Tình hình nghiên cứu
Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đã được áp dụng từ khi Luật phòng, chống ma túy năm 2000 có hiệu lực, và đã được triển khai thực tế hơn 20 năm Điều này cho thấy biện pháp xử lý hành chính này không phải là mới, mà đã được quy định rõ ràng trong luật.
Theo quy định tại Điều 2008, thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thuộc về Uỷ ban nhân dân cấp huyện Tuy nhiên, kể từ ngày 01/01/2014, Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 đã chuyển giao thẩm quyền này cho Tòa án nhân dân Mặc dù biện pháp này đã được thực hiện hơn 20 năm, nhưng số lượng nghiên cứu liên quan đến nó vẫn còn hạn chế.
Các giáo trình, sách bình luận Luật Xử lý vi phạm hành chính:
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả nhận thấy rằng có nhiều giáo trình và sách bình luận về Luật Xử lý vi phạm hành chính liên quan đến biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, chẳng hạn như giáo trình "Luật hành chính Việt Nam" của Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh, xuất bản năm 2016, và sách "Bình luận khoa học Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012" do Nguyễn Cảnh Hợp chủ biên, xuất bản năm 2017 Tuy nhiên, nhìn chung, các tác giả vẫn chưa thực hiện phân tích và đánh giá chuyên sâu, cũng như chưa rút ra những vấn đề pháp lý còn bất cập và vướng mắc liên quan đến việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính của Tòa án.
Các bài báo khoa học:
Bài viết của thạc sĩ Nguyễn Thị Minh Phương trên tạp chí Tòa án nhân dân điện tử ngày 06/7/2020 tập trung vào quy định pháp luật liên quan đến đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Tác giả phân tích những bất cập trong pháp luật hiện hành và đề xuất các biện pháp khắc phục những hạn chế này Tuy nhiên, bài viết chỉ dừng lại ở mức độ khái quát mà chưa đi sâu vào phân tích cụ thể các vấn đề liên quan đến việc xác định đối tượng áp dụng biện pháp xử lý hành chính.
Bài viết “Quyền của người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc: thực trạng và kiến nghị” của Ninh Viết Tùng và Bùi Tiến Đạt, đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân điện tử ngày 19/3/2020, phân tích quyền con người và bảo vệ quyền con người trong bối cảnh áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Tác giả đánh giá sơ lược về việc bảo vệ quyền con người liên quan đến thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp này, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo quyền lợi cho những người bị đề nghị áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc.
Bài viết “Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Lê Anh Sơn, đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân năm 2017, phân tích những bất cập trong pháp luật liên quan đến đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Tác giả nhấn mạnh vấn đề hồ sơ xác định nơi cư trú và tình trạng của người nghiện, từ đó đề xuất các kiến nghị nhằm khắc phục những thiếu sót này.
Bài viết đề cập đến các vấn đề chuyên môn liên quan đến khó khăn trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Nội dung chủ yếu tập trung vào những vướng mắc trong công tác kiểm sát và các trao đổi nghiệp vụ, mà không tiến hành phân tích hay đánh giá chuyên môn sâu.
Chưa có nghiên cứu khoa học nào chuyên sâu về những bất cập trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc ở địa phương Luận văn của tác giả được xem là công trình nghiên cứu mới mẻ và cụ thể, tập trung vào việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc của Tòa án tại thành phố Cần Thơ.
Mục đích nghiên cứu đề tài
Trong nghiên cứu đề tài “Áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại thành phố Cần Thơ”, tác giả đặt ra hai mục tiêu nghiên cứu cụ thể Mục tiêu đầu tiên là phân tích hiệu quả của các biện pháp xử lý hành chính trong việc giảm thiểu tội phạm liên quan đến ma túy Mục tiêu thứ hai là đề xuất các giải pháp cải thiện quy trình đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhằm nâng cao tính hiệu quả và nhân văn trong công tác cai nghiện.
Để cải thiện việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Cần Thơ, cần nắm vững các nền tảng lý luận liên quan và chỉ ra những bất cập trong pháp luật cũng như thực tiễn Việc xác định thẩm quyền áp dụng, đối tượng bị áp dụng và thủ tục thực hiện biện pháp này cần được xem xét kỹ lưỡng để đảm bảo tính hiệu quả và công bằng trong quá trình xử lý.
Để cải thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc của tòa án ở thành phố Cần Thơ, cần đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm khắc phục các bất cập và tồn tại hiện tại.
Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là thực trạng áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quyết định của tòa án tại thành phố Cần Thơ Nghiên cứu sẽ tập trung vào ba vấn đề pháp lý quan trọng, bao gồm (i) thẩm quyền áp dụng biện pháp, (ii) đối tượng bị áp dụng biện pháp, và (iii) thủ tục thực hiện việc áp dụng biện pháp này.
Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu
Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Luận văn này tập trung vào lĩnh vực Luật Hiến pháp và Luật hành chính, đặc biệt là pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và tổ chức Tòa án Tác giả cũng phân tích các quy định pháp luật liên quan đến hiến pháp, hình sự và dân sự nhằm làm rõ vấn đề nghiên cứu.
Luận văn này nghiên cứu những bất cập trong pháp luật liên quan đến việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, tập trung vào ba vấn đề chính: thẩm quyền áp dụng, đối tượng bị áp dụng và thủ tục áp dụng Tác giả phân tích thực trạng áp dụng biện pháp này tại tòa án thành phố Cần Thơ và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật, nâng cao hiệu quả công tác áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong lĩnh vực cai nghiện.
Luận văn này tập trung vào việc phân tích và đánh giá thực trạng áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc của tòa án ở thành phố Cần Thơ.
Biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đã được quy định từ Luật phòng chống ma túy năm 2000, với Uỷ ban nhân dân cấp huyện là cơ quan có thẩm quyền Tuy nhiên, kể từ khi Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 có hiệu lực, thẩm quyền này đã được chuyển giao cho Tòa án nhân dân Do đó, luận văn này sẽ nghiên cứu, phân tích và đánh giá các quy định pháp luật cũng như thực trạng thực thi biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ thời điểm Luật năm 2012 có hiệu lực.
Phương pháp nghiên cứu
Tác giả áp dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng phương pháp luận để làm rõ các vấn đề nghiên cứu.
Về các phương pháp nghiên cứu cụ thể:
Trong luận văn, tác giả sử dụng riêng lẻ và kết hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
Phương pháp phân tích và tổng hợp được tác giả sử dụng để khái quát các nguyên tắc và lý luận liên quan đến biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Tác giả sẽ phân tích và đánh giá ba vấn đề pháp lý còn bất cập trong quy định xử lý hành chính này, bao gồm thẩm quyền áp dụng, đối tượng bị áp dụng và thủ tục áp dụng Bên cạnh đó, phương pháp này cũng được áp dụng để tổng hợp những vấn đề đã nghiên cứu trong từng chương và toàn bộ luận văn.
Phương pháp thống kê được tác giả áp dụng để tổng hợp các quy định pháp luật liên quan đến biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Đồng thời, phương pháp này cũng được sử dụng để trình bày, đánh giá, phân tích và xử lý các số liệu, dữ liệu và báo cáo thống kê, cũng như các vụ việc thực tế liên quan đến tình hình áp dụng biện pháp xử lý hành chính này tại tòa án nhân dân hai cấp thành phố Cần Thơ.
Phương pháp so sánh được tác giả sử dụng để làm rõ sự khác biệt trong quy định về biện pháp hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Luật phòng, chống ma túy năm 2000, Luật sửa đổi, bổ sung năm 2008, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và Dự thảo Luật phòng, chống ma túy năm 2020 Phương pháp này cũng giúp chỉ ra những khác biệt trong trình tự và cách thức áp dụng biện pháp hành chính giữa các tòa án tại thành phố Cần Thơ.
Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Tác giả hy vọng đề tài nghiên cứu sẽ mang lại giá trị ứng dụng thực tiễn, cho phép đánh giá khách quan và toàn diện về việc áp dụng biện pháp hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc ở Cần Thơ Dựa trên kết quả nghiên cứu, tác giả sẽ đề xuất những giải pháp thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả của biện pháp này Bên cạnh đó, luận văn cũng có thể trở thành tài liệu tham khảo hữu ích cho sinh viên và cán bộ nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực này.
Nội dung nghiên cứu về “Áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc - từ thực tiễn thành phố Cần Thơ” được chia thành ba chương, bên cạnh phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.
Chương 1: Thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Chương 2: Đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ cở cai nghiện bắt buộc
Chương 3: Thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ cở cai nghiện bắt buộc.
THẨM QUYỀN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC
Quy định pháp luật về thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở
1.1 Quy định pháp luật về thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
1.1.1 Th ẩ m quy ề n c ủa cơ quan công an
Theo Điều 103 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có quyền lập hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, trong khi Công an cấp xã có trách nhiệm hỗ trợ thu thập tài liệu Tuy nhiên, theo Điều 8 và Điều 11 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP, cơ quan công an cấp xã cũng có thẩm quyền lập biên bản, xác minh và lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính này, đồng thời thông báo cho người bị đề nghị hoặc người đại diện hợp pháp của họ về việc lập hồ sơ.
Công an cấp xã có thẩm quyền lập biên bản vi phạm khi phát hiện hoặc nhận được tin báo về hành vi sử dụng chất ma túy trái phép Họ cũng có trách nhiệm xác minh và lập hồ sơ đề nghị đưa người vi phạm vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nếu không xác định được nơi cư trú ổn định của họ Ngoài ra, Công an cấp xã có thể thu thập tài liệu và lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp cai nghiện sau khi đã lập biên bản hoặc nhận bàn giao từ Công an cấp xã khác.
Công an cấp huyện và cấp tỉnh có thẩm quyền trong việc lập biên bản, xác minh và thu thập tài liệu liên quan đến các vụ vi phạm pháp luật Cụ thể, Công an cấp tỉnh có trách nhiệm lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa người vi phạm vào cơ sở cai nghiện bắt buộc khi phát hiện hành vi sử dụng ma túy trái phép hoặc dấu hiệu nghiện ma túy trong quá trình điều tra.
Cơ quan công an có thẩm quyền lập hồ sơ sẽ thông báo cho người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hoặc người đại diện hợp pháp của họ về việc lập hồ sơ.
1.1.2 Th ẩ m quy ề n c ủa Phòng tư pháp cấ p huy ệ n
Theo quy định tại khoản 3 Điều 103 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 và các điều khoản liên quan trong Nghị định số 221/2013/NĐ-CP, Phòng tư pháp cấp huyện sẽ tiếp nhận hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ Cơ quan công an Đối với trường hợp Cơ quan công an cấp huyện hoặc cấp tỉnh lập hồ sơ và xác định được nơi cư trú của người vi phạm, Phòng tư pháp nơi người vi phạm cư trú cũng có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ này.
Trưởng phòng tư pháp cấp huyện có quyền kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đảm bảo hồ sơ này phải phù hợp và đầy đủ theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
1.1.3 Th ẩ m quy ề n c ủ a Phòng Lao độ ng – Thương binh và Xã hộ i
Theo quy định tại khoản 3 Điều 103 và khoản 1 Điều 104 của Luật xử lý vi phạm hành chính 2012, cùng với khoản 2 Điều 12 và Điều 13 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP, Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ Phòng tư pháp cấp huyện.
Trưởng phòng Lao động – Thương binh và Xã hội có nhiệm vụ kiểm tra và quyết định chuyển hồ sơ đề nghị lên Tòa án nhân dân cấp huyện để áp dụng biện pháp xử lý hành chính, bao gồm việc đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Nếu hồ sơ chưa đầy đủ, trưởng phòng sẽ yêu cầu cơ quan lập hồ sơ bổ sung Ngoài ra, trưởng phòng cũng phải làm rõ một số nội dung trong hồ sơ khi nhận được văn bản đề nghị từ Tòa án.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 105 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 và các văn bản pháp luật liên quan, Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền quyết định việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đối với hồ sơ do Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội chuyển đề nghị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Đồng thời, Tòa án nhân dân cấp tỉnh có quyền xem xét lại các quyết định của Tòa án cấp huyện nếu có khiếu nại, kiến nghị hoặc kháng nghị.
Tòa án sẽ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo trình tự và thủ tục được quy định trong Pháp lệnh 09/2014/UBTVQH ngày 20/01/2014.
Trong quá trình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, Tòa án có thẩm quyền quyết định cuối cùng dựa trên đề nghị của các cơ quan liên quan.
Trước khi Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 có hiệu lực, theo quy định tại Điều 26 Pháp lệnh số 44/2002/PL-UBTVQH10, thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc đối với người nghiện ma túy thuộc về Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện.
Sự thay đổi thẩm quyền đã làm thay đổi cơ bản thủ tục áp dụng đối với các đối tượng bị xử lý hành chính, đặc biệt là trong việc đưa họ vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Hiện nay, việc xử lý hành chính thông qua quyết định của UBND cấp huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh đã chuyển sang quy trình thụ lý, xem xét và phán quyết của Tòa án nhân dân.
Sự thay đổi thẩm quyền trong biện pháp cưỡng chế cai nghiện bắt buộc xuất phát từ việc biện pháp này, mặc dù thuộc lĩnh vực xử lý hành chính, lại ảnh hưởng đến quyền tự do của công dân và tiềm ẩn nguy cơ xâm phạm quyền con người Do đó, việc đảm bảo nhân quyền cho người nghiện ma túy cần được xem xét một cách toàn diện, từ quy trình ban hành Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc cho đến quá trình cai nghiện tại cơ sở.
Thực tiễn xác định thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc của Tòa án tại thành phố Cần Thơ
1.2.1 Th ẩ m quy ề n ki ể m tra tính pháp lý c ủ a h ồ sơ đề ngh ị áp d ụ ng bi ệ n pháp x ử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghi ệ n b ắ t bu ộ c
Như phân tích tại Mục 1.1.2 (Chương 1), theo quy định tại khoản 3 Điều 103 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012, khoản 1 Điều 12 Nghị định số 221/2013/NĐ-
Ban chỉ đạo về Nhân quyền tỉnh Trà Vinh đã đưa ra những quy định của Pháp luật Việt Nam liên quan đến việc đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Những quy định này nhằm đảm bảo quyền con người và quyền công dân, góp phần nâng cao nhận thức về nhân quyền trong công tác phòng chống ma túy Thông tin chi tiết có thể được tìm thấy tại trang web http://congan.travinh.gov.vn/, truy cập ngày 12/08/2021.
Bài viết của Ninh Viết Tùng và Bùi Tiến Đạt đề cập đến quyền của những người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Tác giả phân tích thực trạng hiện nay và đưa ra các kiến nghị nhằm cải thiện quyền lợi của người bị áp dụng biện pháp này Thông tin có thể được tìm thấy tại http://lapphap.vn/, truy cập ngày 12/08/2021.
4 http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid!0449
5 Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
6 Ninh Viết Tùng, Bùi Tiến Đạt, tlđd (12)
Trưởng phòng Tư pháp cấp huyện có quyền kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đối với việc đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Theo Điều 13 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP, Trưởng Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội có quyền kiểm tra hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, sau khi hồ sơ đã được Trưởng phòng Tư pháp cấp huyện kiểm tra.
Có sự trùng lắp thẩm quyền giữa Trưởng Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội và Trưởng Phòng Tư pháp trong việc kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Trưởng Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội chỉ xem xét lại công việc mà Trưởng Phòng Tư pháp đã thực hiện, dẫn đến việc thủ tục kéo dài trong khi Tòa án nhân dân cấp huyện mới là cơ quan quyết định cuối cùng Thực tế, chưa có trường hợp nào Trưởng Phòng Tư pháp phát hiện vi phạm hay thiếu sót trong hồ sơ, cho thấy việc kiểm tra chỉ mang tính hình thức, tốn thời gian mà không hiệu quả.
Trách nhiệm kiểm tra tính pháp lý hồ sơ đề nghị nên thuộc về Trưởng Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội, vì đây là cơ quan thực hiện chức năng đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Từ năm 2016 đến năm 2020, theo thống kê của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ, trong tổng số 1.890 hồ sơ đề nghị, có 09 hồ sơ không được Tòa án cấp huyện áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
NĂM Thụ lý Không áp dụng
Trong tổng số 1.890 hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, có 9 vụ không được Tòa án áp dụng, cho thấy hiệu quả của việc kiểm tra tính pháp lý vẫn còn tồn tại sai sót, với tỷ lệ 0,47%.
Bài viết "Một số khó khăn, vướng mắc khi áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc" của tác giả Linh Chi đã nêu rõ những thách thức trong việc thực hiện các biện pháp xử lý hành chính đối với người nghiện Những khó khăn này có thể ảnh hưởng đến hiệu quả của các cơ sở cai nghiện và cần được giải quyết để nâng cao chất lượng công tác điều trị Thông tin được trích dẫn từ nguồn tin chính thức và cập nhật đến ngày 12/08/2021.
8 Phụ lục kèm theo Báo cáo công tác năm 2016 - 2020 của Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Cần Thơ
Việc trùng lắp thẩm quyền đã được khắc phục trong Luật Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi 2020, có hiệu lực từ ngày 01/01/2022 Cụ thể, Khoản 56 Điều 1 của Luật này đã sửa đổi Điều 103 của Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012, và Khoản 57 Điều 1 đã sửa đổi khoản 1 Điều 104 của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Năm 2012, quy định về thẩm quyền kiểm tra hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đã thay đổi, chuyển giao từ Trưởng phòng Tư pháp cấp huyện sang Trưởng phòng Lao động – Thương binh và Xã hội Luật Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi năm 2020 quy định rõ rằng cơ quan lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính này phải chịu trách nhiệm về tính pháp lý của hồ sơ.
Dự thảo Nghị định mới quy định chi tiết một số điều của Luật Phòng, chống ma túy và Luật Xử lý vi phạm hành chính sẽ thay thế Nghị định 221/2013/NĐ-CP Theo đó, thẩm quyền kiểm tra hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc sẽ được giao cho Trưởng phòng Lao động – Thương binh.
1.2.2 Xác đị nh th ẩ m quy ề n quy ết đị nh áp d ụ ng bi ệ n pháp x ử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghi ệ n b ắ t bu ộ c
Theo phân tích tại Mục 1.1.4 (Chương 1), Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 quy định rằng Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Tuy nhiên, khoản 2 Điều 28 của Luật Phòng, chống ma túy 2000 lại chỉ rõ rằng việc đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc phải được thực hiện theo quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Mặc dù có sự mâu thuẫn nhưng kể từ sau ngày Luật xử lý vi phạm hành chính
Năm 2012, việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đã được thống nhất thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện, thông qua việc ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể.
Vào ngày 20/01/2014, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13, quy định về trình tự và thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân.
Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Công văn số 74/TANDTC-KHXX vào ngày 10/04/2014, hướng dẫn việc xem xét và quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân.
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật trong việc xác định thẩm quyền đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
1.3.1 V ề xác đị nh th ẩ m quy ề n l ậ p h ồ sơ đề ngh ị áp d ụ ng
Theo Điều 103 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có quyền lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, trong khi Công an cấp xã có trách nhiệm hỗ trợ thu thập tài liệu Tuy nhiên, thực tế cho thấy Công an cấp xã là chủ thể chính thực hiện lập hồ sơ từ giai đoạn đầu, bao gồm việc test ma túy, lập biên bản vi phạm, xác minh nơi cư trú của người nghiện, và thu thập tài liệu chứng minh tình trạng nghiện Công an cũng có trách nhiệm lập hồ sơ và thông báo cho người nghiện hoặc đại diện hợp pháp của họ.
Hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hiện chỉ hoàn thiện khoảng 70-80% và được chuyển cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã để ra quyết định, đồng thời gửi đến Phòng tư pháp cấp huyện để thẩm tra tính pháp lý Tuy nhiên, Công an cấp xã chưa phát huy hết trách nhiệm trong việc lập hồ sơ, chỉ thực hiện một cách “giúp đỡ”, trong khi Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã lại thiếu chủ động và thực hiện trách nhiệm một cách “mờ nhạt” Do đó, cần quy định rõ ràng rằng Công an cấp xã có thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị, và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có quyền quyết định dựa trên hồ sơ đã được lập Việc này sẽ nâng cao trách nhiệm và hiệu quả của cả hai bên trong quá trình lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
1.3.2 V ề xác đị nh bi ệ n pháp đưa vào cơ sở cai nghi ệ n b ắ t bu ộ c là bi ện pháp tư pháp
Để giải quyết những tranh cãi về thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc cho Tòa án, cần làm rõ bản chất của quyết định này Việc xác định rõ ràng sẽ giúp tránh xung đột pháp luật và giảm thiểu sự nhầm lẫn trong quá trình thực thi hành pháp.
Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Cần Thơ đã đệ trình Báo cáo công tác năm 2016 - 2020 kèm theo 13 Phụ lục Báo cáo này nhằm phù hợp với thẩm quyền của Tòa án trong quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính, đặc biệt là đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đồng thời góp phần hoàn thiện hệ thống tư pháp.
Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị đã nhấn mạnh vai trò của cơ quan tư pháp trong việc bảo vệ công lý và quyền con người Việc Tòa án quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là bước tiến trong cải cách tư pháp, nhưng vẫn còn thiếu sót do quy trình không hoàn toàn mang tính tư pháp Mặc dù có sự tham gia của Kiểm sát viên và người bảo vệ quyền lợi hợp pháp, nhưng quy trình này vẫn mang tính chất nửa hành chính Do đó, cần xác định rõ ràng quyết định này là hành chính hay tư pháp để thiết lập cơ chế pháp lý bảo vệ quyền lợi của người bị áp dụng biện pháp Chúng tôi đề xuất các kiến nghị cụ thể nhằm khắc phục những bất cập hiện tại.
Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc mang tính chất và nội dung của biện pháp tư pháp, vì vậy cần được quy định trong một đạo luật riêng biệt thay vì nằm trong Luật xử lý vi phạm hành chính Quốc Hội nên ban hành “Luật về các biện pháp tư pháp” để quy định rõ ràng về nội dung và thủ tục áp dụng biện pháp này, bao gồm quyền kháng cáo của người bị áp dụng biện pháp Đồng thời, cần loại bỏ các quy định liên quan đến biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Giải pháp triệt để cho vấn đề hiện tại là nâng Pháp lệnh 09/2014/UBTVQH ngày 20/01/2014 lên thành luật, đồng thời loại bỏ những bất cập đã nêu trong văn bản này Để đảm bảo tính khoa học và kỹ thuật trong lập pháp, nội dung của Pháp lệnh cần được xây dựng thành một chương riêng trong “Luật về các biện pháp tư pháp” Cách tiếp cận này không chỉ đáp ứng yêu cầu quản lý xã hội bằng một đạo luật của Quốc hội mà còn tạo ra sự rõ ràng trong pháp luật, khi “Luật về các biện pháp tư pháp” quy định cả nội dung lẫn thủ tục áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, bao gồm cả biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Khi đã xác định là biện pháp tư pháp, thủ tục áp dụng cũng sẽ là thủ tục tư pháp, và quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính sẽ được coi là quyết định tư pháp Điều này sẽ quy định quyền kháng cáo của người bị áp dụng các biện pháp này, từ đó đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần xây dựng một nền pháp chế văn minh, ưu tiên bảo vệ kẻ yếu.
14 Nguyễn Cửu Việt, Giáo trình luật Hành chính Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013, tr 485
15 Nguyễn Cửu Việt, giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013, tr 488
16 Cao Vũ Minh, Nguyễn Hoàng Yến, tlđđ (16)
17 Nguyễn Như Phát, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật hợp đồng ở nước ta hiện nay, Nxb Công an nhân dân, 2003, tr.10
Cuối cùng, nếu quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính, đặc biệt là đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, được coi là quyết định tư pháp, thì cần sửa đổi Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 Hành vi trái pháp luật liên quan đến việc đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc và cơ sở cai nghiện bắt buộc cần được loại khỏi phạm vi bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính, chuyển sang phạm vi bồi thường trong hoạt động tố tụng.
Kiến nghị và giải pháp cho hoạt động áp dụng biện pháp đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại thành phố Cần Thơ
ma túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại thành phố Cần Thơ
Trong quá trình thực hiện thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại thành phố Cần Thơ, các Tòa án nhân dân cấp huyện gặp khó khăn trong việc mở phiên họp xét xử Theo Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13, không có quy định rõ ràng về địa điểm tổ chức phiên họp Mặc dù phiên tòa và phiên họp thường diễn ra tại trụ sở tòa án, nhưng đối với các vụ việc do Phòng lao động thương binh và xã hội đề nghị, phiên họp có thể diễn ra tại tòa án nếu người bị đề nghị có nơi cư trú ổn định Thành phần tham gia phiên họp bao gồm đại diện Phòng lao động thương binh và xã hội, Viện kiểm sát, người bị đề nghị, người giám hộ (nếu có), và đại diện Công an cấp xã phường Việc này giúp đảm bảo tính hiệu quả trong việc thực hiện thẩm quyền và áp dụng pháp luật của tòa án.
Trong trường hợp đối tượng bị đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng không có nơi cư trú ổn định, phiên họp sẽ không diễn ra tại trụ sở Tòa án Theo Quy trình phối hợp số 2535/QTrPH.LĐTBXH -YT-TP-CA-TA ngày 13/10/2015, Tòa án nhân dân cấp quận, huyện có trách nhiệm thụ lý hồ sơ và phối hợp với các ban, ngành liên quan để đưa người nghiện ma túy vào Trung tâm Chữa bệnh Giáo dục Lao động Xã hội và Quản lý sau cai nghiện thành phố Cần Thơ nhằm thực hiện nhiệm vụ xét xử theo quy định.
Theo Quy trình phối hợp số 2535/QTrPH.LĐTBXH -YT-TP-CA-TA ngày 13/10/2015, việc lập hồ sơ đưa người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định vào Khu tiếp nhận đối tượng xã hội thuộc Trung tâm Chữa bệnh Giáo dục Lao động Xã hội và Quản lý sau cai nghiện thành phố Cần Thơ được thực hiện tại Trung tâm Chữa bệnh Giáo dục Lao động Xã hội và Quản lý sau cai nghiện thành phố Cần Thơ, nơi tổ chức phiên họp quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Cơ sở cai nghiện ma túy Thành phố Cần Thơ tọa lạc tại số 719 ấp Xẻo Vong
C, xã Hiệp Lợi, thị xã Ngã Bảy, tỉnh Hậu Giang Nơi đây thuộc địa phận tỉnh Hậu Giang (do trước đây Hậu Giang được tách ra từ tỉnh Cần Thơ) cách trung tâm thành phố Cần Thơ khoảng 50km, cách các huyện như Thới Lai, Vĩnh Thạnh, Cờ Đỏ khoảng 70km đến 80 km Vì vậy, Thẩm phán, Thư ký của Tòa án cấp huyện và các thành viên tham gia phiên họp khác như Kiểm sát viên, Đại diện Phòng lao động thương binh và xã hội phải di chuyển một quảng đường rất xa để đến được địa điểm mở phiên họp quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Điều này vừa mất thời gian vừa không đảm bảo an toàn, lại tốn kém chi phí rất nhiều Trong khi đó, Cơ sở cai nghiện ma túy là nơi để điều trị bệnh nên cũng không có phòng họp với hình thức trang trí phù hợp và đầy đủ cơ sở vật chất để đáp ứng cho việc tiến hành tố tụng được diễn ra trang nghiêm
Việc tổ chức phiên họp tại Cơ sở cai nghiện tiềm ẩn nhiều nguy cơ cho những người thực hiện tố tụng, đặc biệt là Thẩm phán và Thư ký Nhiều trường hợp đã xảy ra khi những người chưa đủ thời gian cai nghiện đã tấn công lại các cán bộ tố tụng Phiên họp thường không có lực lượng bảo vệ, chỉ có cán bộ của Cơ sở cai nghiện, những người này chỉ có mặt khi được Tòa án yêu cầu, dẫn đến những sự cố đáng tiếc.
Để cải thiện quy trình xét duyệt hồ sơ cho người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định, cần bổ sung quy định về việc tổ chức phiên họp tại trụ sở Tòa án cấp huyện có thẩm quyền Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13 ngày 20/01/2014 cần nêu rõ trách nhiệm của các đơn vị trong việc dẫn giải, bảo vệ và quản lý người nghiện ma túy trong thời gian họp Ngoài ra, cần sửa đổi Bước 4 của Quy trình phối hợp số 2535/QTrPH.LĐTBXH -YT-TP-CA-TA ngày 13/10/2015, yêu cầu Công an cấp xã, phường phối hợp với Cơ sở cai nghiện ma túy để đảm bảo người bị đề nghị được đưa đến phiên họp tại Tòa án.
Cơ quan công an trang bị phương tiện chuyên dụng và các cơ sở cai nghiện có đội ngũ cán bộ y tế chuyên môn sẽ hỗ trợ hiệu quả cho Tòa án trong quá trình xét xử áp dụng biện pháp xử lý hành chính đối với việc đưa người nghiện đi cai nghiện bắt buộc.
Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã thiết lập cơ sở pháp lý vững chắc cho việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đảm bảo trình tự, thủ tục và thẩm quyền rõ ràng Những quy định này không chỉ đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính mà còn đảm bảo tính minh bạch và công khai Hơn nữa, luật đã điều chỉnh các quy định để phù hợp với các cam kết quốc tế về quyền con người, đặc biệt là trong việc ra quyết định áp dụng biện pháp và quy trình thực hiện Chính sách này vừa đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, vừa tôn trọng nhân đạo và quyền con người.
Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 đã thiết lập một khung pháp lý hoàn chỉnh, bao gồm các quy định về biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Điều này không chỉ đảm bảo quyền con người trong việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính mà còn mang lại ý nghĩa quan trọng về mặt pháp lý, chính trị, văn hóa và đạo đức.
ĐỐI TƯỢNG BỊ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƯA VÀO CƠ CỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC
Quy định pháp luật về những đối tƣợng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
2.1.1 Đố i v ới ngườ i nghi ện ma túy chưa được điề u tr ị ho ặ c cai nghi ệ n Điều 96 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 quy định:
Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc áp dụng cho người nghiện ma túy từ 18 tuổi trở lên, những người đã trải qua biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn nhưng vẫn tiếp tục nghiện Ngoài ra, biện pháp này cũng áp dụng cho những cá nhân chưa từng bị giáo dục nhưng không có nơi cư trú ổn định.
2 Không áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với các trường hợp sau đây: a) Người không có năng lực trách nhiệm hành chính; b) Người đang mang thai có chứng nhận của bệnh viện; c) Phụ nữ hoặc người duy nhất đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi được Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận.”
Theo quy định hiện hành, biện pháp xử lý đưa vào cơ sở cai nghiện áp dụng cho người nghiện ma túy từ 18 tuổi trở lên, được chia thành hai nhóm: nhóm có nơi cư trú ổn định và nhóm không có nơi cư trú ổn định Đối với nhóm có nơi cư trú ổn định, cần áp dụng biện pháp giáo dục tại địa phương nơi họ cư trú Trong khi đó, nhóm không có nơi cư trú ổn định chỉ cần xác định tình trạng nghiện ma túy để đủ điều kiện Quy trình lập hồ sơ để đề nghị áp dụng biện pháp cho từng nhóm đối tượng cũng khác nhau.
Việc xác định nơi cư trú ổn định được quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP và khoản 1 Điều 4 Thông tư số 05/2018/TT-BCA, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thu thập tài liệu để lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Bên cạnh đó, khoản 5 Điều 1 Nghị định số 56/2016/NĐ-CP cũng sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 111/2013/NĐ-CP, nhằm hoàn thiện quy trình này.
Nghị định 9 năm 2013 của Chính phủ quy định về biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại các xã, phường, thị trấn, nêu rõ các trường hợp áp dụng cho đối tượng có nơi cư trú ổn định và không ổn định Đặc biệt, nghị định này cũng quy định việc đưa đối tượng vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Nơi cư trú ổn định là địa chỉ mà đối tượng đã đăng ký thường trú hoặc tạm trú, đồng thời là nơi họ đang sinh sống thường xuyên hoặc phần lớn thời gian Để xác định đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cần thỏa mãn hai điều kiện: phải có nơi cư trú ổn định và đối tượng đó phải sinh sống tại địa chỉ đó.
(i) Có đăng ký thường trú hoặc tạm trú;
(ii) Đang thường xuyên sinh sống tại nơi đăng ký thường trú hoặc tạm trú
Không có nơi cư trú ổn định là tình trạng mà người vi phạm không thể xác định được nơi đăng ký thường trú hoặc tạm trú, thường xuyên lang thang mà không ở một địa điểm cố định Trường hợp này cũng áp dụng cho những người đã có nơi đăng ký nhưng vẫn thường xuyên di chuyển, không ở lại một chỗ Để bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, người vi phạm phải đáp ứng đồng thời hai điều kiện này.
(i) Không đăng ký thường trú hoặc tạm trú/ không xác định được nơi đăng ký thường trú hoặc nơi đăng ký tạm trú;
(ii) Thường xuyên đi lang thang, không ở một nơi cố định
Theo Điều 3 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP, được sửa đổi bởi khoản 1 Điều 1 Nghị định số 136/2016/NĐ-CP ngày 09 tháng 9 năm 2016, quy định về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Đối tượng áp dụng biện pháp này bao gồm những người có hành vi vi phạm liên quan đến ma túy.
1 Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, có nơi cư trú ổn định, trong thời hạn 02 năm kể từ ngày chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy hoặc trong thời hạn 01 năm kể từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy mà vẫn còn nghiện
2 Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, có nơi cư trú ổn định, bị chấm dứt thi hành quyết định giáo dục tại xã phường thị trấn do nghiện ma túy
3 Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, không có nơi cư trú ổn định
Theo Điều 28 Luật Phòng, chống ma túy 2000, các đối tượng bị xử lý hành chính và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc phải đáp ứng các điều kiện cụ thể được quy định tại khoản 1 và khoản 3.
- Người nghiện ma tuý từ đủ 18 tuổi trở lên;
Những người đã trải qua quá trình cai nghiện tại gia đình, cộng đồng hoặc đã được giáo dục nhiều lần tại xã, phường, thị trấn nhưng vẫn còn nghiện hoặc không có nơi cư trú ổn định sẽ phải được đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
- Không thuộc trường hợp người nghiện ma tuý tự nguyện làm đơn xin cai nghiện tại cơ sở cai nghiện bắt buộc
Dựa trên các quy định pháp luật, có thể xác định một số đặc điểm của đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, bao gồm: tình trạng nghiện ma túy, hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến ma túy, và khả năng tái hòa nhập cộng đồng sau khi cai nghiện.
Người nghiện ma túy từ 18 tuổi trở lên, có nơi cư trú ổn định, sẽ bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn nếu trong vòng 02 năm kể từ ngày chấp hành xong quyết định này mà vẫn còn nghiện Nếu quá thời gian 02 năm, nhưng trong 01 năm kể từ khi hết thời hiệu thi hành quyết định mà vẫn còn nghiện, họ cũng sẽ bị áp dụng biện pháp giáo dục.
Người nghiện ma túy từ 18 tuổi trở lên, có nơi cư trú ổn định và đã bị chấm dứt thi hành quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy, cần được hỗ trợ và can thiệp kịp thời để tái hòa nhập cộng đồng.
- Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, không có nơi cư trú ổn định;
Thực trạng xác định đối tƣợng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Thành phố Cần Thơ
Theo báo cáo tổng kết của Cơ sở cai nghiện ma túy thành phố Cần Thơ, từ năm 2017 đến 2020, số lượng người bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tăng dần qua các năm, cụ thể là 185 người vào cuối năm 2017, 313 người vào cuối năm 2018, 360 người vào cuối năm 2019 và 519 người vào cuối năm 2020 Tuy nhiên, đây chỉ là số liệu của những người đủ điều kiện để áp dụng biện pháp xử lý hành chính, trong khi vẫn còn nhiều đối tượng nghiện ma túy khác chưa được đưa vào cơ sở do quy định pháp luật về xác định đối tượng.
Trong quá trình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, một số khó khăn và hạn chế đã phát sinh liên quan đến việc xác định đối tượng bị áp dụng biện pháp này.
2.2.1 V ề xác đị nh tình tr ạ ng nghi ệ n ma túy c ủa đối tượ ng
Theo phân tích tại Mục 2.1 (Chương 2), một trong những điều kiện để áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa đối tượng vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là
“người nghiện ma túy” (người sử dụng chất ma túy, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần và bị lệ thuộc vào các chất này)
Khi bị phát hiện sử dụng trái phép chất ma túy, đối tượng thường không có biểu hiện triệu chứng nghiện rõ ràng Theo Thông tư liên tịch số 17/2015/TTLT-BYT-BLĐTBXH-BCA, quá trình theo dõi xác định tình trạng nghiện ma túy tối đa là 3 ngày đối với nhóm Opiat và 5 ngày đối với nhóm Amphetamine, kèm theo phiếu theo dõi Tuy nhiên, thời gian tạm giữ người vi phạm hành chính tại cơ quan Công an chỉ tối đa 24 giờ, dẫn đến việc không đủ thời gian để xác định tình trạng nghiện theo quy định.
18 Cao Vũ Minh, “Hoàn thiện qui định pháp luật về biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc”, tạp chí Luật học số 2/2016 trang 48
Năm 2017, Trung tâm chữa bệnh giáo dục – lao động xã hội và quản lý sau cai nghiện Thành phố Cần Thơ đã báo cáo tình hình thực hiện công tác và đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho năm 2018 Đến năm 2018, Cơ sở cai nghiện ma túy Thành phố Cần Thơ tiếp tục cập nhật tình hình thực hiện công tác và xác định nhiệm vụ cho năm 2019 Cuối cùng, vào năm 2019, cơ sở này đã thực hiện báo cáo tổng kết hoạt động của mình.
Năm 2019, Cơ sở cai nghiện ma túy Thành phố Cần Thơ đã đặt ra các mục tiêu và nhiệm vụ cho công tác năm 2020 Theo báo cáo tổng kết hoạt động năm 2020, cơ sở này đã đánh giá những kết quả đạt được và xác định các mục tiêu, nhiệm vụ công tác cho năm 2021.
BYT-BLĐTBXH-BCA, mà chỉ mới xác định được việc sử dụng ma túy của đối tượng 20
Theo Điều 3 của Thông tư số 17/2015/TTLT-BYT-BLĐTBXH-BCA ngày 09/7/2015, thẩm quyền xác định tình trạng nghiện ma túy thuộc về bác sĩ hoặc y sĩ có chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của Luật khám bệnh, chữa bệnh Những người này cần có chứng chỉ hoặc chứng nhận tập huấn về chẩn đoán và điều trị cắt cơn nghiện ma túy, và hiện đang làm việc tại các cơ sở y tế quân y, y tế quân dân y, cũng như các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của ngành Công an.
Khoản 3 Điều 9 Nghị định số 136/2016/NĐ-CP quy định về việc xác định tình trạng nghiện ma túy, nêu rõ rằng chỉ những bác sĩ, y sĩ được cấp chứng nhận hoặc chứng chỉ tập huấn về chẩn đoán và điều trị cắt cơn nghiện ma túy mới có thẩm quyền thực hiện Các bác sĩ này phải làm việc tại các cơ quan y tế quân y, y tế quân dân y, cơ sở khám bệnh của ngành công an, phòng y tế của cơ sở cai nghiện bắt buộc, cũng như các trạm y tế xã, phường, thị trấn, phòng khám đa khoa khu vực và bệnh viện cấp huyện trở lên Điều này được áp dụng trong quá trình lập hồ sơ để Tòa án nhân dân xem xét quyết định đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Theo điểm c Khoản 1 Điều 9 của Nghị định số 136/2016/NĐ-CP, hồ sơ đề nghị đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có thể không cần phiếu xét nghiệm dương tính với chất ma túy, mà chỉ cần biên bản vi phạm hành chính về việc sử dụng trái phép chất ma túy là đủ.
Theo quy định hiện hành, trước khi đề nghị đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ quan lập hồ sơ có thể không cần trưng cầu cơ quan có thẩm quyền xác định tình trạng nghiện Thay vào đó, khi phát hiện người đó sử dụng ma túy, cơ quan chỉ cần lập biên bản vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy để làm căn cứ đề nghị đưa họ vào cơ sở cai nghiện.
Nếu hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc chỉ có biên bản vi phạm hành chính về việc sử dụng trái phép chất ma túy mà không có phiếu xét nghiệm dương tính, việc xử lý sẽ gặp khó khăn.
Trong bài viết của Nguyễn Đức Chiến, tác giả nêu rõ một số khó khăn và vướng mắc trong công tác kiểm sát việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Một trong những vấn đề chính được đề cập là việc không tiến hành trưng cầu ý kiến từ cơ quan y tế có thẩm quyền để xác định tình trạng nghiện ma túy của người có thẩm quyền trong hồ sơ, điều này không phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 9 của Nghị định số 136/2016/NĐ-CP của Chính phủ.
Nhiều hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thiếu phiếu xét nghiệm dương tính với ma túy, chỉ có biên bản vi phạm hành chính về sử dụng trái phép chất ma túy Khi Tòa án xem xét, người bị đề nghị thường khiếu nại rằng họ không sử dụng ma túy và cho rằng biên bản vi phạm không khách quan Điều này dẫn đến việc cơ quan đề nghị không có đủ chứng cứ chứng minh người đó bị nghiện, khiến Tòa án không thể áp dụng biện pháp xử lý hành chính Từ năm 2016 đến 2020, Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ đã thụ lý 88 trường hợp khiếu nại về quyết định cai nghiện bắt buộc, trong đó có 6 trường hợp bị hủy.
NĂM Thụ lý Giữ y Hủy QĐ Sửa QĐ
Tất cả 6 trường hợp đều vi phạm thủ tục xác định tình trạng nghiện ma túy, chiếm tỷ lệ 100% Cụ thể, hồ sơ chỉ có biên bản vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy mà không có phiếu trả lời kết quả xét nghiệm dương tính; hoặc có phiếu xét nghiệm dương tính nhưng không lưu giữ que test; đặc biệt, có trường hợp có que test nhưng không cho người bị test ký tên xác nhận và niêm phong hồ sơ theo quy định.
Đội ngũ nhân viên y tế tại thành phố Cần Thơ có chứng chỉ tập huấn về điều trị và cắt cơn nghiện ma túy còn hạn chế, với nhiều trạm y tế phường thiếu nhân viên có chứng chỉ hoặc không đảm bảo chuyên môn, kỹ năng Hơn nữa, cơ sở vật chất và trang thiết bị hiện có chưa đáp ứng yêu cầu để xác định chính xác tình trạng nghiện ma túy, đặc biệt khi các loại chất thuốc phiện ngày càng gia tăng.
21 Phụ lục 1 và 2 kèm theo Báo cáo công tác năm 2016 - 2020 của Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Cần
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật trong xác định đối tƣợng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Để khắc phục những khó khăn trong việc xác định đối tượng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cần bổ sung quy định về hình thức, trình tự và thủ tục của cơ quan công an trong việc tạm giữ người nghiện ma túy Những quy định này sẽ nâng cao hiệu quả xử lý đối với các đối tượng nghiện ma túy và hỗ trợ quá trình xác định tình trạng nghiện một cách chính xác hơn.
2.3.1 Ki ế n ngh ị v ề v ấn đề xác đị nh tình tr ạ ng nghi ệ n ma túy c ủa đối tượ ng
Để áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, điều kiện tiên quyết là xác định rõ đối tượng là người nghiện Người có thẩm quyền xác định tình trạng nghiện ma túy phải là bác sĩ hoặc y sĩ có chứng nhận hoặc chứng chỉ về chẩn đoán và điều trị cắt cơn nghiện, do các cơ quan được Bộ Y tế ủy quyền cấp Những người này có thể làm việc tại các cơ quan y tế quân y, cơ sở khám chữa bệnh của ngành công an, phòng y tế của cơ sở cai nghiện bắt buộc, trạm y tế xã, phường, thị trấn, hoặc bệnh viện cấp huyện trở lên.
Theo điểm c Khoản 1 Điều 9 của Nghị định số 136/2016/NĐ-CP, hồ sơ đề nghị đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có thể không yêu cầu phiếu xét nghiệm dương tính với chất ma túy tại thời điểm lập hồ sơ Thay vào đó, hồ sơ chỉ cần bao gồm biên bản vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.
Theo Điều 9 Nghị định số 136/2016/NĐ-CP, biên bản vi phạm hành chính về việc sử dụng trái phép chất ma túy là đủ để đề nghị đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Cơ quan có thẩm quyền không cần xác định tình trạng nghiện trước khi lập hồ sơ, chỉ cần lập biên bản vi phạm khi phát hiện hành vi sử dụng ma túy Tòa án không có cơ sở pháp lý để chứng minh tình trạng nghiện của người bị đề nghị Dự thảo Nghị định thay thế cũng không yêu cầu kết quả xét nghiệm dương tính với ma túy trong mọi trường hợp Do đó, cần quy định rõ ràng trong hồ sơ đề nghị phải có phiếu trả lời kết quả xét nghiệm dương tính Nhà nước cũng cần đầu tư vào cơ sở vật chất và trang thiết bị, đồng thời tổ chức các lớp tập huấn về điều trị nghiện cho đội ngũ y tế tại các trạm y tế phường xã.
Để nâng cao hiệu quả xử lý đối với những người nghiện ma túy và khắc phục khó khăn trong việc xác định đối tượng áp dụng biện pháp xử lý hành chính, cần bổ sung các quy định về hình thức, trình tự và thủ tục của cơ quan công an trong việc tạm giữ người nghiện Những quy định này sẽ hỗ trợ quá trình xác định tình trạng nghiện một cách chính xác và hiệu quả hơn.
- Hình thức đưa người nghiện đi xác định tình trạng nghiện ma túy;
Lực lượng chức năng có nhiệm vụ lưu giữ người nghiện ma túy để xác định tình trạng nghiện, đồng thời xử lý các trường hợp người nghiện không hợp tác.
Quy định bổ sung chức năng và vai trò của cơ quan y tế trong việc xác định tình trạng nghiện, đồng thời nêu rõ quyền và nghĩa vụ của người bị lưu giữ trong thời gian này Những quy định này nhằm đảm bảo quy trình xử lý nghiện được thực hiện một cách hợp pháp và nhân đạo, bảo vệ quyền lợi của cá nhân trong quá trình điều trị và phục hồi.
2.3.2 Ki ế n ngh ị v ề vi ệ c b ổ sung đối tượ ng b ị áp d ụng là người đã từ ng cai nghi ệ n ma túy
Theo phân tích, nhiều người đã cai nghiện tại gia đình, tại cộng đồng hoặc hoàn thành Quyết định cai nghiện bắt buộc vẫn tái nghiện, thậm chí nghiện nặng hơn Khi lập hồ sơ đề nghị, Tòa án tiếp tục áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc, nhưng thiếu cơ sở pháp lý cụ thể Do đó, cần bổ sung vào Khoản 1 Điều 96 Luật XLVPHC quy định rằng đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là “người đã từng cai nghiện tại gia đình, tại cộng đồng hoặc cai nghiện bắt buộc nhưng vẫn còn nghiện” Quy định này hợp lý và phù hợp với Nghị định số 221/2013/NĐ-CP.
Điều 9 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP quy định rằng hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc cần có giấy xác nhận hết thời gian cai nghiện tại gia đình hoặc tại cộng đồng từ Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã Để có được giấy xác nhận này, người nghiện phải tham gia chương trình cai nghiện tại gia đình hoặc cộng đồng Điều này ngụ ý rằng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc áp dụng cho những người đã từng cai nghiện nhưng vẫn còn nghiện Nếu sau thời gian cai nghiện mà vẫn còn nghiện ma túy, họ có thể bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Do đó, Khoản 1 Điều 96 Luật Xử lý vi phạm hành chính cần được sửa đổi để mở rộng đối tượng áp dụng biện pháp này cho những người từ đủ 18 tuổi trở lên, đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại địa phương mà vẫn còn nghiện, hoặc đã cai nghiện nhưng vẫn tái nghiện, hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú ổn định.
2.3.3 Ki ế n ngh ị v ề vi ệ c gi ả i thích pháp lu ậ t Điểm b, Khoản 2 Điều 22 Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 2014 quy định:
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cần ban hành Nghị quyết hướng dẫn rõ ràng về khái niệm “côn đồ hung hãn” để đảm bảo việc áp dụng pháp luật tại các Tòa án cấp huyện được thống nhất và chính xác Hiện nay, chưa có văn bản nào giải thích cụ thể về thuật ngữ này, dẫn đến sự cần thiết phải có hướng dẫn chính thức từ Hội đồng Thẩm phán Việc làm này sẽ tạo ra một hành lang pháp lý vững chắc, giúp các Tòa án cấp huyện thực hiện công tác xét xử một cách hiệu quả và đồng bộ.
Thuật ngữ “côn đồ” đề cập đến chủ thể, không chỉ hành vi, do đó cần phân biệt rõ giữa “côn đồ” với hành vi vi phạm pháp luật Khi một người thuộc cả hai đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và cơ sở cai nghiện bắt buộc, việc lựa chọn phải dựa vào nhân thân của người đó, bao gồm quá khứ, tính cách và thái độ trong cuộc sống hàng ngày Nếu người đó thể hiện sự coi thường pháp luật, họ sẽ được đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc; ngược lại, nếu không, họ sẽ được đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Tuy nhiên, cách giải thích này chỉ mang tính chất học thuật và không phải là hướng dẫn chính thức từ Tòa án nhân dân tối cao.
27 Cao Vũ Minh, “Hoàn thiện quy định pháp luật về biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc”, tạp chí Luật học số 2/2016, trang 49
28 Cao Vũ Minh, “Hoàn thiện quy định pháp luật về biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc”, tạp chí Luật học số 2/2016, trang 51
Sau nhiều năm thực hiện, Luật Xử lý vi phạm hành chính và các văn bản hướng dẫn đã gặp phải một số khó khăn, đặc biệt là trong quy định về biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện nay là yêu cầu cấp thiết, nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo đảm dân chủ và quyền con người, đồng thời thúc đẩy hội nhập quốc tế.
Việc hoàn thiện pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục cần được thực hiện đồng bộ với các giải pháp pháp lý và tổ chức Sự hiệu quả và khoa học trong việc triển khai những giải pháp này có vai trò quan trọng trong việc giải quyết kịp thời các vi phạm xã hội, bảo đảm an ninh trật tự, đồng thời góp phần tích cực vào công tác phòng ngừa tội phạm, bảo vệ quyền lợi của công dân và lợi ích chung của xã hội.