1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Luận án tiến sĩ nghiên cứu tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động của các ngân hàng thương mại việt nam

236 4 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghiên Cứu Tác Động Của Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Đến Kết Quả Hoạt Động Của Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
Tác giả Đỗ Thanh Hương
Người hướng dẫn PGS, TS. Nguyễn Văn Minh, PGS, TS. Nguyễn Thị Mùi
Trường học Trường Đại Học Thương Mại
Chuyên ngành Tài Chính - Ngân Hàng
Thể loại luận án tiến sĩ
Năm xuất bản 2021
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 236
Dung lượng 1,54 MB

Cấu trúc

  • 1. Sự cần thiết của vấn đề nghiên cứu (11)
  • 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu (13)
  • 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu (13)
  • 4. Hướng tiếp cận nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu (14)
  • 5. Đóng góp của luận án (18)
  • 6. Kết cấu của luận án (18)
  • CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU (19)
    • 1.1. Tình hình nghiên cứu ở các quốc gia trên thế giới (19)
      • 1.1.1. Nghiên cứu tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả tài chính của ngân hàng (19)
      • 1.1.2. Nghiên cứu tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả phi tài chính của ngân hàng (28)
    • 1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam (30)
    • 1.3. Khoảng trống nghiên cứu (32)
  • CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ ĐẾN KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG (34)
    • 2.1. Tổng quan về dịch vụ ngân hàng điện tử (34)
      • 2.1.1. Khái niệm dịch vụ ngân hàng điện tử (34)
      • 2.1.2. Vai trò của dịch vụ ngân hàng điện tử (37)
      • 2.1.3. Ưu điểm và hạn chế của dịch vụ ngân hàng điện tử (39)
      • 2.1.4. Các kênh phân phối dịch vụ ngân hàng điện tử (45)
    • 4.1. Đánh giá tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam (123)
      • 4.1.1. Xây dựng mô hình đánh giá tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam (123)
      • 4.1.2. Kết quả mô hình ước lượng đánh giá tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử tới kết quả tài chính của ngân hàng (137)
    • 4.2. Đánh giá tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử tới các kết quả hoạt động phi tài chính của ngân hàng (145)
      • 4.2.1. Phương pháp phỏng vấn chuyên gia (146)
      • 4.2.2. Đối tượng và phương thức phỏng vấn (147)
      • 4.2.3. Kết quả phỏng vấn (147)
    • 4.3. Đánh giá chung tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động các ngân hàng thương mại Việt Nam (151)
      • 4.3.1. Tác động tích cực của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động ngân hàng (151)
      • 4.3.2. Một số tác động hạn chế khi triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động ngân hàng (152)
  • CHƯƠNG 5: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ (154)
    • 5.1. Bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 và định hướng số hóa ngành ngân hàng tại Việt Nam (154)
      • 5.1.1. Bối cảnh cách mạnh công nghiệp 4.0 (154)
      • 5.1.2. Số hóa ngành ngân hàng Việt Nam trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0145 5.2. Giải pháp phát huy tác động tích cực và giảm thiểu hạn chế trong triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động các NHTM Việt Nam (157)
      • 5.2.1. Giải pháp phát huy tác động tích cực của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động ngân hàng (159)
    • 5.3. Kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan quản lý Nhà nước (168)
      • 5.3.1. Kiến nghị về kiện toàn hệ thống pháp luật (168)
      • 5.3.2. Kiến nghị về phát triển thanh toán không dùng tiền mặt (169)
      • 5.3.3. Kiến nghị về hạ tầng công nghệ thông tin và thanh toán quốc gia (170)
      • 5.3.4. Kiến nghị về xây dựng cơ sở dữ liệu số quốc gia (172)
  • KẾT LUẬN (174)

Nội dung

Sự cần thiết của vấn đề nghiên cứu

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang thay đổi mạnh mẽ ngành tài chính ngân hàng, khiến đây trở thành lĩnh vực tiên phong trong xu hướng mới Trong bối cảnh các tổ chức tài chính phải vượt qua khó khăn từ khủng hoảng tài chính, sự xuất hiện của các công ty công nghệ tài chính (Fintech) đã tạo ra thách thức lớn khi cạnh tranh trực tiếp với ngân hàng Để đối phó với sự phát triển nhanh chóng của các dịch vụ tài chính điện tử từ Fintech, các ngân hàng thương mại cần phải áp dụng mô hình kinh doanh mới, nâng cao khả năng cạnh tranh và cập nhật công nghệ, nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán, đầu tư và các dịch vụ tài chính khác trong nền kinh tế số.

Trong bối cảnh nền kinh tế số, xu hướng số hóa ngân hàng diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu, với nhiều ngân hàng đã thành công trong việc triển khai mô hình ngân hàng số Hầu hết các ngân hàng còn lại đang ở các giai đoạn chuyển đổi số khác nhau, từ chuyển đổi kỹ thuật đến chuyển đổi mô hình Tại Việt Nam, các ngân hàng chủ yếu đang ở giai đoạn đầu của chuyển đổi số, đặc biệt là trong việc phát triển dịch vụ ngân hàng ứng dụng kỹ thuật số, ngân hàng điện tử và ngân hàng qua mạng Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại các ngân hàng thương mại hiện nay là bước tiến quan trọng hướng tới mô hình ngân hàng số.

Các ngân hàng thương mại tại Việt Nam đang tích cực phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử nhằm cung cấp trải nghiệm ngân hàng hiện đại cho cả khách hàng cá nhân và doanh nghiệp Dịch vụ này bắt đầu được triển khai từ năm 2002 với các hình thức cơ bản như máy rút tiền ATM và máy thanh toán thẻ POS, nhưng chỉ thực sự phát triển mạnh mẽ khi Internet trở nên phổ biến, tạo nền tảng cho ngân hàng trực tuyến Đến năm 2004, sự bùng nổ của dịch vụ ngân hàng điện tử đã diễn ra, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dùng.

Vietcombank là ngân hàng tiên phong tại Việt Nam trong việc giới thiệu dịch vụ ngân hàng trực tuyến Sau hơn 15 năm phát triển, hiện có 78 tổ chức tín dụng cung cấp dịch vụ thanh toán qua Internet, trong đó 47 ngân hàng thương mại đã cung cấp dịch vụ thanh toán qua di động vào năm 2019 Các ngân hàng đã tích hợp nhiều tính năng thanh toán trên thẻ cho phép người dùng thanh toán trực tuyến cho hàng hóa, dịch vụ, tiền điện nước và bưu chính viễn thông Đồng thời, họ cũng đang nghiên cứu và hợp tác với các công ty công nghệ để ứng dụng các công nghệ tiên tiến như nhận diện khuôn mặt, sinh trắc vân tay và mã phản hồi nhanh trong lĩnh vực thanh toán.

Dịch vụ ngân hàng điện tử đã đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế xã hội và thúc đẩy hội nhập quốc tế Khách hàng được hưởng nhiều lựa chọn với tính tiện ích cao và chi phí thấp hơn so với ngân hàng truyền thống Đồng thời, các ngân hàng thương mại cũng thu hút thêm khách hàng giá trị cao và đa dạng hóa dịch vụ của mình.

Dịch vụ ngân hàng điện tử SP - DV không chỉ thúc đẩy huy động vốn và cho vay mà còn góp phần xây dựng hình ảnh ngân hàng, từ đó gia tăng doanh thu và tiết kiệm chi phí Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra những tác động tích cực của dịch vụ này, đặc biệt trong nền kinh tế số hiện nay Tuy nhiên, một số nghiên cứu cũng cho thấy rằng sự xuất hiện của ngân hàng điện tử trong giai đoạn đầu phát triển vẫn chưa có ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động của ngân hàng.

Nghiên cứu về ảnh hưởng của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam là một chủ đề đang được thảo luận sôi nổi trong giới khoa học Luận án tiến sỹ của tôi tập trung vào việc đánh giá tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đối với hiệu quả hoạt động của các ngân hàng tại Việt Nam Để thực hiện nghiên cứu, tôi áp dụng cả phương pháp định lượng và định tính nhằm xác định rõ ràng ảnh hưởng của dịch vụ này Kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp các giải pháp thực tiễn nhằm phát huy những lợi ích và giảm thiểu hạn chế khi triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng trong bối cảnh số hóa hiện nay.

Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là đánh giá tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) đối với kết quả hoạt động (KQHĐ) của các ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam Nghiên cứu sẽ đề xuất các giải pháp nhằm tối ưu hóa và phát huy những tác động tích cực của dịch vụ NHĐT, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các NHTM.

(i)Tổng quan lý thuyết về dịch vụ NHĐT, đặc điểm dịch vụ NHĐT, các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của dịch vụ NHĐT.

Dịch vụ ngân hàng đầu tư (NHĐT) đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện kết quả hoạt động (KQHĐ) của các ngân hàng trên toàn cầu, bao gồm cả Việt Nam Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng sự phát triển của dịch vụ NHĐT không chỉ nâng cao hiệu quả tài chính mà còn góp phần tăng cường sức cạnh tranh cho các tổ chức tài chính Tại Việt Nam, các ngân hàng đang ngày càng chú trọng vào việc phát triển các dịch vụ NHĐT để tối ưu hóa KQHĐ và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường.

(iii) Lựa chọn và xây dựng mô hình đánh giá tác động của dịch vụ NHĐT tới

(iv) Phân tích, đánh giá tác động của dịch vụ NHĐT đến KQHĐ các NHTM

Nghiên cứu các kinh nghiệm quốc tế có thể giúp các ngân hàng thương mại (NHTM) đề xuất những giải pháp chiến lược hiệu quả, nhằm tối ưu hóa tác động tích cực và giảm thiểu các tác động tiêu cực từ dịch vụ ngân hàng đầu tư (NHĐT).

Hướng tiếp cận nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu

Quy trình nghiên cứu của luận án bắt đầu bằng việc xác định mục tiêu nghiên cứu và tổng quan tài liệu hiện có Từ đó, các lý luận sẵn có được sử dụng để phát triển giả thuyết nghiên cứu Những giả thuyết này sẽ được kiểm định và xác nhận hoặc phản bác, góp phần vào sự phát triển lý luận, tạo nền tảng cho các nghiên cứu tiếp theo (Saunders và cộng sự, 2009).

- Hướng tiếp cận nghiên cứu:

Việc lựa chọn phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu phụ thuộc vào mục tiêu và bản chất của đề tài Đối với những chủ đề có nhiều tài liệu hỗ trợ, phương pháp tiếp cận diễn giải thường được ưu tiên để xây dựng cơ sở lý thuyết và giả thuyết Ngược lại, các đề tài nghiên cứu mới, ít tài liệu và đang gây tranh luận sẽ phù hợp hơn với phương pháp quy nạp.

Theo nghiên cứu của Saunder et al (2009), hướng tiếp cận diễn giải, hay phương pháp kiểm định lý thuyết, là quá trình phát triển lý thuyết thông qua các thử nghiệm nghiêm ngặt Phương pháp này thường được áp dụng trong các nghiên cứu khoa học tự nhiên, nơi mà việc dự đoán và kiểm soát các sự kiện và hiện tượng dựa trên lý thuyết hiện có là rất quan trọng (Collis & Hussey, 2003) Hướng tiếp cận diễn giải cho phép kiểm định các lý thuyết một cách hiệu quả và thực hiện theo chiều từ trên xuống.

Năm bước phát triển của một nghiên cứu theo hướng diễn giải theo Robson

1 Đề xuất giả thuyết từ cơ sở lý luận và tổng quan tài liệu nghiên cứu

2 Diễn giải giả thuyết trong điều kiện cụ thể (xác định thang đo và các biến số)

3 Sử dụng các phương pháp khác nhau để kiểm định giả thuyết

4 Kiểm tra kết quả giả thuyết, kết luận chấp nhận hay không chấp nhận lý thuyết

Để sửa đổi lý thuyết dựa trên kết quả phát hiện, cần sử dụng cả dữ liệu định lượng và định tính nhằm giải thích mối quan hệ nhân quả giữa các biến Việc kiểm soát các biến trong thử nghiệm và đảm bảo độ tin cậy thông qua phương pháp cấu trúc chặt chẽ là rất quan trọng (Gill & Johnson, 2002) Các biến phải có thể đo lường và có tính khái quát, yêu cầu chọn mẫu đủ kích thước để hình thành quy luật Trong nghiên cứu về tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam, nghiên cứu sinh áp dụng hướng tiếp cận diễn giải để kiểm định lý thuyết dựa trên các nghiên cứu hiện có trong và ngoài nước.

Luận án xây dựng mô hình đánh giá tác động của dịch vụ ngân hàng đầu tư đến kết quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam, dựa trên cơ sở lý luận và tổng quan tài liệu nghiên cứu Mô hình này đã được điều chỉnh phù hợp với số lượng và đặc điểm của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam, nhằm kiểm định giả thuyết về tác động tích cực hoặc tiêu cực của dịch vụ ngân hàng đầu tư đến kết quả hoạt động của các ngân hàng thông qua cả phương pháp định lượng và định tính.

Để thu thập thông tin cho nghiên cứu, tác giả đã áp dụng phương pháp tổng hợp và kế thừa tài liệu từ các nghiên cứu trước đây cả trong nước và quốc tế Từ đó, tác giả xác định các vấn đề nghiên cứu, đặt ra giả thuyết và tiến hành kiểm định giả thuyết thông qua các phương pháp xử lý thông tin định tính và định lượng Các nguồn tài liệu được thu thập đóng vai trò quan trọng trong quá trình này.

Các nghiên cứu, bao gồm giáo trình, luận án và tạp chí, cả trong nước và quốc tế, đã chỉ ra vai trò quan trọng của dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) và tác động tích cực của nó đến kết quả hoạt động ngân hàng.

(ii) Tổng hợp kinh nghiệm quốc tế trong phát triển dịch vụ NHĐT nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng;

Văn bản pháp luật của Việt Nam quy định về dịch vụ ngân hàng điện tử, dịch vụ ngân hàng qua mạng, giao dịch điện tử và đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng là rất quan trọng Những quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, tăng cường tính minh bạch và an ninh trong các giao dịch tài chính trực tuyến Các quy định pháp lý cũng tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững của ngành ngân hàng trong bối cảnh công nghệ ngày càng phát triển.

Số liệu thứ cấp được thu thập từ báo cáo tài chính và báo cáo thường niên của các ngân hàng thương mại Việt Nam, cũng như từ báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước và số liệu công bố của Tổng cục Thống kê, bao gồm cả dữ liệu tổng hợp từ Ngân hàng Nhà nước.

Hiện nay, có nhiều phương pháp nghiên cứu được phân loại theo các tiêu chí khác nhau và có thể được sử dụng độc lập hoặc kết hợp để đạt hiệu quả nghiên cứu tối ưu Phương pháp kết hợp (mixed method) đang ngày càng phổ biến, với các thuật ngữ như PP tích hợp, PP kết hợp và PP đa phương pháp Phương pháp này bao gồm việc kết hợp PPNC định tính và định lượng, giúp nhà nghiên cứu tận dụng ưu điểm và khắc phục nhược điểm của từng phương pháp, từ đó xây dựng lý thuyết có tính khoa học thực tiễn.

Johnson, Onwuegbuzie và Turner (2007) đã xác định các đặc điểm chính của phương pháp nghiên cứu kết hợp (PP) như sau: (i) PP kết hợp bao gồm việc thu thập cả dữ liệu định tính (mở) và định lượng (đóng) để giải quyết các câu hỏi nghiên cứu hoặc giả thuyết; (ii) Phương pháp này yêu cầu phân tích cả hai loại dữ liệu, với quy trình thu thập và xử lý dữ liệu cần được thực hiện một cách nghiêm ngặt, bao gồm việc lấy mẫu đầy đủ và xác định nguồn thông tin; (iii) Hai dạng dữ liệu được tích hợp trong thiết kế phân tích thông qua việc hợp nhất, kết nối hoặc nhúng dữ liệu, với thời gian thu thập dữ liệu có thể diễn ra đồng thời hoặc tuần tự, và sự nhấn mạnh vào mỗi loại dữ liệu có thể khác nhau; và (iv) Các quy trình này có thể dựa trên một quan điểm triết học hoặc lý thuyết đã được hình thành trước đó.

Trong khuôn khổ đề tài tác giả sử dụng phương pháp kết hợp để trả lời câu hỏi nghiên cứu:

Dịch vụ ngân hàng đầu tư (NHĐT) có ảnh hưởng đáng kể đến kết quả tài chính của ngân hàng, điều này được thể hiện qua các chỉ số tài chính quan trọng như ROA (tỷ suất sinh lợi trên tài sản), ROE (tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu) và NIM (tỷ lệ biên lãi ròng) Sự tích cực hay tiêu cực của các dịch vụ này có thể định hình hiệu quả hoạt động tài chính của ngân hàng, từ đó ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững và khả năng cạnh tranh trên thị trường.

(ii) Dịch vụ NHĐT có ảnh hưởng gì đến hiệu quả hoạt động phi tài chính của ngân hàng?

(iii) Giải pháp phát huy những tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của dịch vụ NHĐT đến KQHĐ của các NHTM Việt Nam?

Phương pháp nghiên cứu định lượng được thực hiện đầu tiên với nguồn số liệu sơ cấp và thứ cấp nhằm đánh giá tác động của dịch vụ NHĐT đến kết quả kinh doanh ngân hàng thông qua mô hình hồi quy dữ liệu bảng Đồng thời, phương pháp nghiên cứu định tính được áp dụng để phân tích và giải thích các dữ liệu định tính thu thập được thông qua phỏng vấn chuyên gia Để đảm bảo sự thống nhất trong hướng tiếp cận nghiên cứu, dữ liệu định tính được xử lý theo hai bước: tóm tắt và phân nhóm, nhằm làm rõ các kết quả nghiên cứu định lượng và giải quyết những câu hỏi định tính mà nghiên cứu định lượng chưa đề cập.

Đóng góp của luận án

 Hệ thống hóa lý thuyết về dịch vụ NHĐT, tác động của dịch vụ NHĐT đến KQHĐ ngân hàng, xét về góc độ tài chính và phi tài chính.

Dựa trên các mô hình nghiên cứu toàn cầu, bài viết thiết kế một mô hình phù hợp nhằm đánh giá tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam.

Phỏng vấn chuyên gia giúp cung cấp những phân tích thực tiễn, từ đó làm rõ những hạn chế mà mô hình định lượng chưa thể giải quyết.

Kết hợp kết quả nghiên cứu và bài học kinh nghiệm quốc tế là cần thiết để đề xuất giải pháp cho các nhà chính sách và lãnh đạo ngân hàng Mục tiêu là phát huy tác động tích cực của dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) trong khi hạn chế các tác động tiêu cực Điều này sẽ giúp dịch vụ NHĐT trở thành công cụ hiệu quả, nâng cao hiệu suất hoạt động của ngân hàng.

Kết cấu của luận án

Kết cấu của luận án được chia làm 5 chương:

 Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu.

 Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn về tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử tới kết quả hoạt động của ngân hàng.

 Chương 3: Kết quả hoạt động và thực trạng phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

 Chương 4: Đánh giá tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

 Chương 5: Một số giải pháp và kiến nghị.

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Tình hình nghiên cứu ở các quốc gia trên thế giới

1.1.1 Nghiên cứu tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả tài chính của ngân hàng

Dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) có ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động (KQHĐ) của các ngân hàng, vì chúng thường mang lại lợi nhuận cao và chi phí thấp Tuy nhiên, các nghiên cứu thực nghiệm từ nhiều quốc gia lại cho thấy kết quả không đồng nhất, đặc biệt là về tác động của NHĐT đến lợi nhuận ngân hàng Các nghiên cứu này được phân loại thành hai nhóm dựa trên mức độ phát triển của quốc gia: các nước đang phát triển và các nước phát triển.

 Nghiên cứu ở các nước phát triển

- Các nghiên cứu cho thấy kết quả tác động tích cực của dịch vụ NHĐT đến kết quả hoạt động ngân hàng

Các nghiên cứu của Hasan et al (2002), Kagan et al (2005), DeYoung

(2005, 2007), Hernando, I và Nieto, M J., (2007), Onay, Ozsoz và Helvacioglu

Nghiên cứu của Delgado et al (2004, 2007) và Onay cùng Ozsoz (2013) chỉ ra rằng ứng dụng ngân hàng điện tử có tác động tích cực đến lợi nhuận của ngân hàng, mặc dù có một độ trễ thời gian nhất định, đặc biệt tại các nước Châu Âu và Hoa Kỳ Thêm vào đó, các nghiên cứu khác của Egland et al cũng hỗ trợ cho nhận định này.

Nghiên cứu của Sullivan (2000), Sathye (2005) và các tác giả khác (1998) cho thấy rằng dịch vụ ngân hàng điện tử, cụ thể là ngân hàng qua mạng, không có ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng tại Hoa Kỳ và Úc.

DeYoung (2005) đã đánh giá hiệu quả tài chính của dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) tại Mỹ, phát hiện rằng lợi nhuận của các ngân hàng điện tử thấp hơn so với ngân hàng truyền thống do chi phí lao động cao và doanh thu từ phí dịch vụ hạn chế Mặc dù vậy, các ngân hàng điện tử có xu hướng tăng trưởng nhanh hơn và có khả năng cạnh tranh tài chính tốt hơn khi mở rộng quy mô Tương tự, nghiên cứu của Delgado và cộng sự (2004, 2006) cũng chỉ ra kết quả tương tự ở Châu Âu, nhưng sự phát triển của nền kinh tế công nghệ trong nghiên cứu của họ (2004, 2007) rõ ràng hơn so với ước tính của DeYoung.

Nghiên cứu của DeYoung et al (2007) về ảnh hưởng của Internet đối với các ngân hàng cộng đồng tại Hoa Kỳ đã chỉ ra rằng việc tích hợp dịch vụ ngân hàng trực tuyến từ năm 1999 đến 2001 đã dẫn đến sự gia tăng lợi nhuận rõ rệt cho 424 ngân hàng địa phương Sử dụng biến giả để đo lường sự cung ứng dịch vụ ngân hàng trực tuyến, kết quả cho thấy rằng việc thêm kênh phân phối Internet vào mạng lưới chi nhánh đã tạo ra tăng trưởng doanh thu, chủ yếu từ các khoản thu ngoài lãi từ phí dịch vụ tài khoản Sự tiện lợi của ngân hàng trực tuyến đã khuyến khích khách hàng không chỉ duy trì tài khoản mà còn chi tiêu thêm cho các dịch vụ khác tại các chi nhánh ngân hàng.

Hernando, I và Nieto, M J., (2007) với nghiên cứu “Is the Internet Delivery

Nghiên cứu "Channel changing Banks’ Performance?" đã phân tích tác động của việc sử dụng trang web giao dịch đến hiệu suất tài chính của 72 ngân hàng thương mại tại Tây Ban Nha trong giai đoạn 1994-2002 Các chỉ tiêu tài chính được sử dụng để đo lường hiệu suất bao gồm tỷ lệ chi phí/tổng tài sản, chi phí công nghệ và tiếp thị/tổng tài sản, cùng với các chỉ số lợi nhuận như ROA, ROE, tỷ suất lãi trung gian (NIM) và hoa hồng môi giới chứng khoán Kết quả cho thấy rằng việc áp dụng web giao dịch cần thời gian để phát huy hiệu quả, với chi phí vận hành giảm dần, đặc biệt là chi phí nhân viên, tiếp thị và công nghệ thông tin Sự giảm chi phí này dẫn đến cải thiện khả năng sinh lời, ảnh hưởng tích cực đến ROA và thu nhập từ hoa hồng sau 1 năm rưỡi, và tác động tích cực đến ROE sau 3 năm, trong khi NIM không có sự thay đổi đáng kể.

Nghiên cứu của Kegan và cộng sự (2005) đã phân tích tác động của dịch vụ ngân hàng trực tuyến đến hiệu suất của các ngân hàng ở Mỹ, sử dụng mô hình phương trình cấu trúc (SEM) Mẫu nghiên cứu bao gồm 10 ngân hàng cộng đồng có tổng tài sản dưới một tỷ đô la, hoạt động tại Iowa, Minnesota, Montana, North Dakota và South Dakota Kết quả cho thấy các ngân hàng cung cấp dịch vụ ngân hàng trực tuyến có hiệu suất tốt hơn so với những ngân hàng không có dịch vụ này Hơn nữa, ngân hàng trực tuyến còn giúp cải thiện khả năng thu nhập, được thể hiện qua chỉ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu và chất lượng tài sản.

Nghiên cứu của Hasan và cộng sự (2002) cho thấy các tổ chức ngân hàng điện tử tại Ý hoạt động hiệu quả hơn đáng kể so với ngân hàng truyền thống, với các chỉ số rủi ro liên quan thấp hơn Các ngân hàng điện tử có tỷ lệ Tài sản/Nợ cao hơn và ít phụ thuộc vào tiền gửi so với nhóm ngân hàng truyền thống Tuy nhiên, yếu tố duy nhất mà ngân hàng điện tử thể hiện hiệu suất thấp hơn là chi phí không lãi suất, do yêu cầu đầu tư công nghệ ban đầu cao, dẫn đến tăng chi phí hoạt động ngoài lãi.

Nghiên cứu của Onay, Ozsoz và Helvacioglu (2008) về ảnh hưởng của ngân hàng trực tuyến đối với khả năng sinh lời của các ngân hàng tại Thổ Nhĩ Kỳ cho thấy không có mối quan hệ rõ ràng giữa ngân hàng trực tuyến và thu nhập lãi cận biên, cũng như thu nhập từ phí và hoa hồng Tuy nhiên, dịch vụ ngân hàng điện tử bắt đầu có ảnh hưởng tích cực đến ROE của ngân hàng sau hai năm, trong khi tác động tiêu cực được ghi nhận sau một năm Nghiên cứu cũng khuyến nghị rằng các quyết định đầu tư vào dịch vụ ngân hàng điện tử cần được xem xét kỹ lưỡng để cân nhắc giữa chi phí và doanh thu nhằm cải thiện hiệu suất ngân hàng Vào năm 2013, Onay và Ozsoz đã tiếp tục nghiên cứu với dữ liệu từ năm 1990.

Nghiên cứu năm 2008 của 18 ngân hàng bán lẻ tại Thổ Nhĩ Kỳ chỉ ra rằng việc áp dụng dịch vụ ngân hàng điện tử có mối liên hệ tích cực với lợi nhuận, tiền gửi và cho vay trên mỗi chi nhánh Tuy nhiên, sau 2 năm áp dụng, dịch vụ này lại có tác động tiêu cực đến lợi nhuận của ngân hàng Các tác giả cho rằng nguyên nhân của sự giảm sút lợi nhuận là do dịch vụ ngân hàng điện tử làm gia tăng cạnh tranh giữa các ngân hàng, dẫn đến thu nhập lãi thấp hơn.

 Nghiên cứu ở các nước đang phát triển

Nghiên cứu tại các nước đang phát triển như Jordan, Pakistan, Bangladesh, Iran, Ả Rập Saudi và Kenya cho thấy dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) có ảnh hưởng nhưng chưa rõ rệt đến kết quả hoạt động ngân hàng (KQHĐ) Mặc dù NHĐT cải thiện hiệu suất hoạt động ngân hàng ở một mức độ nhất định, các nghiên cứu của Rahman (2007), Malhotra và Singh (2009), Nader (2011), Josiah và Nancy (2012), Oyewole et al (2013) và Rauf và Qiang (2014) chỉ ra rằng chi phí cơ sở hạ tầng cao trong việc phát triển dịch vụ NHĐT, kết hợp với số lượng khách hàng chưa tương xứng, đã ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận của các ngân hàng ở các quốc gia này.

Cụ thể, nghiên cứu của Khrawish, A.H và Al-Sa'di, N.M (2011) “The

Bài viết "Tác động của ngân hàng điện tử đến lợi nhuận của ngân hàng: Bằng chứng từ Jordan" nhằm phân tích ảnh hưởng của dịch vụ ngân hàng điện tử đến hiệu quả lợi nhuận của các ngân hàng tại Jordan trong giai đoạn 2000-2009 Nghiên cứu sử dụng một ma trận các biến giả để đại diện cho dịch vụ ngân hàng điện tử, trong đó biến INTERNET 1 được xác định là 1 nếu ngân hàng áp dụng dịch vụ này, INTERNET 2 = 1 nếu ngân hàng đã sử dụng dịch vụ trong 2 năm qua, và INTERNET 3 = 1 nếu ngân hàng đã áp dụng dịch vụ ngân hàng điện tử hơn 2 năm.

Kết quả mô hình hồi quy cho thấy dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) không có tác động đáng kể đến lợi nhuận của các ngân hàng mới áp dụng dịch vụ này, được thể hiện qua chỉ số ROA và ROE, với chỉ số chi phí cao liên quan đến việc triển khai NHĐT Đối với các ngân hàng đã cung cấp dịch vụ NHĐT trong 2 năm, kết quả hồi quy có ý nghĩa hơn, nhưng vẫn không cho thấy tác động đáng kể đến lợi nhuận, tương tự như nghiên cứu của Mohammad và Saad (2011) cùng Malhotra và Singh (2009).

Nghiên cứu của Siam (2006) chỉ ra rằng dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) có ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận của ngân hàng trong ngắn hạn, do khách hàng tại Jordan vẫn phụ thuộc vào các kênh truyền thống cho các hoạt động ngân hàng Chi phí áp dụng NHĐT cao hơn doanh thu từ dịch vụ điện tử, do đó, các ngân hàng Jordan cần tăng cường thúc đẩy dịch vụ NHĐT và củng cố lòng tin của khách hàng Năm 2011, Al-Smadi và Al-Wabel đã nghiên cứu tác động của NHĐT đến hoạt động của 15 ngân hàng Jordan từ 2000-2010, sử dụng ROE làm chỉ số đo hiệu suất Kết quả cho thấy dịch vụ NHĐT có tác động tiêu cực đáng kể đến hiệu quả tài chính của ngân hàng Hạn chế của nghiên cứu là không xem xét ROE sau một năm áp dụng NHĐT, vì việc áp dụng công nghệ mới liên quan đến chi phí, có thể mất thời gian để phục hồi chi phí và lợi nhuận.

Nhiều nghiên cứu chỉ ra mối quan hệ tích cực giữa dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) và kết quả hoạt động (KQHĐ) của các ngân hàng tại các quốc gia đang phát triển Nghiên cứu của Josiah và Nancy (2012) cho thấy NHĐT ảnh hưởng đến ROA của các ngân hàng Kenya, đặc biệt qua việc sử dụng thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng và ATM Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Agboola (2006) tại Nigeria Nghiên cứu của Oyewole et al (2013) cũng xác nhận rằng dịch vụ NHĐT đóng góp tích cực vào hiệu suất ngân hàng tại Nigeria, với ROA và NIM có sự cải thiện sau hai năm áp dụng, mặc dù có tác động tiêu cực trong năm đầu tiên Tại Bangladesh, Rahman (2007) cho thấy rằng việc ứng dụng công nghệ trong NHĐT đã cải thiện hiệu suất của các ngân hàng, nhưng nghiên cứu này không chỉ ra rõ ràng mức độ đáng kể của những thay đổi này theo thời gian.

Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam

Số lượng nghiên cứu về dịch vụ ngân hàng đầu tư tại Việt Nam còn hạn chế so với các lĩnh vực khác trong tài chính ngân hàng Đặc biệt, có rất ít nghiên cứu phân tích tác động của dịch vụ ngân hàng đầu tư đến kết quả hoạt động của ngân hàng.

Nghiên cứu điển hình duy nhất về tác động của ngân hàng trực tuyến đến hiệu quả ngân hàng là bài báo khoa học của Dinh Van (2015), “Measuring the Impacts of Internet banking to Bank performance” Bài nghiên cứu này đã cung cấp những thông tin quan trọng về mối liên hệ giữa ngân hàng trực tuyến và hiệu suất hoạt động của các ngân hàng.

Nghiên cứu “Evidence from Vietnam” trên Tạp chí thương mại điện tử và Internet banking đã sử dụng mô hình định lượng để đánh giá tác động của dịch vụ Internet banking đến kết quả hoạt động của các ngân hàng tại Việt Nam từ năm 2009 đến 2014 Trong mô hình này, Internet banking được xem như biến giả, trong khi các chỉ tiêu tài chính như ROA, ROE, chi phí hoạt động và thu nhập ngoài lãi là biến phụ thuộc Kết quả cho thấy Internet banking có tác động tích cực đến thu nhập ngoài lãi và lợi nhuận của ngân hàng với độ trễ 3 năm, tuy nhiên mức độ tác động rất nhỏ Nghiên cứu cũng không tìm thấy mối liên hệ giữa Internet banking và chi phí hoạt động của ngân hàng Mặc dù vậy, nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc sử dụng biến giả cho Internet banking, do đó chưa phản ánh đầy đủ tác động của dịch vụ này đến kết quả hoạt động Để có cái nhìn tổng quát hơn, cần có số liệu định lượng cụ thể và áp dụng thêm các phương pháp định tính như phỏng vấn sâu với chuyên gia.

Một số nghiên cứu khác có cùng đối tượng nghiên cứu là dịch vụ NHĐT, dịch vụ thanh toán thẻ, TTKDTM như:

- Luận án tiến sỹ (LATS) của NCS Phạm Thu Hương (2012) “Phát triển dịch vụ NHĐT tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế 2012”, Đại học ngoại thương;

Nghiên cứu của Phạm Long (2012) trong Kỷ yếu Hội thảo Kinh doanh hàng năm lần 2 tại Đại học Sam Houston State đã xây dựng mô hình chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam Mô hình này nhằm đánh giá và cải thiện các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ trong lĩnh vực ngân hàng điện tử, góp phần nâng cao trải nghiệm khách hàng và tối ưu hóa hiệu quả hoạt động của các ngân hàng.

- Nghiên cứu của Trương Thị Vân Anh và Lê Văn Huy (2008): “Mô hình nghiên cứu chấp nhận E-Banking tại Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, Số

Nghiên cứu của Trần Đức Thắng (2016) tại Đại học Kinh tế Quốc dân đã chỉ ra mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử và mức độ thỏa mãn cùng trung thành của khách hàng tại Việt Nam Kết quả nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng dịch vụ để gia tăng sự hài lòng và lòng trung thành của khách hàng trong lĩnh vực ngân hàng.

- LATS của Nguyễn Danh Lương (2003): “Những giải pháp nhằm phát triển hình thức thanh toán thẻ ở Việt Nam”, Học viện ngân hàng và;

- LATS của Trịnh Thanh Huyền (2012): Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt qua NHTM ở Việt Nam, Học viện tài chính.

Các nghiên cứu về dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) tại Việt Nam đã xây dựng cơ sở lý luận vững chắc, đồng thời phân loại và xác định đặc điểm của sản phẩm và dịch vụ NHĐT Nghiên cứu tập trung vào việc đánh giá sự phát triển của dịch vụ NHĐT và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển này, cũng như tìm hiểu các yếu tố tác động đến sự chấp nhận dịch vụ NHĐT của khách hàng tại các ngân hàng Việt Nam.

Khoảng trống nghiên cứu

Hiện nay, nghiên cứu về tác động của dịch vụ ngân hàng đầu tư (NHĐT) đến kết quả hoạt động (KQHĐ) của ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam còn rất hạn chế Trong cả nghiên cứu quốc tế và trong nước, số lượng nghiên cứu kết hợp giữa phương pháp định lượng và định tính là không nhiều, chủ yếu tập trung vào một trong hai phương pháp này.

Nghiên cứu về tác động của dịch vụ ngân hàng đầu tư (NHĐT) đến kết quả hoạt động (KQHĐ) của các ngân hàng cho thấy sự khác biệt tùy thuộc vào đặc điểm của từng ngân hàng, lịch sử phát triển dịch vụ NHĐT và môi trường chính trị kinh tế của quốc gia Tác động của NHĐT có thể tích cực hoặc tiêu cực, thậm chí không có tác động nào Hầu hết các nghiên cứu, cả trong nước và quốc tế, chủ yếu tập trung vào ảnh hưởng của NHĐT đến kết quả tài chính thông qua các chỉ tiêu lợi nhuận, trong khi các kết quả phi tài chính ít được đề cập Phương pháp nghiên cứu định tính, bao gồm khảo sát và phỏng vấn chuyên gia, vẫn chưa được áp dụng rộng rãi.

Nghiên cứu này áp dụng phương pháp kết hợp song song giữa định lượng và định tính nhằm xác định ảnh hưởng của dịch vụ ngân hàng đầu tư (NHĐT) đến các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam Mục tiêu là làm rõ dịch vụ NHĐT có tác động tích cực hay tiêu cực đến kết quả hoạt động của các NHTM trong bối cảnh dịch vụ này đang phát triển Điểm mới của luận án nằm ở việc đánh giá sự phát triển và ảnh hưởng của dịch vụ NHĐT trong giai đoạn hiện tại.

Mô hình đánh giá tác động của dịch vụ ngân hàng đầu tư (NHĐT) đối với kết quả hoạt động (KQHĐ) của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam được thiết kế phù hợp với đặc điểm và tính chất riêng của các NHTM trong nước Mô hình này nhằm xác định rõ ràng mối quan hệ giữa dịch vụ NHĐT và hiệu quả hoạt động của các NHTM, từ đó giúp các ngân hàng tối ưu hóa chiến lược phát triển dịch vụ và nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.

- Đánh giá kết quả kinh doanh, thực trạng hoạt động NHĐT của các NHTM Việt Nam ở giai đoạn ngân hàng điện tử bắt đầu bùng phát mạnh mẽ.

Nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích tác động của dịch vụ ngân hàng đầu tư (NHĐT) đối với kết quả hoạt động (KQHĐ) của các ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam Sử dụng các phương pháp định lượng kết hợp với định tính và số liệu cập nhật trong giai đoạn mới, nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của dịch vụ NHĐT đến các chỉ tiêu tài chính của ngân hàng, đặc biệt là các tỷ lệ sinh lời Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng xem xét các chỉ tiêu phi tài chính như gia tăng sức cạnh tranh, mở rộng quy mô khách hàng, nâng cao chất lượng dịch vụ và cải thiện cách thức vận hành của ngân hàng.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ ĐẾN KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG

Tổng quan về dịch vụ ngân hàng điện tử

2.1.1 Khái niệm dịch vụ ngân hàng điện tử

Nguồn gốc của dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) bắt nguồn từ thương mại điện tử (TMĐT), trong đó NHĐT không chỉ là hạ tầng thanh toán trực tuyến cho TMĐT mà còn là một sản phẩm và dịch vụ tài chính điện tử TMĐT được định nghĩa là việc trao đổi thông tin, mua bán sản phẩm và dịch vụ qua mạng máy tính như Internet và dữ liệu điện tử EDI Do đó, dịch vụ NHĐT cung cấp thông tin và dịch vụ ngân hàng truyền thống cũng như hiện đại thông qua các phương tiện điện tử và mạng Internet.

Dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) cho phép khách hàng truy cập tài khoản và thông tin sản phẩm ngân hàng qua Internet, bổ sung cho các kênh như ATM, PC bank và Home bank Việc áp dụng NHĐT tạo ra một mô hình phân phối đa kênh, mang lại sự tiện lợi và hiệu quả trong giao dịch, mở ra tiềm năng lớn cho ngành ngân hàng.

Dịch vụ ngân hàng điện tử, hay còn gọi là ngân hàng điện tử, là một thuật ngữ phức tạp và khó định nghĩa do sự đa dạng trong cách tiếp cận và mục đích sử dụng khác nhau.

Dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) được định nghĩa là việc sử dụng các kênh phân phối điện tử để cung cấp sản phẩm dịch vụ ngân hàng, là một phần của tài chính điện tử Theo IMF (2002) và Allen cùng các cộng sự (2002), NHĐT là phương thức cung cấp dịch vụ tài chính qua các phương tiện điện tử Hiện nay, các ngân hàng bán lẻ đang chuyển hướng sang phân phối dịch vụ tài chính đa kênh trên nền tảng kỹ thuật số, nhằm cung cấp các dịch vụ truyền thống qua Internet.

Khác với định nghĩa truyền thống, Siddik và cộng sự (2016) định nghĩa “ngân hàng điện tử” là một hệ thống cho phép nhà cung cấp dịch vụ, doanh nghiệp và cá nhân truy cập thông tin và sử dụng dịch vụ tài chính kỹ thuật số qua mạng tư nhân hoặc công cộng Ví dụ, khách hàng có thể sử dụng các thiết bị thông minh như máy tính cá nhân, máy rút tiền tự động (ATM) và trợ lý kỹ thuật số cá nhân (PDA) để truy cập ngân hàng điện tử và thực hiện giao dịch mà không bị hạn chế về không gian và thời gian so với ngân hàng truyền thống.

Dịch vụ ngân hàng điện tử, theo nghiên cứu của Shah và Clarke (2009), được định nghĩa là việc cung cấp dịch vụ tài chính qua các kênh phân phối điện tử của tổ chức đến tay khách hàng, bao gồm cả cá nhân và doanh nghiệp Các ngân hàng hiện nay cung cấp nhiều dịch vụ tài chính điện tử tiên tiến, cho phép khách hàng truy cập tài khoản, chuyển tiền giữa các tài khoản, mở tài khoản tiết kiệm, thanh toán hóa đơn, vay vốn, giao dịch ngoại hối, ủy thác, bảo hiểm và nhiều sản phẩm tài chính khác.

Dịch vụ ngân hàng điện tử là việc sử dụng các kênh phân phối điện tử nhằm cung cấp sản phẩm và dịch vụ ngân hàng đến tay khách hàng.

Các kênh phân phối điện tử là hệ thống phương tiện điện tử tương tác và quy trình tự động hóa mà ngân hàng sử dụng để giao tiếp và cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho khách hàng Những kênh phân phối điện tử phổ biến bao gồm giao dịch qua ATM, POS, Internet banking và Mobile banking Khái niệm này sẽ được tác giả áp dụng xuyên suốt trong luận án.

Mối quan hệ giữa ngân hàng điện tử và ngân hàng số

Ngân hàng điện tử, hay còn gọi là ngân hàng số, là một mô hình kinh doanh hoàn toàn mới, không có chi nhánh truyền thống Theo Chris (2014), ngân hàng số hoạt động dựa trên “nguồn lực số” và “mạng lưới số” là giá trị cốt lõi Khách hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng số hoàn toàn thông qua công nghệ số, không cần tương tác với chi nhánh hay nhân viên ngân hàng Ngân hàng số (NHS) cho phép tự động hóa và tiêu chuẩn hóa các hoạt động ngân hàng trên nền tảng số (Gasser, 2017) Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về ngân hàng số, nhưng NHS chủ yếu cung cấp sản phẩm và dịch vụ ngân hàng qua internet, điện thoại di động, máy tính bảng, và các trang mạng xã hội, thương mại điện tử.

Ngân hàng số có phạm vi và tính toàn diện vượt trội so với các khái niệm như dịch vụ ngân hàng điện tử, ngân hàng trực tuyến hay ngân hàng Internet, vì chúng chỉ phản ánh một phần ứng dụng số hóa trong ngân hàng Trong khi đó, mô hình ngân hàng số (NHS) tích hợp công nghệ điện tử và "không chạm" vào tất cả các hoạt động ngân hàng, từ thanh toán, đầu tư đến quản lý tài khoản, bảo hiểm và chứng khoán NHS không chỉ nâng cao hiệu quả hoạt động mà còn tăng cường sự gắn kết với khách hàng, cung cấp tiện ích linh hoạt và chi phí hợp lý cho cả cá nhân và doanh nghiệp.

Ngân hàng số không chỉ đơn thuần là ngân hàng điện tử hay ngân hàng trực tuyến, mà còn đại diện cho một mô hình kinh doanh hoàn toàn số hóa, bao gồm cả dịch vụ và cơ cấu tổ chức Ngân hàng điện tử là phần cốt lõi của ngân hàng số, giúp chuyển đổi từ mô hình ngân hàng chi nhánh sang ngân hàng không chi nhánh Việc phát triển dịch vụ ngân hàng số là nhu cầu thiết yếu, giúp các ngân hàng vượt qua thách thức, tạo lợi thế cạnh tranh và phát triển bền vững trong thời đại CMCN 4.0 và kinh tế số, đồng thời thúc đẩy tài chính toàn diện quốc gia.

2.1.2 Vai trò của dịch vụ ngân hàng điện tử

Dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) đóng vai trò quan trọng trong ngành ngân hàng và nền kinh tế toàn cầu, không thể phủ nhận tầm ảnh hưởng của nó đối với khách hàng Trong bối cảnh kinh tế số hóa và toàn cầu hóa, sự phát triển của dịch vụ NHĐT trở thành xu thế tất yếu, cung cấp hạ tầng thanh toán trực tuyến cho nền kinh tế số và là sản phẩm công nghệ tài chính chủ chốt của ngân hàng NHĐT đã trở thành phần không thể thiếu trong kinh doanh ngân hàng hiện đại, giúp nâng cao khả năng cạnh tranh và thay đổi cách tiếp cận các sản phẩm tài chính một cách đáng kể.

Thay đổi trong dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) đã trở nên rõ rệt trong những năm gần đây, đặc biệt trong bối cảnh đại dịch COVID-19, khi các biện pháp giãn cách xã hội thúc đẩy việc áp dụng công nghệ số để duy trì hoạt động thanh toán và giao dịch Dịch vụ NHĐT không chỉ phát triển mạnh mẽ mà còn phù hợp với tình hình kinh tế chính trị xã hội toàn cầu hiện nay Đối với các ngân hàng, NHĐT là một phương thức kinh doanh hiệu quả, nâng cao hình ảnh ngân hàng và tạo dựng mối quan hệ tốt hơn với khách hàng thông qua các dịch vụ cao cấp và sản phẩm tùy chỉnh Furst và cộng sự (2000) coi NHĐT là kênh phân phối từ xa cho các dịch vụ ngân hàng, trong khi Kricks (2009) mô tả nó như một hình thức giao hàng tự động sản phẩm ngân hàng đến tay khách hàng qua các kênh điện tử Sự xuất hiện của NHĐT không chỉ làm giảm dần các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng truyền thống mà còn cải tiến mô hình cung cấp dịch vụ, cho phép truy cập thời gian thực và giảm chi phí hoạt động, từ đó tối đa hóa hiệu quả ngân hàng (Ovia, 2001; Gonzalez, 2008) Điều này cũng mở ra cơ hội cho các ngân hàng mở rộng cơ sở khách hàng và tăng lợi nhuận (Okibo, Wario 2014).

Theo Sumra và Manzoor (2011), dịch vụ ngân hàng trực tuyến sử dụng Internet để phân phối các dịch vụ như mở tài khoản tiền gửi, thanh toán hóa đơn điện tử và chuyển khoản trực tuyến Các dịch vụ tài chính này được cung cấp qua nhiều kênh, bao gồm website của ngân hàng có văn phòng thực tế, ứng dụng điện tử, hoặc ngân hàng ảo Internet banking là một kênh phân phối hiệu quả, giúp cung cấp sản phẩm tài chính giá trị cao với chất lượng cải thiện và chi phí thấp hơn, không bị ràng buộc bởi ranh giới vật lý, đồng thời cho phép bán chéo các sản phẩm như thẻ tín dụng và khoản vay.

Theo Lin, Hu và Sung (2005), dịch vụ ngân hàng trực tuyến (NHĐT) là một kênh bổ sung hiệu quả giúp cung cấp dịch vụ cho khách hàng với chi phí thấp hơn Những kênh này không chỉ giảm thiểu chi phí mà còn mở rộng khu vực địa lý phục vụ khách hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận dịch vụ ngân hàng.

NH và có thể giúp thu hút và giữ KH hơn nữa (Dandapani, Karels và Lawrence,

Đánh giá tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam

4.1.1 Xây dựng mô hình đánh giá tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Nghiên cứu về tác động của dịch vụ ngân hàng đầu tư (NHĐT) đối với hiệu quả hoạt động ngân hàng (NH) chủ yếu sử dụng mô hình hồi quy dữ liệu bảng, với các chỉ số chính như ROA, ROE và NIM Kết quả cho thấy phần lớn các nghiên cứu ở nhiều quốc gia đều ghi nhận tác động tích cực, mặc dù có độ trễ nhất định Tuy nhiên, một số nghiên cứu cũng chỉ ra ảnh hưởng tiêu cực hoặc không rõ ràng Những kết quả đa dạng từ các nghiên cứu của Alsmadi và Alwabel (2011), Oyewole và cộng sự (2013), Dinh Van (2015), Siddik và cộng sự (2016), và Yang và cộng sự (2018) cung cấp cái nhìn sâu sắc cho học giả, nhà nghiên cứu và nhà quản lý về mối liên hệ giữa dịch vụ NHĐT và kết quả hoạt động của các ngân hàng.

Nghiên cứu của Al-smadi và Al-wabel (2011) đã phát triển một mô hình hồi quy để phân tích tác động của các yếu tố đến tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu (ROE), với công thức: ROE it = β 0 + β 1 EBAN it + β 2 SIZE it + β 3 CAP it + β 4 CRR it + β 5 EXPM it + β 6 LIQ it + β 7 GDPG it + β 8 INF it + ε it.

EBAN được định nghĩa là 1 nếu ngân hàng cung cấp dịch vụ ngân hàng điện tử, ngược lại sẽ là 0 SIZE thể hiện quy mô doanh nghiệp thông qua lôga tổng tài sản, trong khi CAP được tính bằng vốn chủ sở hữu chia cho tổng tài sản.

CRR là khoản vay không phù hợp/tổng vay;

EXPM là chi phí hoạt động/tổng tài sản;

LIQ tổng vay/tổng tiền gửi;

Tăng trưởng GDP được thể hiện qua chỉ số GDPG, trong khi INF đại diện cho lạm phát Hằng số β0 cùng với các hệ số βi (i=2, 8) cho thấy ảnh hưởng của các biến độc lập đến biến phụ thuộc Nhiễu của mô hình được ký hiệu là εit, với chỉ số i đại diện cho ngân hàng NH i và t là năm t.

Năm 2013, Oyewole và các cộng sự đã nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của ngân hàng Mô hình nghiên cứu này cơ bản không có nhiều thay đổi so với mô hình của Al-smadi và Al-wabel (2011) Trong đó, các biến số phản ánh dịch vụ ngân hàng điện tử được xem xét kỹ lưỡng.

Nghiên cứu của Oyewole và cộng sự (2013) đã mở rộng mô hình bằng cách bổ sung các biến phụ thuộc như ROA, ROE và NIM, cho thấy đây là những chỉ tiêu quan trọng thể hiện kết quả hoạt động của ngân hàng (NH) Tại Việt Nam, nghiên cứu của Van Dinh và các cộng sự (2015) đã đo lường tác động của dịch vụ ngân hàng đầu tư (NHĐT) đến hoạt động của NH, sử dụng các biến phụ thuộc như ROA, ROE, NIE/A và NONII/A Mặc dù biến dịch vụ NHĐT vẫn được giữ ở dạng giả với giá trị 0 và 1, nghiên cứu này đã chỉ ra tác động của dịch vụ NHĐT đến các chỉ tiêu kết quả hoạt động của NH Tuy nhiên, việc lựa chọn hai biến NIE/A và NONII/A bị đánh giá là không phù hợp do chúng phản ánh nhiều hơn về khía cạnh đầu vào của mô hình.

Trước đây, các nghiên cứu thường sử dụng biến số dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) dưới dạng biến giả 0 hoặc 1 do khó khăn trong việc thu thập dữ liệu và sự phát triển hạn chế của dịch vụ này Tuy nhiên, trong luận án này, tác giả đã chọn sử dụng biến số NHĐT dưới dạng giá trị, nhờ vào sự phát triển mạnh mẽ của dịch vụ NHĐT và sự đầy đủ của dữ liệu hiện có Hầu hết các ngân hàng tại Việt Nam hiện nay đều cung cấp dịch vụ NHĐT, vì vậy việc áp dụng biến số nhị phân không còn phù hợp nữa.

Bảng 4.1: Tổng hợp các biến phụ thuộc và độc lập được sử dụng trong các nghiên cứu liên quan trước đây

Theo Abbasi và Weigand (2017), việc kế thừa các nghiên cứu trước và lựa chọn phù hợp với điều kiện dữ liệu cũng như đặc điểm của các ngân hàng thương mại Việt Nam là cần thiết Tác giả đề xuất xây dựng một mô hình đánh giá tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động của ngân hàng, với mô hình rút gọn được trình bày như sau:

Về bản chất đây là mô hình hồi quy đa biến, trong đó:

1) Các chỉ số i và t lần lượt chỉ NH thứ i ở năm t

2) Y là tập hợp các biến số thể hiện các KQHĐ của NH như ROA, ROE và NIM

3) X 1 là tập hợp các biến số thể hiện dịch vụ NHĐT của NH bao gồm: Mobile banking và Internet banking; và số lượng cây ATM và POS của các NH, số lượng chi nhánh của NH.

4) X 2 là tập hợp các biến số thể thiện đặc trưng của NH như: Tỷ lệ dư nợ cho vay KH/tổng tài sản; tỷ lệ chi phí hoạt động/lợi nhuận hoạt động (Operating Expense); tỷ lệ VCSH/tổng tài sản (EQUITY); và quy mô tổng tài sản NH (SIZE) và các biến số thể hiện tác động của các yếu tố vĩ mô của nền kinh tế như GDP và CPI

5) u là sai số của mô hình

6) Các chỉ số i và t lần lượt thể hiện cho NH i và năm t.

Giải thích các biến số

Dependent variables are financial indicators that reflect the performance of commercial banks, specifically: Return on Assets (ROA), which measures profitability relative to total assets; Return on Equity (ROE), which assesses profitability in relation to shareholders' equity; and Net Interest Margin (NIM), which indicates the difference between interest income and interest expenses.

 Các biến độc lập bao gồm:

Các yếu tố giải thích dịch vụ ngân hàng điện tử bao gồm giá trị giao dịch qua Mobile banking và Internet banking (IMbank), số lượng máy giao dịch tự động (ATM) và máy chấp nhận thanh toán (POS) của các ngân hàng, cùng với số lượng chi nhánh của ngân hàng.

Các biến kiểm soát trong nghiên cứu bao gồm: tỷ lệ chi phí hoạt động trên lợi nhuận hoạt động (OPEX), tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản (EQUITY), quy mô ngân hàng (SIZE), tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản (LOAN), cùng với các yếu tố vĩ mô như tăng trưởng kinh tế (GDP) và lạm phát (CPI).

Mô hình tác giả xây dựng được thể hiện bằng công thức toán học như sau:

(i) ROA it = β 0 + β 1 IMbank it + β 2 ATM it + β 3 POS t + β 4 BRANCH it + β 5 SIZE it + β 6 EQUITYi t + β 7 LOAN it + β 8 OPEX it + β 9 GDP it + β 10 CPI it + ε it

(ii) ROE it = β 0 + β 1 IMbank it + β 2 ATM it + β 3 POS t + β 4 BRANCH it + β 5 SIZE it + β 6 EQUITYi t + β 7 LOAN it + β 8 OPEX it + β 9 GDP it + β 10 CPI it + ε it

(iii) NIM it = β 0 + β 1 IMbank it + β 2 ATM it + β 3 POS t + β 4 BRANCH it + β 5 SIZE it

+ β 6 EQUITYi t + β 7 LOAN it + β 8 OPEX it + β 9 GDP it + β 10 CPI it + ε it 4.1.1.2 Mô tả dữ liệu trong mô hình

Hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện có 49 ngân hàng, bao gồm 35 ngân hàng thương mại (NHTM) với 4 ngân hàng nhà nước và 31 ngân hàng cổ phần Ngoài ra, còn có 9 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 2 ngân hàng chính sách, 1 ngân hàng hợp tác xã và 2 ngân hàng liên doanh.

Đánh giá tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử tới các kết quả hoạt động phi tài chính của ngân hàng

Trong luận án này, tác động của dịch vụ ngân hàng đầu tư đến các kết quả phi tài chính được đánh giá thông qua phương pháp phỏng vấn sâu chuyên gia Theo Saunders et al (2009), phỏng vấn có thể được phân loại thành ba loại chính: phỏng vấn có cấu trúc, bán cấu trúc và phi cấu trúc (phỏng vấn chuyên sâu) Với mục tiêu nghiên cứu nhằm đánh giá và giải thích, phương pháp phỏng vấn chuyên sâu là lựa chọn phù hợp, cho phép phân tích dữ liệu bằng phương pháp định tính (Robson, 2002).

4.2.1 Phương pháp phỏng vấn chuyên gia

Phương pháp phỏng vấn chuyên theo Saunders et al (2009) được phân loại thành ba loại chính: phỏng vấn có cấu trúc, phỏng vấn bán cấu trúc và phỏng vấn phi cấu trúc (phỏng vấn chuyên sâu) Đối với mục đích nghiên cứu đánh giá và giải thích, phỏng vấn chuyên sâu là lựa chọn phù hợp, cho phép phân tích dữ liệu bằng phương pháp định tính (Robson, 2002).

Phương pháp phỏng vấn sâu được NCS áp dụng nhằm thu thập thông tin định tính và giải thích kết quả mô hình định lượng Qua đó, nghiên cứu xác định các nguyên nhân hạn chế của dịch vụ ngân hàng đầu tư tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, đánh giá tác động của dịch vụ này đến kết quả tài chính và phi tài chính của ngân hàng Từ những phân tích trên, bài viết đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy dịch vụ ngân hàng đầu tư và gia tăng hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

Mục đích phỏng vấn sâu:

- Phỏng vấn sâu để kiểm tra và sàng lọc biến số của mô hình đánh giá tác động của dịch vụ NHĐT đến KQHĐ ngân hàng.

- Phân tích các chỉ tiêu định tính đánh giá tác động của dịch vụ NHĐT đến KQHĐ ngân hàng.

Dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) tại Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ, mang lại nhiều lợi ích cho người dùng và ngân hàng Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số thách thức cần giải quyết để tối ưu hóa hiệu quả của dịch vụ này Để phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của NHĐT đến kết quả hoạt động ngân hàng, cần có các giải pháp như nâng cao an ninh mạng, cải thiện chất lượng dịch vụ và tăng cường giáo dục tài chính cho người dân Việc này không chỉ giúp tăng cường sự tin tưởng của khách hàng mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành ngân hàng trong thời gian tới.

Kết quả từ phỏng vấn chuyên gia cung cấp thông tin quan trọng, giúp đánh giá toàn diện thực trạng phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) và tác động của dịch vụ này đến kết quả hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam.

4.2.2 Đối tượng và phương thức phỏng vấn Đối tượng tham gia phỏng vấn là các nhà khoa học, chuyên gia có kiến thức và kinh nghiệm về lĩnh vực kinh tế, tài chính ngân hàng, công nghệ thông tin Cụ thể: Giảng viên, nhà nghiên cứu tại các trường đại học; Lãnh đạo, chuyên viên tại NHNN Việt Nam; Lãnh đạo, chuyên viên một số ngân hàng thương mại như Agribank, Vietinbank, Sacombank, Eximbank, BIDV, Lienvietpost bank.

Tác giả đã tiến hành phỏng vấn 20 chuyên gia, bao gồm 6 nhà khoa học trong lĩnh vực kinh tế, tài chính ngân hàng và công nghệ thông tin; 4 cán bộ quản lý nhà nước về hoạt động ngân hàng; và 10 nhà lãnh đạo, chuyên viên am hiểu về dịch vụ ngân hàng đầu tư tại các ngân hàng thương mại Việt Nam Mẫu phiếu phỏng vấn cùng danh sách chuyên gia được đính kèm trong phụ lục.

Thời gian phỏng vấn: 45-60 phút Phương thức phỏng vấn: phỏng vấn trực tiếp, phỏng vấn qua điện thoại, zoom meeting (có ghi chép tổng hợp).

NCS đã phỏng vấn các nhà khoa học và giảng viên từ các trường đại học uy tín để đánh giá tính hợp lý của phương pháp nghiên cứu và mô hình nghiên cứu Kết quả cho thấy có sự đồng thuận về tính căn cứ của phương pháp và các biến số trong mô hình, phù hợp với các nghiên cứu trước đó cũng như dữ liệu thực tế của các NHTM Việt Nam Bảng 4.1 đã tổng hợp rõ ràng các biến phụ thuộc và độc lập được sử dụng trong các nghiên cứu liên quan trước đây.

Dịch vụ ngân hàng đầu tư (NHĐT) được đánh giá là có ảnh hưởng tích cực đến kết quả hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam, theo kết quả phỏng vấn 100% chuyên gia NHĐT không chỉ cải thiện hình ảnh của ngân hàng mà còn giúp mở rộng mạng lưới khách hàng và thay đổi mô hình tổ chức hoạt động, đặc biệt là ở những ngân hàng cổ phần tiên phong trong lĩnh vực khoa học công nghệ.

Cụ thể tác động của dịch vụ NHĐT đến kết quả hoạt động phi tài chính của ngân hàng được các chuyên gia xác định như sau:

- Dịch vụ NHĐT góp phần gia tăng tương tác khách hàng, cải thiện hình ảnh, uy tín thương hiệu ngân hàng

Kết quả phỏng vấn các lãnh đạo và chuyên viên tại BIDV, Vietinbank, Eximbank, và Sacombank cho thấy rằng sự phát triển của dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) đang giúp các ngân hàng chuyển giao dịch từ các chi nhánh và quầy giao dịch sang các kênh phân phối điện tử Điều này không chỉ gia tăng khả năng tương tác với khách hàng mà còn cải thiện hình ảnh của ngân hàng một cách trực tiếp.

Chuyên gia ngân hàng cho rằng, khách hàng chọn và trung thành với ngân hàng bán lẻ nhờ vào tính tiện ích, hữu dụng và uy tín Do đó, các ngân hàng thương mại đang nỗ lực nâng cao uy tín thương hiệu và cung cấp sản phẩm linh hoạt với chi phí thấp Bên cạnh đó, dịch vụ ngân hàng điện tử được sử dụng như một công cụ marketing trực tuyến, giúp thu hút khách hàng mới và cải thiện sự hài lòng của khách hàng hiện tại.

- Dịch vụ NHĐT góp phần đơn giản hóa quy trình, cải thiện chất lượng dịch vụ, tăng năng suất lao động và hiệu quả hoạt động của ngân hàng

Việc áp dụng công nghệ thông tin trong ngân hàng giúp đơn giản hóa quy trình, giảm thiểu thủ tục giấy tờ và nâng cao chất lượng dịch vụ Lãnh đạo ngân hàng Sacombank nhấn mạnh rằng dịch vụ ngân hàng điện tử không chỉ cải thiện hình ảnh mà còn giúp tiết kiệm chi phí vận hành và nhân sự, từ đó tạo điều kiện để đầu tư phát triển các sản phẩm mới.

- DV khác, tăng tính cạnh tranh trên thương trường.

Dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) không chỉ tăng năng suất lao động mà còn giảm bớt thủ tục hành chính và chi phí nhân sự, khuyến khích nguồn nhân lực chất lượng cao Công nghệ đã làm thay đổi toàn diện ngành ngân hàng, từ đặc điểm kinh doanh đến nguồn nhân lực Sự phát triển không ngừng của công nghệ yêu cầu nguồn nhân lực trong ngành ngân hàng phải cải thiện chất lượng, nâng cao kiến thức và kỹ năng.

- Phát triển dịch vụ NHĐT là bước tiền đề giúp đổi mới mô hình kinh doanh theo hướng số hóa

Các chuyên gia cho rằng hoạt động ngân hàng đầu tư không chỉ đơn thuần là cung cấp dịch vụ ngân hàng mà còn là một mô hình giúp các ngân hàng cải cách cơ cấu tổ chức và phương thức kinh doanh Điều này cho phép ngân hàng thích ứng với quá trình hội nhập tài chính và hướng tới phát triển bền vững trong ngành ngân hàng.

Các chuyên gia và lãnh đạo tại NHNN nhấn mạnh vai trò quan trọng của dịch vụ ngân hàng điện tử trong quá trình chuyển đổi số của ngành tài chính ngân hàng Chính phủ và NHNN liên tục theo dõi và chỉ đạo các tổ chức tín dụng phát triển thanh toán điện tử, mở rộng ứng dụng thanh toán số trong các lĩnh vực công Đồng thời, việc sớm ban hành cơ chế thử nghiệm để kiểm soát công nghệ tài chính ngân hàng cũng được xem là cần thiết.

Đánh giá chung tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động các ngân hàng thương mại Việt Nam

4.3.1 Tác động tích cực của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động ngân hàng

Dựa trên các phân tích định lượng và định tính, có thể xác nhận rằng dịch vụ ngân hàng đầu tư (NHĐT) mang lại những tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng, cả về mặt tài chính lẫn phi tài chính.

Theo mô hình định lượng, dịch vụ ngân hàng điện tử qua ATM, Internet banking và Mobile banking đã cải thiện tích cực các chỉ số tài chính như ROA, ROE và NIM Những dịch vụ này không chỉ tạo ra nguồn thu nhập ngoài lãi mà còn mở rộng quy mô khách hàng, từ đó thúc đẩy tăng trưởng tiền gửi và cho vay, góp phần tăng lợi nhuận ngân hàng trong dài hạn.

Dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) không chỉ thúc đẩy doanh thu và lợi nhuận cho ngân hàng mà còn cải thiện hiệu suất lao động, nâng cao uy tín thương hiệu và mở rộng mạng lưới khách hàng đến nhiều đối tượng NHĐT đang trở thành xu hướng không thể thiếu trong kinh doanh ngân hàng hiện đại.

Dịch vụ ngân hàng đầu tư (NHĐT) chuyển đổi sang mô hình ngân hàng số sẽ là chiến lược then chốt giúp các ngân hàng thương mại (NHTM) cải tiến mô hình kinh doanh Mục tiêu này không chỉ hướng tới phát triển bền vững mà còn góp phần xanh hóa hoạt động ngân hàng, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài, công ty tài chính và công ty công nghệ trong bối cảnh thị trường luôn biến đổi và đổi mới.

4.3.2 Một số tác động hạn chế khi triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động ngân hàng

Đầu tư vào phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) đòi hỏi nguồn vốn lớn và thời gian thu hồi vốn chậm, có thể làm tăng chi phí và giảm lợi nhuận ngắn hạn của ngân hàng Việc xây dựng hạ tầng NHĐT cần đầu tư vào cơ sở vật chất, thiết bị, phần mềm và đào tạo nhân lực, điều này yêu cầu năng lực tài chính và quản lý mạnh mẽ từ các ngân hàng thương mại Khó khăn trong quá trình hiện đại hóa và phát triển dịch vụ NHĐT hiện nay liên quan đến việc lựa chọn công nghệ và cập nhật phần mềm ứng dụng, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động Các ngân hàng nhỏ với nguồn lực tài chính hạn chế thường gặp khó khăn trong việc cải tiến công nghệ và đầu tư hạ tầng, dẫn đến việc số hóa hoạt động ngân hàng diễn ra chậm hoặc không triệt để.

Rủi ro công nghệ và hoạt động dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) đang gia tăng đáng kể, dẫn đến việc tăng chi phí dự phòng và xử lý rủi ro, từ đó có thể ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại (NHTM).

Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ và sự gia tăng toàn cầu của giao dịch thương mại điện tử đã dẫn đến sự phụ thuộc ngày càng cao của ngân hàng vào các đối tác công nghệ Đồng thời, nhu cầu ngày càng cao từ nền kinh tế và khách hàng tạo ra những rủi ro mới về công nghệ, chiến lược, hoạt động và pháp lý cho các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng điện tử, ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của ngân hàng thương mại.

Thứ ba, những rủi ro về an ninh tài chính, bảo mật, gian lận làm mất tiền của

Sự gia tăng các vấn đề liên quan đến khách hàng (KH) đang ảnh hưởng tiêu cực đến uy tín và thương hiệu của các ngân hàng thương mại (NHTM) Các vấn đề an toàn tài chính và bảo mật thông tin KH đã tác động xấu đến hoạt động của NHTM Mặc dù việc thanh toán qua các dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) thúc đẩy nền kinh tế không tiền mặt, nhanh chóng và hiện đại, nhưng khách hàng vẫn lo ngại về tính an toàn của giao dịch điện tử Những trường hợp lừa đảo, đánh cắp tài khoản và thông tin ngày càng gia tăng, cho thấy rủi ro trong việc triển khai dịch vụ NHĐT Điều này xuất phát từ khả năng bảo mật của ngân hàng chưa cao và nhận thức cũng như thao tác giao dịch an toàn của khách hàng còn hạn chế.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ

Ngày đăng: 10/07/2021, 07:43

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
3. Bộ Tài chính (2017), Tài liệu hội thảo “Cách mạng công nghiệp 4.0 và ngành tài chính” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cách mạng công nghiệp 4.0 vàngành tài chính
Tác giả: Bộ Tài chính
Năm: 2017
4. Trương Đức Bảo (2003), “Ngân hàng điện tử và các phương tiện giao dịch điện tử”- Tạp chí tin học ngân hàng số 4(58) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ngân hàng điện tử và các phương tiện giao dịchđiện tử
Tác giả: Trương Đức Bảo
Năm: 2003
15. Pham Long (2010), “A conceptual framework for e-banking service quality in Vietnam”, Second Annual General Business Conference Proceedings, Sam Houston State University, pp 119-133 Sách, tạp chí
Tiêu đề: A conceptual framework for e-banking servicequality in Vietnam
Tác giả: Pham Long
Năm: 2010
17. Trần Thanh Liêm (2004) “Các kênh giao dịch của mô hình ngân hàng bán lẻ”, Tạp chí Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các kênh giao dịch của mô hình ngân hàng bán lẻ
21. Trần Hoàng Ngân (2004) “Vài nét về sự phát triển NHĐT trên thế giới”,Tạp chí ngân hàng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vài nét về sự phát triển NHĐT trên thế giới
32. Nguyễn Xuân Thành (2005) “Những vấn đề quan tâm nhất hiện nay của các nhà quản lý ngân hàng hiện đại”, Tạp chí ngân hàng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những vấn đề quan tâm nhất hiện nay của các nhà quản lý ngân hàng hiện đại
1. Trương Thị Vân Anh và Lê Văn Huy (2008): Mô hình nghiên cứu chấp nhận E Banking tại Việt Nam, Nghiên cứu kinh tế - Số 362- tháng 7/2008 Khác
2. Báo cáo tài chính hợp nhất và báo cáo thường niên của các ngân hàng NHTM Việt Nam các năm 2014-2018 Khác
5. Tạ Quang Đôn (2006), Hoàn thiện khuôn khổ thể chế đối với dịch vụ ngân hàng hiện đại, Chiến lược phát triển dịch vụ Ngân hàng đến năm 2010 và tầm nhìn 2020 Khác
6. PGS, TS Phạm Tiến Đạt và Lưu Ánh Nguyệt (2019): Ngân hàng số - Triển vọng và phát triển trong tương lai, Tạp chí Ngân hàng số 2+3/2019 Khác
7. Phan Thị Thu Hà (2009), Quản trị ngân hàng thương mại, NXB Giao thông vận tải Khác
8. Phạm Xuân Hòe (2014) Ngân hàng Việt Nam với cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những định hướng tiếp cận. NXB Đại học KTQD Khác
9. Phạm Thu Hương (2012): Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án Tiến sỹ, Trường Đại học Ngoại Thương Khác
10. Ngô Thị Liên Hương (2012): Đa dạng hoá dịch vụ tại ngân hàng thương mại Việt Nam, Luận án Tiến sỹ, Đại học Kinh tế quốc dân Khác
11. Trịnh Thanh Huyền (2012): Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng thương mại ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ, Học viện Tài chính Khác
12. Trịnh Thị Mai Hoa (2006), Phát triển thị trường dịch vụ ngân hàng trong điều kiện hội nhập kinh tế của Việt Nam – Chiến lược phát triển dịch vụ Ngân hàng đến năm 2010 và tầm nhìn 2020 Khác
13. Học viện Ngân hàng (2020), Kỷ yếu hội thảo quốc gia : Thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế số Khác
14. Hiệp hội TMĐT Việt Nam, Báo cáo Chỉ số TMĐT Việt Nam các năm 2014-2019 Khác
16. Nguyễn Danh Lương (2003): Những giải pháp nhằm phát triển hình thức thanh toán thẻ ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ, Học viện Ngân hàng Khác
18. Luật GDĐT số 51/2005/QH11do Quốc hội ban hành ngày 29/11/2005 Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w