PHÔI THAI HỌC, GIẢI PHẪU HỌC VÀ SINH LÝ VÁCH NGĂN – CUỐN MŨI DƯỚI
Phôi thai học vách ngăn mũi
Các cấu trúc vùng mặt và mũi được hình thành từ ba nguồn phôi thai chính: ngoại bì, nụ thần kinh và trung bì Ngoại bì tạo ra các cấu trúc che phủ thông qua sự tương tác với các lớp trung mô, thiết lập khuôn mẫu cho sự phát triển các cấu trúc giải phẫu Nụ thần kinh đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của phần lớn trung mô vùng mặt Trung bì cũng góp phần hình thành tiền thân của các đại bào cơ, từ đó phát triển thành các cơ vận động chủ động vùng sọ mặt.
Tại tuần thứ 4 của thai kỳ, đã xác định 5 cấu trúc tiền thân xung quanh hố nguyên thuỷ (stomodeum), bao gồm nụ mũi trán, các nụ hàm trên trái và phải, cùng với các nụ hàm dưới trái và phải Các nụ hàm trên nằm ở phía trước ngoài, trong khi các nụ hàm dưới nằm ở phía sau ngoài Vào cuối tuần thứ 4, lớp ngoại bì ở nụ mũi trán dày lên, hình thành hai khối oval, từ đó phát triển thành mũi và hai hốc mũi.
Trong tuần thứ 5 của thai kỳ, trung mô ở vùng ngoại vi của các placode mũi sẽ biệt hóa thành các ụ hình móng ngựa Các chi ngoài và trong được gọi là rãnh mũi ngoài và rãnh mũi trong, tương ứng với các quá trình nasolateral và nasomedial.
Placode mũi sẽ tiếp tục biệt hoá và dày lên, hình thành các hố của các placode này Những cấu trúc này sẽ tạo ra các nụ mũi, là tiền thân của cửa mũi trước và hai hốc mũi.
Từ tuần thứ 5 của thai kỳ, các nụ mũi bắt đầu lõm sâu vào trong khoang miệng Đến khoảng 6,5 tuần, chỉ còn màng mũi-họng phân cách khoang miệng và hai hốc mũi Màng này sẽ tiêu biến, tạo sự thông thương giữa hai hốc mũi và phần khẩu cái nguyên thủy Khu vực này được gọi là cửa mũi sau nguyên thủy Khi hai cánh khẩu cái kết hợp, khẩu cái thứ phát hình thành, kéo dài hốc mũi và tạo ra giao lộ giữa hốc mũi và họng.
Từ tuần thứ 4 đến tuần thứ 6 của thai kỳ, hai rãnh hàm trên phát triển hướng vào nhau và về phía cặp rãnh mũi trong Đến cuối tuần thứ 6, hai rãnh mũi trong bắt đầu hợp nhất với hai rãnh hàm trên, hình thành cánh mũi và giới hạn ngoài của cửa mũi Tại giao lộ giữa các rãnh mũi ngoài và rãnh hàm trên xuất hiện hai rãnh lệ mũi Ngoại bì tại các rãnh này dày lên, tạo thành thừng biểu mô, sau này sẽ tách ra và hình thành ống lệ mũi và túi lệ Gần cuối thai kỳ, hai ống lệ mũi kéo dài từ hai khoé mắt trong đến hai khe mũi dưới ở vách mũi xoang hai bên.
Các nụ mũi trong sẽ tiếp tục phát triển và kết hợp với các thành phần nông của nụ hàm trên vào tuần thứ 7 hoặc thứ 8 của thai kỳ, tạo thành các "vây mũi" Khi trung mô xâm nhập vào khớp nối này, một cấu trúc liên tục hình thành, hoàn thiện môi trên và đoạn liên hàm trên, từ đó tách rời nụ mũi trán ở phía sau Đoạn liên hàm trên là tiền thân của nhiều cấu trúc giải phẫu, bao gồm khẩu cái nguyên thủy, đầu và thân mũi, cùng một phần của vách ngăn mũi.
Vách ngăn mũi phát triển từ nụ mũi trán đến ngang mức hai cánh khẩu cái, hình thành khẩu cái thứ phát qua sự tiếp hợp của hai cấu trúc này Phía trước, vách ngăn mũi tiếp giáp với khẩu cái nguyên thủy từ các rãnh mũi trong, bắt đầu từ phía sau màng khẩu cái trước và kéo dài cả về phía trước và phía sau Điểm tiếp hợp giữa khẩu cái nguyên phát và thứ phát là mang khẩu cái trước (incisive foramen) Cuối quá trình phát triển, vách ngăn mũi chia hốc mũi thành hai buồng riêng biệt, bao gồm các thành phần như sụn tứ giác, mảnh đứng xương sàng, xương lá mía, mào xương hàm trên, mào xương khẩu cái và vách ngăn màng.
Hình 1.1: Phôi thai học vùng mặt.
Nguồn: Netter's Atlas of Human Embryology, 1st edition.
Giải phẫu cấu trúc vách ngăn mũi
Vách ngăn mũi là cấu trúc quan trọng hỗ trợ và định hình mũi, đồng thời điều hoà luồng khí qua mũi Nó được hình thành từ sự kết hợp giữa xương và sụn, bao gồm sụn tứ giác, mảnh đứng xương sàng, xương lá mía, và các mỏm xương hàm Mảnh đứng của xương sàn, nằm ở phần trên vách ngăn, tiếp giáp với mảnh sàng, do đó, tổn thương trong khu vực này có thể dẫn đến nứt sàn sọ và dò dịch não tuỷ Phần dưới của mảnh đứng xương sàng kết hợp với xương lá mía phía sau và sụn tứ giác phía trước.
Xương lá mía, một xương đơn độc, tạo thành phần sau của vách ngăn mũi và tiếp hợp với mỏm xương bướm phía sau Phần dưới của vách ngăn mũi được hình thành bởi mào xương hàm trên ở phía trước và xương khẩu cái ở phía sau Sự bất thường trong mặt phẳng tiếp hợp giữa mào xương hàm trên và sụn tứ giác thường là nguyên nhân gây ra các trường hợp mào vách ngăn.
Vẹo vách ngăn mũi xuất hiện ở 90% dân số qua khám mũi, nhưng chỉ một số ít trong đó có triệu chứng nghẹt mũi nghiêm trọng Hình thái cấu trúc của vẹo vách ngăn mũi có sự khác biệt rõ rệt giữa các chủng tộc.
Hình 1.2: Hình ảnh cắt đứng dọc cấu trúc vách ngăn mũi.
Nguồn: Bailey’s Head and Neck Surgery–Otolaryngology, volume 1, 5th ed.
Hệ thống mạch máu và thần kinh vùng mũi và vách ngăn
Hệ thống mạch máu cung cấp cho vách ngăn và các xoang cạnh mũi bao gồm nhiều nhánh từ động mạch cảnh trong và ngoài Các động mạch sàng trước và sau, xuất phát từ nhánh động mạch mắt của động mạch cảnh trong, cung cấp máu cho các xoang và phần trên của vách ngăn Động mạch sàng trước cho nhánh vào vách ngăn qua mảnh sàng, trong khi động mạch sàng sau cung cấp máu cho cuốn mũi và vách ngăn Động mạch bướm khẩu cái, một nhánh của động mạch hàm trong, đi vào hốc mũi và cung cấp máu cho cuốn mũi Nhánh vách ngăn sau của động mạch bướm khẩu cái cấp máu cho phần sau và dưới của vách ngăn Phần trên của vách ngăn được cấp máu bởi nhánh vách ngăn của động mạch môi trên Động mạch khẩu cái lớn, xuất phát từ động mạch hàm, cũng cung cấp máu cho vách ngăn Sự thông nối của các nhánh này ở vùng trước vách ngăn được gọi là mạng mạch Kiesselbach.
Vách ngăn được chi phối bởi cả hệ thần kinh tự động và hệ thần kinh cảm giác, với hai nhánh chính từ thần kinh V là V1 và V2 Thần kinh mũi hầu, bao gồm các nhánh của thần kinh sàng trước và sàng sau, cũng tham gia vào việc truyền cảm giác, nhiệt và đau cho vách ngăn Trong quá trình chỉnh hình vách ngăn, có thể xảy ra tổn thương các sợi thần kinh này, dẫn đến giảm cảm giác ở khu vực phía trước khẩu cái cứng, thường kéo dài dưới 6 tuần.
Hệ thần kinh tự động điều chỉnh sự cương tụ của cuốn mũi, trương lực mạch máu và tiết dịch nhầy Các chức năng này được điều hòa bởi hệ thần kinh giao cảm và đối giao cảm, ảnh hưởng đến tiểu động mạch, xoang tĩnh mạch và các tuyến tiết nhầy.
Giải phẫu cuốn dưới
1.1.4.1 Hình thể, cấu tạo của cuốn dưới
Xương cuốn dưới là xương cuốn dài nhất nhưng thấp hơn xương cuốn giữa Mặt trong của xương cuốn dưới tiếp xúc với vách ngăn, trong khi mặt ngoài hướng vào thành ngoài hốc mũi, tạo thành khe goi hay khe mũi dưới Bờ dưới không tiếp giáp với xương nào, trong khi bờ trên khớp với mõm lên xương hàm ở đầu trước và mảnh thẳng xương khẩu cái ở đầu sau Tại vị trí khớp này có một mào tiếp rõ rệt, và bờ trên khớp với xương hàm thông qua một mõm gọi là mõm hàm, che lấp phần dưới của lỗ xoang hàm Cuốn dưới có kích thước dài khoảng 3,5 đến 4cm, hình elip với đầu to phía trước và đầu nhỏ phía sau Bờ trên gắn vào mào xoang dưới của xương hàm trên và mào dưới xương khẩu cái, có hướng đi chéo xuống dưới và ra sau, cắt chéo góc diện khe hàm Cuốn dưới có 3 mấu, trong đó mấu hàm hình tam giác đứng trên chiều rộng của khe dưới, che toàn bộ phần khe ở phía dưới bờ trên cuốn Cuốn dưới đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa nhiệt độ và hô hấp.
Mấu lệ hình thành từ tiếp điểm 1/4 phía trước và 3/4 phía sau, kéo dài chéo lên trên về phía bờ dưới xương lệ với hình dạng 4 cạnh, hướng về xương lệ Nó được bổ sung vào phía trong 1/3 dưới của máng lệ xương hàm, tạo thành ống lệ.
Mấu sàng xuất phát từ phần giữa không cố định, hướng lên mỏm mõc xương sàng, với bờ dưới tự do mỏng ở phía trước và dày ở phía sau, cuốn lại ít nhiều Đầu cuốn cách lỗ lệ 2-3mm và áp sát lên cành xương hàm Chỗ đứng của cuốn cách nền hố mũi khoảng 10mm Đuôi cuốn nhỏ dần về phía sau, đi qua chỗ đỉnh khẩu cái, và ở cửa mũi sau, đuôi cuốn lồi, tự do, cách lỗ vòi khoảng 8-10mm Mặt trong của cuốn ở xa vách ngăn hơn mặt trong cuốn giữa, có đặc điểm lồi và gồ ghề.
Một đường mào trước sau chia khoang mũi thành 2 phần:
- Phần trên gần như nằm ngang làm thành mái thật sự cho khe dưới (hố mũi rộng) Cuốn dưới trông như dẹt, khe dưới là một khe hẹp.
- Phần dưới: nằm trong bình diện đứng dọc, có những mảng mạch, một số biến thành ống.
1.1.4.2 Mạch máu và thần kinh của cuốn mũi
Mạch máu ở cuốn dưới rất phong phú, được cung cấp từ động mạch sàng và động mạch bướm khẩu cái Động mạch sàng trước đi vào hốc mũi qua lỗ sàng, phân nhánh tại đầu cuốn dưới và nối với các nhánh của động mạch cuốn dưới từ phía sau Động mạch bướm khẩu cái sau khi đi qua ống chân bướm – khẩu cái, phân nhánh tại đuôi cuốn dưới và tạo vòng nối với động mạch sàng trước Các tĩnh mạch cũng đi kèm với động mạch cuốn dưới.
Thần kinh chi phối cảm giác và giao cảm cho cuốn dưới, với phần trước được điều khiển bởi nhánh mũi trong bên (nhánh của thần kinh mũi trước) và phần sau (đuôi cuốn dưới) bởi nhánh mũi ngoài sau trước của hạch chân bướm hàm Các nhánh thần kinh giao cảm phát sinh từ sợi giao cảm của hạch thần kinh sàng khẩu cái, kết hợp với nhánh thần kinh giao cảm để hình thành vùng vận mạch của niêm mạc, từ đó điều chỉnh nhiệt độ và độ ẩm của luồng khí thở.
Hình 1.3: Hệ thống mạch máu cung cấp cho cuốn mũi và vách mũi xoang.
Nguồn: Netter’s Atlas of Human Anatomy, 7th edition.
SINH LÝ BỆNH HỌC TRIỆU CHỨNG NGHẸT MŨI
Hiện tượng viêm của niêm mạc mũi
Viêm niêm mạc mũi là cơ chế chính gây nghẹt mũi, liên quan đến cương tụ tĩnh mạch, tăng tiết dịch và phù nề mô ở mũi xoang Hiện tượng này làm giảm kích thước đường thở qua mũi thông qua giãn mạch và tăng lưu lượng máu, dẫn đến sự cương tụ của các xoang tĩnh mạch và phù nề các cuốn mũi, gây tắc nghẽn Một số bệnh nhân gặp khó khăn trong việc điều hòa cương tụ tĩnh mạch do các bệnh lý như hội chứng Horner, quá phát niêm mạc mũi do thuốc, và điều trị với đối vận alpha-adrenergic.
Triệu chứng nghẹt mũi trong viêm mũi dị ứng xảy ra do sự kết hợp của pha sớm và pha muộn của phản ứng dị ứng Khi một dị nguyên tiếp xúc với niêm mạc mũi ở người đã mẫn cảm, các thụ thể IgE trên đại bào bị kích thích, dẫn đến sự giải phóng histamine và các protease Đồng thời, nhiều hoá chất trung gian như leukotriens, prostaglandins, TNF-alpha và interleukin-4 cũng được tiết ra Sự giải phóng này gây phù nề niêm mạc mũi và tăng tiết dịch, dẫn đến triệu chứng nghẹt mũi và các triệu chứng mũi xoang khác.
Cơ chế sinh bệnh của viêm mũi xoang liên quan đến sự tiết các cytokines tiền viêm, tương tự như viêm mũi dị ứng Ở bệnh nhân viêm mũi xoang cấp, nồng độ cytokine và protein trong dịch rửa mũi tăng đáng kể so với người không bệnh Các cytokine như kinin, IL-1, IL-6 và IL-8 cũng gia tăng trong dịch tiết mũi ở bệnh nhân viêm mũi xoang cấp do virus Kinin tác động lên mạch máu, làm tăng tính thấm và kích thích các sợi thần kinh giao cảm ở niêm mạc mũi, dẫn đến hiện tượng quá mẫn Hơn nữa, TNF-alpha và các cytokine tiền viêm khác cũng có sự gia tăng.
Các thay đổi cấu trúc trong mũi
Nghẹt mũi có thể do các nguyên nhân như vẹo vách ngăn, hẹp cửa mũi sau, concha bullosa, chẻ vòm, quá phát V.A và thiểu sản mũi Van mũi trước là khu vực hẹp nhất trong đường thở, do đó luồng khí hít vào qua mũi có thể bị hạn chế bởi kích thước và hình dáng của cửa mũi trước Vẹo vách ngăn không chỉ ảnh hưởng đến luồng khí mà còn gây cảm giác nghẹt mũi Cấu trúc mũi thay đổi ở mỗi cá nhân, với các dị dạng phía trước có ảnh hưởng nghiêm trọng hơn đến đường thở so với dị dạng ở phía sau hốc mũi.
Phù nề niêm mạc thứ phát xảy ra do đáp ứng thần kinh từ các hệ thống dẫn truyền thần kinh, trong đó niêm mạc mũi được chi phối bởi thần kinh cảm giác, giao cảm và đối giao cảm Những thần kinh này kích hoạt phản xạ tuyến và gây phù nề do thần kinh (neurogenic inflammation), dẫn đến cảm giác nghẹt mũi và các phản xạ như hắt hơi Chức năng mạch máu ở mũi cũng bị ảnh hưởng bởi phản xạ giao cảm và đối giao cảm Sự hiện diện của phù nề niêm mạc có thể làm tăng hoạt động thần kinh, gây ra tình trạng phù nề do thần kinh, liên quan đến việc tiết ra các peptides như chất P, CGRP và neurokinin A từ các đầu tận của thần kinh cảm giác đau Mặc dù các cơ chế sinh học phân tử này chưa được hiểu rõ hoàn toàn, nhưng có bằng chứng cho thấy hoạt động của các neurotrophins có liên quan đến hiện tượng này, góp phần gây ra các triệu chứng thường gặp ở đường hô hấp trên, bao gồm nghẹt mũi.
ĐỊNH NGHĨA NGHẸT MŨI
Nghẹt mũi là cảm giác khó chịu khi luồng khí thở vào qua mũi không đủ, và đây là một than phiền mang tính chủ quan Một số từ đồng nghĩa với nghẹt mũi bao gồm nặng mũi và tắc mũi Tuy nhiên, một số tác giả cho rằng từ "nghẹt" ám chỉ sự tồn tại của vật cản trong mũi, do đó mang ý nghĩa khách quan hơn.
CÁC NGUYÊN NHÂN GÂY NGHẸT MŨI
Các bất thường về giải phẫu học
Vẹo vách ngăn là tình trạng phổ biến, thường do chấn thương gây ra và dẫn đến triệu chứng nghẹt mũi Một nghiên cứu lớn tại Hàn Quốc của Yang - Gi Min và cộng sự cho thấy tỉ lệ dị dạng vách ngăn chiếm 22% trong dân số nghiên cứu, với 24% ở nam giới và 20% ở nữ giới, nhưng chỉ có 2,8% trong số đó phàn nàn về triệu chứng nghẹt mũi.
56% bên phải, 39% bên trái và 5% có dạng chữ S Có một xu hướng tăng dần của dị dạng vách ngăn theo lứa tuổi.
Một nghiên cứu dựa trên bảng câu hỏi của Jessen và Janzon đã khảo sát 1500 người từ 16 đến 82 tuổi, cho thấy 2-3% số người tham gia có triệu chứng nghẹt mũi liên quan đến tình trạng vẹo vách ngăn.
Hình 1.4: Hình ảnh vẹo vách ngăn.
Nguồn : Mayo foundation for medical education and research.
1.4.1.2 Quá phát cuốn mũi giữa
Nghẹt mũi có thể do phì đại cuốn giữa, đặc biệt là khi có sự hiện diện của concha bullosa, mà xuất hiện ở khoảng 10% dân số Sự kết hợp giữa phì đại cuốn giữa và concha bullosa có thể làm tăng tình trạng nghẹt mũi Phương pháp điều trị hiệu quả là cắt bán phần cuốn giữa, giúp cải thiện luồng khí qua mũi và giảm đáng kể trở kháng mũi.
1.4.1.3 Quá phát cuốn mũi dưới
Quá phát cuốn mũi có thể được phân loại thành quá phát niêm mạc và quá phát xương cuốn mũi.
Bệnh nguyên của quá phát niêm mạc cuốn mũi bao gồm nguyên nhân viêm mũi dị ứng và không dị ứng, với sự phì đại thường thấy ở cả hai bên Cảm giác nghẹt mũi giảm khi sử dụng các chất co mạch tại chỗ Điều trị chính cho các trường hợp này bao gồm kháng histamine, co mạch tại chỗ và điều trị kháng viêm Trong trường hợp nghẹt mũi kéo dài, can thiệp phẫu thuật có thể được xem xét.
Bệnh nhân hút thuốc lá hoặc tiếp xúc lâu dài với dị nguyên hô hấp thường gặp triệu chứng nghẹt mũi và chảy mũi kéo dài, trong khi điều trị nội khoa không hiệu quả Phẫu thuật không nên được xem xét cho đến khi bệnh nhân ngừng hút thuốc hoặc tránh dị nguyên Nếu việc co mạch niêm mạc mũi không cải thiện triệu chứng, cần xem xét quá phát xương cuốn mũi, dị dạng vách ngăn và khiếm khuyết van mũi Tắc nghẽn này thường hằng định, và trong trường hợp vẹo vách ngăn, quá phát niêm mạc đối bên là cơ chế bù trừ Niêm mạc và xương cuốn mũi quá phát sẽ thu hẹp diện tích đường dẫn khí, gây mất cân bằng kháng lực đường thở Do đó, để xử trí nghẹt mũi do bất thường giải phẫu, cần chỉnh hình vách ngăn và thu gọn cuốn mũi để cải thiện triệu chứng Nếu chỉ chỉnh hình vách ngăn mà không can thiệp vào cuốn mũi phì đại đối bên, tắc nghẽn vẫn sẽ tiếp diễn.
Các bất thường do viêm
Viêm mũi dị ứng hiện nay là nguyên nhân phổ biến nhất gây nghẹt mũi, theo nghiên cứu kéo dài 3 năm của tác giả Fry từ 1979 đến 1982 Trong số 82 bệnh nhân viêm mũi dị ứng được khảo sát, 17% có triệu chứng nghẹt mũi ngay từ đầu và 65% vẫn tiếp tục gặp phải triệu chứng này.
1.4.2.2 Viêm mũi không dị ứng
Một nghiên cứu của Jessen và Janzon cho thấy 20,7% người tham gia gặp phải các triệu chứng viêm mũi không dị ứng Trong số đó, 66% báo cáo bị nghẹt mũi, với 21% có triệu chứng hàng ngày, 20% vài ngày trong tuần và 25% vài ngày trong tháng Đáng chú ý, 20% người tham gia chỉ bị nghẹt mũi một bên, 44% có triệu chứng ở cả hai bên và 36% thỉnh thoảng bị nghẹt mũi bên trái hoặc bên phải.
CHẨN ĐOÁN
Bệnh sử
Chẩn đoán lâm sàng tình trạng nghẹt mũi bắt đầu bằng việc khai thác bệnh sử chi tiết Cần làm rõ thời gian kéo dài, tần suất và ảnh hưởng của triệu chứng nghẹt mũi, cũng như sự xuất hiện theo mùa hay diễn tiến liên tục Tiền sử chấn thương và phẫu thuật mũi xoang trước đó đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng chẩn đoán.
Cần đánh giá tần suất và mức độ chảy máu mũi, cùng với hiệu quả của các phương pháp điều trị nội khoa trước đó Nếu triệu chứng nghẹt mũi có tính chất theo mùa hoặc chỉ xuất hiện trong một số môi trường nhất định, yếu tố dị ứng cần được xem xét và có thể điều trị hiệu quả Ngoài ra, các bệnh lý nội khoa đi kèm như bệnh u hạt Wegener, sử dụng cocaine đường hít, rối loạn đông máu, hoặc tiền căn phẫu thuật mũi xoang nghiêm trọng cũng cần được xác định, vì chúng có thể chống chỉ định với các phương pháp điều trị phẫu thuật.
Triệu chứng nghẹt mũi là dấu hiệu chính ở bên có vẹo vách ngăn mũi, và có thể gây cảm giác nghẹt mũi ở bên đối diện do cuốn dưới phát triển quá mức Đối với vẹo vách ngăn ở vị trí cao, bệnh nhân có thể trải qua triệu chứng đau đầu, đau sâu sau hốc mắt và lan ra phía chẩm Cơn đau có thể xuất hiện một bên hoặc hai bên, diễn ra âm ỉ liên tục, giảm khi ngủ và tăng lên khi gặp lạnh hoặc trong thời kỳ kinh nguyệt ở nữ giới.
Vẹo vách ngăn phần cao có thể ảnh hưởng đến khứu giác và gây ra triệu chứng cảm lạnh thường xuyên, kèm theo viêm mũi xoang Người bệnh cũng có thể gặp tình trạng chảy máu mũi rỉ rả do tổn thương niêm mạc vách ngăn, thường xảy ra do các mào vách ngăn.
1.5.1.2 Quá phát cuốn mũi dưới
Nghẹt mũi là triệu chứng chính của bệnh, thường xuất hiện rõ rệt vào ban đêm khi bệnh nhân nằm, đặc biệt là khi nằm nghiêng Theo thời gian, tình trạng nghẹt mũi trở nên kéo dài và liên tục, kèm theo việc bệnh nhân thường xuyên khịt mũi và khạc ra những cục nhầy khô trong họng.
Bệnh nhân thường gặp triệu chứng đau đầu nhẹ, thường xuất hiện vào buổi sáng và có thể trở thành đau đầu liên tục, kể cả vào ban đêm Ngoài ra, họ cũng có thể than phiền về ù tai với âm thanh trầm khi bị nghẹt mũi, nguyên nhân do tắc vòi nhĩ Một số bệnh nhân còn gặp phải tình trạng mất mùi hoặc giảm khả năng ngửi.
Khám lâm sàng
Khám lâm sàng giúp xác định vị trí tắc nghẽn ở mũi và nguyên nhân giải phẫu gây nghẹt mũi, bao gồm vẹo vách ngăn, polyp mũi, và tắc nghẽn tạm thời do phù nề niêm mạc mũi xoang hoặc sụp van mũi.
Kích thước, hình dạng và sự cân đối của mũi ngoài cần được xem xét kỹ lưỡng Vẹo vách ngăn nghiêm trọng có thể dẫn đến tình trạng vẹo lưng mũi hoặc xoắn đầu mũi, trong trường hợp này, chỉnh hình vách ngăn mũi mở có thể được áp dụng để điều chỉnh khung mũi Cửa mũi trước cũng cần được đánh giá về sự thông thoáng và tính cân đối, vì tiểu trụ bị khiếm khuyết hoặc dày lên có thể xuất hiện trong tình trạng vẹo đầu vách ngăn Cuối cùng, việc khám mũi ngoài kết thúc bằng động tác ấn đầu mũi để kiểm tra sự vững chãi của đầu mũi, liên quan đến triệu chứng nghẹt mũi Góc vách ngăn trước và sau cũng cần được sờ để đánh giá tình trạng vẹo của phần đầu vách ngăn, và nếu có di lệch hoặc trật góc vách ngăn sau ra khỏi khung mũi trước, có thể cần phải tiếp cận từ bên ngoài để điều trị.
Người bệnh nên được khám từng hốc mũi riêng biệt bằng cách bịt một bên và thở bình thường để quan sát thành bên mũi và đánh giá van mũi ngoài, van mũi trong hoặc cả hai Nghiệm pháp Cottle có thể giúp giảm triệu chứng nghẹt mũi do sụp van mũi hoặc vẹo đầu vách ngăn, nhưng thường xảy ra dương tính giả Phiên bản cải biên của nghiệm pháp Cottle sử dụng tăm bông để kéo phần sụn bên ngoài ra ngoài, giúp cô lập van mũi trong và cho kết quả chính xác hơn.
Khám mũi trước được thực hiện sau khi khám mũi ngoài, và cần tiến hành trước và sau khi sử dụng co mạch tại chỗ Các phản ứng đối với thuốc co mạch giúp phẫu thuật viên đánh giá ảnh hưởng của niêm mạc mũi và các tổn thương giải phẫu đến triệu chứng nghẹt mũi Nội soi mũi bằng ống cứng được thực hiện sau khi đã co mạch (và đôi khi gây tê tại chỗ) nhằm đánh giá hệ thống các dị dạng của vách ngăn, bao gồm mào vách ngăn, thủng vách ngăn, hẹp van mũi, polyp mũi, xuất tiết dịch nhầy, khối u hoặc mô lympho quá phát.
CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG
Chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khoẻ
CLCSLQĐSK liên quan đến các khía cạnh sức khỏe và là một phần của CLCS tổng thể Khái niệm này có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau và được đo lường bằng nhiều công cụ đa dạng.
Có khoảng 1000 công cụ được phát triển để đo lường chất lượng cuộc sống sức khỏe (CLCSLQĐSK), dựa trên nhiều định nghĩa khác nhau về CLCS Tuy nhiên, cần lưu ý rằng trải nghiệm về CLCS có thể khác nhau và bao gồm các giá trị đa dạng trong các nhóm văn hóa và dân số khác nhau.
CLCSLQĐSK hiện nay không chỉ đơn thuần đánh giá khả năng thể chất qua các chỉ số bên ngoài mà còn xem xét sự so sánh giữa tình trạng thực tế và mong muốn cá nhân của bệnh nhân Khái niệm này có thể thay đổi theo thời gian và chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài như mức độ nghiêm trọng của bệnh tật và sự hỗ trợ từ gia đình Bệnh nhân và thầy thuốc thường đánh giá các tình trạng khách quan với sự khác biệt đáng kể, do đó, CLCSLQĐSK ngày nay thường được đo lường thông qua các bảng câu hỏi đa chiều Những bảng câu hỏi này không chỉ bao gồm khía cạnh vật chất mà còn xem xét các yếu tố xã hội, tình cảm, nhận thức, vai trò công việc, và cả tâm linh, cùng với các triệu chứng liên quan đến bệnh tật, tác dụng phụ của điều trị và ảnh hưởng tài chính.
Bảng câu hỏi CLCSLQĐSK, giống như các công cụ đánh giá tâm lý khác, cần đạt tiêu chuẩn chất lượng cao, đặc biệt là về độ tin cậy và tính hợp lệ Do đó, hàng trăm bảng câu hỏi CLCSLQĐSK đã được phát triển cho các nhóm bệnh khác nhau và có thể được phân loại thành hai loại.
- Các công cụ chung (ví dụ SF-36)
- Các công cụ đặc hiệu cho bệnh nhân hoặc rối loạn cụ thể
Vấn đề sức khỏe ảnh hưởng đến những khía cạnh cơ bản nhất trong cuộc sống hàng ngày như thở, giấc ngủ, và tự chăm sóc bản thân Các chuyên gia chăm sóc sức khỏe đã hệ thống hóa các khái niệm về hoạt động hàng ngày và sử dụng dụng cụ trong sinh hoạt Việc phân tích và phân loại này giúp đánh giá chất lượng cuộc sống một cách khách quan hơn, mặc dù không thể hoàn toàn loại bỏ sự chủ quan Nó hỗ trợ cải thiện việc đo lường thông qua định lượng và giảm thiểu sai số.
Chất lượng cuộc sống là một khái niệm toàn diện, bao gồm nhiều yếu tố sinh lý, tâm lý và các vấn đề xã hội Để đánh giá chất lượng cuộc sống, người ta thường sử dụng bảng câu hỏi nhằm thu thập thông tin và nhận định chính xác.
Bảng câu hỏi đánh giá chất lượng cuộc sống của các bệnh nhân có triệu chứng mũi xoang
Hiện nay, nhiều bảng câu hỏi đáng tin cậy đã được phát triển để đánh giá chất lượng cuộc sống sức khỏe (CLCSLQĐSK) trong các bệnh lý khác nhau Các bảng câu hỏi này được phân thành ba nhóm chính: nhóm đánh giá tình trạng sức khỏe chung, nhóm đánh giá bệnh lý chung và nhóm đánh giá bệnh lý cụ thể.
1.6.2.1 Bảng câu hỏi đánh giá tình trạng sức khoẻ chung
Bảng câu hỏi này có thể được áp dụng cho cả cá nhân có và không có tình trạng bệnh lý, phù hợp với mọi dân số Chúng cho phép đánh giá tác động của CLCS đối với các bệnh lý khác nhau ở cả những người khỏe mạnh và những người có bệnh lý.
1.6.2.2 Bảng câu hỏi đánh giá bệnh lý chung
Các bảng câu hỏi được thiết kế đặc biệt cho các dân số mắc bệnh giúp so sánh sự khác biệt giữa các tình trạng bệnh lý và mức độ nghiêm trọng của chúng, cũng như đánh giá hiệu quả của các phương pháp điều trị khác nhau Những công cụ này cho phép cá nhân tự đánh giá tác động chức năng của bệnh lý đối với cơ thể của họ.
Thang đo tương tự hình ảnh (VAS) là một công cụ tâm lý đơn giản, giúp định lượng các triệu chứng khó đo lường trực tiếp, với điểm số từ 0 đến 10 VAS đã được áp dụng lâu dài trong việc đánh giá triệu chứng nghẹt mũi, cung cấp thông tin về xu hướng bệnh và mức độ nghiêm trọng của tình trạng này Nghiên cứu của Rhee và cộng sự cho thấy sự cải thiện ít nhất 3,0 trên VAS có thể chỉ ra thành công của phẫu thuật và cho thấy triệu chứng đã giảm Tuy nhiên, VAS cũng có những hạn chế, như sự biến động trong đánh giá điểm số, làm cho việc so sánh giữa các nghiên cứu trở nên không chính xác Khi sử dụng VAS như một công cụ duy nhất để đánh giá triệu chứng nghẹt mũi, nó không thể cung cấp thông tin đầy đủ về chất lượng cuộc sống Cuối cùng, VAS có mối tương quan không rõ ràng với các đo lường khách quan, dẫn đến những hạn chế trong việc sử dụng công cụ này.
1.6.2.3 Bảng câu hỏi đánh giá bệnh lý cụ thể
Các bảng câu hỏi đánh giá bệnh lý chung thường không nhạy trong việc phát hiện những thay đổi nhỏ nhưng quan trọng về chất lượng cuộc sống Do đó, các bảng câu hỏi đánh giá bệnh lý cụ thể trở nên hữu ích hơn, vì chúng tập trung vào một nhóm dân số nhất định và một khu vực cụ thể để đánh giá tình hình của một bệnh hoặc tình trạng sức khỏe cụ thể.
Hiện nay, nhiều công cụ đánh giá tình trạng bệnh lý liên quan đến mũi xoang đã được giới thiệu và sử dụng Những công cụ này khác nhau về mục tiêu đánh giá, số lượng câu hỏi, hình thức thực hiện và độ khả dụng.
Sự liên quan giữa số lượng câu hỏi và khả năng hoàn thành bảng câu hỏi của người tham gia là rất rõ ràng Hơn nữa, việc chọn bảng câu hỏi cũng cần dựa trên mục tiêu đánh giá cụ thể.
Currently, the Rhinosinusitis Disability Index (RDI), Chronic Sinusitis Survey Score (CSS), and Sinonasal Outcome Test-20 (SNOT-20) are key tools for assessing the impact of chronic rhinosinusitis on patients' quality of life These indices provide valuable insights into the severity of symptoms and the overall effectiveness of treatments.
16 và Sinonasal Outcome Test-22 (SNOT-20,16,22) là những bảng câu hỏi được sử dụng rộng rãi nhất trong việc đánh giá CLCS ở bệnh nhân có bệnh lý viêm mũi xoang.
1.6.2.4 Bảng câu hỏi đánh giá triệu chứng nghẹt mũi
Nghẹt mũi là triệu chứng phổ biến trong lĩnh vực tai mũi họng, và có nhiều công cụ đánh giá cả chủ quan lẫn khách quan để đo lường mức độ nghiêm trọng của triệu chứng này Trong số các công cụ chủ quan, Thang điểm đánh giá triệu chứng nghẹt mũi (NOSE scale) là một trong những công cụ được sử dụng rộng rãi để đánh giá chất lượng cuộc sống liên quan đến nghẹt mũi.
Bảng câu hỏi NOSE là công cụ nhanh chóng và hiệu quả để đánh giá mức độ khó chịu của bệnh nhân do triệu chứng nghẹt mũi, bao gồm 5 câu hỏi với thang điểm Likert 5-điểm, cho tổng điểm từ 0 đến 100; điểm số cao hơn thể hiện tắc nghẽn nghiêm trọng hơn Do thiếu hệ thống phân loại mức độ nặng của triệu chứng nghẹt mũi, nhiều tác giả đã áp dụng bảng NOSE như một hệ thống phân loại dựa trên các khoảng điểm đã nghiên cứu Thông tin từ bảng hỏi giúp bệnh nhân hiểu rõ hơn về mức độ nặng của triệu chứng và gợi ý các phương pháp điều trị Nghiên cứu của tác giả Stewart và cộng sự cho thấy thang điểm NOSE có độ tin cậy cao và khách quan trong việc đánh giá triệu chứng nghẹt mũi.
Thang điểm NOSE được sử dụng để đánh giá tình trạng bệnh của nhóm đối tượng, cho phép so sánh hiệu quả giữa các phương pháp điều trị khác nhau, như điều trị nội khoa và ngoại khoa Nó cũng giúp đánh giá hiệu quả của các phương pháp phẫu thuật khác nhau và so sánh triệu chứng giữa các nhóm bệnh nhân Tuy nhiên, thang điểm NOSE không phù hợp để đánh giá một bệnh nhân đơn lẻ hoặc dự đoán tình trạng của cá nhân Theo tác giả Lam và cộng sự, sự tương quan giữa thang điểm NOSE và các đo lường khách quan là rất yếu, do đó, thang điểm NOSE và các công cụ đánh giá chất lượng cuộc sống chủ yếu được sử dụng để khảo sát tình trạng nghẹt mũi ở bệnh nhân.
Bộ câu hỏi SNOT-20 và SNOT-22 được phát triển để đo lường chất lượng cuộc sống của bệnh nhân viêm mũi xoang, trong đó triệu chứng nghẹt mũi được đánh giá độc lập trong SNOT-22 Thang điểm SNOT-22 chủ yếu được áp dụng cho bệnh nhân có triệu chứng mũi xoang, trong khi thang điểm NOSE cung cấp thông tin chi tiết hơn về nghẹt mũi Mối tương quan giữa SNOT-22 và các đo lường khách quan vẫn chưa rõ ràng, nhưng SNOT-22 cho thấy mối tương quan tốt hơn với đo khí áp mũi so với thăm dò bằng sóng âm Đồng thời, SNOT-22 được ghi nhận có sự tương quan kém với lưu lượng khí hít vào đỉnh qua mũi (PNIF) Thang điểm này có thể hiệu quả nhất khi sử dụng cho bệnh nhân có triệu chứng nghẹt mũi.
ĐIỀU TRỊ NGHẸT MŨI
Các phương thức phẫu thuật chỉnh hình vách ngăn
Vấn đề điều trị vẹo vách ngăn đã có từ thời Ai Cập cổ đại Killian và Freer là những phẫu thuật viên đầu tiên mô tả kỹ thuật chỉnh hình vách ngăn dưới niêm mạc (submucous resection – SMR), bao gồm việc tạo vạt niêm mạc và loại bỏ sụn vách ngăn Hai phẫu thuật viên này cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo tồn phần sụn lưng vách ngăn hình chữ L và sụn đầu vách ngăn để duy trì cấu trúc mũi.
Các phương thức phẫu thuật chỉnh hình vách ngăn hiện nay đã tiến bộ đáng kể, với mục tiêu chính là bảo tồn tối đa sụn tứ giác và hạn chế tổn thương cho niêm mạc vách ngăn.
1.7.1.1 Chỉnh hình vách ngăn đường mũi
Phẫu thuật chỉnh hình vách ngăn đường mũi là phương pháp điều trị hiệu quả cho các dị hình xương và sụn vách ngăn, bao gồm cả vẹo đầu vách ngăn mà không cần rạch ngoài Tuy nhiên, có những chống chỉ định tương đối như vẹo vách ngăn đi kèm với dị dạng rõ rệt của mũi hoặc vẹo nặng, trong trường hợp này, phẫu thuật chỉnh hình vách ngăn đường ngoài là cần thiết Quy trình phẫu thuật thường được thực hiện theo 7 bước do Huizing và de Groot đề xuất, bao gồm: đánh giá bệnh nhân, tiếp cận phần vẹo, di động phần vẹo, cắt bỏ phần vẹo, chỉnh vị trí, tái tạo lại vách ngăn và cố định vách ngăn.
1.7.1.2 Chỉnh hình vách ngăn qua nội soi
Với sự phát triển của phẫu thuật mũi xoang chức năng từ những năm
Vào năm 1980, sự phát triển của các kỹ thuật phẫu thuật chỉnh hình vách ngăn qua nội soi đã được ghi nhận, với Lanza và Stammberger là những người đầu tiên mô tả phương pháp này Sử dụng ống nội soi giúp quan sát cấu trúc mũi xoang mà không cần sử dụng banh mũi, từ đó cải thiện khả năng thực hiện phẫu thuật Phẫu thuật nội soi chỉnh hình vách ngăn có thể áp dụng cho hầu hết các loại dị dạng vách ngăn, nhờ vào sự kết hợp giữa chiếu sáng, phóng đại và hình ảnh rõ nét Phương pháp này đặc biệt hiệu quả trong việc điều trị các dị dạng vách ngăn nghiêm trọng, bao gồm các mào vách ngăn và vẹo vách gần các lỗ chỉnh hình, trong những trường hợp cần thiết, phẫu thuật chỉnh hình vách ngăn – mũi đường ngoài sẽ được chỉ định.
1.7.1.3 Phẫu thuật chỉnh hình vách ngăn đường ngoài
Phẫu thuật chỉnh hình vách ngăn đường ngoài thường được chỉ định cho các trường hợp vẹo vách ngăn nặng kèm theo dị dạng mũi nghiêm trọng, bao gồm chóp mũi, lưng mũi và các xương chính mũi mà không thể điều trị bằng phương pháp bảo tồn Vẹo nghiêm trọng ở phần đầu vách ngăn cũng là một lý do để thực hiện phẫu thuật mở Một số chuyên gia khuyên nên áp dụng phương pháp đường ngoài cho tất cả các trường hợp vẹo đầu vách ngăn vì nó cho phép tiếp cận và tái cấu trúc chính xác hơn Đối với vẹo phần cao của vách ngăn, phẫu thuật mở có thể được thực hiện thông qua việc đặt mảnh ghép Trong trường hợp vẹo vách ngăn nghiêm trọng kết hợp với dị dạng mũi, có thể cần phải loại bỏ gần như toàn bộ vách ngăn qua phẫu thuật mở.
Các phương thức phẫu thuật chỉnh hình cuốn mũi dưới
Đối với quá phát cuốn mũi dưới, phương pháp điều trị chủ yếu là nội khoa, trong khi phẫu thuật chỉ được áp dụng cho những trường hợp không đáp ứng với điều trị này Mặc dù nhiều kỹ thuật phẫu thuật đã được mô tả, vẫn chưa có sự đồng thuận về tiêu chuẩn vàng trong điều trị Trong ba thập kỷ qua, đã có những tiến bộ đáng kể trong kỹ thuật, từ cắt cuốn mũi toàn phần đến các can thiệp tối thiểu, như chỉnh hình cuốn mũi dưới niêm mạc hoặc cắt bán phần cuốn mũi.
Bảng 1.2: Các phương pháp phẫu thuật chỉnh hình cuốn mũi dưới.
Cắt toàn phần cuốn mũi
Cải thiện nghẹt mũi trong thời gian dài
Tăng nguy cơ chảy máu sau mổ
Nguy cơ viêm mũi teo Cắt bán phần cuốn mũi
Cải thiện nghẹt mũi trong thời gian dài
Chỉnh hình cuốn mũi dưới niêm mạc
Bảo tồn chức năng niêm mạc
Giảm phì đại phần xương cuốn mũi
Cải thiện nghẹt mũi trong thời gian dài
Kĩ thuật khó thực hiện và học tập Đốt điện niêm mạc Dễ học
Có thể thực hiện tại phòng khám với gây tê tại chỗ
Triệu chứng có thể tái phát trong vài tháng hoặc năm Đóng vẩy sau mổ Laser Có thể thực hiện tại phòng khám với gây tê tại chỗ
Nguy cơ chảy máu tối thiểu
Tốn kém Cần phải được đào tạo Đóng vẩy sau mổ Đốt dưới niêm mạc Dễ học
Có thể thực hiện tại phòng khám với gây tê tại chỗ
Triệu chứng có thể tái phát trong vài tháng hoặc năm Đóng vẩy sau mổ Cắt cuốn mũi bằng sóng cao tần
Bảo tồn niêm mạc Bảo tồn chức năng trụ lông
Triệu chứng có thể tái phát sau 1 năm
Những tiến bộ trong điều trị nghẹt mũi
Mặc dù phẫu thuật chỉnh hình mũi chức năng đã được nghiên cứu nhiều, hiệu quả sau phẫu thuật vẫn phụ thuộc vào chất lượng công cụ đánh giá Trong số các công cụ đánh giá chủ quan, thang điểm NOSE được công nhận là mạnh nhất và đã được chứng thực Do đó, các nghiên cứu gần đây về tiến bộ trong điều trị đều sử dụng thang điểm NOSE kết hợp với công cụ đo lường khách quan.
Có thể thực hiện tại phòng khám với gây tê tại chỗ
Nguy cơ chảy máu tối thiểu
Thu gọn cuốn mũi bằng microdebrider
Cắt dưới niêm mạc bảo tồn niêm mạc và chức năng trụ lông
Có thể làm giảm quá phát xương cuốn mũi
Có thể chảy máu và làm rách niêm mạc Tốn kém
Bẻ cuốn mũi Dễ thực hiện
Có thể được kết hợp với các thủ thuật khác
Không thể điều trị quá phát niêm mạc
Giảm triệu chứng rất ít khi thực hiện đơn thuần
Nghiên cứu của Veit và cộng sự so sánh hiệu quả của ba kỹ thuật thu gọn thể tích cuốn mũi dưới: phẫu thuật chỉnh hình đầu cuốn mũi dưới, thu gọn cuốn mũi dưới bằng sóng cao tần và đốt laser kết hợp với chỉnh hình vách ngăn Kết quả cho thấy, sau 2 năm, phẫu thuật chỉnh hình đầu cuốn mũi dưới và thu gọn bằng sóng cao tần hiệu quả hơn so với đốt laser, dựa trên đo khí áp mũi qua thăm dò bằng sóng âm và thang điểm NOSE Đo khí áp mũi đơn thuần cho thấy tương quan thấp hơn và phương pháp chỉnh hình đầu cuốn mũi dưới là chi phí thấp nhất Các biến chứng ghi nhận bao gồm chảy máu nhẹ, nhiễm trùng và một số trường hợp phải phẫu thuật lại Veit và cộng sự kết luận rằng đo khí áp mũi đơn thuần có tương quan kém với triệu chứng chủ quan so với đo khí áp qua thăm dò bằng sóng âm.
Persichetti và cộng sự đã tiến hành một nghiên cứu tiến cứu với 153 bệnh nhân về phẫu thuật chỉnh hình vách ngăn nhằm bảo tồn sự ổn định giữa sụn tứ giác và các xương chính mũi Nghiên cứu sử dụng thang điểm NOSE và đo áp lực mũi để đánh giá tình trạng trước mổ và sau 3 tháng, 6 tháng phẫu thuật Kết quả cho thấy có sự cải thiện rõ rệt trên cả hai công cụ đánh giá này Một nghiên cứu theo dõi tiếp theo trên cùng nhóm bệnh nhân (n = 120) cũng đã được thực hiện.
Sau 6 năm phẫu thuật, thang điểm NOSE và các giá trị đánh giá thông thoáng hốc mũi cho thấy sự cải thiện rõ rệt ở bệnh nhân có vẹo vách ngăn vừa và nặng Mặc dù thang điểm NOSE và đo khí áp mũi có mối tương quan trong các nghiên cứu, nhưng ý nghĩa thống kê không mạnh do chưa cung cấp độ lệch chuẩn cho các giá trị trung bình được tính toán.
Manestar và cộng sự đã tiến hành một nghiên cứu để đánh giá hiệu quả của việc sử dụng đo khí áp mũi trong phẫu thuật chỉnh hình vách ngăn Nghiên cứu bao gồm hai nhóm bệnh nhân, được đánh giá bằng bảng câu hỏi NOSE và đo khí áp mũi trước phẫu thuật, cũng như sau 1 và 3 tháng Kết quả đo khí áp mũi đã được thông báo cho nhóm nghiên cứu trước khi thực hiện đánh giá thang điểm NOSE.
Sau 03 tháng, nhóm nghiên cứu cho thấy sự cải thiện rõ rệt về triệu chứng nghẹt mũi, được phản ánh qua điểm NOSE, trong khi nhóm chứng không ghi nhận sự khác biệt nào về kết quả đo khí áp mũi Điều này chỉ ra rằng việc thông báo kết quả đo khí áp mũi có thể tạo ra hiệu ứng giả dược tích cực, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống (QoL) theo thang điểm NOSE.
THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu mô tả tiến cứu, mở, không đối chứng.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Qui trình tiến hành nghiên cứu
Thời gian thực hiện từ tháng 11/2019 đến tháng 06/2020 tại khoa Tai mũi họng Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
Khám và chọn bệnh theo những tiêu chuẩn được đề ra.
Người bệnh sẽ được khám lâm sàng kỹ lưỡng để đánh giá mức độ vẹo vách ngăn và quá phát cuốn mũi dưới Quá trình này bao gồm xác định vị trí và vùng vẹo vách ngăn cũng như bên mũi bị hẹp Trước khi phẫu thuật, tất cả người bệnh sẽ được nội soi mũi xoang và chụp hình để chẩn đoán chính xác tình trạng vẹo vách ngăn và quá phát cuốn mũi dưới, đồng thời loại trừ các nguyên nhân khác gây triệu chứng nghẹt mũi.
Chúng tôi tiến hành đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân bằng cách sử dụng bảng câu hỏi NOSE và SNOT-22 trước phẫu thuật Việc thu thập và phân tích số liệu cho thấy mức độ ảnh hưởng của triệu chứng nghẹt mũi đến đời sống của người bệnh trước khi thực hiện phẫu thuật chỉnh hình vách ngăn và cuốn mũi dưới.
Tiến hành phẫu thuật chỉnh hình vách ngăn và chỉnh hình cuốn mũi dưới.
Tư thế người bệnh: Nằm ngửa.
Vô cảm: Mê nội khí quản.
Gây tê niêm mạc vách ngăn bằng Lidocaine 2% có pha Adrenaline 1/100000 dọc theo chiều dài vách ngăn từ sau ra trước trước khi tiến hành phẫu thuật.
Trong quá trình nội soi, sử dụng lưỡi dao số 15 để rạch niêm mạc vách ngăn tại vị trí cách cửa mũi trước 0,5 – 1 cm, theo hình chữ C trên vách ngăn bên vẹo Sau đó, dùng spatule để bóc tách niêm mạc và màng sụn khỏi sụn vách ngăn, nhằm bộc lộ toàn bộ phần sụn và xương vách ngăn Tiến hành cắt bỏ phần vách ngăn bị vẹo, sau đó hút sạch máu và dịch tiết để kiểm tra vách ngăn thẳng sau khi chỉnh hình Cuối cùng, khâu niêm mạc vách ngăn bằng chỉ Chromic 3.0 với hai mũi đơn.
Sử dụng kéo vi phẫu để cắt bán phần ngoài cuốn mũi dưới ở cả hai bên, sau đó áp dụng spatule và Through-cut 0 độ để loại bỏ phần xương cuốn mũi dưới Tiến hành cuộn niêm mạc cuốn mũi dưới phía trong và ép ra phía ngoài nhằm kiểm soát chảy máu Cuối cùng, đặt merocel vào hốc mũi hai bên.
Hút họng sạch và kiểm tra không ghi nhận chảy máu thêm Sau đó, kết thúc phẫu thuật.
Người bệnh được rút merocel hốc mũi 48 giờ sau phẫu thuật Sau khi kiểm tra không ghi nhận chảy máu mũi thêm, người bệnh được xuất viện.
Khi xuất viện, bệnh nhân nhận được đơn thuốc bao gồm kháng sinh, thuốc kháng viêm, thuốc giảm đau và bộ dụng cụ rửa mũi hàng ngày Ngoài ra, bệnh nhân cũng được hẹn tái khám sau 1 tuần và 3 tuần (1 tháng).
Khi tái khám, chúng tôi thực hiện nội soi hốc mũi và đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân thông qua bảng câu hỏi NOSE và SNOT-22 sau phẫu thuật.
Thu thập và phân tích số liệu, chúng tôi lập bảng kết quả sẽ phân tích và đánh giá:
+ Thang điểm NOSE (từ 0-100 điểm, với 0 điểm: không có vấn đề; 100 điểm: vấn đề rất nặng)
+ Tình trạng chảy máu sau mổ, tình trạng đau sau mổ (Có hay không).+ Tình trạng hốc mũi qua nội soi mũi xoang: tình trạng tạo vẩy mũi (có
Bảng câu hỏi NOSE (Nasal Obstruction Symptom Evaluation)
Trong vòng 01 tháng qua, những tình trạng dưới đây đã gây ra cho quí anh/chị khó khăn gì trong cuộc sống ?
Người bệnh khoanh tròn vào câu trả lời phù hợp nhất với tình trạng hiện tại.
Cộng tất cả các điểm và nhân với 5 để tạo thành thang điểm 100 nhằm phục vụ phân tích số liệu.
Bảng câu hỏi SNOT – 22 (Sino-Nasal Outcome Test – 22) Đánh giá mức độ ảnh hưởng của các triệu chứng sau trong vòng 2 tuần vừa qua:
Vấn đề khá tồi tệ
Gặp khó khăn khi thở qua mũi 0 1 2 3 4
Không thể lấy đủ không khí bằng mũi khi đang gắng sức
Dưới đây là các mức độ nghiêm trọng của vấn đề: không vấn đề, vấn đề rất nhẹ, vấn đề nhẹ, vấn đề vừa phải, vấn đề nghiêm trọng và vấn đề không thể tệ hơn được nữa Trong số đó, có 5 vấn đề nghiêm trọng nhất cần được chú ý.
18 Giảm năng suất làm việc 0 1 2 3 4 5
Thu thập số liệu
Tiến hành thu thập số liệu theo mẫu thu thập số liệu
Các biến số
Các biến số trong nghiên cứu là các biến định lượng
• Mô tả đặc điểm của mẫu nghiên cứu
Biến số nghiên cứu Chỉ số nghiên cứu
Giới Tỉ lệ % theo giới của mẫu nghiên cứu
Tuổi Tỉ lệ % theo tuổi của mẫu nghiên cứu
Hút thuốc lá Dựa vào bệnh sử
Hen Dựa vào bệnh sử
OSA Dựa vào bệnh sử
Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của triệu chứng nghẹt mũi đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân trước và sau phẫu thuật chỉnh hình vách ngăn và cuốn mũi dưới Đánh giá được thực hiện thông qua bảng hỏi NOSE và SNOT-22, giúp xác định sự cải thiện về triệu chứng và ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của người bệnh Kết quả cho thấy phẫu thuật mang lại sự cải thiện rõ rệt trong tình trạng nghẹt mũi, nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân.
Biến số nghiên cứu bao gồm chỉ số nghiên cứu và điểm số từ bảng câu hỏi NOSE trước điều trị, cùng với điểm số từ bảng câu hỏi SNOT-22 trước điều trị Những thông tin này được lấy dựa trên các bảng câu hỏi tương ứng để đánh giá tình trạng bệnh nhân trước khi bắt đầu liệu trình điều trị.
Phẫu thuật chỉnh hình vách ngăn và cuốn mũi dưới là phương pháp điều trị hiệu quả cho tình trạng nghẹt mũi do vẹo vách ngăn và quá phát cuốn mũi dưới Nghiên cứu đã đánh giá tính an toàn và hiệu quả của thủ thuật này, cho thấy sự cải thiện đáng kể trong chất lượng sống của bệnh nhân Việc can thiệp phẫu thuật không chỉ giúp giảm triệu chứng nghẹt mũi mà còn nâng cao khả năng hô hấp Các dữ liệu thu thập được cũng chỉ ra rằng tỷ lệ biến chứng sau phẫu thuật là thấp, khẳng định tính an toàn của phương pháp này.
Biến số nghiên cứu Chỉ số nghiên cứu
Biến chứng sau phẫu thuật Tỉ lệ biến chứng
Tình trạng đau sau phẫu thuật Tỉ lệ đau sau phẫu thuật
Tình trạng tạo vẩy mũi sau phẫu thuật Tỉ lệ tạo vẩy mũi sau phẫu thuật
Phương pháp xử lý và phân tích số liệu
2.3.4.1 Phương pháp xử lý số liệu
- Sử dụng phiếu thu thập để ghi nhận số liệu thô và hiệu chỉnh những số liệu này trên bảng thu thập.
- Mã hóa các biến số của dữ liệu thu thập được và áp dụng vào phần mềm SPSS 23.0.
- Lập tập tin và tiến hành nhập số liệu theo dạng mã hóa.
2.3.4.2 Phương pháp phân tích số liệu
- Thống kê và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 23.0.
Để phân tích thông tin dịch tễ và các đặc tính chung của nhóm nghiên cứu, cần áp dụng các phương pháp như tính tần số và tỷ lệ của các đặc điểm đối tượng, bao gồm giới tính, độ tuổi và các vấn đề bệnh lý.
Để phân tích kết quả điều trị sau phẫu thuật chỉnh hình vách ngăn và cuốn mũi dưới, có thể áp dụng các phương pháp sau: sử dụng phép kiểm T để đánh giá sự thay đổi điểm triệu chứng qua thang điểm NOSE và SNOT-22; áp dụng phép kiểm Mann – Whitney U-test nhằm xem xét ảnh hưởng của các đặc điểm dịch tễ và bệnh lý đi kèm đến sự thay đổi điểm triệu chứng sau phẫu thuật; và thực hiện kiểm định sự tương quan cùng tính hệ số tương quan giữa điểm NOSE, SNOT-22 với sự thay đổi điểm triệu chứng sau phẫu thuật so với trước khi thực hiện phẫu thuật.
- Kết quả được trình bày bằng các bảng và biểu đồ thông qua chương trìnhWord 2013, Excel 2013.