quát về tộc người Khơ Mú và việc cầm cổ ruộng đất ở bản Tra xã Chiềng Lương, Mai Sơn, Sơn La
Lịch sử tộc người và quá trình tụ cư ở bản Tra xã Chiềng Lương xã Chiềng Lương, Mai Sơn, Sơn La
XÃ CHIỀNG LƯƠNG MAI SƠN SƠN LA
1.1.1 Những nét chung về bản Tra xã Chiềng Lương, Mai Sơn,
Chiềng Lương, xã thuộc huyện Mai Sơn, Sơn La, nổi bật với sự đa dạng của các dân tộc thiểu số như Khơ Mú, Thái, và H’mông Nằm cách thị trấn Hát Lót khoảng 15km về phía nam, Chiềng Lương giáp với Phiêng Pằn ở phía tây.
Xã Chiềng Lương, nằm ở vùng 3 của huyện Yên Châu, có địa hình phức tạp và giao thông khó khăn, giáp với Yên Sơn và Cò Nòi Khu vực này thường xuyên bị xói mòn và cằn cỗi vào mùa khô, trong khi mùa mưa làm cho việc di chuyển càng thêm khó khăn Đất feralit tại đây kết dính, gây trở ngại cho việc đi lại cho đến khi có đầu tư vào đường bê tông hoặc nhựa Con suối Nậm Pàn bao quanh xã, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển lúa nước Các loại cây lương thực chủ yếu bao gồm ngô, khoai, sắn và lúa, trong khi cây công nghiệp chủ yếu là mía.
Bản Tra, thuộc xã Chiềng Lương, có diện tích 113 ha, gồm 44 hộ gia đình và 206 nhân khẩu, nằm trong khu vực á nhiệt đới Khí hậu nơi đây chia thành hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 6 đến tháng 9, với lượng mưa lớn dẫn đến xói mòn đất trồng trọt Các cánh rừng, vốn giữ nước và bảo vệ đất sản xuất, đã bị tàn phá nghiêm trọng, gây khó khăn cho sản xuất và sinh hoạt của người dân địa phương.
Mùa khô tại Việt Nam kéo dài từ tháng 10 đến tháng 5 năm sau, thời điểm này thường xảy ra nhiều thiên tai như sương muối vào mùa đông, gây thiệt hại lớn cho cây trồng và vật nuôi như mía, cà phê, trâu, bò, lợn, gà Cuối mùa khô, gió Lào xuất hiện, mang theo khí hậu khô và nóng, làm giảm năng suất của các loại cây ăn quả.
Trước đây, người Khơ Mú sống chủ yếu bằng phương thức du canh du cư, với hoạt động trồng trọt tập trung vào nương rẫy Sau khi tiếp thu chính sách của nhà nước, họ đã học hỏi được tri thức trồng lúa nước từ các dân tộc khác Trước đây, việc canh tác chỉ diễn ra một vụ lúa mỗi năm, nhưng hiện nay, nhờ vào việc cải tạo tự nhiên và ứng dụng hệ thống thuỷ lợi, người Khơ Mú đã có thể trồng thêm một vụ chiêm, giúp cải thiện đời sống và giảm bớt khó khăn trong sinh kế.
Nhiệt độ trung bình tại khu vực này là 20ºC, tuy nhiên có sự chênh lệch lớn giữa các mùa Vào mùa hè, nhiệt độ có thể đạt tới 40ºC, trong khi mùa đông có những thời điểm giảm xuống thấp đến 0ºC.
Bản Tra có điều kiện thuận lợi cho phát triển lúa nước nhờ suối Nậm Pàn với diện tích 1,6 ha, cung cấp nguồn nước chủ yếu cho sản xuất và sinh hoạt Người Khơ Mú tại đây chủ yếu sinh sống trên loại đất feralit đỏ vàng trên nền đá ong, điều này gây khó khăn trong việc chuyển đổi từ canh tác nương rẫy sang các loại cây trồng định canh.
Bản Tra đang đối mặt với nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế do địa hình và khí hậu khắc nghiệt, như nắng hạn kéo dài, mưa to lũ quét, giao thông khó khăn và dịch bệnh gia cầm Tuy nhiên, nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và các tổ chức xã hội, bản đã nhận được nhiều hỗ trợ từ các chương trình, đặc biệt là chương trình sử dụng điện lưới do Nhà nước hỗ trợ, giúp cải thiện đời sống tinh thần của bà con.
Bản Tra có tổng diện tích 113 ha, với 44 hộ gia đình và 206 nhân khẩu, trong đó có 101 nam và 105 nữ, tất cả đều là người Khơ Mú Diện tích rừng khoanh nuôi bảo vệ là 43,5 ha và rừng nghĩa địa 5000 m² Đường nội bản dài 3300 m², diện tích ruộng nước là 16.000 m², suối chiếm 1,6 ha, đất đồi canh tác 46,5 ha, và đất thổ cư 0,82 ha Ngoài ra, diện tích nương mía là 5,2 ha, sản lượng hàng năm đạt khoảng 364 tấn, trong khi diện tích sắn là 2,2 ha với sản lượng 6,6 tấn mỗi năm Cây trồng chủ yếu là ngô, với diện tích 39,1 ha và sản lượng trung bình đạt 5 tấn/ha.
Người dân bản địa chủ yếu chăn nuôi theo hình thức hộ gia đình với số lượng gia súc như sau: 23 con trâu, 13 con bò, 100 con lợn, 26 con dê và 500 con gia cầm nhỏ Mức thu nhập bình quân đầu người trong năm đạt khoảng 4.300.000 đồng.
Người Khơ Mú ở Sơn La chủ yếu sống bằng nghề trồng trọt, nhưng các mặt hàng thủ công nghiệp của họ chưa phát triển hợp lý Tri thức nông nghiệp của cộng đồng này vẫn còn ở mức thô sơ, với các công cụ như gậy chọc lỗ và liềm, cho thấy họ chưa áp dụng các kỹ thuật hiện đại trong sản xuất nông nghiệp.
Theo báo cáo của Đặng Minh Ngọc năm 2004 tại Viện Dân tộc học, đất đai ở khu vực này dễ bị thoái hóa và bạc màu, dẫn đến năng suất thấp Các loại cây trồng chủ yếu bao gồm ngô, sắn và lúa, cùng với các cây ngắn ngày như khoai và rau củ quả Người Khơ mú thường trồng xen kẽ các loại cây lương thực với cây ngắn ngày để cải thiện bữa ăn Nhờ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, cộng đồng Khơ mú đã nhận được hỗ trợ về kiến thức nông nghiệp và chính sách khuyến nông, giúp cải thiện đời sống và giảm nghèo.
Nền kinh tế của người Khơ mú chủ yếu phụ thuộc vào nông nghiệp, với nguồn thu chính từ ngô, lúa và chăn nuôi, chủ yếu phục vụ cho nhu cầu tự cung tự cấp Hầu hết các hộ gia đình đều phải vay lãi hàng năm để đầu tư vào giống, vật nuôi và cây trồng, do không có sự đầu tư và quy mô sản xuất đáng kể.
2008 vẫn còn 25/44 hộ nghèo chiếm 56,81% 15/44 hộ thoát nghèo còn lại là nhữn hộ có đời sống khá hơn
Văn hoá, xã hội, y tế
Bản Tra, nằm trong khu vực đông đúc các cộng đồng dân tộc anh em, sở hữu nhiều điều kiện thuận lợi cho sự phát triển văn hóa và xã hội.
Giáo dục tại địa phương được Đảng và Nhà nước chú trọng đầu tư vào cơ sở hạ tầng, tuy nhiên số lượng học sinh còn hạn chế Cụ thể, tại bản Tra, lớp 1 chỉ có 3 học sinh, lớp 2 có 6 học sinh, lớp 3 có 9 học sinh, lớp 4 có 12 học sinh và lớp 5 cũng không đông đúc.
Việc cầm cố ruộng đất của người Khơ Mú tại bản Tra, xã Chiềng Lương, Mai Sơn, Sơn La
CHIỀNG LƯƠNG MAI SƠN, SƠN LA
1.2.1 Thực trạng cầm cố ruộng đất của người Khơ mú tại bản Tra
Tình trạng cầm cố ruộng đất tại bản Tra đang gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng, đặc biệt là trong cộng đồng dân tộc thiểu số Những tranh chấp đất đai do mua bán trái phép và gạt nợ chưa có chính sách giải quyết cụ thể từ cấp quản lý, ảnh hưởng tiêu cực đến công cuộc xoá đói giảm nghèo ở các khu vực như Co Chai, Tà Lèng và nhiều nơi khác tại miền núi phía Bắc Việc gán đất làm hình thức gạt nợ tự nguyện của người Khơ Mú cho thấy họ chưa nhận thức đúng về giá trị của đất đai, dẫn đến việc mất đi tài sản quý giá Điều này càng làm giảm cơ hội thoát nghèo của họ khi tư liệu sản xuất duy nhất nằm trong tay kẻ khác, tạo ra vòng luẩn quẩn đói nghèo và nợ nần Trong bối cảnh Đảng và nhà nước kêu gọi xây dựng kinh tế và xoá đói giảm nghèo, tình hình của người Khơ Mú tại bản Tra đang đối mặt với nhiều thách thức.
Đồng bào chủ yếu sống dựa vào trồng trọt để phát triển kinh tế, tuy nhiên hoạt động này lại phụ thuộc vào điều kiện khí hậu tự nhiên Khu vực này có hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô, dẫn đến việc người dân chỉ có thể sản xuất nương rẫy một vụ duy nhất vào mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 9 Trong các tháng còn lại, họ phải tìm kiếm các phương thức sản xuất khác để duy trì sinh kế.
Giai đoạn thiếu ăn ở các gia đình người Khơ Mú thường xảy ra từ tháng 1 đến tháng 3, khi cây lương thực đang trong quá trình sinh trưởng từ tháng 4 đến tháng 9 Trong khoảng thời gian này, người dân tiêu thụ hết sản phẩm trồng trọt, và họ cho rằng giai đoạn đủ ăn chỉ diễn ra vào vụ thu hoạch từ tháng 10 đến tháng 12 Những trắc nghiệm này nhấn mạnh tầm quan trọng của nương rẫy, khẳng định rằng đồng bào nơi đây chủ yếu sinh sống bằng canh tác nông nghiệp.
Tình trạng cầm cố tại bản Tra đang diễn ra nghiêm trọng, khi nhiều hộ gia đình gán ruộng đất của mình cho các chủ nợ trong khoảng thời gian nhất định.
Giai đoạn cầm cố ruộng đất từ 5 - 10 năm chiếm 55%, từ 10 - 15 năm chiếm 40%, và từ 15 - 20 năm chỉ chiếm 5% Những số liệu này cho thấy người Khơ Mú tại bản Tra vẫn có ý thức bảo vệ ruộng đất, với hy vọng sau 5 - 10 năm có thể lấy lại được đất của mình Thời gian cầm cố ruộng đất phụ thuộc vào số tiền vay của con nợ, với những lựa chọn từ 10 - 15 năm đến 15 - 20 năm, như gia đình anh Cầm Văn Quyết đã cầm cố đất trong 18 năm Hà Văn Trựa cũng đã phải gán nợ toàn bộ đất đai của mình do không có khả năng hoàn trả khoản nợ lớn Tình trạng cầm cố ruộng đất và đói nghèo đang là bài toán khó cho các nhà quản lý.
Tình trạng cầm cố ruộng đất sản xuất đang gia tăng, dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo trong cộng đồng và gây ra những vấn đề trong quan hệ giữa các tộc người Thực trạng này đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng trên toàn địa bàn.
Đối với người Khơ Mú, đất đai không chỉ là phương tiện sinh kế mà còn là tài sản quan trọng để tích lũy của cải và chuyển giao giữa các thế hệ Mặc dù đã có luật đất đai từ năm 1993, nhưng tại Chiềng Lương, cụ thể là bản Tra, đến năm 1999, đất ruộng và nương mới được phân chia cho các hộ dân để canh tác Tại thời điểm đó, toàn bản có 42 hộ, với bình quân mỗi nhân khẩu được chia 88m² ruộng và 2.500 m² đất nương.
Tính đến năm 2004, bản Tra chỉ có 32 hộ được chia ruộng và đất nương Số hộ còn lại không được chia do tách hộ vào năm 1999, dẫn đến việc họ có thể được bố mẹ chia đất hoặc không, nếu bố mẹ đã hết đất hoặc đã chuyển đi nơi khác.
1 Nguồn: kết quả điều tra của đề tài
Tính đến nay, mỗi nhân khẩu ở bản Tra chỉ còn trung bình 75m² đất ruộng và 156m² đất nương do các hộ nghèo bị gán nợ 15,4 ha trong 8 năm qua Thực trạng gán nợ đất đai đã gây bất ổn trong đời sống kinh tế, kéo dài nhiều năm không chỉ ở đồng bào Khơ Mú mà còn ở các tộc người thiểu số khác, khiến họ rơi vào cảnh thiếu thốn tư liệu sản xuất và không thoát khỏi đói nghèo Theo thống kê năm 2001, tình hình này tại bản Tra rất nghiêm trọng.
Tại bản, 38 hộ dân (100% là người Khơ Mú) đã rơi vào tình trạng nợ nần và không có khả năng trả nợ, dẫn đến việc họ phải gán đất nông nghiệp và tư liệu sản xuất, vốn là nguồn sinh kế chính của mình Theo thống kê năm 2001, toàn bản chỉ còn lại 5ha đất sản xuất, trong đó 37/38 hộ là con nợ với tổng số nợ lên tới 290 triệu đồng.
Theo trưởng bản Hà Văn Nguyễn, 90% hộ dân tại bản Tra phải vay vốn để sản xuất, nhưng nhiều hộ không có khả năng hoàn trả do thiếu tài sản thế chấp Người Khơ Mú ở đây gặp khó khăn khi vay vốn ngân hàng vì thủ tục phức tạp và tốn thời gian Họ thường phải vay với lãi suất cao từ 3% đến 6% để đáp ứng nhu cầu thiết yếu trong gia đình, dẫn đến tình trạng nợ nần chồng chất Việc không thể trả nợ khiến nhiều hộ phải gán đất, đặc biệt trong những năm thiên tai và mất mùa, làm cho tình hình kinh tế ngày càng khó khăn hơn.
1 Lê Minh Anh - tạp chí Dân tộc học số 2/ 2006 Tr 45
Tại Cò Nòi, các chủ nợ tư nhân sử dụng nhiều thủ đoạn kinh tế, trong đó có việc "bắt ngô non" Để vay tiền, con nợ phải thế chấp những nương ngô đang canh tác, ngay cả khi chỉ mới gieo trồng Giá trị thế chấp được xác định theo giá hiện hành, ví dụ 10.000 đồng/kg, và đến cuối vụ, con nợ buộc phải trả sản lượng thu hoạch theo giá đã thỏa thuận, bất chấp giá thị trường có tăng cao hơn.
Một hình thức khác để chủ nợ thu hồi con nợ là yêu cầu con nợ chỉ vay tiền từ một chủ đầu tư duy nhất, bất kể nhu cầu chi tiêu cá nhân như cưới hỏi hay mua sắm nhu yếu phẩm Điều này giúp chủ nợ dễ dàng quản lý và thu hồi nợ Kết quả điều tra cho thấy, trong số những người vay, chỉ 30% có khả năng trả hết nợ, trong khi 70% còn lại phải gánh nợ sang năm sau, đặc biệt là một số hộ gia đình có tình hình tài chính khó khăn.
1 Ông Hà Văn Mầu, 54 tuổi, số đất phải gán nợ là 2 ha vào năm 2004 Trường hợp này vay tiền của ông Hoàng Văn Hoa cư trú tại xã Cò Nòi với số lãi xuất 5,0 Thời gian bị cầm cố cho ông Hoa là 18 năm nghĩa là phải đến hết năm 2022 mới hết hạn Thiết nghĩ nhưng người dân nơi đây chủ yếu “bán sức lao động cho tự nhiên ” hoạt động sinh kế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp dựa vào tự nhiên, kỹ thuật canh tác lại thô sơ lạc hậu, còn chịu nhiều ảnh hưởng của nếp sống cũ, trong khi đó phương tiện sản xuất chủ yếu của gia đình đã nằm trong tay người khác cuộc sống của những gia đình này đã và đang rơi vào cảnh lao đao điêu đứng, cho đến năm 2022 ông Hà Văn Mầu mới có khả năng trả hết số nợ cả vốn lẫn lãi là 60.000.000 đồng
2 Gia đình anh Vi Văn Pầng, 38 tuổi, tổng diện tích đất bị mất do gán nợ là 1,8ha từ năm 2004 do vay vốn với lãi xuất 5,0 Thời gian gán nợ là 15 năm nghĩa là phải đến năm 2019 mới lấy lại được ruộng đất sản xuất
Tác động của việc cầm cố ruộng đất sản xuất của người Khơ Mú ở bản Tra xã Chiềng Lương, Mai Sơn, Sơn La
Đặc điểm sinh kế truyền thống của người Khơ Mú tại bản Tra xã Chiềng Lương, Mai Sơn, Sơn La
BẢN TRA, XÃ CHIỀNG LƯƠNG, MAI SƠN, SƠN LA
2.1.1 Đặc điểm sinh kế truyền thống của người Khơ Mú ở bản Tra xã Chiềng Lương, Mai Sơn, Sơn La
Người Khơ Mú ở Sơn La chủ yếu sống bằng nghề trồng trọt, trong khi các hoạt động kinh tế phụ chỉ đóng vai trò hỗ trợ Do địa hình hiểm trở và trình độ dân trí thấp, nông nghiệp của họ chủ yếu dựa vào hình thức nương rẫy, với chăn nuôi vẫn mang tính tự nhiên và chưa áp dụng kỹ thuật khoa học Hoạt động nương rẫy truyền thống chủ yếu dựa vào khai phá và ít cải tạo kỹ thuật, phân thành hai loại là nương rẫy định canh và du canh.
Rẫy định canh thường nằm ở địa hình bằng phẳng với cây trồng chủ yếu là ngô và lúa, trong khi rẫy du canh nằm ở địa hình sườn dốc, hình thành từ việc chặt, phát, đốt Những rẫy này thường không được cải tạo thường xuyên, dẫn đến việc khai thác cạn kiệt và phải tìm vùng đất mới để canh tác Để hạn chế xói mòn do địa hình dốc, đồng bào đã đào rãnh và đắp bờ để giữ nước Rẫy du canh được chia thành hai loại: du canh kín và du canh mở Du canh kín là hình thức canh tác ổn định, nơi một mảnh đất được canh tác từ 3 đến 4 năm trước khi chuyển sang vùng mới, và sau 5 đến 6 năm khi đất trở lại màu mỡ, sẽ tiếp tục canh tác Tuy nhiên, do áp lực dân số và nạn phá rừng, hình thức du canh mở đang gây ra nhiều tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái.
Các công cụ chủ yếu phục vụ cho nông nghiệp bao gồm rìu, dao, gậy chọc lỗ, công cụ làm cỏ và hái (hép) Ngoài ra, còn có những dụng cụ khác hỗ trợ việc làm cỏ Đặc biệt, dụng cụ “gùi” là phương tiện vận chuyển quen thuộc của người dân nơi đây, với đáy hình chữ nhật, có đế gỗ và dây dài để đeo qua trán Qua thời gian, người Khơ Mú ở bản Tra đã cải tiến các công cụ trồng trọt và tích lũy tri thức về mùa vụ, trong đó có nông lịch tính theo âm lịch.
Tháng giêng: nghỉ ngơi, làm vườn, ăn tết
Tháng 2: Tháng nghỉ ngơi, phát cỏ nương cũ
Tháng 3: làm nương phat nương đốt nương
Tháng 4: tiếp tục làm nương ngô, gieo hạt, dọn nương lúa sớm
Tháng 6: làm cỏ nương ngô và những nương gieo trồng sớm
Tháng 7: làm cỏ lúa mùa, thu ngô
Tháng 9: thu lúa, làm cơm mới
Tháng 10: tiếp tục thu lúa
(Chu Thái Sơn, Vi Văn An: Người Khơ Mú NXB trẻ 2006)
Các loại cây trồng: Loại cây chủ yếu của người Khơ Mú là lúa (nương, ruộng): ngô, sắn, các loại khoai
Người Khơ mú chủ yếu trồng lúa nếp và lúa tẻ, bên cạnh đó, họ còn ưa chuộng các loại củ như khoai sọ, khoai lang, khoai trắng, khoai tím và khoai vàng.
Lúa nương là loại lương thực chủ yếu của đồng bào, thường được trồng trên những rẫy có đất tốt, ít đá Quy trình canh tác bao gồm việc cày xới đất khô cứng để tạo độ tơi xốp, và việc chọn giống lúa được thực hiện rất kỹ càng Cây lúa không chỉ là nguồn thực phẩm quan trọng mà còn mang đậm nét tín ngưỡng văn hóa của cộng đồng.
Ngô ở Sơn La chủ yếu có hai loại: ngô trắng và ngô đỏ Ngô trắng, lấy giống từ người H’Mông, có lõi to và vỏ dày, chịu được mối mọt nhưng năng suất thấp hơn ngô đỏ Ngô đỏ mềm và năng suất cao hơn, nhưng dễ bị mối mọt Ngoài ra, còn có ngô nếp vàng, trắng và đen, thường được dùng để ăn vì vị dẻo, mềm, thơm và ngọt, nhưng năng suất không cao Ngô tẻ thường được trồng nhiều hơn để bán hoặc làm thức ăn cho gia súc và con người trong thời kỳ khó khăn Kinh nghiệm trồng ngô đã có từ lâu đời, người dân chọn hạt to mẩy ở giữa bắp và bảo quản bằng cách cho vào dụng cụ kín, phủ tro bếp để chống mối mọt Ngô là cây trồng thiết yếu trong nông nghiệp của người Sơn La.
Sắn (quai) là cây lương thực phổ biến không chỉ trong cộng đồng Khơ Mú mà còn ở các dân tộc Tây Bắc Củ sắn được sử dụng để độn cơm, ủ rượu, và làm thức ăn cho gia súc Bên cạnh sắn, người dân còn trồng các loại cây khác như đậu, lạc, dưa, bí, và ớt, nhằm cải thiện đời sống vật chất và đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hàng ngày.
Kỹ thuật canh tác : Quy trình truyền thống của canh tác là phải chọn rẫy, phát rẫy, đốt rẫy, chọc trỉa, chăm sóc, bảo vệ và thu hoạch
Việc chọn rẫy là quyết định quan trọng của người chủ gia đình, thường được thực hiện cẩn thận và có thể bao gồm cả các nghi lễ tâm linh Rẫy thường được chọn gần các khu rừng già, với đất màu nâu hoặc xám, tơi xốp Theo truyền thống, có quy định nghiêm ngặt về việc không khai thác ở các khu rừng đầu nguồn hay nghĩa địa Sau khi chọn được vùng đất ưng ý, người ta sẽ đóng cọc hoặc làm bờ Trong quá trình làm sạch và đốt nương rẫy, cần thực hiện các biện pháp để đảm bảo không gây cháy rừng.
Người Khơ Mú ở bản Tra trồng nhiều loại cây, chủ yếu là cây lương thực, phù hợp với chất đất và địa hình Đất tốt được trồng lúa, đất bạc màu trồng ngô, sắn, và khi đất bị thoái hóa, họ chuyển sang trồng đậu lạc để cải thiện độ màu mỡ Vào đầu mùa mưa, chủ nhà thường dựa vào tri thức dân gian để chọn ngày gieo hạt, thường là những ngày tốt Việc trao đổi công lao động trong sản xuất cũng giúp nâng cao tinh thần đoàn kết trong cộng đồng.
Việc tra hạt được thực hiện một cách thô sơ, với đàn ông chọc lỗ và phụ nữ theo sau để tra hạt và lấp lại Sau khi trồng, cần bảo vệ giống cây mới bằng cách rào dậu và đánh bẫy chuột, chim, trong khi công tác chăm sóc cây trồng được bà con đặc biệt quan tâm Họ thường xây dựng chòi canh để trông nom và nghỉ ngơi sau những giờ lao động nặng nhọc Đối với vùng đất mới khai thác, phương pháp chọc lỗ tra hạt mang lại hiệu quả cao, nhưng với những nương đã canh tác lâu năm hoặc đất bạc màu, cần sử dụng công cụ hiệu quả hơn Khi cây trồng phát triển, người dân tiến hành làm cỏ hai lần mỗi mùa để bảo vệ rẫy khỏi động vật phá hoại như chuột và chim Cuối cùng, việc thu hoạch được thực hiện cẩn thận, kèm theo các nghi lễ, và để giảm bớt công sức, họ thường phơi nông sản tại rẫy cho đến khi khô trước khi vận chuyển về nhà.
Sắn là cây lương thực quan trọng, hỗ trợ bữa ăn và cung cấp thực phẩm cho gia súc, gia cầm Thường được trồng trên những nương cằn sau nhiều năm canh tác lúa ngô, sắn được trồng bằng thân và củ Sau khi thu hoạch, sắn được bóc vỏ và phơi khô tự nhiên để bảo quản, có thể bán tươi hoặc khô Hiện nay, sắn cũng mang lại giá trị công nghiệp, được vận chuyển và chế biến thành thức ăn cho gia súc.
Đồng bào đã tận dụng tri thức dân gian tích lũy qua nhiều thế hệ để áp dụng các phương pháp như xen canh và gối vụ, nhằm tiết kiệm đất và chống xói mòn, qua đó tăng sản lượng trên cùng một diện tích Việc kết hợp trồng các loại đậu, dưa, rau cải, bầu, bí, ớt và cây gia vị với ngô, lúa nương không chỉ giúp cải thiện đời sống tự cấp tự túc mà còn thể hiện sự thích ứng của con người với tự nhiên, góp phần duy trì hệ sinh thái nông nghiệp bền vững.
Chăn nuôi là một phương thức sản xuất kinh tế cổ xưa của cộng đồng người Khơ Mú, phục vụ cho nhiều nhu cầu khác nhau Hoạt động này không chỉ giúp cải thiện bữa ăn gia đình mà còn cung cấp sức kéo và phục vụ cho các nghi lễ tâm linh.
Người Khơ Mú sử dụng trâu bò làm sức kéo trong nông nghiệp, đóng vai trò quan trọng trong đời sống của họ Chăn nuôi chủ yếu diễn ra trong các hộ gia đình với 1 đến 2 con trâu bò, áp dụng kỹ thuật nửa thả rông, nửa chăm sóc Tại bản Tra, việc quy hoạch chăn nuôi theo kiểu chuồng trại chưa phổ biến và chuồng trại hiện có chưa kiên cố Gia súc được chăn thả ban ngày và nhốt dưới gầm sàn vào ban đêm Thức ăn cho gia súc chủ yếu là từ tự nhiên, ngoài ra còn được bổ sung ngô xay nấu chín và muối Khi gia súc mắc bệnh, người Khơ Mú thường sử dụng phương pháp chữa trị dân gian hiệu quả.
Lợn là loại gia súc nhỏ phổ biến nhất được nuôi ở bản Tra, đặc biệt là lợn đen, nhờ vào thịt ngon và đậm đà Chăn nuôi lợn chủ yếu dựa vào thức ăn tự nhiên như rau, củ, ngô, khoai, sắn, dẫn đến tốc độ lớn chậm Mỡ lợn cũng được sử dụng rộng rãi trong đời sống hàng ngày của người dân địa phương, làm cho lợn trở thành động vật chủ yếu trong khu vực này.
Chó là loại vật nuôi trong nhà có nhiều ích dụng trong gia đình ngoài ra nó còn là loại động vật thông minh làm bạn với con người