, thường có màu tái trắng ở mặt dưới Kích thước lá chét dài từ 6-9 cm và rộng từ 3-5 cm, trong đó lá chét ở đầu cuống kép lớn hơn các lá khác Cuống chính và các cuống lá chét đều không có lông, và lá kèm nhỏ không lông thường rụng sớm.
Hình 2.4 Cây Sưa đỏ trong vườn thực vật 2.5.4.2 Đặc tính sinh học và sinh thái
Cây này ưa sáng và thích hợp với đất sâu, dày, có độ ẩm cao, thường phân bố ở độ cao dưới 500m Trong tự nhiên, nó thường xuất hiện trong các khu rừng mưa nhiệt đới và rừng mưa nhiệt đới gió mùa.
Chủ yếu phân bổ ở Việt Nam và được tìm thấy rải rác tại Hải Nam, Trung Quốc
Gỗ quý, bền, gỗ trắc có màu sắc và vân đẹp, không bị nứt nẻ, mối mọt
Gỗ được dùng đóng đồ đạc cao cấp trong gia đình (bàn, ghế, giường, tủ, ), làm đồ mỹ nghệ và điêu khắc rất có giá trị
Sơ lược về mô hình trồng cây bản địa
Mô hình trồng cây bản địa thuộc khoa Lâm nghiệp được xây dựng từ đề tài “Nghiên cứu xây dựng mô hình bảo tồn chuyển vị thực vật tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên”, được thiết lập vào tháng 3 năm 2017 trên diện tích 0,8 ha với 406 cá thể thuộc 25 loài cây bản địa Trong số đó, có 6 loài thuộc họ đậu (Fabaceae) bao gồm Sưa đỏ (Dalbergia tonkinensis), Lim xẹt (Peltophorum pterocarpum), Lim xanh (Erythrophleum fordii), Vàng anh (Saraca dives), Cẩm lai (Dalbergia oliveri) và Giáng hương (Pterocarpus macrocarpus).
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Là 6 loại cây bản địa trồng thuộc Họ đậu (Fabaceae) trong mô hình vườn thực vật tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
Địa điểm và thời gian tiến hành
- Địa điểm: Mô hình Khoa Lâm nghiệp – Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
Nội dung nghiên cứu
Bài viết đánh giá sự sinh trưởng về đường kính gốc của 6 loài cây bản địa thuộc họ Đậu, được trồng trong mô hình vườn thực vật tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên Nghiên cứu này nhằm xác định khả năng phát triển của các loài cây bản địa trong môi trường học thuật, từ đó góp phần vào việc bảo tồn và phát triển cây xanh tại khu vực.
Bài viết đánh giá sự sinh trưởng về chiều cao vút ngọn của 6 loài cây bản địa thuộc họ Đậu được trồng trong mô hình vườn thực vật tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên Nghiên cứu này nhằm mục đích khảo sát và phân tích sự phát triển của các loài cây, từ đó cung cấp thông tin hữu ích cho việc bảo tồn và phát triển cây xanh trong khu vực Kết quả cho thấy sự khác biệt rõ rệt về chiều cao sinh trưởng giữa các loài, góp phần nâng cao hiểu biết về khả năng thích nghi và tiềm năng sử dụng của các loài cây bản địa trong nghiên cứu và thực tiễn.
Bài viết đánh giá sinh trưởng của tán lá của 6 loài cây bản địa thuộc họ Đậu, được trồng trong mô hình vườn thực vật tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên Nghiên cứu này nhằm phân tích sự phát triển và khả năng thích nghi của các loài cây này trong môi trường học tập và nghiên cứu Kết quả sẽ cung cấp thông tin hữu ích cho việc bảo tồn và phát triển cây trồng bản địa.
- Theo dõi sinh trưởng lá của 6 loài cây bản địa thuộc họ Đậu trồng trong mô hình vườn thực vật tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
Đánh giá tình hình sâu bệnh hại trên 6 loài cây bản địa thuộc họ Đậu được trồng trong mô hình vườn thực vật tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên là cần thiết để hiểu rõ tác động của sâu bệnh đến sự phát triển của cây trồng Nghiên cứu này giúp xác định các loại sâu bệnh phổ biến, từ đó đưa ra biện pháp quản lý hiệu quả nhằm bảo vệ và nâng cao năng suất cây trồng Việc theo dõi và đánh giá tình hình sâu bệnh hại không chỉ góp phần vào việc bảo tồn đa dạng sinh học mà còn hỗ trợ cho việc phát triển bền vững trong nông nghiệp.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường khả năng sinh trưởng của
6 loài cây bản địa thuộc họ Đậu trồng trong mô hình vườn thực vật tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
Phương pháp nghiên cứu
Sinh trưởng là sự biến đổi theo tuổi của các yếu tố điều tra, thể hiện sự gia tăng của một đại lượng nhờ quá trình đồng hóa ở thực vật Quá trình sinh trưởng của cây rừng và các loài thực vật phụ thuộc vào sự tương tác giữa nhân tố nội tại và điều kiện ngoại cảnh Khi điều kiện ngoại cảnh đồng nhất, nhân tố nội tại sẽ quyết định sự phát triển của mỗi loài cây Do đó, trong cùng một loài cây, sự sinh trưởng có thể khác nhau khi ở những điều kiện ngoại cảnh khác nhau, vì mỗi loại cây có phạm vi phân bố nhất định về khí hậu và đất đai Nếu nằm trong phạm vi này, cây sẽ phát triển tốt; ngược lại, nếu ra ngoài phạm vi, cây sẽ sinh trưởng kém.
Cây rừng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ môi trường xung quanh, đặc biệt là tiểu hoàn cảnh bao gồm tiểu khí hậu và đất Đối với cây bản địa trồng trong mô hình, sự chi phối từ tiểu hoàn cảnh của các loài cây khác cũng rất đáng kể.
Khi nghiên cứu sự sinh trưởng của cây bản địa, cần xem xét tổng thể sự tác động của các loài cây khác và các yếu tố hoàn cảnh Điều này đòi hỏi phải đánh giá hiện trạng thảm thực vật cũng như các nhân tố sinh thái liên quan.
Để đánh giá sinh trưởng của cây trồng trong mô hình rừng phòng hộ đầu nguồn, cần nắm rõ các biện pháp kỹ thuật đã áp dụng và xem xét các yếu tố môi trường như đất đai, khí hậu, thảm thực bì Việc này giúp đánh giá tổng hợp ảnh hưởng của những yếu tố này đến sự phát triển của cây Từ đó, có thể đề xuất các biện pháp kỹ thuật nhằm cải thiện điều kiện sinh trưởng và phát triển cho cây trồng.
3.4.2.1 Phương pháp thu thập số liệu
Trong quá trình thu thập và điều tra số liệu, biện pháp gắn mã số thẻ cho từng cây và biển cây cho mỗi hàng đã được áp dụng để cải thiện hiệu quả Để đánh giá sinh trưởng, đường kính sát gốc (D 00 ) được đo bằng thước kẹp kính theo hai chiều Đông – Tây và Nam – Bắc, sau đó tính trị số bình quân Việc đánh giá sinh trưởng chiều cao vút ngọn cũng được thực hiện để có cái nhìn tổng quát về sự phát triển của cây trồng.
Chiều cao cây được đo bằng thước dây, bắt đầu từ một mốc chuẩn ở gốc cây Để đánh giá sinh trưởng, cần xác định chiều cao từ điểm chuẩn đến đỉnh ngọn cây Đồng thời, cũng cần đánh giá đường kính tán lá để có cái nhìn tổng quát về sự phát triển của cây.
Để đo sinh trưởng đường kính tán lá của cây, sử dụng thước dây để thực hiện Mỗi lần đo, cần đo ở hai chiều Đông - Tây và Nam - Bắc, sau đó tính giá trị trung bình để có kết quả chính xác.
Theo dõi sinh trưởng lá:
Tiến hành theo dõi định kỳ sự phát triển của lá, sau khi lá xuất hiện từ chồi trong 2 ngày, đo diện tích lá trên 5 cây mỗi loài, với 5 lá đại diện cho mỗi cây (2 lá ở gốc tán, 2 lá ở giữa tán và 1 lá ở ngọn) Sử dụng giấy kẻ ô vuông (mỗi ô 0,25 cm²) để phác họa và đo diện tích lá Đánh giá tình hình sâu bệnh hại bằng cách điều tra tất cả các cây nghiên cứu, chọn 5-6 cành từ mỗi cây (2 cành gốc tán, 2 cành giữa tán và 2 cành ngọn) Nếu số lượng lá quá lớn, chọn 5-6 lá từ mỗi cành (2 lá gốc cành, 2 lá giữa cành và 1-2 lá ngọn cành).
Quá trình thu thập số liệu được chia làm 5 đợt, định kỳ 1 tháng đo 1 lần đó là : Đợt 1: Ngày 15/01/2019 Đợt 2: Ngày 15/02/2019 Đợt 3: Ngày 15/03/2019 Đợt 4: Ngày 15/04/2019 Đợt 5: Ngày 15/05/2019
3.4.2.2 Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu sau khi thu thập về được xử lý bằng các công thức toán học trên phần mềm Microsoft Excel 2013
- Chiều cao trung bình của cây ở mỗi lần đo:
Trong đó: : Là chiều cao trung bình của cây; ∑h: Là tổng số đo chiều cao các cây; M: là tổng số cây
- Đường kính trung bình của cây ở mỗi lần đo:
Trong đó: ∑d: Là tổng số đo đường kính các cây; M: là tổng số cây
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Phân lô cây trồng trong mô hình vườn thực vật
Trong mô hình cây trồng, các loài cây được sắp xếp theo từng hàng, với 6 loài cây bản địa thuộc họ Đậu (Fabaceae) được bố trí cách nhau 3 mét và mỗi cây cách cây 2 mét Hình ảnh 4.1 minh họa rõ ràng phương pháp phân lô và cách bố trí vị trí giữa các loài cây, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quan sát khi tham quan vườn thực vật.
Hình 4.1 Ảnh cây được trồng theo hàng trong mô hình vườn thực vật
Đánh giá sinh trưởng của 6 loài cây bản địa
4.2.1 Sinh trưởng đường kính gốc của 6 loài cây bản địa
Sinh trưởng đường kính: Kết quả nghiên cứu về sinh trưởng đường kính sát gốc (D 00 ) được trình bày tại bảng 4.1 – bảng 4.6
Bảng 4.1 Sinh trưởng về đường kính gốc của cây Vàng Anh
Lượng tăng trưởng giữa lần đo 1 và lần đo 5 0.340
Theo bảng 4.1 và biểu đồ 4.1, cây Vàng anh có đường kính trung bình sát gốc D(00) tại lần đo cuối là 0.850 cm Hệ số biến động dao động từ 0.064 đến 0.073%, với lượng tăng trưởng đường kính gốc giữa lần đo cuối và lần đo đầu là 0.34 cm sau 5 tháng.
Bảng 4.2 Sinh trưởng về đường kính gốc của cây Cẩm lai
Lượng tăng trưởng giữa lần đo 1 và lần đo 5 0.309
Theo bảng 4.2 và biểu đồ 4.1, cây Cẩm lai đạt đường kính trung bình sát gốc D(00) là 1.736 cm ở lần đo cuối Hệ số biến động dao động từ 0.129 đến 0.138%, với lượng tăng trưởng đường kính gốc so sánh giữa lần đo cuối và đầu là 0.309 cm sau 5 tháng.
Bảng 4.3 Sinh trưởng về đường kính gốc của cây Giáng hương
Lượng tăng trưởng giữa lần đo 1 và lần đo 5 0.485
Kết quả từ bảng 4.3 và biểu đồ 4.1 cho thấy cây Giáng hương có đường kính trung bình sát gốc D(00) ở lần đo cuối là 3.754cm, với hệ số biến động từ 0.299 đến 0.310% Lượng tăng trưởng về đường kính gốc giữa lần đo cuối và lần đo đầu là 0.485cm sau 5 tháng.
Bảng 4.4 Sinh trưởng về đường kính gốc của cây Sưa đỏ
Lượng tăng trưởng giữa lần đo 1 và lần đo 5 0.300
Kết quả từ bảng 4.4 và biểu đồ 4.1 cho thấy cây Sưa đỏ có đường kính trung bình sát gốc D(00) tại lần đo cuối là 1.3cm Hệ số biến động dao động từ 0.122 đến 0.140%, với lượng tăng trưởng về đường kính gốc giữa lần đo cuối và đầu là 0.3cm sau 5 tháng.
Bảng 4.5 Sinh trưởng về đường kính gốc của cây Lim xanh
Lượng tăng trưởng giữa lần đo 1 và lần đo 5 0.583
Kết quả từ bảng 4.5 và biểu đồ 4.1 cho thấy cây Lim xanh có đường kính trung bình sát gốc D(00) tại lần đo cuối là 2.967cm, với hệ số biến động từ 0.110 đến 0.137% Lượng tăng trưởng về đường kính gốc so sánh giữa lần đo cuối và lần đo đầu là 0.583cm sau 5 tháng đo.
Bảng 4.6 Sinh trưởng về đường kính gốc của cây Lim xẹt
Lượng tăng trưởng giữa lần đo 1 và lần đo 5 0.605
Kết quả từ bảng 4.6 và biểu đồ 4.1 cho thấy cây Lim xẹt đạt đường kính trung bình sát gốc D(00) là 4.753cm tại lần đo cuối cùng, với hệ số biến động từ 0.167 đến 0.231% Sự tăng trưởng đường kính gốc giữa lần đo cuối và lần đo đầu là 0.605cm sau 5 tháng Để tổng quan hơn về sự tăng trưởng đường kính của 6 loài cây bản địa thuộc họ Đậu trong mô hình vườn thực vật, tôi đã chuyển đổi dữ liệu từ bảng 4.1 sang biểu đồ cột, giúp so sánh sự tăng trưởng giữa các lần đo và giữa các loài cây.
Biểu đồ 4.1: Kết quả đường kính của 6 loài cây bản địa
Kết quả nghiên cứu cho thấy trong 6 loài cây họ Đậu, loài Lim xẹt có đường kính sinh trưởng tốt nhất, dao động từ 2.7-7cm Tiếp theo là Giáng hương với đường kính từ 1.5-5.8cm, và Lim xanh với đường kính từ 1.6-3.4cm Các loài khác như Cẩm lai, Sưa đỏ và Vàng anh có đường kính lần lượt từ 0.7-2.3cm, 0.7-1.7cm và 0.2-1.3cm Về tăng trưởng trung bình, Lim xẹt đạt 0.605cm, Lim xanh 0.583cm, Giáng hương 0.485cm, Vàng anh 0.34cm, Cẩm lai 0.309cm và thấp nhất là Sưa đỏ với 0.300cm Nhìn chung, các loài cây họ Đậu sinh trưởng tốt về đường kính tại điều kiện lập địa trong mô hình vườn thực vật tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
4.2.2 Đặc điểm sinh trưởng chiều cao của 6 loài cây bản địa
Sinh trưởng về chiều cao vút ngon: Kết quả nghiên cứu về sinh trưởng chiều cao vút ngọn Hvn(m) được trình tại bảng 4.7 – bảng 4.12
Bảng 4.7 Sinh trưởng về chiều cao (Hvn) của cây Vàng anh
Lượng tăng trưởng giữa lần đo 1 và lần đo 5 0.171
Kết quả từ bảng 4.7 và biểu đồ 4.2 cho thấy, chiều cao vút ngọn (Hvn) trung bình của cây Vàng anh tại lần đo cuối là 0.782 m, với hệ số biến động từ 0.037 đến 0.045% Lượng tăng trưởng trung bình về chiều cao vút ngọn giữa lần đo cuối và lần đo đầu là 0.171 m sau 5 tháng đo.
Bảng 4.8 Sinh trưởng về chiều cao (Hvn) của cây Cẩm lai
Lượng tăng trưởng giữa lần đo 1 và lần đo 5 0.314
Kết quả từ bảng 4.8 và biểu đồ 4.2 cho thấy rằng chiều cao sinh trưởng vút ngọn (Hvn) trung bình của cây Cẩm lai tại lần đo cuối là 1.727m Hệ số biến động dao động từ 0.053 đến 0.068%, trong khi lượng tăng trưởng trung bình so sánh giữa lần đo cuối và đầu là 0.314m sau 5 tháng đo.
Bảng 4.9.Sinh trưởng về chiều cao (Hvn) của cây Giáng hương
Lượng tăng trưởng giữa lần đo 1 và lần đo 5 0.777
Kết quả từ bảng 4.9 và biểu đồ 4.2 cho thấy chiều cao vút ngọn (Hvn) trung bình của cây Giáng hương đạt 3.654m trong lần đo cuối Hệ số biến động dao động từ 0.149 đến 0.160%, với lượng tăng trưởng trung bình so sánh giữa lần đo cuối và đầu là 0.777m sau 5 tháng.
Bảng 4.10 Sinh trưởng về chiều cao (Hvn) của cây Sưa đỏ
Lượng tăng trưởng giữa lần đo 1 và lần đo 5 0.09
Theo bảng 4.10 và biểu đồ 4.2, chiều cao sinh trưởng vút ngọn (Hvn) trung bình của cây Sưa đỏ ở lần đo cuối đạt 0.836m Hệ số biến động dao động từ 0.042 đến 0.044%, với lượng tăng trưởng trung bình so sánh giữa lần đo cuối và đầu là 0.09m sau 5 tháng.
Bảng 4.11 Sinh trưởng về chiều cao (Hvn) của cây Lim xanh
Lượng tăng trưởng giữa lần đo 1 và lần đo 5 0.500
Theo kết quả từ bảng 4.11 và biểu đồ 4.2, chiều cao trung bình của cây Lim xanh tại lần đo cuối đạt 2.579m Hệ số biến động dao động từ 0.126 đến 0.135%, trong khi lượng tăng trưởng trung bình giữa lần đo cuối và đầu là 0.5m sau 5 tháng.
Bảng 4.12 Sinh trưởng về chiều cao (Hvn) của cây Lim xẹt
Lượng tăng trưởng giữa lần đo 1 và lần đo 5 0.816
Kết quả từ bảng 4.12 và biểu đồ 4.2 cho thấy cây Lim xẹt có chiều cao vút ngọn (Hvn) trung bình đạt 3.753m tại lần đo cuối, với hệ số biến động từ 0.130 đến 0.158% Lượng tăng trưởng trung bình giữa lần đo cuối và đầu là 0,816m sau 5 tháng Để hiểu rõ hơn về sinh trưởng chiều cao Hvn của 6 loài cây bản địa thuộc họ Đậu trong mô hình vườn thực vật, dữ liệu từ bảng 4.7 đến bảng 4.12 đã được chuyển đổi sang biểu đồ cột, giúp tạo cái nhìn tổng quát về sự tăng trưởng chiều cao giữa các lần đo và giữa các loài.
Biểu đồ 4.2: Kết quả về chiều cao của 6 loài cây bản địa
Trong nghiên cứu về 6 loài cây bản địa thuộc họ Đậu tại mô hình vườn thực vật Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, cây Lim xẹt ghi nhận chiều cao vút ngọn trung bình cao nhất, dao động từ 1.7 – 4.6m, tiếp theo là cây Giáng hương với chiều cao từ 2.1 – 4.4m Cây Lim xanh đứng thứ 3 với chiều cao từ 1.3 – 3.3m, trong khi cây Cẩm lai có chiều cao từ 1.15 – 1.9m Cây Sưa đỏ và Vàng anh có mức sinh trưởng thấp hơn, với chiều cao lần lượt từ 0.65 – 1m và 0.4 – 1m Kết quả cho thấy, trong điều kiện lập địa của mô hình vườn thực vật, các loài cây này có mức độ tăng trưởng chiều cao cao và hứa hẹn sẽ tiếp tục phát triển tốt trong các giai đoạn tiếp theo.
4.2.3 Đặc điểm sinh trưởng về đường kính tán lá của 6 loài cây bản địa trong họ Đậu
Sinh trưởng về đường kính tán lá: Kết quả nghiên cứu về sinh trưởng đường kính tán lá được trình tại bảng 4.13 – bảng 4.18
Bảng 4.13 Sinh trưởng về đường kính tán lá cây Vàng anh
Lượng tăng trưởng giữa lần đo 1 và lần đo 5 0.124
Kết quả từ bảng 4.13 và biểu đồ 4.3 cho thấy sinh trưởng đường kính tán lá của cây Vàng anh trong mô hình vườn thực vật Cây Vàng anh đạt trung bình đường kính tán lá 0,553m ở lần đo cuối, với hệ số biến động từ 0.043 đến 0.054% Lượng tăng trưởng trung bình về đường kính tán lá so sánh giữa lần đo cuối và đầu là 0.124m sau 5 tháng.
Bảng 4.14 Sinh trưởng về đường kính tán lá cây Cẩm lai
Lượng tăng trưởng giữa lần đo 1 và lần đo 5 0.160
Đề xuất một số giải pháp phát triển mô hình vườn thực vật
Nghiên cứu thực địa cho thấy sự sinh trưởng của các loài cây bản địa đang diễn ra tốt, nhưng bị ảnh hưởng bởi cỏ dại và gia súc từ cộng đồng xung quanh Để giảm thiểu tác động này, bài viết đề xuất hai giải pháp nhằm bảo vệ sự phát triển của các loài cây bản địa họ đậu cũng như các loài bản địa khác.
4.3.1 Biện pháp dải lớp nilon không màu trắng xung quanh gốc cây
Để chăm sóc cây bản địa con hiệu quả, cần làm cỏ hàng tháng nhằm giảm sự cạnh tranh với cỏ dại, tuy nhiên việc này tốn kém và mất thời gian do phải sử dụng máy cắt cỏ Để giảm thiểu chi phí và công sức, việc sử dụng dải miếng nilon quanh gốc cây là một giải pháp hợp lý, giúp bảo vệ cây con và giảm bớt công việc làm cỏ.
Miếng nilon trắng trong suốt, có diện tích 1 mét vuông, được đặt dưới gốc cây giúp cây tiếp nhận ánh sáng một cách bình thường Việc sử dụng miếng nilon này cũng ngăn cản sự phát triển của cỏ bên dưới, vì nó được đè sát xuống mặt đất.
4.3.2 Biện pháp xây dựng thêm hàng rào bảo vệ vườn thực vật
Trong vườn thực vật, ngoài các cây họ Đậu (Fabaceae), còn có nhiều loài cây bản địa quý giá Việc người dân sống gần khu vực này nhổ trộm cây con là một vấn đề đáng lo ngại, vì đã có một số loài cây bị đánh cắp Điều này không chỉ gây thất thoát về kinh tế mà còn làm mất công sức trong việc vận chuyển, trồng và chăm sóc các loài cây từ những vùng khác, đặc biệt trong giai đoạn đầu khi cây cần được chăm sóc kỹ lưỡng để phát triển.
Để bảo vệ vườn thực vật khỏi sự xâm nhập của người dân và gia súc, đề xuất xây dựng một hàng rào xung quanh khu vực này Giải pháp này không chỉ ngăn chặn các tác nhân gây hại mà còn giúp cây cối phát triển toàn diện, mang lại hiệu quả cao trong việc bảo tồn và duy trì hệ sinh thái.
Việc xây dựng hàng rào cần một nguồn kinh phí lớn do đó cần sự hỗ trợ từ phía khoa và nhà trường.