Tính cấp thiết của đề tài
Ma túy đang trở thành hiểm họa lớn đối với nhân loại, gây ra những hậu quả nghiêm trọng trong xã hội, làm phát sinh tội phạm và đe dọa sự ổn định của các quốc gia Tình trạng nghiện ma túy ngày càng trẻ hóa và gia tăng khó kiểm soát, trong khi công tác thống kê và quản lý người nghiện còn thiếu chặt chẽ Để giảm thiểu ảnh hưởng của ma túy, cần thiết phải đưa những người nghiện đã cai nghiện tại cộng đồng hoặc không có nơi cư trú ổn định vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là một trong bốn biện pháp xử lý vi phạm hành chính theo Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, có hiệu lực từ ngày 01/7/2013 Biện pháp này được áp dụng cho người nghiện ma túy nhằm mục đích bắt buộc cai nghiện và chữa bệnh, đồng thời giúp họ lao động, học nghề, và học văn hóa dưới sự quản lý của cơ sở cai nghiện Qua đó, người nghiện sẽ được hỗ trợ để sớm hòa nhập cộng đồng.
Theo thống kê của Bộ Công an, tính đến tháng 12/2020, cả nước có hơn 235.000 người nghiện ma túy được quản lý, với 93.724 học viên đang cai nghiện tại các cơ sở Trong số này, 31.480 người cai nghiện bắt buộc theo quyết định của Tòa án, và 3.845 người đang chờ đưa vào cơ sở cai nghiện Hiện tại, cả nước có 113 cơ sở cai nghiện, bao gồm 97 cơ sở công lập và 16 cơ sở ngoài công lập Tòa án Nhân dân (TAND) có thẩm quyền triển khai các biện pháp phòng, chống ma túy, bao gồm việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính để đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Từ khi Luật XLVPHC có hiệu lực vào năm 2016, TAND cấp huyện đã giải quyết 113.235 hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp XLHC, đạt tỷ lệ 99,9% trong giai đoạn 2016 - 2020 Cụ thể, trong năm 2020, TAND cấp huyện đã xử lý 27.635 hồ sơ trong tổng số 27.651 hồ sơ Bên cạnh đó, TAND cấp tỉnh cũng đã giải quyết 100% các khiếu nại liên quan đến quyết định áp dụng biện pháp XLHC của TAND cấp huyện.
Thực tế hiện nay cho thấy, quá trình áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc gặp nhiều khó khăn do các văn bản quy định và hướng dẫn về thủ tục chưa đầy đủ Điều này dẫn đến những hạn chế và thiếu sót trong việc thực hiện, đòi hỏi cần có sự sửa đổi, bổ sung pháp luật để phù hợp với thực tiễn Cần đảm bảo quyền con người, quyền tự do, cũng như tính công khai, dân chủ, minh bạch và công bằng trong quá trình giải quyết tại Tòa án.
Việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn về biện pháp xử lý hành chính đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là cần thiết nhằm cải cách tư pháp tại Việt Nam Kinh nghiệm từ Tòa án nhân dân trong việc áp dụng biện pháp này có thể hỗ trợ hiệu quả trong công tác phòng, chống ma túy, đồng thời chỉ ra những hạn chế cần khắc phục trong quy trình pháp lý Do đó, học viên đã chọn đề tài luận văn: “Áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp huyện, tỉnh Thanh Hóa” để nghiên cứu.
Tình hình nghiên c ứu đề tài
Liên quan đến đề tài này có một số công trình nghiên cứu nổi bật sau:
Luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Thị Lan Phương, với tiêu đề “Biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng”, đã được bảo vệ thành công tại Học viện Khoa học Xã hội vào năm 2017 Đề tài này mang tính chất quan trọng và thiết thực trong việc giải quyết vấn đề nghiện ngập tại địa phương.
Bài viết phân tích tổng quan về việc áp dụng biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Thành phố Đà Nẵng, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện biện pháp này Tuy nhiên, luận văn chưa đề cập sâu đến những vướng mắc liên quan đến quy định pháp luật trong quá trình thực hiện biện pháp của các cơ quan chức năng.
Luận văn thạc sĩ năm 2012 của Phạm Tiến Thành tại Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội đã làm rõ các biện pháp xử lý hành chính (XLHC) và sự chuyển hóa từ biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh sang cơ sở cai nghiện bắt buộc Tuy nhiên, luận văn chưa đề cập đến tính phù hợp của biện pháp này cũng như các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng.
Luận văn thạc sĩ của tác giả Lưu Hồng Ngọc Hiền, năm 2020, tại Đại học, tập trung vào việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại tỉnh Ninh Bình Nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả của các biện pháp cai nghiện và đề xuất giải pháp cải thiện tình hình nghiện ma túy tại địa phương.
Luật Thành phố Hồ Chí Minh là một luận văn ứng dụng, tập trung phân tích các quy định và vướng mắc trong quá trình áp dụng biện pháp ở giai đoạn lập hồ sơ và xem xét hồ sơ Luận văn này nghiên cứu những bất cập của quy định pháp luật nhưng chưa xem xét các yếu tố khác ảnh hưởng đến quá trình áp dụng biện pháp.
Nhiều bài viết và nghiên cứu trên các tạp chí đã đề cập đến vấn đề đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Mặc dù có nhiều thông tin và kiến thức được cung cấp, nhưng vẫn chưa có nghiên cứu tổng thể nào về việc áp dụng biện pháp này tại TAND cấp huyện, đặc biệt là tại tỉnh Thanh Hóa.
Tác giả mong muốn luận văn này mang tính khoa học và nghiên cứu hệ thống cả về lý luận lẫn thực tiễn, nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện các biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc dưới sự quản lý của TAND cấp huyện trên toàn quốc Qua đó, góp phần ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng nghiện ma túy, hướng tới việc xây dựng cộng đồng không còn người nghiện.
M ục đích và nhiệ m v ụ nghiên c ứ u
Mục đích của nghiên cứu này là làm rõ các vấn đề lý luận và quy phạm pháp luật liên quan đến biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc do Tòa án Nhân dân xem xét và quyết định Nghiên cứu sẽ chỉ ra những thiếu sót, điểm chưa đồng bộ và những khó khăn trong thực tiễn áp dụng pháp luật Từ đó, bài viết sẽ đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng các quy định pháp luật này.
+ Nghiên cứu và làm rõ những vấn đề lý luận, pháp luật cơ bản trong quá trình áp dụng biện pháp XLHC đưavào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Đánh giá thực trạng và việc áp dụng biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc do TAND xem xét tại tỉnh Thanh Hóa là cần thiết Bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả của biện pháp này, không chỉ cho tỉnh Thanh Hóa mà còn cho các địa phương trên toàn quốc.
Đối tượ ng và ph ạ m vi nghiên c ứ u
- Đối tượng nghiên cứu: Áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ thực tiễn TAND cấp huyện, tỉnh Thanh Hóa.
+ Về không gian: Biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại TAND cấphuyện, tỉnh Thanh Hóa.
+ Về thời gian: Từ năm 2014 đến nay.
Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứ u
Nghiên cứu và hoàn thành luận văn dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời tuân thủ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, cũng như các nghị quyết của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp.
Phương pháp phân tích tổng hợp được áp dụng rộng rãi trong các chương của luận văn, đặc biệt là ở chương 1 và chương 3, nhằm trình bày các khái niệm cơ bản liên quan đến việc áp dụng pháp luật đối với các biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Phương pháp so sánh và liệt kê được áp dụng để làm rõ những khác biệt của vấn đề, từ đó rút ra ưu điểm, hạn chế và bất cập, đặc biệt trong chương 2 và 3 nhằm khái quát hóa thực trạng pháp luật liên quan đến việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc Bên cạnh đó, phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn được sử dụng chủ yếu trong chương 2 để hoàn thiện khung pháp lý, nhằm nâng cao hiệu quả trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại các cơ sở này.
Phương pháp phân tích vụ việc điển hình được áp dụng để minh chứng cho việc thực hiện biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, như đã nêu trong Chương 2 của luận văn Các vụ việc thực tế sẽ được trình bày để làm rõ hiệu quả và tính cần thiết của phương pháp này.
Ý nghĩa lý luậ n và th ự c ti ễ n c ủ a lu ận văn
Luận văn này làm rõ quá trình áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại các cơ sở cai nghiện bắt buộc do TAND cấp huyện tại tỉnh Thanh Hóa Bằng cách dẫn chứng các quy phạm pháp luật hiện hành liên quan, luận văn góp phần làm sáng tỏ lý luận khoa học và cơ sở pháp lý về biện pháp này, đồng thời đóng góp vào việc hoàn thiện khoa học pháp lý chuyên ngành.
Luận văn này mang lại những luận điểm quan trọng để tham khảo trong việc sửa đổi và hoàn thiện các quy định pháp luật, nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật đối với biện pháp xử lý hành chính tại các cơ sở cai nghiện bắt buộc Đồng thời, nó cũng là tài liệu hữu ích cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của luận văn gồm 03 chương:
Chương 1 trình bày những vấn đề lý luận chung và quy định pháp luật liên quan đến việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đối với người nghiện ma túy, đặc biệt là việc đưa họ vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Nội dung này nhấn mạnh tầm quan trọng của các quy định pháp luật trong việc quản lý và hỗ trợ người nghiện, đồng thời đảm bảo tính hợp pháp và hiệu quả của các biện pháp cai nghiện.
Chương 2: Thực trạng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Tòa án nhân dân cấp huyện, tỉnh Thanh Hóa
Chương 3 trình bày quan điểm và giải pháp nhằm đảm bảo việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Tòa án nhân dân cấp huyện tỉnh Thanh Hóa Các giải pháp này sẽ tập trung vào việc nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật, cải thiện quy trình xét xử và tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng Đồng thời, cần chú trọng đến việc đào tạo nguồn nhân lực và nâng cao nhận thức cộng đồng về tác hại của ma túy, từ đó góp phần giảm thiểu tình trạng nghiện và tái nghiện trong xã hội.
NH Ữ NG V ẤN ĐỀ LÝ LU Ậ N CHUNG VÀ CÁC QUY ĐỊ NH C Ủ A PHÁP LU Ậ T V Ề ÁP D Ụ NG BI Ệ N PHÁP X Ử LÝ HÀNH CHÍNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHI Ệ N B Ắ T BU Ộ C
Khái ni ệm, đặc điể m c ủa ma túy, ngườ i nghi ệ n ma túy và bi ệ n pháp
1.1.1 Khái ni ệm, đặc điể m c ủa ma túy và ngườ i nghi ệ n ma túy
1.1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của ma túy
Theo Tổ chức Liên Hợp Quốc, ma túy được định nghĩa là các chất tự nhiên hoặc tổng hợp, có khả năng thay đổi trạng thái tâm lý và sinh lý của người sử dụng khi xâm nhập vào cơ thể.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, ma túy được định nghĩa là bất kỳ chất hóa học hoặc hỗn hợp nào không cần thiết cho sức khỏe bình thường, có khả năng làm biến đổi chức năng sinh học và cấu trúc của cơ thể.
Ma túy là các chất có nguồn gốc tự nhiên, bán tổng hợp hoặc tổng hợp, tác động lên hệ thần kinh trung ương, gây cảm giác giảm đau, hưng phấn hoặc dễ chịu Việc sử dụng ma túy nhiều lần dẫn đến tình trạng phụ thuộc, khiến người dùng phải tiếp tục sử dụng để tránh cảm giác khó chịu Tại Việt Nam, khái niệm về ma túy chưa có sự thống nhất rõ ràng Luật Phòng, chống ma túy, được Quốc hội thông qua ngày 09/12/2000 và sửa đổi năm 2008, định nghĩa ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục do Chính phủ ban hành.
Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về ma túy theo hướng liệt kê, trong đó xác định các loại ma túy bao gồm nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa và cao.
8 coca, Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA, XLR-11, các chất ma túy khác ở thể rắn hoặcthể lỏng” [26, 42, Điều 2]
Ma túy là các chất kích thích, có nguồn gốc tự nhiên hoặc nhân tạo, khi vào cơ thể có thể gây nghiện và thay đổi trạng thái ý thức cũng như sinh lý Lạm dụng ma túy dẫn đến sự lệ thuộc, gây tổn thương cho bản thân, gia đình và cộng đồng.
1.1.1.2 Khái niệm và dấu hiệu nhận biết người nghiện ma túy
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), nghiện ma túy là tình trạng lệ thuộc về mặt tâm thần hoặc thể chất, hoặc cả hai, khi một người lặp đi lặp lại việc sử dụng ma túy hoặc dùng liên tục một loại ma túy Tình trạng này dẫn đến sự thay đổi trong hành vi, khiến người nghiện cảm thấy áp lực phải sử dụng ma túy để đạt được hiệu ứng tâm lý và để thoát khỏi cảm giác khó chịu do thiếu ma túy Nghiện có thể đi kèm với hiện tượng quen ma túy và một người có thể lệ thuộc vào nhiều loại ma túy khác nhau.
Theo quan điểm của các nhà làm luật, Luật Phòng, chống ma túy định nghĩa người nghiện ma túy là những cá nhân sử dụng chất ma túy, thuốc gây nghiện, và thuốc hướng thần, đồng thời có sự lệ thuộc vào các chất này.
* Dấu hiệu nhận biết người nghiện ma túy
Sau khi sử dụng Heroin từ 5 đến 10 phút, người dùng thường có dấu hiệu bất thường như mắt đỏ, ướt và long lanh Tiếp theo, họ có thể xuất hiện triệu chứng sụp mí, ngồi yên một chỗ, mắt lim dim, và có hành động gãi chân tay, vò đầu hoặc bứt tóc Những biểu hiện này đặc biệt rõ ràng trong trường hợp sử dụng thuốc phiện pha trộn.
Sau khi sử dụng heroin khoảng 15 – 20 phút, người dùng sẽ có biểu hiện như mắt đỏ ướt, đồng tử teo, giọng nói khàn khàn và tâm lý hưng phấn cao, thường nói nhiều và có cử chỉ thiếu chính xác Những tật xấu như vuốt mũi, nhổ râu hay cắn móng tay cũng xuất hiện nhiều hơn Sau 90 phút, họ tìm chỗ yên tĩnh để tận hưởng cơn phê, nằm như ngủ nhưng thực tế không phải ngủ, đồng thời hút nhiều thuốc lá và để tàn thuốc vung vãi.
Người nghiện heroin thường có giờ giấc sinh hoạt thất thường, thường xuyên rời khỏi nhà vào những khung giờ nhất định, thích ở một mình và ngại giao tiếp Họ thường lo lắng, bồn chồn, nói nhiều, hay nói dối và có biểu hiện cáu gắt Tình trạng sức khỏe giảm sút rõ rệt, với dấu hiệu như mắt lờ đờ, da tái, môi thâm và cơ thể có mùi hôi Trên cơ thể có dấu kim tiêm và nhu cầu tiêu tiền ngày càng tăng, thường xuyên xin tiền, bán đồ đạc cá nhân, mắc nợ và có hành vi ăn cắp vặt.
Nghiện ma túy tổng hợp dạng kích thích có những dấu hiệu rõ ràng như nóng bừng mặt, xanh xao, tím tái do thiếu oxy, sốt, đau đầu, nhịp tim nhanh, và tăng huyết áp Người nghiện thường cảm thấy buồn nôn, nôn mửa, mất men răng, thở hụt hơi, và có thể gặp các triệu chứng như run rẩy, loạng choạng, loạn khí sắc, mất ngủ, cáu kỉnh, hoảng sợ, và lú lẫn Đặc biệt, với người sử dụng Amphetamin mới, họ có thể trải qua nhịp tim nhanh, run, khô miệng, co cơ, đổ mồ hôi, mệt mỏi, ảo thị, và khó tập trung, cùng với cảm giác choáng váng và nhạy cảm với lạnh.
1.1.2 Khái niệm, đặc điểm của cơ sở cai nghiện bắt buộc
Cơ sở cai nghiện bắt buộc là nơi cách ly tạm thời dành cho những người từ 18 tuổi trở lên bị nghiện ma túy, đặc biệt là những đối tượng đã trải qua biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn nhưng vẫn còn nghiện Đối với những người chưa được áp dụng biện pháp này và không có nơi cư trú ổn định, cơ sở này cũng là giải pháp cần thiết Mục tiêu chính là tách họ ra khỏi cộng đồng theo quy định pháp luật, nhằm tái hòa nhập và giúp họ trở thành người bình thường.
Số lượng người nghiện ma túy ngày càng gia tăng nhanh chóng qua từng năm, đặc biệt ở những khu vực có sự bùng nổ khó kiểm soát, dẫn đến tình trạng tệ nạn xã hội phức tạp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế và đời sống người dân Hơn nữa, hình thức xử phạt hành chính hiện tại chưa đủ mạnh để răn đe và giáo dục, trong khi cai nghiện ngoài cộng đồng gặp nhiều khó khăn, làm giảm hiệu quả Do đó, việc hình thành và mở rộng các cơ sở cai nghiện bắt buộc trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Cơ sở cai nghiện bắt buộc được thành lập theo Nghị định số 55/2012/NĐ-CP, quy định về việc thành lập, tổ chức lại và giải thể đơn vị sự nghiệp công lập Các cơ sở cai nghiện ma túy công lập thuộc Sở LĐ - TB & XH, có tư cách pháp nhân và chịu sự quản lý trực tiếp về chuyên môn, tổ chức, nhân sự, tài chính từ Sở LĐ - TB & XH Để giảm tình trạng quá tải tại các cơ sở công lập, nhiều địa phương đã xây dựng cơ sở cai nghiện ngoài công lập, hoạt động dựa trên ngân sách địa phương.
Các cơ sở cai nghiện không chỉ có chức năng chính là cai nghiện mà còn đảm nhận nhiệm vụ tái thiết lao động cho người nghiện Sau quá trình điều trị, người nghiện sẽ được học nghề và lao động ngay tại cơ sở, giúp họ tích lũy kỹ năng Nếu họ có ý thức chấp hành tốt và quyết tâm cai nghiện, họ sẽ trở thành lực lượng lao động có giá trị, đóng góp tích cực cho xã hội khi trở về cộng đồng.
S ự hình thành và phát tri ể n c ủ a các quy ph ạ m pháp lu ậ t v ề áp d ụ ng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Quốc hội đã ban hành nhiều văn bản liên quan đến xử lý vi phạm hành chính (XLVPHC), bao gồm biện pháp “đưa vào cơ sở chữa bệnh” theo Pháp lệnh XLVPHC trước đây và biện pháp “đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc” theo Luật XLVPHC hiện nay Nguồn gốc của những biện pháp này bắt nguồn từ Nghị quyết số 49-NQ/TVQH ngày 20/6/1961, nhằm tập trung giáo dục cải tạo những phần tử có hành động nguy hại cho xã hội.
Ngày 27/5/1977, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 143/CP, đánh dấu văn bản pháp lý đầu tiên về xử phạt vi phạm hành chính (VPHC) tại Việt Nam Nghị định này quy định các vấn đề cơ bản về xử phạt VPHC và các biện pháp ngăn chặn đối với những cá nhân từ 18 tuổi trở lên, có hành vi nguy hại cho xã hội và đã được giáo dục nhiều lần nhưng không chịu hối cải Đây là bước tiến quan trọng trong việc điều chỉnh vấn đề xử lý vi phạm pháp luật mà không cần đưa ra Tòa án Nhân dân.
Vào ngày 30/11/1989, Hội đồng nhà nước (nay là UBTVQH) đã ban hành Pháp lệnh XLVPHC, văn bản pháp lý quan trọng quy định về các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính Để đáp ứng yêu cầu trong công tác đấu tranh chống các vi phạm pháp luật, ngày 06/7/1995, UBTVQH đã ban hành Pháp lệnh XLVPHC mới, trong đó quy định biện pháp xử lý hành chính "đưa vào cơ sở chữa bệnh" cùng với bốn biện pháp khác như giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục và quản chế hành chính.
Khi Quốc hội thông qua Pháp lệnh XLVPHC năm 2002, tên gọi của pháp lệnh cũ được giữ nguyên, tạo nền tảng cho khái niệm “biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc” theo Luật XLVPHC.
Pháp lệnh năm 2012 quy định quy trình chặt chẽ trong việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, với ba cấp thực hiện từ UBND cấp xã đến cấp tỉnh Điều này đảm bảo tính chính xác và chặt chẽ trong việc áp dụng biện pháp, mặc dù việc quy định nhiều cấp thực hiện có thể gây khó khăn.
15 và áp dụng thủ tục này làm cho quá trình áp dụng trở nên rườm rà, thiếu sự linh hoạt và nhanh chóng
Tên gọi “biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc” được quy định tại Luật XLVPHC năm 2012, nhằm áp dụng cho những người vi phạm quy định tại Điều 96, với mục đích chữa bệnh, lao động, học văn hóa và nghề nghiệp dưới sự quản lý của cơ sở cai nghiện Luật XPVPHC đã điều chỉnh quy trình và thủ tục áp dụng biện pháp này theo hướng công khai và minh bạch, đảm bảo quyền và lợi ích của công dân.
Theo Pháp lệnh XLVPHC và các văn bản pháp luật trước Luật XLVPHC năm 2012, đối tượng áp dụng biện pháp này bao gồm: (i) người nghiện ma túy từ 18 tuổi trở lên đã hoặc chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, nhưng không có nơi cư trú ổn định; (ii) người bán dâm thường xuyên từ 16 tuổi trở lên cũng đã hoặc chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, nhưng không có nơi cư trú nhất định.
Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh theo Pháp lệnh và các văn bản hướng dẫn hiện nay có những quan niệm sai lệch về người nghiện ma túy và người bán dâm Cụ thể, những người nghiện nặng không có khả năng cai nghiện tại nhà hoặc cộng đồng cũng bị đưa vào cơ sở chữa bệnh, nhưng quy định này thiếu tính chính xác do không có tiêu chuẩn cụ thể để xác định mức độ nghiện Việc đánh giá khả năng cai nghiện tại nhà hay cộng đồng cũng chưa có chuẩn mực rõ ràng Hơn nữa, nhiều trường hợp cai nghiện thành công không chỉ dựa vào ý chí của bản thân Thêm vào đó, việc sử dụng thuật ngữ “người mại dâm” trong Pháp lệnh XLVPHC năm 1995 cũng không phản ánh đúng bản chất của vấn đề.
Mại dâm thường được hiểu là sự trao đổi tình dục có thu tiền, bao gồm cả hành vi mua dâm, bán dâm và các hoạt động hỗ trợ như môi giới và tổ chức Việc sử dụng cụm từ “người mại dâm” trong các văn bản pháp lý chưa chính xác về mặt khoa học, vì nó không phân biệt giữa người mua dâm và người môi giới, tổ chức hoạt động mại dâm, trong khi người mua dâm có thể được áp dụng biện pháp chữa bệnh, còn người môi giới và tổ chức lại bị xử lý hình sự.
Năm 2012, Luật XLVPHC đã quy định rằng chỉ có người nghiện ma túy mới bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, trong khi người bán dâm không còn bị coi là đối tượng vi phạm pháp luật mà là vấn đề xã hội Điều này phản ánh sự thay đổi trong cách nhìn nhận về mại dâm, khi mà hành vi bán dâm không được đánh giá là nghiêm trọng đến mức phải hạn chế quyền tự do Luật cũng áp dụng cho những người từ 16 tuổi trở lên, coi họ là nhóm cần được bảo vệ, không phải là đối tượng vi phạm Nhiều người bán dâm thực sự là nạn nhân của buôn người và bóc lột tình dục, do đó, Luật XLVPHC không quy định họ là đối tượng bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Điểm chung giữa Luật XLVPHC và Pháp lệnh XLVPHC là thời hạn áp dụng biện pháp này.
Về cơ bản, quy định “biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh” trước đây và
Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hiện nay được xây dựng dựa trên các quy định của Pháp lệnh XLVPHC năm 2002, đã được sửa đổi và bổ sung.
Biện pháp đưa người vi phạm vào cơ sở cai nghiện, theo quy định của Pháp lệnh năm 2008, nhằm mục đích chữa bệnh, lao động, học văn hóa và nghề dưới sự quản lý chặt chẽ Biện pháp này có tính cưỡng chế cao, yêu cầu người nghiện sinh sống, học tập và lao động dưới sự giám sát nghiêm ngặt, do đó hạn chế một phần quyền con người Chính vì vậy, việc áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc được xem là hình thức xử lý vi phạm hành chính nghiêm khắc nhất.
M ục đích, vai trò củ a áp d ụ ng bi ệ n pháp x ử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghi ệ n b ắ t bu ộ c
Việc áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc nhằm giáo dục tư tưởng và chữa bệnh cho người nghiện, giúp họ thành công trong việc cai nghiện, lao động và học văn hóa tại cơ sở cai nghiện Mục tiêu quan trọng này không chỉ tập trung vào việc phục hồi sức khỏe mà còn giáo dục về đạo đức, tư tưởng và lối sống, từ đó tạo điều kiện cho họ trở thành công dân có ích và tái hòa nhập cộng đồng Đây là một biểu hiện sâu sắc của tính nhân đạo trong pháp luật Việt Nam.
Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhằm trừng phạt những người vi phạm, đặc biệt là những đối tượng nghiện ma túy đã tái phạm hoặc không có nơi cư trú ổn định Đây là một hình thức cưỡng chế cao, tước bỏ một số quyền nhân thân trong một khoảng thời gian nhất định, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật Những đối tượng này thường có hành vi vi phạm pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội Do đó, việc áp dụng biện pháp này là cần thiết để đảm bảo các chủ thể vi phạm phải chịu những hậu quả theo quy định tại Điều 96 Luật XLVPHC năm 2012.
18 pháp lý bất lợi là hạn chế một phần quyền tự do và chịu sự quản lý giám sát của cơ sở cai nghiệnbắt buộc
Áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhằm phòng ngừa tái phạm cho đối tượng nghiện ma túy thông qua giáo dục và trừng trị, đồng thời khuyến khích sự tham gia của các lực lượng xã hội trong công tác phòng ngừa vi phạm Mục tiêu phòng ngừa bao gồm cả phòng ngừa chung và riêng, nhằm răn đe và ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật của các đối tượng khác trong xã hội Việc cách ly đối tượng ra khỏi xã hội trong một thời gian nhất định giúp hạn chế khả năng tái phạm và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật.
Việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc không chỉ đảm bảo an ninh trật tự và an toàn xã hội, mà còn bảo vệ lợi ích của Nhà nước cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức Đồng thời, nó góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và quản lý hành chính nhà nước, xây dựng một Nhà nước pháp quyền vì dân, do dân.
Nh ữ ng y ế u t ố ảnh hưởng đế n hi ệ u qu ả áp d ụ ng bi ệ n pháp x ử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghi ệ n b ắ t bu ộ c
Biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là một trong những chính sách ưu tiên nhằm đẩy lùi tệ nạn ma túy và bảo đảm an ninh trật tự xã hội Để đạt hiệu quả cao nhất trong việc đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện, cần có các chính sách cụ thể, quy định chặt chẽ và văn bản hướng dẫn rõ ràng, phù hợp với điều kiện phát triển và tình hình người nghiện tại từng địa phương, đồng thời đảm bảo tính thống nhất áp dụng trên toàn quốc.
Điều kiện kinh tế ảnh hưởng lớn đến việc xây dựng và mở rộng cơ sở điều trị nghiện, cũng như thực hiện biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như cơ sở vật chất, chất lượng và số lượng đội ngũ cán bộ, thuốc men, cũng như công tác giáo dục và dạy nghề sau chữa bệnh Do đó, cần có nguồn ngân sách dồi dào, ổn định và đầu tư kinh tế đồng bộ, cùng với việc nâng mức lương hợp lý cho đội ngũ khám chữa bệnh.
1.4.3 Yếu tố tâm lý xã hội
Tâm lý e ngại và thái độ tiêu cực của một bộ phận người dân đối với người nghiện đã dẫn đến việc họ và gia đình thường che giấu tình trạng nghiện, gây khó khăn trong việc điều trị Điều này không chỉ làm trầm trọng thêm tình trạng nghiện mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống của người nghiện và gia đình họ, cũng như an ninh trật tự địa phương Vì vậy, pháp luật về xử lý hành chính đã thiết lập các chính sách khuyến khích và bảo vệ người nghiện, tạo điều kiện cho họ đi cai nghiện, đồng thời tuyên truyền để cộng đồng cùng tham gia hỗ trợ quá trình tái hòa nhập của họ.
Các quy đị nh pháp lu ậ t v ề áp d ụ ng bi ệ n pháp x ử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghi ệ n b ắ t bu ộ c
1.5.1 Nguyên tắc, đối tượng, thời hiệu, thẩm quyền áp dụng biện pháp
XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Theo Điều 96 của Luật XLVPHC năm 2012, biện pháp xử lý hành chính đưa cá nhân vào cơ sở cai nghiện bắt buộc chỉ được áp dụng đối với những người có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và thỏa mãn các điều kiện cụ thể Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ đảm bảo rằng các cơ quan có thẩm quyền thực hiện đúng quy định pháp luật trong quá trình xử lý các trường hợp vi phạm.
20 quyền này giúp xác định rõ đối tượng áp dụng, giảm thiểu sự tùy tiện trong việc thực thi pháp luật và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân.
Các cơ quan chức năng cần tiến hành các biện pháp một cách nhanh chóng, công khai, khách quan và công bằng, đúng thẩm quyền và quy định pháp luật Điều này là bắt buộc vì biện pháp này ảnh hưởng đến quyền tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ giúp giải quyết vụ việc nhanh chóng, bảo vệ quyền lợi của công dân và giảm thiểu tình trạng ban hành quyết định không đúng, không có căn cứ pháp luật, đồng thời phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp và các công ước quốc tế về quyền con người.
Yêu cầu "nhanh chóng" đòi hỏi tất cả các hoạt động từ lập hồ sơ đến tư vấn, xem xét, đề nghị và áp dụng phải được thực hiện một cách nhanh chóng, trong hoặc trước thời hạn luật định Do đó, mỗi chủ thể có thẩm quyền cần hoàn thành nhiệm vụ được giao một cách kịp thời.
Yêu cầu "công khai" đảm bảo rằng tất cả những người tham gia đều có quyền xem xét và áp dụng biện pháp, đồng thời đối tượng bị áp dụng cũng được công khai trong quá trình xác minh và thu thập chứng cứ.
Yêu cầu "khách quan" trong việc xem xét hồ sơ đòi hỏi chứng cứ phải được đánh giá một cách toàn diện và không thiên vị, đảm bảo tính công bằng và vô tư Đồng thời, yêu cầu "đúng thẩm quyền" khẳng định rằng các cơ quan tham gia vào quá trình xây dựng hồ sơ phải tuân thủ đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền của mình.
Yêu cầu “công bằng” là làm sao cho thời hạn đối tượng bị áp dụng biện pháp phải tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm.
Yêu cầu “đúng quy định của pháp luật” là việc xử lý đúng hành vi, áp dụng đúng quy định và trình tự thủ tục luật định.
Việc quyết định thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc cần dựa trên tính chất và mức độ vi phạm, hậu quả của hành vi, cũng như nhân thân của người vi phạm, bao gồm các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng.
Nguyên tắc đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm là cần thiết để xác định chính xác đó là vi phạm hành chính hay hình sự, từ đó áp dụng chế tài xử lý phù hợp và tránh oan sai Các đặc điểm nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ được quy định trong pháp luật hành chính có ảnh hưởng lớn đến khả năng cải tạo và giáo dục đối tượng Do đó, các cơ quan có thẩm quyền cần xem xét kỹ lưỡng để áp dụng biện pháp một cách hợp lý, tránh trường hợp đối tượng có nhân thân tốt và vi phạm lần đầu bị xử lý như người có nhân thân xấu với nhiều tình tiết tăng nặng.
Người có thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính (XLHC) phải chứng minh rằng cá nhân vi phạm là người nghiện ma túy và thuộc đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Đồng thời, cá nhân bị áp dụng biện pháp này có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp để chứng minh rằng họ không thuộc diện bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Việc quyết định đưa một cá nhân vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thường bị ảnh hưởng bởi sự chủ quan của các cơ quan có thẩm quyền, chủ yếu dựa vào hồ sơ và chứng cứ mà họ thu thập Nếu hồ sơ này không đảm bảo tính khách quan và công bằng, hoặc thiếu căn cứ pháp lý rõ ràng, thì quyết định của Tòa án có thể dẫn đến sai lầm và xâm phạm quyền lợi hợp pháp của công dân.
Nguyên tắc này thể hiện tính dân chủ và bình đẳng trong quan hệ pháp luật giữa Nhà nước và công dân vi phạm Trách nhiệm chứng minh hành vi vi phạm thuộc về Nhà nước, nhằm ngăn chặn việc lạm dụng quyền lực của các cơ quan có thẩm quyền đối với công dân.
1.5.1.2 Đối tượng bị áp dụng Đối tượng bị áp dụng khi đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là những cá nhân riêng biệt, bị cơ quan chức năng phát hiện, bằng nghiệp vụ cụ thể để xác định tình trạng nghiện và áp dụng những biện pháp nhằm ngăn chặn kịp thời để tránh gây ra những hậu quả khôn lường cho xã hội Tuy nhiên, không phải đối tượng nào khi bị nghiện cũng đều đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Tùy theo từng độ tuổi, mức độ vi phạm, tần suất sử dụng ma túy mà sẽ có những biện pháp áp dụng khác nhau.
Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) quy định:
1 Người nghiện ma tuý từ đủ 18 tuổi trở lên đã được cai nghiện tại gia đình, cộng đồng hoặc đã được giáo dục nhiều lần tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc không có nơi cư trú nhất định phải được đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
2 Việc đưa người nghiện ma tuý vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được thực hiện theo quyết định của Chủ tịch UBND huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh Thời hạn cai nghiện ma tuý tại cơ sở cai nghiện bắt buộc từ một năm đến hai năm.
3 Người nghiện ma tuý tự nguyện làm đơn xin cai nghiện thì được nhận vào cai nghiện tại cơ sở cai nghiện bắt buộc và không bị coi là XLVPHC