GIỚI THIỆU
Tính cấp thiết của nghiên cứu
Trong phần mở đầu quyển sách “Asia’s rise in the 21st century” của McDonald và Lemco (2011), tác giả chỉ ra rằng châu Á đã từng phát triển vượt trội so với châu Âu từ nhiều thế kỷ trước, nhưng đến khoảng năm 1500, châu Âu bắt đầu dẫn đầu về kinh tế và quân sự Sự thống trị này được thúc đẩy bởi các quốc gia phương Tây như Iberia, Hà Lan, Pháp, Anh và Mỹ Tuy nhiên, từ nửa sau thế kỷ XX, châu Á đã có sự hồi sinh mạnh mẽ với sự nổi lên đặc biệt của Trung Quốc, cùng với sự phát triển của các nền kinh tế mới nổi khác như Ấn Độ, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan và Indonesia.
Theo báo cáo của PWC vào tháng 02/2017, châu Á đang dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu và dự kiến đến năm 2050, 10 trong số 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới sẽ thuộc về các quốc gia châu Á, bao gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Nhật Bản, Saudi Arabia, Pakistan, Iran, Hàn Quốc, Philippines và Việt Nam.
Báo cáo Triển vọng Phát triển châu Á tháng 04/2018 của ADB dự báo tăng trưởng GDP của các quốc gia châu Á – Thái Bình Dương sẽ đạt 6% trong năm 2018 và 5,9% trong năm 2019, giảm nhẹ so với mức tăng 6,1% của năm trước.
Năm 2017, khu vực châu Á – Thái Bình Dương được dự báo sẽ đạt mức tăng trưởng 6,5% trong năm 2018 và 6,4% vào năm 2019, không tính các nước công nghiệp hóa mới có thu nhập cao, so với 6,6% của năm trước Những con số này cho thấy sự lạc quan và vai trò dẫn đầu của kinh tế châu Á – Thái Bình Dương trong bối cảnh toàn cầu hiện nay.
Theo phần lời tựa quyển sách “Governance in Developing Asia: Public Service Delivery and Empowerment” được ADB và Edward Elgar đồng xuất bản
(2015) cho rằng, không phải cuộc khủng hoảng tài chính châu Á giai đoạn 1997 –
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 1998 đã ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của khu vực châu Á, dẫn đến những thách thức mới cho các chính phủ trong bối cảnh các nền kinh tế đang phát triển nhanh chóng Các hộ gia đình và doanh nghiệp ngày càng mong đợi dịch vụ công tốt hơn, sự minh bạch trong chính phủ, và quyền tham gia vào các quyết định công Tuy nhiên, hiệu quả thể chế không tương xứng với hiệu quả kinh tế của các quốc gia này Các nghiên cứu của ADB cho thấy quản trị quốc gia kém và tham nhũng vẫn là một trong những mối quan tâm hàng đầu trong phát triển.
Mặc dù dự báo cho thấy các quốc gia châu Á – Thái Bình Dương có tốc độ tăng trưởng kinh tế khả quan, nhưng họ vẫn đối mặt với nhiều vấn đề liên quan đến thể chế và quản trị quốc gia Nếu những vấn đề này không được cải thiện, chúng có thể cản trở quá trình tăng trưởng kinh tế và làm giảm cơ hội phát triển của các quốc gia trong khu vực so với thế giới.
Từ thập niên 80, 90 của thế kỷ trước, vấn đề thể chế và phát triển kinh tế đã được nghiên cứu nhiều Lý thuyết thể chế của North (1990) nhấn mạnh rằng thể chế là yếu tố quan trọng trong việc duy trì chính quyền tốt và hạn chế tham nhũng Các quốc gia có thể chế chính trị dân chủ và quyền tự do dân sự thường có lợi cho sự phát triển kinh tế Ngoài ra, môi trường kinh tế tự do hơn cũng dẫn đến những thành quả kinh tế lớn hơn Chất lượng thể chế tốt giúp giảm chi phí giao dịch, tăng lợi nhuận và thúc đẩy đầu tư, từ đó tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế.
Rodrik và cộng sự (2004) chỉ ra rằng thể chế, cùng với địa lý và thương mại quốc tế, là một trong ba yếu tố quyết định sự phát triển kinh tế của quốc gia Nghiên cứu của Haggard (2004) tại khu vực Đông Á cho thấy các thỏa thuận và sắp xếp về thể chế có khả năng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong khu vực này.
Yildirim và Gokalp (2016) đã sử dụng 23 yếu tố về thể chế trong giai đoạn 2000 –
Nghiên cứu năm 2011 cho thấy hầu hết các yếu tố ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh tế ở 39 quốc gia đang phát triển Huang và Ho (2016) đã phân tích 6 chỉ số WGI của 12 quốc gia Đông và Đông Nam Á trong giai đoạn 1996 – 2014, cho thấy mối quan hệ giữa thể chế và tăng trưởng kinh tế Tương tự, Vianna và Mollick (2017) đã sử dụng chỉ số tổng hợp WGI để nghiên cứu mối quan hệ này ở các quốc gia Mỹ Latinh trong giai đoạn 1996 – 2015 Đặc biệt, Quibria (2006) đã phân loại 29 quốc gia châu Á đang phát triển thành hai nhóm dựa trên đường tham chiếu quốc tế về thể chế, cho thấy rằng các quốc gia thâm hụt về thể chế có tăng trưởng kinh tế tốt hơn so với các quốc gia thặng dư về thể chế trong giai đoạn 1999.
Nghiên cứu của Han và cộng sự (2014) đã sử dụng đường tham chiếu quốc tế để phân chia các quốc gia thành ba nhóm: thặng dư, thâm hụt và không thặng dư hay thâm hụt Kết quả cho thấy chất lượng thể chế có tác động đáng kể đến tăng trưởng kinh tế tại các nước đang phát triển ở châu Á, Trung Đông và Bắc Phi trong giai đoạn 1998 – 2011.
Từ các nghiên cứu trước, có thể nhận thấy rằng: (1) Hầu hết các nghiên cứu chỉ tập trung vào một quốc gia hoặc khu vực cụ thể, thiếu sự so sánh với các khu vực khác trên thế giới; (2) Nhiều bài viết chủ yếu sử dụng mô hình kiểm định mà chưa chú trọng đến việc phân tích tác động của thể chế đối với tăng trưởng kinh tế thông qua các tiêu chí quản trị quốc gia quốc tế.
Tác giả đã chọn đề tài “Chất lượng thể chế, chìa khóa cho sự phát triển kinh tế của các quốc gia châu Á – Thái Bình Dương” cho luận văn thạc sĩ kinh tế của mình dựa trên các lý do thực tiễn và học thuật.
Mục tiêu nghiên cứu
Bài viết sẽ trả lời ba câu hỏi nghiên cứu quan trọng liên quan đến tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia châu Á – Thái Bình Dương, cụ thể là: (1) Tác động của chất lượng thể chế đến tăng trưởng kinh tế trong khu vực này là như thế nào?; (2) Những yếu tố nào của thể chế cần được chú trọng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở châu Á – Thái Bình Dương?; và (3) Sự khác biệt trong tác động của chất lượng thể chế đến tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia này so với phần còn lại của thế giới là gì? Qua đó, bài viết sẽ đưa ra các khuyến nghị nhằm hỗ trợ Chính phủ các quốc gia trong việc xây dựng chính sách phù hợp để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hiệu quả.
Phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu này nhằm kiểm tra tác động của chất lượng thể chế đến tăng trưởng kinh tế, dựa trên lý thuyết thể chế của North (1990) và phương pháp của Kaufmann và Kraay (2002) về tiêu chuẩn quốc tế trong lĩnh vực thể chế.
Tác giả sẽ áp dụng đường tham chiếu quốc tế về quản trị quốc gia cho từng chỉ số WGI nhằm phân tích ảnh hưởng của chất lượng thể chế đến tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia châu Á – Thái Bình Dương, đồng thời so sánh với các quốc gia khác trên toàn cầu trong bộ dữ liệu gồm 186 quốc gia (trong đó có 40 quốc gia châu Á – Thái Bình Dương) trong giai đoạn 2010 – 2016 Nghiên cứu sẽ sử dụng kỹ thuật ước lượng GMM cho mô hình biến công cụ (IV), với các chỉ số WGI là biến công cụ chính.
Đóng góp của nghiên cứu
Đóng góp của nghiên cứu thể hiện ở hai điểm:
Bài viết cung cấp bằng chứng thực nghiệm về ảnh hưởng của chất lượng thể chế đối với tăng trưởng kinh tế tại các nền kinh tế châu Á – Thái Bình Dương, đồng thời so sánh với các nền kinh tế và khu vực khác trên toàn cầu.
Nghiên cứu chỉ số quản trị toàn cầu WGI giúp Chính phủ các quốc gia xác định các lĩnh vực cần tập trung, từ đó xây dựng chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu thành 05 chương như sau:
+ Chương 2: Khung lý thuyết và khảo lược các nghiên cứu cùng chủ đề + Chương 3: Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu
+ Chương 4: Kết quả nghiên cứu
+ Chương 5: Kết luận và hàm ý chính sách.
KHUNG LÝ THUYẾT VÀ KHẢO LƯỢC CÁC NGHIÊN CỨU CÙNG CHỦ ĐỀ
Khung lý thuyết và phương pháp tiếp cận
Theo Zhuang và cộng sự (2010), lý thuyết kinh tế nhấn mạnh vai trò của thể chế, quản trị quốc gia, địa lý và văn hóa trong việc xác định các yếu tố quyết định cho tăng trưởng và phát triển kinh tế của một quốc gia Sự không đồng thuận về vấn đề này đã xuất hiện vào cuối những năm gần đây.
Mô hình tăng trưởng tân cổ điển, được giới thiệu bởi Solow và Swan vào năm 1956, là một khung lý thuyết kinh tế nhằm giải thích tăng trưởng kinh tế dài hạn Mô hình Solow - Swan tập trung vào quá trình tích lũy vốn, lao động, tăng trưởng dân số và sự gia tăng năng suất, thường được gọi là tiến bộ công nghệ Cấu trúc của mô hình này dựa trên hàm tổng sản xuất tân cổ điển, thường được biểu diễn dưới dạng hàm Cobb-Douglas.
Mặc dù việc tích lũy vốn và đổi mới công nghệ có thể tạo ra sự khác biệt lớn về sản lượng trên đầu người trong dài hạn, nhưng câu hỏi quan trọng là tại sao một số quốc gia thành công trong khi những quốc gia khác lại thất bại North và Thomas (1973) cho rằng các yếu tố như tích lũy vốn, đổi mới công nghệ, quy mô nền kinh tế và giáo dục không phải là nguyên nhân của tăng trưởng, mà thực chất là hệ quả của quá trình tăng trưởng.
Trong bối cảnh kinh tế hiện nay, kinh tế học thể chế mới (NIE) đã xuất hiện như một lý thuyết quan trọng, chủ yếu nhờ vào công trình của Douglass North NIE mở rộng kinh tế học tân cổ điển bằng cách nhấn mạnh vai trò của thể chế trong việc giải thích hiệu quả kinh tế dài hạn North định nghĩa thể chế là "các quy tắc của trò chơi", bao gồm cả ràng buộc chính thức và không chính thức do con người tạo ra, ảnh hưởng đến các tương tác xã hội Các thể chế chính thức liên quan đến hiến pháp, quy chế và quy định của chính phủ, trong khi các thể chế không chính thức bao gồm quy tắc truyền thống và ứng xử xã hội được thực thi qua các mối quan hệ cá nhân.
Nghiên cứu của Weingast (1993) chỉ ra rằng một chính phủ mạnh mẽ có khả năng bảo vệ tài sản và thực thi thỏa thuận, nhưng cũng có thể tịch thu tài sản của công dân, tạo ra nghịch lý cần thiết cho sự minh bạch và trách nhiệm giải trình Lauth (2005) phân loại mối quan hệ giữa các hình thức thể chế chính thức và không chính thức thành ba loại: bổ sung, thay thế và xung đột, cho thấy sự tương tác phức tạp giữa chúng Bằng chứng thực nghiệm cho thấy rằng các hình thức thể chế không chính thức đóng vai trò quan trọng trong việc giải thích sự khác biệt về hiệu quả tăng trưởng kinh tế giữa các quốc gia.
Trong xu hướng phát triển của kinh tế học thể chế, Kaufmann và Kraay
Năm 2002, một nghiên cứu đã sử dụng đường tham chiếu quốc tế về thể chế để phân tích mối quan hệ giữa thể chế và tăng trưởng kinh tế Nghiên cứu thực hiện hồi quy OLS đơn giản cho hai biến: chỉ số chất lượng thể chế và logarit tự nhiên thu nhập bình quân đầu người, áp dụng cho tất cả các quốc gia trong một năm nhất định Kết quả hồi quy được sử dụng để vẽ đường tham chiếu quốc tế về quản trị quốc gia, từ đó phân loại các quốc gia thành hai nhóm: thặng dư và thâm hụt về thể chế Quốc gia nào có điểm giá trị ước lượng nằm trên đường tham chiếu được coi là thặng dư, trong khi quốc gia có điểm giá trị dưới đường tham chiếu được xem là thâm hụt Sau khi phân nhóm, hiệu suất tăng trưởng kinh tế trung bình được xác định trong khoảng thời gian từ năm t để kiểm tra ảnh hưởng của giá trị thể chế ban đầu đến tăng trưởng kinh tế trong những năm tiếp theo.
Bài nghiên cứu này nhằm kiểm tra tác động của chất lượng thể chế đối với tăng trưởng kinh tế, dựa trên khung lý thuyết về thể chế của North (1990) và phương pháp tiếp cận của Kaufmann và Kraay (2002) về tiêu chuẩn quốc tế về thể chế.
Đo lường chất lượng thể chế
Đến giữa những năm 1990, nghiên cứu về thể chế chủ yếu thiếu số liệu do các yếu tố thể chế được xem là không thể đo lường Barro (1991) đã sử dụng các chỉ số như cuộc đảo chính, ám sát chính trị và cách mạng để thể hiện mối đe dọa đối với an ninh của chính phủ.
Năm 2003, một nghiên cứu được thực hiện nhằm đo lường chất lượng các quy chế và quy định pháp luật thông qua tỷ lệ phần trăm số lượng tù nhân so với tổng dân số.
Hiện nay, có nhiều chỉ số đo lường chất lượng thể chế trên toàn cầu, bao gồm CPIA - đánh giá thể chế và chính sách quốc gia, CPI - chỉ số nhận thức tham nhũng, GII - chỉ số liêm chính toàn cầu, PEFA - chỉ tiêu công và trách nhiệm giải trình tài chính, và WGI - chỉ số quản trị toàn cầu Ngoài ra, Tổ chức hướng dẫn quốc tế về rủi ro quốc gia (ICRG) cũng công bố bộ dữ liệu về thể chế.
Bài nghiên cứu này áp dụng phương pháp của Kaufmann và Kraay (2002) để sử dụng bộ chỉ số Quản trị toàn cầu (WGI) nhằm đo lường chất lượng thể chế và kiểm tra tác động của nó đối với tăng trưởng kinh tế WGI, được phát triển bởi Kaufmann, Kraay và Mastruzzi (2003, 2009) và công bố hàng năm bởi Ngân hàng Thế giới, bao gồm dữ liệu từ 215 quốc gia từ năm 1996 với sáu khía cạnh quản trị quốc gia, có thang đo từ -2,5 (chất lượng thấp nhất) đến 2,5 (chất lượng cao nhất).
Tiếng nói và trách nhiệm giải trình (VA) phản ánh mức độ công dân của một quốc gia trong việc tham gia lựa chọn chính phủ, cùng với quyền tự do ngôn luận, báo chí và tham gia các hiệp hội.
Ổn định chính trị và sự vắng mặt bạo lực (PSNV) được đánh giá dựa trên khả năng của chính phủ trong việc duy trì trật tự, không bị ảnh hưởng bởi các hành vi vi phạm pháp luật hoặc bạo lực, bao gồm cả hoạt động khủng bố.
Hiệu quả của chính phủ (GE) được đánh giá qua chất lượng dịch vụ công, năng lực và tính độc lập của dịch vụ dân sự trước các áp lực chính trị, cũng như chất lượng trong việc xây dựng chính sách.
Nhà nước pháp quyền (RL) được đánh giá dựa trên độ tin cậy của các cơ quan nhà nước và sự tuân thủ các quy tắc xã hội Điều này bao gồm chất lượng quyền sở hữu, hoạt động của lực lượng cảnh sát và hệ thống tòa án, cũng như mức độ rủi ro liên quan đến tội phạm.
Chất lượng quy định (RQ) được xác định qua khả năng của chính phủ trong việc ban hành các chính sách và quy định nhằm hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển của khu vực tư nhân.
Kiểm soát tham nhũng (CC) được đánh giá dựa trên mức độ lạm dụng quyền lực nhà nước vì lợi ích cá nhân, bao gồm cả tham nhũng quy mô lớn và nhỏ.
Mặc dù các chỉ số quản trị quốc gia (WGI) được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu thực nghiệm, chúng đã phải đối mặt với nhiều phê bình và khuyến nghị sử dụng thận trọng Kaufmann và Kraay (2008) cùng Kaufmann, Kraay và Mastruzzi (2009) chỉ ra rằng việc đo lường chất lượng quản trị quốc gia là một thách thức và các chỉ số này có thể không chính xác Những phê bình chính bao gồm: (i) khó khăn trong việc so sánh theo thời gian và giữa các quốc gia, (ii) thành kiến trong đánh giá của chuyên gia, (iii) lỗi nhận thức tương quan, (iv) vấn đề về định nghĩa, và (v) việc dựa vào dữ liệu chủ quan.
Khảo lược các nghiên cứu cùng chủ đề
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra mối liên hệ giữa chất lượng thể chế và phát triển kinh tế Mauro (1995) cho thấy tham nhũng làm giảm đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế, trong khi Knack và Keefer (1995) chỉ ra rằng các quyết định chính sách không hiệu quả có thể dẫn đến thu nhập thấp hơn La Porta và cộng sự (1999) nhấn mạnh vai trò quan trọng của thể chế và lịch sử chính trị trong hiệu quả kinh tế, và Hall cùng Jones (1999) xác định rằng chính sách của chính phủ ảnh hưởng đến hiệu suất kinh tế lâu dài Acemoglu, Johnson và Robinson (2002) cho rằng sự mở rộng lãnh thổ của các quốc gia châu Âu đã dẫn đến "sự đảo ngược thể chế" ở các xã hội thuộc địa, trong khi Engerman và cộng sự (2002) thảo luận về sự bất bình đẳng phát sinh từ các con đường phát triển thể chế Wilson (2016) tìm thấy mối quan hệ tích cực giữa tăng trưởng kinh tế và quản trị quốc gia tại Trung Quốc, còn D’Agostino và cộng sự (2016) chỉ ra rằng sự tương tác giữa đầu tư, tham nhũng và chi tiêu quân sự có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.
Nhiều nghiên cứu đã sử dụng bộ dữ liệu WGI để phân tích mối liên hệ giữa quản trị quốc gia và tăng trưởng kinh tế, trong đó có các tác giả như Meisel và Aoudia.
Năm 2008, Tebaldi và Mohan đã sử dụng chỉ số WGI để kiểm tra mối quan hệ giữa chất lượng thể chế với GDP bình quân đầu người và hiệu quả của chính phủ tại 85 quốc gia.
Nghiên cứu năm 2010 chỉ ra rằng một nền kinh tế có chính phủ hiệu quả, kiểm soát tham nhũng tốt và hệ thống chính trị ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo đói Alonso (2011) khẳng định vai trò quan trọng của chất lượng thể chế, địa lý, thương mại quốc tế và vốn con người trong việc quyết định tăng trưởng kinh tế Gần đây, Law và cộng sự (2013) đã sử dụng dữ liệu từ WGI và ICRG để nghiên cứu mối quan hệ giữa chất lượng thể chế và tăng trưởng tài chính, cho thấy mặc dù có sự khác biệt về ngưỡng, nhưng WGI vẫn cung cấp một thước đo đáng tin cậy về chất lượng thể chế.
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa chất lượng thể chế và tăng trưởng kinh tế dựa trên đường tham chiếu quốc tế về quản trị quốc gia đã có những tiến bộ, mặc dù vẫn còn hạn chế Các tác giả Kaufmann và Kraay đã đóng góp vào việc hoàn thiện những hiểu biết này qua thời gian.
Năm 2002, nghiên cứu đã sử dụng dữ liệu từ 175 quốc gia trong giai đoạn 2000-2001 để phân loại 26 quốc gia ở Mỹ Latinh và Caribê thành hai nhóm: nhóm thặng dư và nhóm thâm hụt về thể chế.
Bài viết phân tích 6 chỉ số WGI và cho thấy rằng các quốc gia có thặng dư về thể chế thường có hiệu quả tăng trưởng kinh tế tốt hơn so với các quốc gia thâm hụt về thể chế Tuy nhiên, nghiên cứu của Radelet và Steve (2004) trên 159 quốc gia châu Phi lại chỉ ra rằng chất lượng quản trị không ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong khu vực này Ngược lại, Quibria (2006) đã phân chia 29 quốc gia châu Á – Thái Bình Dương thành 2 nhóm và phát hiện rằng trong giai đoạn 1999–2003, mặc dù chất lượng thể chế có tác động đến hiệu quả kinh tế, các nước thâm hụt về thể chế lại có mức tăng trưởng tốt hơn Tác giả trong bài viết này sử dụng trung bình cộng 6 chỉ số WGI để đo lường chất lượng thể chế của các quốc gia.
Zhuang và cộng sự (2010) đã phân tích dữ liệu từ 169 quốc gia vào năm 1998 để chia 36 quốc gia châu Á – Thái Bình Dương thành hai nhóm dựa trên từng chỉ số WGI Kết quả cho thấy hiệu quả kinh tế được đo lường trong giai đoạn 1998.
2008 cho thấy, các quốc gia thặng dư tương ứng với chỉ số quản trị quốc gia GE,
RL và RQ đang tăng trưởng nhanh hơn các quốc gia thâm hụt, trong khi các chỉ số VA, PSNV và CC không cho thấy mối liên hệ rõ ràng giữa chất lượng thể chế và tăng trưởng kinh tế Nghiên cứu của ADB năm 2014, do Han và cộng sự thực hiện, đã phân chia 215 quốc gia thành 6 nhóm theo khu vực, bao gồm châu Á – Thái Bình Dương, các nước OECD, châu Phi hạ Sahara, Trung Đông – Bắc Phi, châu Mỹ Latinh và Caribê, cũng như châu Âu có mức thu nhập trung bình Nhóm tác giả đã sử dụng các chỉ số WGI và đường tham chiếu quốc tế về quản trị quốc gia để phân loại các quốc gia thành 3 nhóm: thặng dư, thâm hụt và không thăng dư hay thâm hụt vào năm 1998 Hiệu suất kinh tế trung bình được đo lường trong giai đoạn này đã cung cấp cái nhìn sâu sắc về tình hình kinh tế của các nhóm quốc gia.
Nghiên cứu năm 2011 chỉ ra rằng các chỉ số VA, GE, RQ, CC ảnh hưởng đến tăng trưởng tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương, trong khi PSNV, GE, CC có tác động tương tự ở khu vực Trung Đông – Bắc Phi Đặc biệt, chỉ số PSNV cũng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của các quốc gia thuộc nhóm OECD.
DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Dữ liệu nghiên cứu
Bài viết sử dụng dữ liệu thu thập từ 186 quốc gia trên toàn cầu, đặc biệt tập trung vào 40 quốc gia ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương trong giai đoạn từ năm
+ GDPg: tốc độ tăng trưởng GDP hằng năm (%)
+ lnGDPpc: logarit tự nhiên thu nhập bình quân đầu người (USD);
+ VA: tiếng nói và trách nhiệm giải trình;
+ PSNV: ổn định chính trị và không có bạo lực;
+ GE: hiệu quả của chính phủ;
+ RL: nhà nước pháp quyền;
+ RQ: chất lượng quy định;
+ CC: kiểm soát tham nhũng
Dữ liệu về GDPg và lnGDPpc được tính theo giá trị ngang giá sức mua cố định năm 2011 (PPP constant 2011), được thu thập từ cơ sở dữ liệu World Development Indicators (WDI) của Ngân hàng Thế giới Các biến thể chế như VA, PSNV, GE, RL, RQ và CC có thang đo từ -2,5 (chất lượng thấp nhất) đến 2,5 (chất lượng cao nhất), cũng được lấy từ cơ sở dữ liệu World Governance Indicators (WGI) của Ngân hàng Thế giới.
Phương pháp nghiên cứu
Bài viết áp dụng phương pháp nghiên cứu dựa trên khung lý thuyết thể chế của North (1990) và các nghiên cứu liên quan, bao gồm công trình của Kaufmann và Kraay (2002) về tham chiếu quốc tế về thể chế.
Bài viết thực hiện hồi quy OLS đơn giản giữa chỉ số chất lượng thể chế và logarit tự nhiên thu nhập bình quân đầu người cho các quốc gia tại một năm nhất định, từ đó vẽ đường tham chiếu quốc tế về quản trị quốc gia Các quốc gia được phân loại thành ba nhóm: thặng dư, thâm hụt và không thặng dư hay thâm hụt về thể chế Một quốc gia được coi là thặng dư nếu điểm ước lượng nằm trên đường tham chiếu, trong khi đó, nếu nằm dưới thì được xem là thâm hụt Quốc gia nào có điểm ước lượng gần sát đường tham chiếu sẽ được xác định là không thặng dư hay thâm hụt Hiệu suất tăng trưởng kinh tế trung bình từ năm t được xác định để kiểm tra ảnh hưởng của chất lượng thể chế ban đầu đến tăng trưởng kinh tế trong những năm tiếp theo.
Cụ thể, các bước để thực hiện bài nghiên cứu bao gồm:
Bước 1: Trước tiên, để có thể so sánh giữa khu vực châu Á – Thái Bình
Bài viết sẽ phân loại các quốc gia trên thế giới thành 6 nhóm dựa theo nghiên cứu của Han và cộng sự (2014), bao gồm: châu Á – Thái Bình Dương, các nước OECD, châu Phi hạ Sahara, Trung Đông – Bắc Phi, châu Mỹ Latinh và Caribê, cùng với châu Âu có mức thu nhập trung bình.
Bước 2: Chia từng nhóm quốc gia theo khu vực (6 nhóm) thành 3 nhóm
Thặng dư, thâm hụt và tình trạng không thặng dư hay thâm hụt được phân tích dựa trên các chỉ số WGI năm 2010, theo đường tham chiếu quốc tế về quản trị quốc gia Các chỉ số này được xác định thông qua phương trình hồi quy, cung cấp cái nhìn sâu sắc về tình hình quản trị quốc gia.
G i = β 0 + β 1 lnGDPpc + ε i (1) Trong đó: i là quốc gia, ε là sai số;
G là đại diện cho từng chỉ số chất lượng thể thế.
Bước 3: Để xác định giá trị chất lượng thể chế trung bình (WGItb) và hiệu suất tăng trưởng kinh tế trung bình (GDPgtb) cho hai nhóm (thặng dư và thâm hụt), cần tính toán trung bình cộng hằng năm với trọng số bằng nhau trong giai đoạn 2010 – 2016 theo từng khu vực.
Bước 4: Kiểm định tác động của chất lượng thể chế đối với tăng trưởng kinh tế cho từng nhóm (thặng dư, thâm hụt) và theo từng nhóm quốc gia (6 nhóm) thông qua phương trình hồi quy.
GDPg it = β 0 + β 1 lnGDPpc + β 2 G + п it (2) Trong đó: i là quốc gia, t là năm và п là sai số
Bằng cách áp dụng kỹ thuật ước lượng GMM cho mô hình biến công cụ (IV) với các chỉ số WGI làm biến công cụ chính, chúng ta đánh giá độ tin cậy của các biến và đưa ra kết luận về kết quả tính toán GDPtb trong bước 3.
Bước 5: So sánh tác động của chất lượng thể chế đối với tăng trưởng kinh tế giữa khu vực châu Á – Thái Bình Dương và các khu vực khác trên thế giới.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Kết quả bước 1
Bài viết chia 186 quốc gia trên thế giới thành 6 nhóm:
Nhóm 1 bao gồm 40 quốc gia thuộc khu vực châu Á – Thái Bình Dương Mặc dù Nhật Bản và Hàn Quốc nằm trong khu vực này, nhưng chúng được xếp vào danh sách các nước OECD do tổ chức này công bố.
+ Nhóm 2: các quốc gia OECD, bao gồm 35 quốc gia;
+ Nhóm 3: các quốc gia châu Phi hạ Sahara, bao gồm 45 quốc gia;
+ Nhóm 4: các quốc gia Trung Đông – Bắc Phi, bao gồm 16 quốc gia;
+ Nhóm 5: các quốc gia châu Mỹ Latinh và Caribê, bao gồm 31 quốc gia;
+ Nhóm 6: các quốc gia châu Âu có mức thu nhập trung bình, bao gồm 19 quốc gia
(Bảng tổng hợp chi tiết các quốc gia thuộc mỗi nhóm quốc gia được trình bày trong Phụ lục 1)
Kết quả bước 2
Để tiến hành chia các quốc gia thành 3 nhóm (thặng dư, thâm hụt và không thặng dư hay thâm hụt), bài nghiên cứu tiến hành ước lượng phương trình (1)
Bảng 1: Kết quả ước lượng phương trình (1)
G Kết quả ước lượng R 2 R 2 hiệu chỉnh
Số liệu trong ngoặc đơn ( ) là giá trị p-value của ước lượng
(Nguồn: Tính toán của tác giả bằng phần mềm Stata)
Bảng 1 trình bày kết quả ước lượng đường tham chiếu quốc tế cho các chỉ số WGI về quản trị quốc gia Các phương trình cho từng chỉ số cho thấy kết quả thống kê khả quan, với R² và R² hiệu chỉnh từ 0,324 đến 0,711, cho thấy mối quan hệ giữa các biến tiếng nói và trách nhiệm giải trình (VA) cũng như hiệu quả chính phủ (GE) Hệ số tương quan dương của biến lnGDPpc, dao động từ 0,372 đến 0,626 và có ý nghĩa thống kê, chỉ ra rằng thu nhập bình quân đầu người có thể giải thích các biến về chất lượng thể chế.
Biểu đồ 1 trình bày đường tham chiếu quốc tế về thể chế cho từng chỉ số WGI Các đường tham chiếu được xây dựng từ kết quả ước lượng phương trình (1) thông qua phần mềm Stata Một quốc gia được xếp vào nhóm thặng dư về thể chế (nhóm A) nếu điểm giá trị ước lượng của quốc gia đó nằm trên đường tham chiếu, trong khi một quốc gia thuộc nhóm thâm hụt về thể chế (nhóm B) nếu điểm giá trị ước lượng nằm dưới đường tham chiếu Để đảm bảo tính ổn định trong nghiên cứu, bài viết đã loại bỏ các quốc gia có điểm giá trị ước lượng gần sát đường tham chiếu.
C) bao gồm các quốc gia không thặng dư hay thâm hụt về thể chế
Biểu đồ 1.1: Đường tham chiếu quốc tế về quản trị quốc gia cho chỉ số
Tiếng nói và trách nhiệm giải trình (VA)
(Nguồn: Kết quả phân tích bằng phần mềm Stata)
Biểu đồ 1.2: Đường tham chiếu quốc tế về quản trị quốc gia cho chỉ số Ổn định chính trị và không có bạo lực (PSNV)
(Nguồn: Kết quả phân tích bằng phần mềm Stata)
Biểu đồ 1.3: Đường tham chiếu quốc tế về quản trị quốc gia cho chỉ số Hiệu quả của chính phủ (GE)
(Nguồn: Kết quả phân tích bằng phần mềm Stata)
Biểu đồ 1.4: Đường tham chiếu quốc tế về quản trị quốc gia cho chỉ số Nhà nước pháp quyền (RL)
(Nguồn: Kết quả phân tích bằng phần mềm Stata)
Biểu đồ 1.5: Đường tham chiếu quốc tế về quản trị quốc gia cho chỉ Chất lượng quy định (RQ)
(Nguồn: Kết quả phân tích bằng phần mềm Stata)
Biểu đồ 1.6: Đường tham chiếu quốc tế về quản trị quốc gia cho chỉ số Kiểm soát tham nhũng (CC)
(Nguồn: Kết quả phân tích bằng phần mềm Stata)
Dựa trên kết quả ước lượng phương trình và biểu đồ, bài viết đã phân chia các quốc gia thành ba nhóm theo khu vực: nhóm thặng dư, nhóm thâm hụt và nhóm không thặng dư cũng như không thâm hụt, với kết quả được trình bày rõ ràng.
Bảng 2: Kết quả chia nhóm các quốc gia (A, B, C) Đơn vị: quốc gia
G Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4 Nhóm 5 Nhóm 6
Các ô được tô đậm là các nhóm sẽ được thực hiện kiểm định trong bước 3 (Nguồn: Tác giả tự tổng hợp dựa trên kết quả phân tích)
(Bảng tổng hợp chi tiết các quốc gia thuộc mỗi nhóm quốc gia được trình bày trong Phụ lục 2)
Bảng 2 cho thấy sự phân chia tương đối đồng đều giữa các quốc gia thặng dư và thâm hụt trong nhóm các quốc gia châu Á – Thái Bình Dương, mặc dù có sự trội hơn về thâm hụt, đặc biệt là chỉ số RQ Tương tự, nhóm các quốc gia châu Phi hạ Sahara cũng có sự phân chia khá đồng đều, nhưng lại nghiêng về nhóm thặng dư.
Nhóm các quốc gia OECD chủ yếu tập trung vào nhóm thặng dư, trong khi nhóm Trung Đông – Bắc Phi lại có đa số quốc gia thuộc nhóm thâm hụt Các quốc gia ở châu Mỹ Latinh – Caribê và châu Âu có mức thu nhập trung bình thể hiện sự phân hóa rõ rệt theo từng chỉ số WGI về số lượng quốc gia thuộc nhóm thặng dư hoặc thâm hụt.
Kết quả bước 3
Để cải thiện độ chính xác của ước lượng trong phương trình 2, bài viết đã loại bỏ các nhóm có số lượng quốc gia ít hơn 8 và số lượng quốc gia lớn hơn số năm quan sát Kết quả phân tích cho thấy nhóm 2-B và nhóm 4-A không đáp ứng yêu cầu về số lượng quốc gia đối với tất cả các chỉ số WGI, trong khi nhóm 1-A của chỉ số RQ, nhóm 5-B của chỉ số VA, nhóm 6-A của các chỉ số PSNV, GE, RL, CC, và nhóm 6-B của chỉ số VA, RQ cũng không đạt tiêu chuẩn này.
Giá trị chất lượng thể chế trung bình (WGItb) và hiệu suất tăng trưởng kinh tế trung bình (GDPgtb) cho hai nhóm (thặng dư và thâm hụt) đã được xác định thông qua trung bình cộng với trọng số bằng nhau trong giai đoạn 2010 – 2016, như trình bày trong Bảng 3 Kết quả cho thấy sự khác biệt rõ rệt giữa hai nhóm này.
Nhóm 1-A ghi nhận sự giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế từ năm 2010 đến năm 2016, với tất cả các chỉ số WGI đều giảm Cụ thể, chỉ số GE giảm 1,272%, trong khi chỉ số PSNV giảm 2,288%.
Nhóm 1-B ghi nhận sự gia tăng giá trị chất lượng thể chế từ năm 2010 đến năm 2016 trên tất cả các chỉ số WGI, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế lại giảm, với mức giảm từ 1,884% cho chỉ số RQ đến 3,492% cho chỉ số VA.
Nhóm 2-A đạt giá trị chất lượng thể chế cao nhất trong các nhóm, với tốc độ tăng trưởng kinh tế từ năm 2010 đến 2016 dao động từ giảm 0,406% cho chỉ số RQ đến tăng 0,174% cho chỉ số VA.
Nhóm 3-A ghi nhận sự giảm sút trong tốc độ tăng trưởng kinh tế từ năm 2010 đến năm 2016, với tất cả các chỉ số WGI đều giảm Cụ thể, chỉ số RQ giảm 1,464% và chỉ số VA giảm 2,037%.
Nhóm 3-B có chất lượng thể chế thấp nhất trong tất cả các nhóm, với tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm từ năm 2010 đến năm 2016 Cụ thể, chỉ số VA giảm 3,312% và chỉ số RQ giảm 4,662%.
Nhóm 4-B ghi nhận sự giảm tốc trong tăng trưởng kinh tế từ năm 2010 đến năm 2016, với tất cả các chỉ số WGI đều có xu hướng giảm Cụ thể, chỉ số CC giảm 1,211%, trong khi chỉ số RQ giảm 2,4%.
Nhóm 5-A ghi nhận tốc độ tăng trưởng kinh tế từ năm 2010 đến năm 2016 với biên độ dao động từ giảm 0,139% cho chỉ số VA đến tăng 2,453% cho chỉ số CC Đây là nhóm khu vực có sự cải thiện tốt nhất về tốc độ tăng trưởng trong giai đoạn này.
Bảng 3.1: Giá trị VAtb, PSNVtb, GEtb và GDPtb trong giai đoạn 2010 – 2016 Đơn vị GDPg: %
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp dựa trên kết quả phân tích)
Bảng 3.2: Giá trị RLtb, RQtb, CCtb và GDPtb trong giai đoạn 2010 – 2016 Đơn vị GDPg: %
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp dựa trên kết quả phân tích)
Nhóm 5-B ghi nhận sự giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế từ năm 2010 đến năm 2016, với tất cả các chỉ số WGI đều giảm Cụ thể, chỉ số RL giảm 2,701% và chỉ số RQ giảm 5,102%.
+ Nhóm 6-A và 6-B có tốc độ tăng trưởng kinh tế tại năm 2010 so với năm
Tốc độ tăng trưởng kinh tế từ năm 2010 đến năm 2016 đã giảm ở hầu hết các nhóm, ngoại trừ một số nhóm thuộc các nước OECD với chất lượng thể chế thặng dư (Nhóm 2-A) và một số nhóm từ các nước châu Mỹ Latinh và Caribê cũng có chất lượng thể chế thặng dư (Nhóm 5-A).
+ Những nhóm trong cùng khu vực có giá trị chất lượng thể chế cao hơn (Nhóm 1-A, Nhóm 3-A, Nhóm 5-A) thì có biên độ giảm tăng trưởng trong giai đoạn
2010 – 2016 nhỏ hơn so với những nhóm có giá trị chất lượng thể chế thấp hơn (Nhóm 1-B, Nhóm 3-B, Nhóm 5-B)
+ Nhóm quốc gia có biên độ tăng trưởng giảm thấp nhất chính là nhóm có giá trị chất lượng thể chế cao nhất (Nhóm 2-A).
Kết quả bước 4
Nghiên cứu này kiểm định tác động của chất lượng thể chế lên tăng trưởng kinh tế cho từng nhóm (thặng dư, thâm hụt) và theo từng khu vực thông qua việc ước lượng phương trình (2) Sử dụng kỹ thuật ước lượng GMM cho mô hình biến công cụ (IV) với chỉ số WGI làm biến công cụ chính, kết quả được trình bày trong Bảng 4 cho thấy những phát hiện quan trọng về mối quan hệ giữa chất lượng thể chế và tăng trưởng kinh tế.
Nhóm 1-A đã thực hiện 5/5 kiểm định, cho thấy rõ ràng rằng chất lượng thể chế có ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh tế Đồng thời, Nhóm 1-B cũng tiến hành 4/6 kiểm định, cho thấy tác động này có ý nghĩa thống kê.
+ Nhóm 2-A và Nhóm 4-B cùng có 3/6 kiểm định cho thấy chất lượng quản trị quốc gia có tác động lên hiệu suất tăng trưởng kinh tế
Bảng 4.1: Kết quả ước lượng phương trình (2) Đơn vị GDPg tb : %
Biến công cụ PSNV RL x GE RQ
Biến công cụ RL CC x GE RL x x
Biến công cụ RQ CC RQ RL
Biến công cụ RQ GE RQ
Biến công cụ RL CC x GE RL VA GE
Biến công cụ GE RQ RL x RQ RL RQ RL
Trong bài viết này, hệ số tương quan của biến G được kiểm định với mức ý nghĩa 1%, 5% và 10% Ký hiệu x cho thấy không tìm được biến công cụ phù hợp, trong khi + chỉ ra rằng kiểm định là tốt, - biểu thị kiểm định không tốt, và o nghĩa là không thể thực hiện kiểm định.
(Nguồn: Tính toán của tác giả bằng phần mềm Stata)
Bảng 4.2: Kết quả ước lượng phương trình (2) tiếp theo Đơn vị GDPg tb : %
Biến công cụ x GE RL CC x x
Biến công cụ GE RL
Biến công cụ VA RQ
RL GE RQ RL VA GE
và * tương ứng Biến x không tìm được công cụ phù hợp, trong khi đó dấu + chỉ ra rằng kiểm định là tốt, dấu - cho thấy kiểm định không đạt yêu cầu, và dấu o biểu thị rằng không thể thực hiện kiểm định.
(Nguồn: Tính toán của tác giả bằng phần mềm Stata)
+ Nhóm 3-A và Nhóm 3-B đều có 4/6 kiểm định cho thấy chất lượng thể chế có tác động lên tăng trưởng kinh tế
Nhóm 5-A có 2/6 kiểm định cho thấy chất lượng quản trị quốc gia ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế Đồng thời, Nhóm 5-B cũng có 2/5 kiểm định chứng minh rằng tác động này có ý nghĩa thống kê.
Nhóm 6-A không đạt yêu cầu kiểm định với 0/2, cho thấy rằng chất lượng thể chế ảnh hưởng đến hiệu suất tăng trưởng kinh tế Trong khi đó, Nhóm 6-B có 0/4 kiểm định, chứng minh rằng tác động này có ý nghĩa thống kê.
Bên cạnh kết quả theo các nhóm quốc gia, Bảng 4 cũng cho thấy những kết quả về các chỉ số WGI:
+ Chỉ số VA có 2/8 nhóm cho thấy chất lượng thể chế có tác động lên hiệu suất tăng trưởng kinh tế, thấp nhất trong 6 chỉ số
+ Chỉ số PSNV có 3/9 nhóm cho thấy chất lượng quản trị quốc gia có tác động lên tăng trưởng kinh tế
+ Chỉ số GE có 4/9 và chỉ số RQ có 4/8 nhóm cho thấy chất lượng thể chế có tác động lên hiệu suất tăng trưởng kinh tế
Chỉ số RL và chỉ số CC cho thấy có 7/9 nhóm chỉ ra rằng chất lượng quản trị quốc gia ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, đứng đầu trong 6 chỉ số.
Kết quả bước 5
Theo kết quả ở bước 4, khu vực châu Á – Thái Bình Dương có tỷ lệ kiểm định chất lượng thể chế tác động lên tăng trưởng kinh tế cao nhất, đạt 81,82% (9/11 kiểm định) Tiếp theo là các quốc gia châu Phi hạ Sahara với tỷ lệ 66,67% (8/12 kiểm định) Các quốc gia OECD và khu vực Trung Đông – Bắc Phi có tỷ lệ 50% (3/6 kiểm định) Trong khi đó, các quốc gia châu Mỹ Latinh – Caribê và châu Âu có mức thu nhập trung bình chỉ đạt 36,36% (4/11 kiểm định) và 0% (0/6 kiểm định).