GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT ĐỀ TÀI
Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy thoái, Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức tài chính, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa Sự yếu kém trong quản trị tài chính, như quản lý hàng tồn kho, tín dụng thương mại và chi phí, đã dẫn đến việc nhiều doanh nghiệp phải đóng cửa Việc gia tăng nợ phải trả, rút ngắn vòng quay hàng tồn kho và nợ phải thu trở thành những vấn đề cấp thiết mà các nhà hoạch định tài chính cần xem xét để tồn tại trong một thế giới bất ổn hiện nay.
Cuộc khủng hoảng kinh tế đã gây ra nhiều biến động cho nền kinh tế Việt Nam, dẫn đến tình trạng thăng trầm Chính phủ đã phải đưa ra nhiều chính sách để đối phó với lạm phát và nợ công gia tăng, trong khi nguồn tài trợ từ các tổ chức tín dụng ngày càng hạn chế Hệ quả là nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã phải đóng cửa kể từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế gần đây.
Xuất phát từ nhu cầu cấp thiết của nền kinh tế Việt Nam và những yếu kém của các doanh nghiệp trong nước, tác giả đã chọn nghiên cứu đề tài “Ảnh hưởng của hạn chế tài chính lên mối quan hệ phi tuyến giữa quản trị vốn luân chuyển và hiệu quả hoạt động của các công ty niêm yết Việt Nam” cho luận văn của mình.
Vấn đề nghiên cứu
Bài nghiên cứu này phân tích các yếu tố quản trị doanh nghiệp phi tài chính ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động doanh nghiệp từ năm 2008 đến 2016 Cụ thể, nghiên cứu xem xét các biến số tài chính như NTC (chu kỳ thương mại thuần), SIZE (quy mô doanh nghiệp), LEV (đòn bẩy tài chính), GROWTH (cơ hội tăng trưởng) và ROA (tỷ suất sinh lợi trên tài sản).
Câu hỏi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các câu hỏi sau:
Nghiên cứu này nhằm khám phá mối quan hệ phi tuyến giữa vốn luân chuyển và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam Việc phân tích mối quan hệ này có thể giúp các nhà đầu tư và quản lý doanh nghiệp hiểu rõ hơn về cách thức vốn luân chuyển ảnh hưởng đến hiệu suất kinh doanh, từ đó đưa ra những quyết định chiến lược phù hợp nhằm tối ưu hóa hoạt động và gia tăng giá trị doanh nghiệp.
Sự thay đổi mối quan hệ của hai yếu tố này như thế nào trong điều kiện hạn chế tài chính?
Mức vốn luân chuyển tối ưu sẽ thay đổi như thế nào giữa doanh nghiệp có mức độ hạn chế tài chính khác nhau ?
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu là kiểm định tác động của quản trị vốn luân chuyển và yếu tố tài chính đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam Dựa trên kết quả nghiên cứu và lập luận chặt chẽ, bài viết sẽ đưa ra khuyến nghị cho các nhà quản trị tài chính trong việc hoạch định chính sách phù hợp.
Xác định các yếu tố và mức độ tác động của chúng đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam là rất quan trọng Việc phân tích những yếu tố này giúp hiểu rõ hơn về hiệu suất kinh doanh và đưa ra các chiến lược phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động.
− Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản trị tài chính doanh nghiệp.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Để nghiên cứu mối quan hệ phi tuyến giữa vốn luân chuyển và hạn chế tài chính của các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam, tác giả đã sử dụng nhóm chỉ số tài chính làm nền tảng Phạm vi nghiên cứu bao gồm 222 doanh nghiệp phi tài chính trong giai đoạn từ 2008 đến 2016.
Nguồn dữ liệu: Được cung cấp bởi Trung tâm khai thác dữ liệu của Khoa Tài chính doanh nghiệp - UEH.
Phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu từ 222 doanh nghiệp phi tài chính đã niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (HOSE) và Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) trong giai đoạn 2008-2016, dựa trên nghiên cứu của nhóm tác giả Caballero, S et al về quản lý vốn lưu động, hiệu suất doanh nghiệp và các rào cản tài chính.
2013 đăng trên Journal of Business Research, 67(3), pp 332-338
Bài nghiên cứu này sử dụng phương pháp chủ yếu là Phương pháp GMM hai bước (Two step Generalized Method of Moments) được đề xuất bởi Arellano và Bond
Vào năm 1991, nghiên cứu được thực hiện nhằm giải quyết vấn đề nội sinh liên quan đến hiệu quả quản trị vốn luân chuyển và các biến kiểm soát khác ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Tác giả cũng đã xem xét tác động của hạn chế tài chính đối với mối quan hệ phi tuyến này.
Ý nghĩa đề tài
Nghiên cứu về ảnh hưởng của hạn chế tài chính lên mối quan hệ giữa quản trị vốn luân chuyển và hiệu quả hoạt động doanh nghiệp là vấn đề có ý nghĩa khoa học và thực tiễn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế Việt Nam hiện nay Mặc dù có nhiều nghiên cứu quốc tế, kết quả không đồng nhất, nhưng vấn đề này vẫn rất quan trọng đối với các giám đốc tài chính và nhà quản lý Trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt, các doanh nghiệp Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều rủi ro, do đó, việc nâng cao hiệu quả hoạt động là mối quan tâm lớn Bài nghiên cứu này đã xây dựng mô hình thực nghiệm tại Việt Nam để khám phá các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động doanh nghiệp, đồng thời mở ra hướng nghiên cứu chuyên sâu cho các tác giả trong tương lai.
Nghiên cứu cho thấy tác động của đầu tư vốn luân chuyển lên hiệu quả hoạt động doanh nghiệp có dạng hình chữ U ngược, chứng tỏ rằng tồn tại một mức vốn tối ưu để đạt hiệu quả cao nhất Kết quả này mong muốn giúp các nhà quản trị có cái nhìn sâu sắc hơn trong việc hoạch định chiến lược tài chính cho doanh nghiệp.
Bố cục đề tài
Đề tài nghiên cứu bao gồm 5 chương:
Chương 1: Giới thiệu tổng quát đề tài, Trong chương này tác giả trình bày tổng thể nội dung bài nghiên cứu Trong chương này làm rõ lý do nghiên cứu đề tài, mục tiêu nghiên cứu, phạm vi và ý nghĩa cũng như bố cục bài nghiên cứu
Chương 2: Tổng quan cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu có liên quan, Trong chương này tác giả trình bày cơ sở lý thuyết và và tập hợp bằng chứng thực nghiệm về quản trị vốn luân chuyển và tác động của đầu tư vốn luân chuyển lên hiệu quả hoạt động doanh nghiệp theo hai quan điểm khác nhau hoàn toàn: Tương quan tuyến tính và tương quan phi tuyến hình chữ U ngược Đồng thời tác giả còn tập hợp những bằng chứng thực nghiệm ảnh hưởng hạn chế tài chính lên hiệu quả hoạt động doanh nghiệp làm cơ sở cho việc nghiên cứu cho bài nghiên cứu của chính tác giả tại Việt Nam
Chương 3: Mô hình nghiên cứu và dữ liệu nghiên cứu, trong chương này tác giả trình bày dữ liệu nghiên cứu, xây dựng mô hình nghiên cứu, xây dựng giả thuyết nghiên cứu và trình bày lý thuyết kiểm định và lựa chọn mô hình nghiên cứu
Chương 4: Kết quả thực nghiệm , trong chương này tác giả trình bày kết quả thực nghiệm và những thảo luận kết quả nghiên cứu đó bao gồm phân tích thống kê mô tả, phân tích ma trận hệ số tương quan và sau cùng là trình bày kết quả hồi quy và tiến hành thảo luận
Chương 5: Kết luận và kiến nghị cho các nhà quản trị tài chính, trong chương này tác giả tóm tắt lại kết quả nghiên cứu chính, các kết quả quan trọng, từ đó tác giả đưa ra những kiến nghị giúp cho các nhà quản trị có cách nhìn sâu sắc hơn Đồng thời đưa ra những giới hạn cũng như hạn chế của nghiên cứu và gợi mở hướng nghiên cứu chuyên sâu cho tác giả quan tâm sau này
Chương 1 này giới thiệu từ tình hình thực tế những vấn đề hàng đầu đã, đang và sẽ được các nhà quản trị quan tâm, với bối cảnh như thế, đặt ra những mục tiêu nghiên cứu cần đạt được và những câu hỏi nghiên cứu của đề tài Đồng thời cho thấy tính cấp thiết của đề tài, nêu được ý nghĩa của việc thực hiện đề tài, từ đây nêu lên được lý do nghiên cứu đề tài, đưa ra vấn đề nghiên cứu Cuối chương trình bày bố cục bài nghiên cứu, từ đây có cách nhìn bao quát hơn hơn những nội dung chính trình bày trong bài nghiên cứu.
TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
Cơ sở lý thuyết vốn luân chuyển
2.1.1 Cơ sở lý thuyết vốn luân chuyển và phương pháp đo lường
Vốn luân chuyển là chênh lệch giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn của công ty, trong đó tài sản ngắn hạn chủ yếu bao gồm các khoản phải thu, tồn kho nguyên liệu và hàng hóa thành phẩm Nợ ngắn hạn bao gồm các khoản nợ thương mại, hóa đơn chưa thanh toán và thuế chưa chi trả Theo Nguyễn Thị Ngọc Trang và Nguyễn Thị Liên Hoa (2008), tài sản ngắn hạn là những tài sản có thể chuyển đổi thành tiền mặt nhanh hơn tài sản dài hạn, bao gồm tiền mặt, các khoản tương đương tiền, đầu tư ngắn hạn và hàng tồn kho Chênh lệch giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn được gọi là vốn luân chuyển, một khái niệm đã được nhiều tác giả ở Việt Nam đề cập.
Vốn luân chuyển là yếu tố thiết yếu cho hoạt động hiệu quả của doanh nghiệp, nhưng cũng đồng thời gây tốn kém do mất đi cơ hội đầu tư Để sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần một số vốn nhất định phù hợp với ngành nghề, bao gồm tiền mặt, máy móc thiết bị và cơ sở vật chất Doanh nghiệp sử dụng vốn để mua nguyên vật liệu, hàng hóa, thanh toán chi phí và trả lương nhân viên nhằm phục vụ cho hoạt động sản xuất Vốn luân chuyển không chỉ là điều kiện tiên quyết cho sản xuất kinh doanh mà còn phải được luân chuyển qua các khâu như thu mua nguyên vật liệu, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm Qua quá trình này, doanh nghiệp có thể đánh giá hiệu quả từng khâu dựa trên thời gian thực hiện so với các đối thủ trong cùng ngành.
Vốn luân chuyển là yếu tố quan trọng giúp doanh nghiệp mở rộng quy mô và thâm nhập thị trường hiệu quả Trong cơ chế thị trường, để chiếm lĩnh thị trường, doanh nghiệp cần huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm cả nguồn nội bộ và nguồn bên ngoài, điều này liên quan trực tiếp đến việc quản lý vốn luân chuyển.
Nguyễn Thị Ngọc Trang và Nguyễn Thị Liên Hoa (2008, trang 235) cho rằng nhiều công ty nỗ lực nâng cao khả năng sinh lợi bằng cách giảm đầu tư vào tài sản ngắn hạn, áp dụng các phương pháp quản trị hàng tồn kho "just-in-time".
Các công ty thường tài trợ cho các tài sản ngắn hạn bằng các khoản vay ngắn hạn, như các khoản phải trả, nhằm giảm vốn luân chuyển Tuy nhiên, tài sản ngắn hạn chủ yếu có tính thanh khoản, dẫn đến việc giảm tài sản này để cải thiện khả năng sinh lợi có thể làm tăng rủi ro thanh toán Tác giả đề cập đến khái niệm vốn luân chuyển dương (+) và vốn luân chuyển âm (-) trong bối cảnh này.
Doanh nghiệp có vốn luân chuyển dương (+) là những doanh nghiệp có tài sản ngắn hạn vượt trội so với nợ ngắn hạn, cho phép đáp ứng nhu cầu ngắn hạn Tuy nhiên, việc duy trì vốn luân chuyển dương cao trong các khoản như hàng tồn kho và các khoản phải thu có thể không gia tăng giá trị doanh nghiệp, mà còn dẫn đến chi phí lưu kho tăng và rủi ro vỡ nợ từ khách hàng Điều này có thể làm giảm giá trị doanh nghiệp và thiếu hụt nguồn đầu tư cho các dự án sinh lợi.
Doanh nghiệp có vốn luân chuyển âm (-) gặp khó khăn khi chênh lệch giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn là âm, dẫn đến việc không đủ vốn để trang trải các nhu cầu ngắn hạn như thanh toán nợ, chi lương nhân viên và các khoản chi phí khác Tình trạng này có thể gây ra nợ chồng chất, cắt điện thoại, đình công của nhân viên, và cuối cùng có thể đẩy doanh nghiệp đến bờ vực phá sản.
Như vây một doanh nghiệp mà có vốn luân chuyển dương quá mức cũng như các doanh nghiệp có vốn luân chuyển âm quá mức đều không hiệu quả
Quản trị vốn luân chuyển hiệu quả là yếu tố then chốt giúp doanh nghiệp duy trì lưu lượng tiền tệ ổn định và giảm thiểu rủi ro tài chính ngắn hạn Sự cân đối giữa tính thanh khoản và hiệu quả hoạt động là rất quan trọng trong quản lý vốn luân chuyển, giúp chuyển hóa nhanh chóng tài sản lưu động và tạo ra ngân quỹ dồi dào Các chỉ số tài chính như chỉ số thanh toán hiện hành, chỉ số thanh toán nhanh, vòng quay hàng tồn kho và kỳ thanh toán nợ phải thu là công cụ hữu ích để đo lường hiệu quả quản trị vốn luân chuyển Mặc dù dễ dàng thu thập từ báo cáo tài chính, các chỉ số này vẫn chưa thể hiện đầy đủ thông tin chi tiết về tình hình vốn luân chuyển của doanh nghiệp.
Chu kỳ luân chuyển tiền mặt (Cash Conversion Cycle - CCC) là một chỉ tiêu quan trọng trong quản trị vốn luân chuyển, được đề xuất bởi Richards và Laughlin (1980) Chỉ tiêu này đo lường khoảng thời gian từ khi mua nguyên vật liệu đến khi thu hồi tiền từ việc bán sản phẩm Doanh nghiệp có chu kỳ luân chuyển tiền mặt ngắn sẽ cần ít vốn luân chuyển hơn, dẫn đến chi phí tài chính thấp hơn Bằng cách sử dụng CCC để đánh giá hiệu quả hoạt động, các nhà quản lý có thể điều chỉnh chính sách liên quan đến nợ khách hàng và quản lý hàng tồn kho, nhằm giảm thiểu chi phí lưu kho và thu mua Do đó, doanh nghiệp có chu kỳ luân chuyển tiền mặt ngắn hơn thường có lợi thế cạnh tranh và tạo ra giá trị bền vững hơn (Mansoori và Muhammad – 2012).
Chu kỳ luân chuyển tiền (Cash Conversion Cycle) được đưa ra bởi Richards and Laughlin (1980) được tính theo công thức sau đây:
Chu kỳ thương mại thuần (Net Trade Cycle - NTC) là một chỉ tiêu quan trọng trong việc đo lường hiệu quả quản trị vốn luân chuyển Theo nghiên cứu của Shin và Soenen (1998), NTC được sử dụng để đánh giá hiệu quả quản lý vốn luân chuyển thông qua một công thức cụ thể.
Chu kỳ thương mại thuần (Net Trade Cycle - NTC) có cách tính đơn giản hơn so với chu kỳ chuyển đổi tiền mặt (Cash Conversion Cycle - CCC) vì mẫu số trong công thức tính NTC hoàn toàn giống nhau là doanh thu thuần, trong khi CCC có mẫu số khác nhau Điều này giúp nhà quản lý dễ dàng xác định nhu cầu tài trợ vốn lưu chuyển Chính vì vậy, tác giả đã chọn công thức NTC để tính toán vốn lưu chuyển trong nghiên cứu của mình.
Chu kỳ thương mại thuần bao gồm các khoản mục như các khoản phải thu, hàng tồn kho, các khoản phải trả và doanh thu thuần Chu kỳ này bắt đầu bằng tiền, chuyển đổi thành hàng hóa và cuối cùng quay trở lại dưới dạng tiền, hoàn tất một chu kỳ luân chuyển Hơn nữa, chu kỳ thương mại thuần có ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Trong phần tiếp theo, tác giả sẽ phân tích chi tiết các thành phần của vốn luân chuyển.
2.1.2 Các thành phần vốn luân chuyển
2.1.2.1 Khoản phải thu: Các khoản phải thu là số tiền phát sinh từ quá trình bán hàng hóa và cung cấp dịch vụ Khoản phải thu ám chỉ đến lời hứa của các khoản công nợ do bán sản phẩm và cung cấp dịch vụ, hay doanh nghiệp cung cấp cho khách hàng một khoản tín dụng, số dư nợ tài khoản này nên giữ ổn định, nếu gia tăng số dư trong kỳ chứng tỏ rằng doanh nghiệp đang nới rộng tín dụng cho khách hàng để mở rộng thị trường bằng việc tăng số lượng khách hàng hoặc gia tăng lượng hàng tiêu thụ cho mỗi khách hàng, tất nhiên doanh nghiệp được lợi mang nhiều doanh số bán cho doanh nghiệp dẫn đến lợi nhuận doanh nghiệp tăng nếu như doanh nghiệp vẫn giữ được mức bán với giá cũ ban đầu Điều ngược lại là doanh nghiệp cũng gánh chịu bất lợi là gia tăng rủi ro khách hàng mất khả năng thanh toán do nợ chồng chất, thời gian cho nợ dài doanh nghiệp sẽ thiếu tiền và do đó doanh nghiệp mất khả năng đầu tư vào các dự án tốt do thiếu vốn đầu tư Do vậy các nhà quản lý nên xây dựng chính sách bán hàng tối ưu nhằm cân đối được được sự đánh đổi giữa doanh thu, lợi nhuận, chi phí cơ hội với sự giảm giá, rủi ro khách hàng không trả nợ
2.1.2.2 Hàng tồn kho: Hàng tồn kho là hàng hóa được dự trữ để bán như là một hoạt động kinh doanh của công ty Hàng tồn kho là những tài sản được giữ để bán trong quá trình sản xuất kinh doanh, đang trong quá trình sản xuất dở dang, nguyên liệu, vật liệu và dụng cụ để sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh hoặc cung cấp dịch vụ (Nguyễn Thị Ngọc Trang và Nguyễn Thị Liên Hoa, 2008) Đối với doanh nghiệp sản xuất hàng tồn kho có vai trò quan trọng được ví như một tấm đệm an toàn giữa các giai đoạn khác nhau trong chu kỳ sản xuất kinh doanh như dự trữ - sản xuất - tiêu thụ sản phẩm khi mà giữa các giai đoạn này không phải lúc nào cũng được diễn ra đồng bộ Hàng tồn kho mang lại cho bộ phận sản xuất và maketing của doanh nghiệp sự linh hoạt trong hoạt động sản xuất kinh doanh như lựa chọn thời điểm mua nguyên vật liệu, lập kế hoạch sản xuất kinh doanh Ngoài ra hàng tồn kho còn giúp cho doanh nghiệp tự bảo vệ trước những biến động cũng như sự không chắc chắn về nhu cầu đối với sản phẩm của doanh nghiệp Đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại như các doanh nghiệp bán sỉ hay bán lẻ thì hàng tồn kho cũng có vai trò tương tự là một tấm đệm giữa giai đoạn mua hàng và bán hàng trong chu kỳ sản xuất kinh doanh
Việc quản lý hàng tồn kho là một quyết định đầu tư quan trọng trong doanh nghiệp, ảnh hưởng đến vốn luân chuyển Để xác định lượng hàng tồn kho tối ưu, nhà quản trị cần cân nhắc giữa lợi ích mà hàng tồn kho mang lại và chi phí phát sinh Theo nghiên cứu của Trần Ngọc Thơ và cộng sự (2003), doanh nghiệp sản xuất thường phân loại hàng tồn kho thành ba loại: nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang và thành phẩm, tương ứng với ba giai đoạn khác nhau trong quy trình sản xuất.
Tổng quan các nghiên cứu trước đây
2.2.1 Các nghiên cứu thực nghiệm trước đây có liên quan về quan hệ tuyến tính vốn luân chuyển và hiệu quả hoạt động doanh nghiệp
2.2.1.1 Các nghiên cứu thực nghiệm về quan hệ tuyến tính vốn luân chuyển và hiệu quả hoạt động doanh nghiệp cho thấy mối quan hệ nghịch biến
Nghiên cứu của Shin và Soenen (1998) chỉ ra mối quan hệ nghịch biến mạnh mẽ giữa chu kỳ thương mại thuần (NTC) và hiệu quả hoạt động doanh nghiệp, dựa trên phân tích 58.985 doanh nghiệp tại Mỹ từ 1975 đến 1994 Đây là nghiên cứu quy mô lớn và có thời gian dài, đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp cơ sở cho các nghiên cứu sau này Quản lý vốn luân chuyển, mặc dù chỉ là một phần của quản lý tài chính, lại rất quan trọng đối với nhiều doanh nghiệp NTC là công cụ hữu ích để đánh giá hiệu quả quản lý công việc Kết quả nghiên cứu cho thấy, để nâng cao hiệu quả hoạt động và tạo giá trị cho cổ đông, doanh nghiệp cần giảm vốn luân chuyển xuống mức tối thiểu phù hợp.
Tác giả Wang (2002) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa vốn luân chuyển và hiệu quả hoạt động doanh nghiệp thông qua chu kỳ luân chuyển tiền (CCC) và tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (ROA) Nghiên cứu được thực hiện trên 1.555 doanh nghiệp Nhật và 379 doanh nghiệp Đài Loan trong giai đoạn 1985 - 1996, sử dụng phương pháp phân tích hệ số tương quan Pearson và hồi quy dữ liệu chéo Kết quả cho thấy có sự tương quan âm giữa chu kỳ luân chuyển tiền và tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản, tuy nhiên mối quan hệ này bị ảnh hưởng bởi yếu tố ngành Các doanh nghiệp có Tobin’q > 1 cho thấy giá trị doanh nghiệp cao hơn.
1 có chu kỳ luân chuyển tiền thấp hơn đáng kể so với những doanh nghiệp có Tobin’q
Quản trị vốn luân chuyển tích cực có thể nâng cao hiệu quả hoạt động của cả hai quốc gia, bất chấp sự khác biệt trong hệ thống tài chính của các doanh nghiệp.
Nghiên cứu của Deloof (2003) chỉ ra mối quan hệ nghịch biến mạnh giữa chu kỳ luân chuyển tiền (CCC) và khả năng sinh lợi của 1.009 doanh nghiệp phi tài chính ở Bỉ trong giai đoạn 1992 - 1996 Bằng việc áp dụng hệ số tương quan Pearson và hồi quy OLS, tác giả phát hiện ra rằng thu nhập hoạt động gộp có mối liên hệ nghịch đáng kể với số ngày các khoản phải thu, hàng tồn kho và các khoản phải trả Kết quả cho thấy các nhà quản lý có thể gia tăng giá trị cho cổ đông bằng cách giảm số ngày phải thu và hàng tồn kho xuống mức tối thiểu hợp lý Đồng thời, mối quan hệ âm giữa các khoản phải trả và lợi nhuận cũng cho thấy rằng những doanh nghiệp kém sinh lợi thường mất nhiều thời gian hơn để thanh toán nợ.
Nghiên cứu của Lazaridis và Tryfonidis (2006) chỉ ra mối quan hệ nghịch biến mạnh giữa khả năng sinh lợi và chu kỳ luân chuyển tiền, kỳ thu tiền bình quân, cũng như kỳ hàng tồn kho ở 131 doanh nghiệp niêm yết tại Ai Cập trong giai đoạn 2001-2004 Khả năng sinh lợi được đo bằng lợi nhận gộp (COP), và tác giả phát hiện rằng lợi nhuận gộp có mối quan hệ nghịch biến với số ngày các khoản phải thu và số ngày hàng tồn kho Nghiên cứu này bổ sung vào tài liệu trước đó của Shin và Soenen (1998) và Deloof (2003), cho thấy mối liên hệ tương tự ở các công ty niêm yết tại Mỹ và Bỉ Đặc biệt, Lazaridis và Tryfonidis (2006) còn phát hiện rằng lợi nhuận gộp có mối quan hệ cùng chiều với số ngày phải trả cho nhà cung cấp, cho thấy rằng các doanh nghiệp ít sinh lợi thường trì hoãn các khoản phải trả để tận dụng thời hạn tín dụng Mối quan hệ nghịch biến giữa các khoản phải thu, hàng tồn kho và khả năng sinh lợi cho thấy các công ty này có xu hướng giảm các khoản phải thu và hàng tồn kho để cải thiện dòng tiền trong chu kỳ chuyển đổi tiền mặt.
Nghiên cứu của Teruel và Solano (2007) đã chỉ ra mối quan hệ nghịch biến giữa quản lý vốn luân chuyển và khả năng sinh lợi của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Tây Ban Nha, dựa trên dữ liệu của 8.872 doanh nghiệp trong giai đoạn 1996 - 2002 Kết quả cho thấy rằng việc giảm số ngày phải thu và số ngày hàng tồn kho có thể tạo ra giá trị cho doanh nghiệp, đồng thời rút ngắn chu kỳ chuyển đổi tiền mặt cũng góp phần cải thiện lợi nhuận Nghiên cứu này khẳng định rằng các nhà quản lý có thể tối ưu hóa giá trị cổ đông bằng cách quản lý hiệu quả vốn luân chuyển, phù hợp với các nghiên cứu trước đó về doanh nghiệp lớn Tuy nhiên, tác giả không thể xác định rõ tác động của số ngày các khoản nợ phải trả đối với lợi nhuận doanh nghiệp.
Nghiên cứu của Azhar và Noriza (2010) cung cấp bằng chứng thực nghiệm về quản lý vốn luân chuyển và tác động của nó đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp niêm yết tại Malaysia, dựa trên dữ liệu từ Bloomberg trong giai đoạn 2003-2007 với 172 công ty được chọn ngẫu nhiên Nghiên cứu tập trung vào ảnh hưởng của các thành phần vốn luân chuyển, đặc biệt là chu kỳ chuyển đổi tiền mặt (CCC) Kết quả phân tích cho thấy có mối quan hệ ngược chiều đáng kể giữa vốn luân chuyển và hiệu quả hoạt động, nhấn mạnh tầm quan trọng của quản lý vốn luân chuyển trong việc nâng cao giá trị thị trường và lợi nhuận doanh nghiệp Điều này cho thấy rằng các nhà quản lý có thể tạo ra giá trị cho cổ đông bằng cách tối thiểu hóa số ngày phải thu và hàng tồn kho.
Nghiên cứu của Mansoori và Muhammad (2012) khảo sát tác động của quản lý vốn luân chuyển đối với khả năng sinh lợi của doanh nghiệp tại Singapore trong giai đoạn 2004 - 2011 Kết quả cho thấy có mối quan hệ nghịch biến giữa chu kỳ chuyển đổi tiền mặt và lợi nhuận trên tài sản trong ngành xây dựng, vật liệu và điện tử Cụ thể, việc rút ngắn chu kỳ chuyển đổi tiền mặt có thể cải thiện hiệu suất và tăng lợi nhuận doanh nghiệp Ngoài ra, việc giảm thời gian thu hồi khoản phải thu và thời gian chuyển đổi hàng tồn kho cũng sẽ nâng cao khả năng sinh lợi Ngược lại, việc rút ngắn thời gian thanh toán phải trả có thể làm giảm khả năng sinh lợi của doanh nghiệp Cuối cùng, nghiên cứu chỉ ra rằng mối quan hệ giữa quản lý vốn luân chuyển và lợi nhuận bị ảnh hưởng bởi sự khác biệt giữa các ngành.
Bài nghiên cứu của Ukaegbu (2013) kiểm tra mối quan hệ giữa hiệu quả vốn luân chuyển và lợi nhuận doanh nghiệp, đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của các quốc gia với nhiều ngành công nghiệp Nghiên cứu sử dụng dữ liệu cân bằng từ các doanh nghiệp sản xuất tại Ai Cập, Kenya, Nigeria và Nam Phi trong giai đoạn 2005 - 2009, bổ sung thêm yếu tố tăng trưởng GDP thực và quy mô ban quản trị vào phân tích Tác giả cho rằng tăng trưởng GDP là yếu tố bên ngoài có ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của doanh nghiệp, với kết quả cho thấy mối quan hệ nghịch biến giữa lợi nhuận thuần từ hoạt động và chu kỳ chuyển đổi tiền mặt Điều này chỉ ra rằng khi chu kỳ chuyển đổi tiền mặt tăng, lợi nhuận doanh nghiệp giảm Nghiên cứu khuyến nghị rằng các nhà quản lý có thể tạo ra giá trị cho cổ đông bằng cách giảm thời gian thanh toán các khoản phải thu, tối ưu hóa quy trình bán hàng tồn kho, và trì hoãn thanh toán cho nhà cung cấp mà không ảnh hưởng đến xếp hạng tín dụng Đây là nghiên cứu đầu tiên đưa ra quan điểm mới về quản lý vốn luân chuyển và khả năng sinh lợi tại Châu Phi.
Nghiên cứu của Riaz, Z et al (2014) đã phân tích mối quan hệ giữa vốn luân chuyển và lợi nhuận hoạt động của các doanh nghiệp Pakistan niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Karachi bằng cách sử dụng số liệu thứ cấp Kết quả cho thấy có mối quan hệ ngược chiều giữa lợi nhuận hoạt động thuần và các yếu tố như thời gian thu mua trung bình, doanh thu hàng ngày, thời gian thanh toán trung bình và chu kỳ chuyển đổi tiền mặt Hồi quy chỉ ra rằng việc tăng hoặc giảm thời gian thu mua trung bình có ảnh hưởng đáng kể đến khả năng sinh lợi của doanh nghiệp Mặc dù mối liên hệ giữa các khoản phải thu, phải trả và hàng tồn kho với lợi nhuận là cùng chiều, nhưng chu kỳ chuyển đổi tiền mặt, nợ tài chính và tài sản tài chính lại thể hiện mối quan hệ ngược chiều với khả năng sinh lợi Điều này cho thấy rằng việc quản lý vốn luân chuyển có ảnh hưởng tích cực đến khả năng sinh lợi của doanh nghiệp.
Bài nghiên cứu của Samiloglu và Akgün (2016) kiểm tra mối quan hệ giữa quản lý vốn luân chuyển và hiệu quả hoạt động của 120 doanh nghiệp Thổ Nhĩ Kỳ niêm yết trên Sàn giao dịch Chứng khoán Istanbul trong giai đoạn 2003 - 2012 Kết quả cho thấy có mối quan hệ ngược chiều giữa thời gian thu hồi khoản phải thu và các chỉ số lợi nhuận, cho thấy rằng các nhà quản lý có thể tăng giá trị cổ đông bằng cách giảm thời gian thu tiền và chu kỳ chuyển đổi tiền mặt Tương tự, nghiên cứu của Từ Thị Kim Thoa và Nguyễn Thị Uyên Uyên (2014) tại Việt Nam cũng cho thấy quản trị vốn luân chuyển có tác động tiêu cực đến khả năng sinh lợi của 208 doanh nghiệp phi tài chính niêm yết từ 2006 - 2012, với kết luận rằng việc rút ngắn kỳ thu tiền và lưu kho sẽ gia tăng khả năng sinh lợi và tính thanh khoản Nghiên cứu còn chỉ ra rằng mối quan hệ này thay đổi tùy theo đặc thù ngành, phù hợp với nhiều nghiên cứu trước đó như của Deloof (2003) và Mansoori và Muhammad (2012).
Nghiên cứu cho thấy mối quan hệ nghịch biến giữa quản trị vốn luân chuyển và hiệu quả hoạt động doanh nghiệp, được thực hiện qua nhiều phương pháp và trên các thị trường khác nhau, bao gồm cả thị trường phát triển và mới nổi Kết quả này chỉ ra rằng các nhà quản lý có thể gia tăng giá trị cho cổ đông bằng cách giảm thiểu số ngày phải thu và hàng tồn kho đến mức hợp lý.
Mặc dù nhiều nghiên cứu chỉ ra mối quan hệ ngược chiều giữa quản trị vốn luân chuyển và hiệu quả doanh nghiệp, vẫn tồn tại một số nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa hai yếu tố này Bài viết sẽ lần lượt trình bày các nghiên cứu tiêu biểu liên quan đến vấn đề này.
2.2.1.2 Các nghiên cứu thực nghiệm về quan hệ tuyến tính vốn luân chuyển và hiệu quả hoạt động doanh nghiệp cho thấy mối quan hệ cùng chiều
Nghiên cứu thực nghiệm cho thấy phần lớn các nghiên cứu chỉ ra mối quan hệ ngược chiều giữa vốn luân chuyển và hiệu quả hoạt động doanh nghiệp Tuy nhiên, một số ngoại lệ tồn tại, trong đó có mối quan hệ cùng chiều giữa vốn luân chuyển và hiệu quả doanh nghiệp Bài viết sẽ trình bày kết quả nghiên cứu của những trường hợp ngoại lệ này.
Nghiên cứu của Gill, Biger, Mathur (2010) đã chỉ ra mối quan hệ đồng biến mạnh mẽ giữa chu kỳ luân chuyển tiền (CCC) và khả năng sinh lợi của doanh nghiệp thông qua phân tích 88 công ty Mỹ niêm yết trên thị trường Chứng khoán New York trong giai đoạn 2005 - 2007 Kết quả cho thấy mối liên hệ đáng kể giữa chu kỳ chuyển đổi tiền mặt và lợi nhuận, được đo bằng lợi nhuận hoạt động gộp Điều này nhấn mạnh rằng doanh nghiệp cần duy trì lượng tiền mặt hợp lý để đảm bảo khả năng đáp ứng ngắn hạn và tối ưu hóa các khoản phải thu, từ đó gia tăng lợi nhuận Nghiên cứu đóng góp vào tài liệu về mối quan hệ giữa quản lý vốn luân chuyển và khả năng sinh lợi của công ty.