luật của chủ thể quản lý, nhằm cho hệ vận hành theo đường lối, nguyên lý của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là quá trình
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
CƠ SỞ LÝ LUẬN
Trong bối cảnh xã hội phát triển và khoa học kỹ thuật tiến bộ, nhu cầu học tập của con người ngày càng gia tăng Con người tìm kiếm kiến thức để làm việc, khẳng định bản thân và hòa nhập với cộng đồng Do đó, giáo dục kỹ năng sống cho giới trẻ, đặc biệt là học sinh phổ thông, trở nên vô cùng cần thiết Giáo dục kỹ năng sống đã trở thành một trong năm nội dung của phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” do Bộ Giáo dục và Đào tạo phát động theo chỉ thị số 40/2008/TC-BGDĐT.
Giáo dục kỹ năng sống (GDKNS) cần sự hợp tác chặt chẽ từ gia đình, nhà trường và xã hội Hiện tại, GDKNS chủ yếu được tích hợp trong môn Giáo dục công dân hoặc lồng ghép vào các hoạt động ngoài giờ lên lớp, dẫn đến mục đích và nội dung chưa được xác định rõ ràng Điều này làm giảm hiệu quả của GDKNS trong trường học Nghiên cứu này nhằm nâng cao hiệu quả quản lý GDKNS cho học sinh, tạo ra sự thống nhất trong nhận thức và hành động trong hệ thống giáo dục.
2.1.1 Một số khái niệm cơ bản
2.1.1.1 Quản lý, quản lý giáo dục, quản lý nhà trường
Khái niệm "quản lý" đã hình thành từ lâu và phát triển cùng với tri thức nhân loại, đáp ứng nhu cầu thực tiễn ngày càng cao Quản lý là yếu tố cần thiết cho mọi hoạt động xã hội, kết hợp giữa khoa học và nghệ thuật trong việc điều hành hệ thống xã hội ở cả tầm vĩ mô và vi mô Hoạt động quản lý trở nên cần thiết khi con người hợp tác trong các nhóm và tổ chức để đạt được mục tiêu chung.
Quản lý có thể được hiểu và định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, tùy thuộc vào quan điểm và cách tiếp cận đa dạng.
Theo thực tiễn - Theo lý thuyết hệ thống -Theo thuyết hành vi
Cách tiếp cận thực tiễn trong quản lý dựa trên việc phân tích kinh nghiệm thông qua các trường hợp cụ thể Bằng cách nghiên cứu những tình huống thành công và thất bại, cũng như những sai lầm của các nhà quản lý, chúng ta có thể rút ra bài học quan trọng Những kinh nghiệm này giúp các nhà quản lý hiểu rõ hơn về cách giải quyết các vấn đề đặc trưng, từ đó nâng cao hiệu quả quản lý trong những hoàn cảnh tương tự.
Cách tiếp cận theo lý thuyết hệ thống cho phép phân tích các hoạt động quản lý như một hệ thống tổng thể, trong đó xem xét các yếu tố và mối quan hệ tương tác giữa chúng nhằm đạt được các mục tiêu đã được xác định.
Cách tiếp cận theo thuyết hành vi nhấn mạnh rằng quản lý là quá trình hoàn thành công việc thông qua con người, do đó nghiên cứu cần tập trung vào mối quan hệ giữa các cá nhân Điều này yêu cầu chú trọng đến khía cạnh con người trong quản lý, nhấn mạnh tầm quan trọng của niềm tin và sự hợp tác khi mọi người làm việc cùng nhau để đạt được mục tiêu chung Thuyết này giúp các nhà quản lý ứng xử hiệu quả hơn với nhân viên của mình.
Tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc (1998) cho rằng:
Quản lý được định nghĩa một cách kinh điển là quá trình tác động có chủ đích của người quản lý đến đối tượng bị quản lý trong tổ chức Mục tiêu của quản lý là đảm bảo tổ chức hoạt động hiệu quả và đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Ngày nay, quản lý được hiểu là quá trình đạt được mục tiêu của tổ chức thông qua việc sử dụng các hoạt động như lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra.
Quản lý, theo Trần Khánh Đức (2011), là hoạt động có ý thức của con người nhằm định hướng và tổ chức các nguồn lực Nó bao gồm việc phối hợp hành động của một nhóm hoặc cộng đồng để đạt được mục tiêu một cách hiệu quả nhất.
Mỗi xã hội có thể được coi là một hệ quản lý, tương tự như một nhà máy, xí nghiệp, trường học hay quốc gia Mỗi hệ quản lý này bao gồm hai bộ phận liên kết chặt chẽ với nhau.
Bộ phận quản lý đóng vai trò chủ đạo trong việc điều hành hệ thống quản lý, nhằm đảm bảo hoạt động của nó đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Bộ phận bị quản lý, hay còn gọi là đối tượng quản lý, bao gồm những người thực hiện trực tiếp quá trình sản xuất và chính bản thân hoạt động sản xuất đó.
Trong quản lý, chủ thể quản lý và đối tượng quản lý có mối quan hệ tương tác chặt chẽ, ảnh hưởng lẫn nhau để đạt được mục tiêu của tổ chức Khi mục tiêu của tổ chức thay đổi, điều này sẽ tác động đến đối tượng quản lý thông qua chủ thể quản lý.
Quản lý được hiểu là sự tác động có chủ đích của người quản lý đến đối tượng quản lý, nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra và thúc đẩy hệ thống phát triển lên một trạng thái mới về chất lượng.
Còn có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm quản lý, cụ thể như sau :
- Từ điển Từ và ngữ Hán Việt có ghi: “Quản lý là phụ trách việc chăm nom và sắp đặt công việc trong một tổ chức” (Nguyễn Lân, 1989)