NỘI DUNG VÀ KÊT QUẢ NGHIÊN CỨU
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ
CHI THƯỜNG XUYÊN NGUỒN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1 Tổng quan lý luận về ngân sách và chi thường xuyên ngân sách nhà nước
1.1.1 T ổng quan lý luận v ề ngân sách nhà nước
1.1.1.1 Khái niệm vềngânsách nhà nước
Ngân sách nhà nước, hay còn gọi là ngân sách chính phủ, là một khái niệm lịch sử phản ánh các khía cạnh của quan hệ kinh tế trong phân phối sản phẩm xã hội Nó đóng vai trò quan trọng trong việc giúp nhà nước thực hiện các chức năng quản lý từ cấp trung ương đến địa phương.
Tại khoản 14, điều 4, Luật Ngân sách nhà nước (2015)được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 25/6/2015 định nghĩa rằng,
Ngân sách Nhà nước là tổng hợp các khoản thu và chi của Nhà nước, được dự toán và thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định Việc này do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước.
NSNN là biểu hiện của mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể kinh tế - xã hội, thông qua việc phân phối tổng sản phẩm xã hội Nó tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước, chuyển dịch một phần thu nhập từ các chủ thể thành thu nhập của Nhà nước Sau đó, Nhà nước phân phối thu nhập này cho các chủ thể thụ hưởng để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình.
Nội dung chính của ngân sách nhà nước (NSNN) không chỉ là các con số thu chi hay quy mô tiền tệ, mà còn phản ánh các chủ trương và chính sách của Nhà nước Nó thể hiện mối quan hệ tài chính giữa các cấp chính quyền và giữa Nhà nước với các chủ thể kinh tế khác trong quá trình phân bổ nguồn lực xã hội và phân phối thu nhập mới tạo ra.
1.1.1.2 Vai trò của ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh tế, xã hội, an ninh - quốc phòng và đối ngoại của quốc gia Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ngân sách nhà nước thực hiện chức năng quản lý vĩ mô đối với toàn bộ nền kinh tế và xã hội.
NSNN là công cụ quan trọng trong việc điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế và xã hội, định hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường và bình ổn giá cả, từ đó góp phần điều chỉnh đời sống xã hội.
Để đảm bảo nhu cầu chi tiêu của nhà nước, việc huy động các nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước (NSNN) là rất quan trọng Mức độ huy động tài chính cần phải hợp lý, tránh việc quá cao hoặc quá thấp, vì điều này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế Do đó, cần xác định mức huy động phù hợp với khả năng đóng góp tài chính của các thành phần kinh tế khác nhau trong xã hội.
NSNN đóng vai trò là công cụ điều tiết nền kinh tế vĩ mô, định hướng phát triển cơ cấu kinh tế mới và kích thích sản xuất, tăng cường tính cạnh tranh trên thị trường và phá vỡ độc quyền Chính phủ sẽ xây dựng định hướng phát triển cho các thành phần kinh tế trong xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển sản xuất Qua hoạt động của NSNN, chính phủ cung cấp kinh phí đầu tư cho cơ sở hạ tầng, hình thành doanh nghiệp trong các ngành then chốt, từ đó hỗ trợ sự ra đời và phát triển của mọi thành phần kinh tế.
Hoạt động của ngân sách nhà nước (NSNN) đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời hướng tới phát triển kinh tế xã hội Điều này được thực hiện thông qua việc sử dụng các công cụ thuế, phí và lệ phí mà nhà nước áp dụng.
NSNN đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, thông qua việc trợ giúp trực tiếp cho những người có thu nhập thấp hoặc hoàn cảnh đặc biệt thông qua các khoản chi trợ cấp xã hội Bên cạnh đó, chính phủ còn thực hiện trợ cấp gián tiếp bằng cách trợ giá cho các mặt hàng thiết yếu, hỗ trợ chi phí cho các chính sách về dân số, việc làm, chống mù chữ, và hỗ trợ đồng bào vùng lũ lụt, thiên tai.
Vào thứ năm, nhà nước sử dụng ngân sách nhà nước (NSNN) như một công cụ để ổn định giá cả và kiềm chế lạm phát trong nền kinh tế Nhà nước chỉ điều tiết những mặt hàng quan trọng và chiến lược, có ảnh hưởng lớn đến các hoạt động kinh tế và xã hội Cơ chế điều tiết này được thực hiện thông qua các chính sách trợ giá, điều chỉnh thuế suất xuất nhập khẩu và quản lý dự trữ quốc gia.
1.1.1.3 Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước (NSNN) là quá trình mà nhà nước trung ương và cấp tỉnh giao nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm cho các cấp chính quyền địa phương trong việc quản lý thu chi NSNN.
Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước (NSNN) là biện pháp quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả quản lý NSNN Bản chất của phân cấp này là phân chia trách nhiệm và quyền hạn giữa các cấp chính quyền, giúp hoạt động của NSNN trở nên lành mạnh hơn Nguyên tắc thực hiện phân cấp quản lý thu chi NSNN dựa trên sự thống nhất và dân chủ tập trung, được quy định chi tiết trong Luật Ngân sách nhà nước năm 2015, từ đó xác định rõ nhiệm vụ thu chi cho ngân sách của từng cấp.
Phân cấp quản lý thu ngân sách nhà nước (NSNN) chủ yếu tập trung vào việc đảm bảo nguồn thu lớn và ổn định cho ngân sách trung ương (NSTW), đồng thời hỗ trợ ngân sách địa phương (NSĐP) có nguồn thu phù hợp với địa bàn Theo đó, nguồn thu NSNN được phân loại thành ba nhóm: các khoản thu NSTW hưởng 100%, các khoản thu NSĐP hưởng 100%, và các khoản thu điều tiết theo tỷ lệ phần trăm giữa NSTW và NSĐP.
1.1.1.3.2 Các nguyên tắc phân cấp quản lý
Theo Nguyễn Văn Tuyến (2007), phân cấp quản lý NSNN các cấp từ Trung ương đến địa phương phải đảm bảo bốn nguyên tắc cơ bản sau:
Thứnhất, phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế, xã hội, an ninh –quốc phòng và năng lực quản lý của mỗi cấp trênđịa bàn.
Thứhai,đảm bảo vai trò chủ đạo của NSTW và vị trí độc lập của NSĐP trong hệthống NSNN thống nhất.
Cần phân định rõ ràng nguồn thu và nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân sách, nhằm xác định thẩm quyền và trách nhiệm cụ thể của từng cấp Điều này sẽ giúp các chính quyền địa phương, đặc biệt là các cơ sở, chủ động thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế và xã hội, đồng thời hạn chế tình trạng trông chờ vào ngân sách cấp trên và tình trạng bao biện từ ngân sách cấp trên.
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHI THƯỜNG XUYÊN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TẠI HUYỆN BỐ TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH
2.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội của huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình
2.1.1 Điều kiện tự nhi ên
Huyện Bố Trạch, một trong bảy huyện của tỉnh Quảng Bình, nằm ở cửa ngõ phía Bắc thành phố Đồng Hới Với tổng diện tích tự nhiên khoảng 212.417,63 ha, huyện chiếm 26,33% diện tích toàn tỉnh Đặc biệt, Bố Trạch có chiều dài từ Tây sang Đông trải dài toàn bộ chiều ngang của Việt Nam, tiếp giáp với biển Đông và đường biên giới giữa Việt Nam và Lào.
Huyện này có địa hình chủ yếu là núi và gò đồi, chiếm hơn 80% diện tích tự nhiên, với sự nghiêng dần từ Tây sang Đông trên dải đất hẹp và dốc.
Bố Trạch là huyện có khí hậu nhiệt đới gió mùa đặc trưng của vùng ven biển miền Bắc Trung Bộ, với hai mùa rõ rệt: mùa nóng từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa lạnh từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau Mùa nóng có nhiệt độ trung bình khoảng 27,6°C, có thể lên tới trên 40°C, trong khi mùa lạnh thường hanh khô và lạnh, với sương mù và mưa phùn nhẹ kéo dài nhiều ngày.
Vùng Bố Trạch nằm trong khí hậu nhiệt đới gió mùa ven biển Bắc miền Trung, nơi có khí hậu khắc nghiệt với nhiều trận bão lụt và nước biển dâng hàng năm Những hiện tượng thiên tai này gây thiệt hại lớn đến sản xuất và đời sống của người dân Để giảm thiểu tác động của thiên tai, hàng năm, người dân Bố Trạch đầu tư hàng chục tỷ đồng vào công tác phòng chống lụt bão và củng cố hạ tầng cơ sở.
Huyện Bố Trạch thuộc tỉnh Quảng Bình có 30 xã và thị trấn, bao gồm 2 xã vùng rẻo cao, 9 xã miền núi, 7 xã ven biển và 8 xã công giáo Với vị trí địa lý thuận lợi cùng thế mạnh về thương mại và dịch vụ, Bố Trạch đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
2.1.2 Tình hình kinh t ế - xã h ội
2.1.2.1 Về tăng trưởng kinh tếvà chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Nhờ sự chuyển đổi cơ chế quản lý và phát triển chung của đất nước, huyện Bố Trạch đã có nhiều cơ hội phát triển kinh tế trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội theo cơ chế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng Sau những năm thực hiện đổi mới, cơ cấu kinh tế của huyện đã chuyển dịch tích cực từ nền kinh tế nông nghiệp chủ yếu sang nền kinh tế nhiều thành phần, với tỉ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ thương mại ngày càng tăng, trong khi tỉ trọng nông nghiệp giảm dần.
Bảng 2 1 Cơ cấu kinh tếtheo ngành huyện BốTrạch giai đoạn 2014–2016 ĐVT: Triệu đồng (Giá so sánh năm 2010)
Giá trị (%) Giá trị (%) Giá trị (%) (%)
Nông - Lâm - Thủy sản 1.805.341 40,5 1.845.914 38,6 1.849.860 36,2 1,2 Công nghiệp - xây dựng 894.143 20,1 997.443 20,9 1.124.560 22,0 12,1
(Nguồn: Chi cục thống kê huyện BốTrạch)
Năm 2016, huyện Bố Trạch có dân số trung bình là 182.508 người, trong đó 90,5% cư trú tại khu vực nông thôn và 9,5% ở khu vực đô thị Với diện tích tự nhiên 212.417,63 ha, mật độ dân số của huyện chỉ đạt 85,9 người/km², cho thấy đây là một trong những huyện có mật độ dân số thấp nhất tỉnh Quảng Bình.
Lao động đóng vai trò then chốt trong quá trình sản xuất và là yếu tố quan trọng trong mọi mô hình tăng trưởng kinh tế Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế một quốc gia, vùng hoặc huyện phụ thuộc chủ yếu vào sự gia tăng của lực lượng lao động Theo thống kê năm 2016, huyện Bố Trạch có dân số trung bình là 182.508 người, trong đó số người trong độ tuổi lao động đạt 111.986 người, chiếm 61,4% tổng dân số.
2.1.3 Tình hình thu chi ngân sách nhà n ước tại huyện Bố Trạch
Cuộc khủng hoảng kinh tế trong những năm qua đã tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế quốc gia và địa phương, tạo ra nhiều thách thức cho huyện Bố Trạch trong việc phát triển kinh tế xã hội Mặc dù vậy, huyện đã nỗ lực chỉ đạo các cơ quan chức năng thực hiện luật ngân sách nhà nước và quản lý tài chính, từng bước nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách và đạt được những thành tựu đáng khích lệ.
2.1.3.1 Tình hình thu ngân sách nhà nước tại huyện BốTrạchgiai đoạn 2014 - 2016
Năm 2014, nền kinh tế huyện phục hồi mạnh mẽ, dẫn đến tổng thu ngân sách địa phương đạt 873.632 triệu đồng, vượt 51,1% so với dự toán 578.232 triệu đồng Trong đó, thu nội địa đạt 205.319 triệu đồng, vượt 64,38% so với dự toán 123.689 triệu đồng và tăng 2% so với năm 2013.
Năm 2015, tổng thu ngân sách địa phương đạt 852.400 triệu đồng, vượt 41,8% so với dự toán 601.044 triệu đồng Trong đó, thu nội địa đạt 194.186 triệu đồng, vượt 34,66% so với dự toán 144.205 triệu đồng Tuy nhiên, so với năm 2014, tổng thu ngân sách địa phương năm 2015 giảm 2,43%.
Năm 2016, tổng thu ngân sách địa phương đạt 1.052.082 triệu đồng, vượt 68,41% so với dự toán đầu năm là 624.731 triệu đồng Trong đó, thu nội địa đạt 218.313 triệu đồng, vượt 21,29% so với dự toán 179.988 triệu đồng và tăng 24.127 triệu đồng so với năm 2015.
Bảng 2 2 Tình hình thu ngân sách nhà nước tại huyện BốTrạch giai đoạn 2014 - 2016
STT Nội dung Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016
Giá trị % Giá trị % Giá trị %
A Thu NSNN trên địa bàn (I + II ) 203.319 23,27 194.186 22,78 218.313 20,75
I Thu trong cân đối ngân sách 153.712 17,59 155.938 18,29 175.275 16,66
1 Thu khu vực CTN-NQD 32.384 3,71 33.047 3,88 30.461 2,90
* Các khoản thu từ đất 91.449 10,47 79.071 9,28 116.475 11,07
2 Thu tiền giao quyền sửdụng đất 88.745 10,16 76.905 9,02 0
3 Thu từquỹ đất công ích, hoa lợi công sản 1.749 0,20 2.163 0,25 1056 0,10
4 Thuếsửdụng đất phi nông nghiệp 100 0,01 109 0,01 70 0,01
* Thu khác (thu phạt, bán TS, thu khác) 9.596 1,10 11.505 1,35 4.119 0,39
II Thu, chi quản lý qua NSNN 49.607 5,68 38.248 4,49 43.038 4,09
4 Phí Phong Nha tỉnh điều tiết 3.456 0,40 6.369 0,75 4.238 0,40
5 Học phí (ghi thu, ghi chi) 3.309 0,38 3.628 0,43 3.151 0,30
2.1.3.2 Tình hình chi ngân sách nhà nước tại huyện BốTrạchgiai đoạn 2014–2016
Trong giai đoạn 2014 – 2016, tổng chi ngân sách nhà nước huyện Bố Trạch có xu hướng gia tăng Cụ thể, năm 2015, tổng chi ngân sách đạt 872.501,1 triệu đồng, tăng 58,1% so với dự toán giao và tăng 3,6% so với quyết toán năm 2014 Đến năm 2016, tổng chi đạt 937.864 triệu đồng, ghi nhận mức tăng 56,04% so với dự toán và 7,5% so với quyết toán năm 2015.
Theo số liệu từ bảng 2.3, trong giai đoạn 2014 - 2016, chi thường xuyên chiếm tỷ lệ cao nhất trong kết cấu nguồn chi của ngân sách nhà nước (NSNN) và có xu hướng tăng dần qua các năm Tổng chi thường xuyên trong giai đoạn này đạt 1.954.365 triệu đồng, tương đương 73,68% tổng chi NSNN và 77,75% tổng chi cân đối ngân sách của huyện.
Trong giai đoạn 2014 - 2016, chi đầu tư phát triển đứng thứ hai trong tổng chi ngân sách nhà nước (NSNN) với tổng số tiền 462.345 triệu đồng, chiếm 17,43% tổng chi NSNN và 18,39% tổng chi cân đối ngân sách Các khoản chi này có sự tăng trưởng ổn định, cụ thể năm 2014 đạt 139.291 triệu đồng (14,40% tổng chi NSNN), năm 2015 tăng lên 158.272 triệu đồng (15,90%), và đến năm 2016, khoản chi đạt 164.782 triệu đồng, chiếm 17,57% tổng chi NSNN của huyện.