ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tƣợng nghiên cứu
Hồ Tây, nằm tại Hà Nội, là một hệ sinh thái phong phú với nguồn gốc từ sông Hồng Hồ đã trải qua ba giai đoạn phát triển: hình thành cách đây khoảng 3000 - 2500 năm, phát triển từ 2000 - 1000 năm trước, và hiện tại là giai đoạn thoái hóa Ban đầu, Hồ Tây là một nhánh của sông Hồng, nhưng sau khi sông chuyển dòng lên phía Đông Bắc, hồ đã bị cô lập hoàn toàn Khoảng 1000 năm trước, việc đắp đê sông Hồng để bảo vệ Hà Nội đã khiến Hồ Tây tách biệt với dòng sông Trong lịch sử, Hồ Tây đã được gọi bằng nhiều tên khác nhau như Dâm Đàm, Lãng Bạc, và Xác Cáo, và vào năm 1573, nó được đổi tên để tránh tên húy của Vua.
Lê Thế Tôn (Duy Đàm), hồ được đổi tên là Tây Hồ, sau đó đổi thành Đoái
Hồ và sau lại là Tây Hồ [12]
Hồ Tây, hồ tự nhiên lớn nhất Hà Nội, nổi bật với hệ động thực vật phong phú và nhiều di tích lịch sử, văn hóa truyền thống Xung quanh hồ có 64 di tích, trong đó 21 di tích đã được xếp hạng như đền Quán Thánh, chùa Trấn Quốc, đền Đồng Cổ và phủ Tây Hồ Khu vực này cũng nổi tiếng với các vườn đào, vườn hoa và các làng hoa Qua hàng nghìn năm, Hồ Tây đã trở thành tài sản vô giá của Thủ đô Hà Nội, góp phần làm phong phú thêm cảnh quan và văn hóa địa phương.
Vị trí của Hồ Tây được thể hiện ở hình 2.
Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Các mẫu được lấy tại 8 địa điểm theo sơ đồ được thể hiện ở hình 3
Hình 3: Sơ đồ vị trí lấy mẫu tại Hồ Tây (Hà Nội)
(theo Lưu Thị Lan Hương 2009)
1 Điểm lấy mẫu gần công viên nước Hồ Tây (Lạc Long Quân)
2 Điểm lấy mẫu gần cống Xuân La (Trích Sài)
3 Điểm lấy mẫu giữa hồ trên (gần khách sạn Công Đoàn - Quảng Bá)
4 Điểm lấy mẫu gần Cống Đõ (Thụy Khuê)
5 Điểm lấy mẫu giữa hồ dưới (gần Trích Sài)
6 Điểm lấy mẫu gần cống Trúc Bạch (trên đường Thanh Niên)
7 Điểm lấy mẫu Nghi Tàm - Quảng An
8 Điểm lấy mẫu Ao Và gần khách sạn Thắng Lợi (Yên Phụ)
Phương pháp nghiên cứu
2.3.1 Phương pháp kế thừa, thống kê, phân tích, tổng hợp và đánh giá
Kế thừa và thống kê các số liệu từ các công trình nghiên cứu và báo cáo khoa học liên quan đến đa dạng sinh học và môi trường sinh thái hồ Tây từ các nhà khoa học trong và ngoài nước Dựa trên những số liệu này, tiến hành phân tích, tổng hợp và đánh giá tình hình hiện tại của hồ Tây.
Khảo sát và thu thập mẫu vật về các nhóm sinh vật bao gồm động vật phù du, thực vật phù du, động vật đáy, khu hệ cá, thực vật ven hồ và các thực vật thủy sinh khác là cần thiết để đánh giá tình trạng sinh thái và đa dạng sinh học của môi trường nước.
Phương pháp lấy mẫu, phân tích và đánh giá chất lượng nước theo tiêu chuẩn Việt Nam hiện hành (TCVN 5992, 5993-1995; TCVN 5942-1995)
2.3.3 Phương pháp khảo sát thực địa
Tiến hành thu mẫu: nước, sinh vật nổi, sinh vật đáy, cá tại 8 địa điểm nghiên cứu (hình 3)
Các phương pháp thu mẫu sinh vật:
Mẫu định tính được thu thập bằng lưới vớt TVN hình chóp, có đường kính miệng 30 cm và chiều dài 0,7 m, với đường kính mắt lưới 25 mm Quá trình thu mẫu diễn ra theo hình số 8 tại điểm thu hoặc dọc theo bờ ao Sau khi thu thập, mẫu được chuyển vào lọ thủy tinh nút mài 125 ml, được đánh dấu và bảo quản bằng dung dịch Lugol 1% hoặc Formaline 2%.
Mẫu định lượng được thực hiện bằng cách lấy nước từ 8 điểm trong hồ và trộn chung các mẫu này trong một xô 40L Sau đó, mẫu được lọc qua lưới để loại bỏ thực vật nổi TVN và chuyển vào lọ 125 ml Mỗi mẫu cần được đánh dấu và bảo quản bằng dung dịch lugol 1% hoặc formaline 2% Cuối cùng, mẫu sẽ được chuyển về phòng thí nghiệm để lắng trong 24 - 48 giờ, sau đó rút bỏ bớt nước trong hoặc pha loãng nếu cần.
Trước khi thu mẫu động vật nổi, cần chọn vị trí thu hợp lý, đảm bảo hướng quăng lưới theo chiều gió và tránh khu vực có nhiều rác hoặc nông Quăng lưới cách bờ 5m và kéo nhẹ với tốc độ 0,5m/s, lưu ý giữ miệng lưới ngập trong nước Sau khi thu được mẫu, kéo lưới lên và đổ vào lọ nhựa, cố định mẫu bằng Formalin 4% trước khi mang về phòng thí nghiệm để phân tích.
Thu mẫu ĐVĐ kết hợp thu mẫu trầm tích
Thu mẫu định tính là quá trình sử dụng vợt ao để thu thập mẫu vật, bằng cách sục vợt vào các đám cỏ và cây bụi thủy sinh ven bờ, cũng như các đám cây thủy sinh nổi trên mặt nước.
Thu mẫu định lượng được thực hiện bằng gàu Petersen với diện tích ngoạm bùn là 0,02 m² Tại mỗi điểm thu mẫu, tiến hành thu 5 gầu bùn Sau đó, sử dụng rây để lọc toàn bộ khối lượng bùn và dùng panh để thu lấy vật mẫu.
Để thu mẫu hiệu quả, cần sử dụng nhiều loại lưới khác nhau, tùy thuộc vào đối tượng và môi trường sống của chúng Đặc biệt, tại các khu vực chuyển tiếp giữa các môi trường sống, nên sử dụng lưới bén chắn ngang để thu thập các nhóm cá di chuyển Việc ghi chép chi tiết về mẫu vật thu được là rất quan trọng, bao gồm vị trí thu mẫu (tọa độ GPS), loại lưới sử dụng, số lần kéo lưới và thời gian kéo Mẫu vật cần được gói trong túi nhựa PVC và bảo quản trong dung dịch formalin 8% để đảm bảo chất lượng.
Các phương pháp phân tích mẫu:
Phân tích mẫu TVN (Phytoplankton)
Mẫu định tính TVN được quan sát dưới kính hiển vi với pha tương phản và huỳnh quang Để nghiên cứu định lượng, mẫu nước được lắng trong ống đong hình trụ qua nhiều giai đoạn trong 48 - 96 giờ Sau đó, phần nước trên được loại bỏ, giữ lại mẫu cuối cùng với thể tích 3 - 5 ml Thao tác này cần thực hiện nhẹ nhàng và cẩn thận để tránh mất tế bào TVN.
Để xác định mật độ tế bào, sử dụng dung dịch 0,5mg/ml và quan sát dưới kính hiển vi huỳnh quang, theo phương pháp của UNESCO (1978) Sử dụng buồng đếm Sedgewick-Rafter với thể tích 1ml để lắng trong 3-5 phút trước khi tiến hành đếm tế bào Hàm lượng carbon được tính toán theo phương pháp của UNESCO (1978).
Tảo silíc được phân loại dựa trên hình dạng tế bào, cấu trúc mặt vỏ và sự phân bố của các vân trên bề mặt vỏ Kích thước của các trục và sự hình thành các tập đoàn dạng chuỗi hoặc khối cũng là những yếu tố quan trọng trong việc xác định loại tảo này.
Tảo hai roi được phân loại dựa vào hình dạng tế bào, số lượng và cách sắp xếp của các mảnh vỏ, theo công thức vỏ cải biên của Kofoid do Taylor (1996) và Steidinger (1997) đề xuất.
Tảo lam được phân loại dựa trên hình dạng cơ thể, bao gồm đơn bào, tập đoàn dạng khối và dạng sợi Các yếu tố như hình dạng tế bào, cấu trúc sợi, đặc biệt là hình dạng đầu ngọn và gốc của sợi, cũng như vỏ bao sợi, sự phân nhánh của sợi và vị trí, số lượng tế bào dị hình trên sợi tảo đều đóng vai trò quan trọng trong việc xác định loại tảo.
Tảo lục: Dựa vào hình dạng cơ thể (đơn độc, tập đoàn), hình dạng tế bào, hình dạng thể màu
Phân tích mẫu ĐVN (Zooplankton)
Phân tích mẫu định tính:
+ Xác định thành phần loài bằng kính giải phẫu, kính hiển vi;
+ Rút nước đến thể tích khoảng 100 - 150ml Đưa toàn bộ mẫu lên các đĩa đếm (10 - 15 đĩa);
+ Xác định đến nhóm trên kính giải phẫu;
+ Chọn các cá thể phát triển đầy đủ nhất đại diện cho từng nhóm để giải phẫu và xác định loài bằng kính hiển vi;
+ Loại bỏ cặn, rác bẩn trước khi đếm mẫu;
+ Lắc đều mẫu trong thể tích nước nhất định (100 - 150 - 200 - 250ml) tùy theo độ phong phú của mẫu;
+ Hút bằng ống hút 3 - 6 lần (mỗi lần 5ml) đưa vào buồng đếm, đếm từng loài đến lúc số lượng thay đổi không đáng kể
Phân tích mẫu định lượng
+ Phương pháp đếm số lượng:
● Nếu số lượng mẫu vật ít phải đếm toàn bộ;
● Nếu mẫu vật quá nhiều đếm toàn bộ những loài có kích thước lớn;
● Sau đó lấy một thể tích nhất định để đếm các loài còn lại;
● Chọn riêng những loài động vật phù du là thức ăn cho cá để cân trọng lượng ẩm; Cân phải có độ nhậy ít nhất là 0,01mg;
● Loại bỏ cặn, rác bẩn trước khi cân mẫu bằng cân điện với độ chính xác 0,0001g;
● Lọc mẫu qua lưới lọc (mắt lưới 315μm);
● Thấm mẫu bằng giấy lọc đến độ ẩm tự nhiên;
Sinh vật lượng ÐVN được tính theo hai cách:
Để xác định trọng lượng carbon, cần đo kích thước từng loài nhằm tính toán thể tích và hàm lượng carbon Việc này được thực hiện thông qua chương trình cơ sở dữ liệu PlanktonSys (phiên bản 1.0, 2003, Bioconsult, DK).
Để xác định số lượng sinh vật lượng (ĐVN), cần đếm mẫu đến loài dưới kính hiển vi soi nổi Số lượng ĐVN được biểu thị bằng cá thể trên một đơn vị thể tích (cá thể/m³) và trọng lượng carbon trên một đơn vị thể tích (mg/m³) Để định lượng ĐVN, sử dụng pipet lấy 1ml nước chứa mẫu và cho vào 20ml mẫu, sau đó đặt lên buồng đếm Sedgewick Raffter với độ phóng đại 10X hoặc 40X Việc đếm được thực hiện bằng cách di chuyển lamen theo tọa độ từ trên xuống dưới và từ trái qua phải.
Số lượng Zooplankton được tính theo công thức:
Trong đó : N0 là số lượng Zooplankton (con/m 3 )
C là Số cá thể đếm được trên buồng đếm
V’: số ml nước mẫu còn lại sau khi lọc
V’’: Thể tích mẫu nước đã thu
Phân tích mẫu ĐVĐ (Zoobenthos)
Tách mẫu trong phòng thí nghiệm:
+ Sau khi đối chiếu xong, tiến hành tách mẫu để chuẩn bị phân tích; + Mẫu định tính và định lượng được tách riêng
● Dùng cân tiểu ly có độ nhạy 0.01g để cân Nếu mẫu còn dùng để tính khối lượng khô thì phải dùng thống nhất một cân có độ nhạy 0.01mg
● Trước khi cân, mẫu vật phải được đặt trên giấy thấm để hút đi phần nước bề mặt
● Khi cân khối lượng thân mềm không cần phải bỏ vỏ, nhưng cần thấm hết nước hay cồn ở trong vỏ
● Kết quả cân khối lượng mẫu vật phải được ghi vào bảng
● Sau khi đã cân xong khối lượng mẫu ngâm cồn, các loài hoặc nhóm loài của từng trạm phải được xử lý để lấy số liệu khối lượng khô;
● Dùng cân tiểu ly có độ nhạy 0,01mg để cân
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Kết quả điều tra hiện trạng thành phần loài sinh vật ở Hồ tây
3.1.1 Kết quả điều tra về thành phần loài thực vật nổi Điều tra của chúng tôi về TVN (Phytoplankton): trong 2 đợt khảo sát tại hồ vừa qua đã phát hiện được 68 loài tảo thuộc 4 ngành, trong đó tảo lam (Cyanophyta) có 14 loài gồm: 4 loài họ Chroococcaceae, 8 loài họ Oscillatoriaceae, 2 loài họ Nostocaceae; và 54 loài tảo thuộc 3 ngành tảo Silic (Bacillariophyta), tảo lục (Chlorophyta) và tảo mắt (Euglenophyta) Trong đó, tảo Silic có 21 loài gồm: 4 loài họ Melosiraceae, 1 loài họ Achnanthaceae, 2 loài họ Fragillariaceae, 8 loài họ Naviculaceae, 3 loài họ Nitzschiaceae, 2 loài họ Surirellaceae, 1 loài họ Tabelariaceae; tảo lục có 23 loài gồm: 1 loài họ Chloro chytriaceae, 4 loài họ Hydrodictiaceae, 7 loài họ Scenedesmaceae, 3 loài họ Desmidisceae, 1 loài họ Oocystaceae, 4 loài họ Coelastraceae, 1 loài họ Ulotricaceae, 1 loài họ Ankistrodesmaceae; tảo mắt có 10 loài thuộc họ Euglenophyta (số liệu khảo sát thực tế tại hồ Tây tháng 3/2013) Thành phần và số lượng từng loài được trình bày ở phần phụ lục1
Hình 4: Tỷ lệ phần trăm thành phần ngành tảo ở Hồ Tây
Theo nghiên cứu trước đây năm 2002 thực vật nổi có 112 loài với 5 ngành trong đó 18 loài tảo silic chiếm (16%), 71 loài tảo lục chiếm (63,4%),
12 tảo lam chiếm (10,7%), tảo mắt 7 loài (6,25%) và tảo giáp 4 loài
Theo nghiên cứu của Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật năm 2011, có 72 loài thực vật nổi thuộc 5 ngành khác nhau Trong đó, ngành tảo lam có 15 loài (20,83%), tảo lục 19 loài (26,38%), tảo silic 21 loài (29,2%), tảo mắt 14 loài (19,44%) và ngành tảo giáp 3 loài (8,3%).
Tại thời điểm khảo sát, tảo giáp không xuất hiện, trong khi tảo mắt và tảo lam chỉ thị cho các thủy vực giàu chất dinh dưỡng Hình 4 cho thấy thành phần thực vật nổi ở Hồ Tây phong phú ở mức trung bình, với tảo lục chiếm 34% (23 loài), tảo silic 30% (21 loài), tảo lam 20% và tảo mắt 15% So với nghiên cứu năm 2002 và 2011, tỷ lệ phần trăm của tảo mắt và tảo lam tăng, trong khi tảo silic giảm, cho thấy chất lượng nước đã thay đổi theo hướng giàu dinh dưỡng Tuy nhiên, tảo lục vẫn chiếm ưu thế với 34%, chứng tỏ Hồ Tây chưa bị ô nhiễm nặng Điều này cho thấy cấu trúc thành phần loài động vật nổi của Hồ Tây đã thay đổi, với sự xuất hiện nhiều loài thích nghi với điều kiện nước ô nhiễm hữu cơ.
Theo nghiên cứu từ năm 1960-1970, mật độ thực vật nổi ở Hồ Tây rất cao, đạt từ 3 triệu đến 200 triệu tế bào/lít, trong đó tảo lam chiếm 60-90% Đến năm 1996, tác giả Dương Đức Tiến ghi nhận hiện tượng nở hoa thực vật nổi với mật độ tảo lên tới 249 triệu tế bào/lít.
Theo nghiên cứu năm 2011 của Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, mật độ thực vật nổi ở Hồ Tây dao động theo mùa từ 94 triệu đến 104 triệu tế bào/lít, trong đó tảo lam chiếm 61% tổng mật độ tảo.
Kết quả điều tra cho thấy mật độ thực vật nổi ở Hồ Tây khá cao, trung bình khoảng 65.000 tế bào/l, với tảo lam chiếm ưu thế nhất, khoảng 60% tổng số tảo Điều này cho thấy nước Hồ Tây đã có dấu hiệu ô nhiễm hữu cơ, nhưng mức độ vẫn chưa cao So với các nghiên cứu trước đây, mật độ thực vật nổi đã giảm đáng kể, có thể do việc lấy mẫu không trùng với thời điểm tảo nở hoa và nhờ vào nỗ lực của công ty môi trường đô thị trong việc dọn sạch lòng hồ, vớt rác và thực vật nổi hàng ngày.
3.1.2 Kết quả điều tra về thành phần loài động vật nổi Điều tra của chúng tôi về ĐVN (Zooplankton) ở hồ Tây hiện nay có 50 loài: 14 loài thuộc lớp Giáp xác chân chèo (Copepoda) gồm: 3 loài họ Diaptomidae, 7 loài họ Cyclopidae, 2 loài họ Pseudodiaptomidae, 2 loài họ Centropagidae; 22 loài thuộc lớp Giáp xác râu ngành (Cladocera) gồm: 2 loài họ Bosminidae, 4 loài họ Sididae, 2 loài họ Macrothricidae, 5 loài họ Daphniidae, 9 loài họ Chydoridae; 13 loài thuộc nhóm trùng bánh xe (Rotatoria) gồm: 1 loài họ Philodinidae, 1 loài họ Asplanchnidae, 1 loài họ Conochilidae, 9 loài họ Brachionidae, 1 loài họ Lecanidae; và 1 loài thuộc phân lớp có vỏ (Ostracoda) Trong đó, nhóm trùng bánh xe Rotatoria phong phú về thành phần loài chứng tỏ Hồ Tây đang có xu hướng ô nhiễm hữu cơ Thành phần và số lượng từng loài được trình bày ở phần phụ lục 2
Hồ Tây có sự phân bố động vật nổi không đa dạng, với giáp xác râu ngành chiếm ưu thế nhất (44%), tiếp theo là giáp xác chân chèo (28%) và trùng bánh xe (26%), trong khi nhóm hai lớp vỏ chỉ chiếm 2% Điều này phản ánh đặc điểm của một hồ kín với chế độ thủy văn ổn định Hầu hết các loài động vật nổi tại đây thích nghi với môi trường giàu muối hữu cơ, thường gặp ở các thủy vực bị ô nhiễm Sự xuất hiện phổ biến của trùng bánh xe Rotatoria và một số loài trong nhóm Copepoda, Cladocera cho thấy mức độ phú dưỡng cao của Hồ Tây.
Theo số liệu khảo sát, mật độ động vật nổi ở Hồ Tây dao động ở mức vừa phải, với mức cao nhất khoảng 3000 con/m³, trung bình 2500 con/m³ và thấp nhất là 2100 con/m³ Nhóm Copepoda chiếm ưu thế về mật độ, tiếp theo là Cladocera và Rotatoria, trong khi nhóm Ostracoda có mật độ thấp không đáng kể Sự phát triển mạnh mẽ của các nhóm ăn lọc hữu cơ trong nhóm Trùng bánh xe đã làm tăng mật độ chung của động vật nổi Tuy nhiên, tổng số loài trong thủy vực lại không lớn, dẫn đến tính đa dạng loài của động vật nổi ở Hồ Tây thấp Đặc điểm này cho thấy tình trạng phú dưỡng của hồ, khi quần xã thủy sinh vật phát triển mạnh về số lượng các nhóm loài ưu thế thích nghi với môi trường phú dưỡng.
3.1.3 Kết quả điều tra về thành phần loài động vật đáy
Theo số liệu khảo sát thực tế tại Hồ Tây cuối năm 2012 và đầu năm
As of 2013, the zoobenthos in West Lake consists of 48 species, including 4 crustacean species from the Atyidae family, 10 mollusk species comprising 3 from the Corbiculidae family, 5 from the Unionidae family, 1 from the Mytilidae family, and 1 from the Ablemidae family Additionally, there are 25 species of oligochaete worms, with 6 belonging to a specific family.
Trong nghiên cứu về động vật nước ngọt, có 2 loài thuộc họ Tubificidae, 2 loài họ Aeolosomatidae, 13 loài họ Naididae, 2 loài họ Hirudinidae và 2 loài họ Glossiphoniidae Đồng thời, lớp chân bụng gồm 9 loài, bao gồm 2 loài họ Lymnaiedae, 1 loài họ Bithyniidae, 3 loài họ Thiaridae và 3 loài họ Viviparidae Chi tiết về thành phần và số lượng loài được trình bày trong phụ lục 3.
Hình 6: Tỷ lệ phần trăm thành phần loài, họ, bộ động vật đáy ở Hồ Tây
Theo nghiên cứu của chúng tôi, trong thành phần động vật đáy tại Hồ Tây, nhóm giun ít tơ Oligochaeta chiếm ưu thế với 52%, tiếp theo là chân bụng (18,9%) và thân mềm (20,8%), trong khi giáp xác chỉ chiếm 8,3% Đặc biệt, nghiên cứu của Nguyễn Xuân Quýnh năm 1996 cho thấy nhóm ốc chiếm trên 80% sinh khối chung, nhưng hiện tại số lượng ốc đã giảm đáng kể Giun ít tơ Oligochaeta thường chỉ thị cho môi trường ô nhiễm hữu cơ, trong khi ốc Viviparidae lại chỉ ra môi trường nước sạch Kết quả điều tra của chúng tôi chỉ ra rằng Hồ Tây đang bị ô nhiễm hữu cơ và cấu trúc thành phần loài động vật đáy đã thay đổi theo hướng xuất hiện nhiều loài thích nghi với điều kiện ô nhiễm.
Nghiên cứu trước đây của Nguyễn Xuân Quýnh (1996) và Hồ Thanh Hải (2001) cho thấy Hồ Tây có thành phần loài thủy sinh vật tương đối đồng nhất, chủ yếu là các loài nội tại với ít loài ngoại lai Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu gần đây chỉ ra sự thay đổi trong phân bố loài, với sự tập trung chủ yếu ở vùng nước nông ven bờ, trong khi vùng giữa hồ và đáy hồ chỉ ghi nhận ấu trùng muỗi và giun ít tơ, cho thấy sự thích nghi với điều kiện ít oxy và ánh sáng Những biến đổi về môi trường sống đã dẫn đến sự thay đổi trong cấu trúc quần xã động vật đáy tại Hồ Tây.
Hiện nay, Hồ Tây có sự xuất hiện của một số loài động vật đáy ngoại lai như ốc bươu vàng, trai và ốc, được thả vào hồ làm thức ăn cho cá và động vật phóng sinh hàng năm Thành phần và số lượng loài động vật đáy đã biến đổi nhiều so với năm 1996 Nghiên cứu cho thấy sự khác biệt về thành phần loài giữa vùng ven bờ và vùng giữa hồ Tại vùng ven bờ, nơi có mực nước thấp và nhiều giá thể bám, thường xuất hiện các loài động vật thân mềm như trai, trùng trục, hến, ốc, và một số giáp xác như cua Trong khi đó, vùng giữa hồ và đáy hồ chủ yếu chỉ thấy các loài giun ít tơ và ấu trùng muỗi lắc.
Số lượng loài thu được tại mỗi điểm mẫu rất thấp, không có sự khác biệt giữa các điểm thu mẫu gần cống thải và các điểm khác, cũng như giữa các tháng thu mẫu Tại các cống thải của hồ, nơi có ô nhiễm nặng và nền đáy chủ yếu là rác thải mới, động vật đáy thường không xuất hiện; do đó, việc thu mẫu cần thực hiện cách cống thải ít nhất 20m Điều này giải thích tính đồng đều về số lượng và thành phần loài giữa các điểm thu mẫu trong hồ.
Kết quả phân tích chỉ số đa dạng thành phần loài sinh vật ở Hồ Tây
Trong nghiên cứu này, chúng tôi xác định chỉ số đa dạng Shannon-Weiner (H’) và chỉ số phong phú loài Magalef (d) tại các điểm nghiên cứu Kết quả phân tích được trình bày trong bảng 7 và bảng 8.
Bảng 7 : Biến động chỉ số đa dạng của Shannon –Weiner (H’)của thực vật nổi, động vật nổi, đông vật đáy của Hồ Tây
Chỉ số H’ Địa điểm lấy mẫu Đ1 Đ2 Đ3 Đ4 Đ5 Đ6 Đ7 Đ8
Chỉ số Đa dạng loài H’ của thực vật nổi ở Hồ Tây trung bình đạt 1,14± 0,0115
Chỉ số Đa dạng loài H’ của động vật nổi ở Hồ Tây trung bình đạt 1,08 ± 0,005
Chỉ số Đa dạng loài H’ của động vật đáy ở Hồ Tây trung bình đạt 1,1055 ± 0,023
Theo bảng 5, chỉ số đa dạng loài H’ của TVN, ĐVN, ĐVĐ trung bình trong khoảng 1