1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Nghiên cứu ứng dụng PR trong xây dựng và phát triển thương hiệu đoàn dân ca quan họ bắc ninh

135 25 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Giáo Dục Thẩm Mỹ Cho Thiếu Nhi Thông Qua Hoạt Động Nghệ Thuật Tại Câu Lạc Bộ Trúc Xinh (Nhà Văn Hóa Thiếu Nhi Thành Phố Bắc Ninh)
Tác giả Võ Thị Hà Phương
Trường học Trường Đại Học Văn Hóa Hà Nội
Chuyên ngành Giáo dục thẩm mỹ
Thể loại Luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2012
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 135
Dung lượng 2,76 MB

Nội dung

Về các vấn đề Giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thị hiếu thẩm mỹ, giáo dục lý tưởng thẩm mỹ, vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ…, ở nước ta cho đến nay đã có một số công trình nghiên

Trang 1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HểA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HểA HÀ NỘI

**************

Võ thị hà phương

Giáo dục thẩm mỹ cho thiếu nhi thông qua hoạt Động

nghệ thuật tại câu lạc bộ trúc xinh (nhà văn hóa thiếu nhi thành phố bắc ninh)

LUẬN VĂN THẠC SỸ VĂN HểA HỌC

(8 quyen y mau, co chu gay, mau 7 san)

HÀ NỘI – 2012

Trang 2

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 5

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG NGHỆ THUẬT VỚI GIÁO DỤC THẨM MỸ CHO THIẾU NHI 9

1.1Những vấn đề về giáo dục thẩm mỹ 9

1.1.1 Khái niệm về thẩm mỹ 9

1.1.2 Bản chất của giáo dục thẩm mỹ 11

1.1.3 Các hình thức, biện pháp giáo dục thẩm mỹ 16

1.2 Đặc điểm lứa tuổi thiếu nhi 18

1.2.1 Quan niệm về thiếu nhi 18

1.2.2 Đặc điểm trí tuệ lứa tuổi thiếu nhi 20

1.2.3 Đặc điểm tâm lý lứa tuổi thiếu nhi 23

1.3 Hoạt động động nghệ thuật với giáo dục thẩm mỹ cho thiếu nhi 28

1.3.1 Đặc trưng của hoạt động nghệ thuật 28

1.3.2 Nghệ thuật với giáo dục thẩm mỹ 32

1.3.3 Vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ cho thiếu nhi 39

Tiểu kết chương 1 42

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC THẨM MỸ CHO THIẾU NHI THÔNG QUA CÁC HOẠT ĐỘNG NGHỆ THUẬT TẠICÂU LẠC BỘ TRÚC XINH 43

2.1 Khái quát về Câu lạc bộ Trúc Xinh 43

2.1.1 Cơ cấu tổ chức câu lạc bộ Trúc Xinh 43

2.1.2 Đối tượng phục vụ của câu lạc bộ Trúc Xinh 45

2.1.3 Mô hình hoạt động của câu lạc bộ Trúc Xinh 46

2.2 Thực trạng hoạt động nghệ thuật tại Câu lạc bộ Trúc Xinh 48

2.2.1 Hoạt động dạy và học nghệ thuật 48

2.2.2 Hoạt động sáng tác nghệ thuật 68

2.2.3 Hoạt động biểu diễn, triển lãm nghệ thuật 78

2.2.4 Hoạt động giao lưu, thưởng thức nghệ thuật 83

2.2.5 Hoạt động đọc và làm theo sách 84

2.3 Tác động của hoạt động nghệ thuật tại Câu lạc bộ Trúc Xinh tới việc phát triển thẩm mỹ cho thiếu nhi 86

2.3.1 Hình thành năng lực cảm thụ thẩm mỹ 86

2.3.2 Hình thành thị hiếu thẩm mỹ tích cực 90

2.3.3 Phát triển năng lực sáng tạo thẩm mỹ 93

2.4 Những hạn chế trong các hoạt động nghệ thuật tại Câu lạc bộ Trúc Xinh với việc giáo dục thẩm mỹ cho thiếu nhi 97

2.4.1 Hạn chế trong hoạt động dạy và học nghệ thuật 97

2.4.2 Hạn chế trong hoạt động sáng tác nghệ thuật 98

Trang 3

2.4.3 Hạn chế trong công tác tổ chức các chương trình giao lưu, biểu diễn,

thưởng thức nghệ thuật 99

Tiểu kết chương 2 100

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC THẨM MỸ CHO THIẾU NHI TẠI CÂU LẠC BỘ TRÚC XINH THÔNG QUA CÁC HOẠT ĐỘNG NGHỆ THUẬT 102

3.1 Nâng cao chất lượng nghệ thuật 102

3.1.1 Hoàn thiện cơ sở vật chất, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, giáo viên 102

3.1.2 Nâng cao chất lượng các sáng tác nghệ thuật 104

3.1.3 Chọn lọc và đầu tư chất lượng cho các tiết mục và chương trình biểu diễn nghệ thuật 106

3.2 Tổ chức các hoạt động nghệ thuật phù hợp với tâm lý lứa tuổi thiếu nhi 108 3.2.1 Lập kế hoạch tổng thể tổ chức các hoạt động nghệ thuật theo từng giai đoạn trong năm 108

3.2.2 Căn cứ vào tâm lý, nhu cầu thiếu nhi, lựa chọn hình thức, nội dung, phương pháp tổ chức hoạt động nghệ thuật phù hợp 108

3.2.3 Đa dạng hóa các loại hình họat động nghệ thuật 111

3.3 Xây dựng chương trình giáo dục thẩm mỹ toàn diện trên cơ sở phối hợp và tăng cường tổ chức các cuộc thi, giao lưu biểu diễn nghệ thuật 113

Tiểu kết chương 3 115

KẾT LUẬN 117

TÀI LIỆU THAM KHẢO 118

PHỤ LỤC 136

Trang 4

Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh Thành phố

Thiếu niên Tiền phong Trung tâm Văn hóa thể thao Văn hóa Thể thao và Du lịch

Trang 5

MỞ ĐẦU

1 Tính cấp thiết của đề tài

Hiện nay, giáo dục thị hiếu thẩm mỹ đúng đắn cho lứa tuổi thiếu nhi trong hưởng thụ, đánh giá, thực hành và sáng tạo các tác phẩm nghệ thuật đang trở thành vấn đề được quan tâm nhiều hơn trong nhà trường và xã hội

Sự tiếp cận và giao lưu văn hóa quốc tế rộng rãi đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành thị hiếu thẩm mỹ và thị hiếu nghệ thuật của lứa tuổi thiếu nhi Thông qua sự tiếp cận này, các em có điều kiện hơn trong việc thưởng thức cái hay, cái đẹp của các nền văn hóa trên Thế giới Từ đó, thị hiếu thẩm mỹ, thị hiếu nghệ thuật của các em được phát triển một cách đa dạng và ngày càng phong phú hơn Tuy nhiên, dưới tác động của hội nhập, khuynh hướng thương mại hóa văn hóa đã tác động không nhỏ đến thị hiếu, thẩm mỹ của tuổi trẻ Thị hiếu, thẩm mỹ nghệ thuật ở các em

có sự đan xen nhiều kiểu, nhiều dạng khác nhau: có thị hiếu tốt, có thị hiếu không lành mạnh, trái với truyền thống văn hóa dân tộc Chính những thị hiếu sai lệch đó đã dẫn đến sự suy thoái về đạo đức và lối sống của không ít em khi lớn lên sau này

Có thể nói, việc đưa nghệ thuật vào giáo dục thẩm mỹ sẽ là biện pháp hữu hiệu, lâu dài để định hướng thẩm mỹ và phát triển năng lực sáng tạo thẩm mỹ trong nghệ thuật nói riêng và trong cuộc sống nói chung cho thiếu nhi – nguồn lực tiềm năng của đất nước

Câu lạc bộ Trúc Xinh – Nhà thiếu nhi Thành phố Bắc Ninh tuy mới thành lập cách đây vài năm nhưng đã mạnh dạn thực hiện nhiệm vụ giáo dục thẩm mỹ cho thiếu nhi thông qua các hoạt động sinh hoạt nghệ thuật sâu sắc và phong phú Tuy nhiên, chiến lược và các hoạt động giáo dục của câu lạc bộ vẫn chưa thực sự hoàn thiện và còn vấp phải nhiều hạn chế, khiến cho hiệu quả giáo dục chưa cao Do đó, câu lạc bộ này cần có những nghiên cứu sâu hơn nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục thẩm mỹ cho thiếu nhi thông qua các hoạt động nghệ thuật

Xuất phát từ tình hình đó, tác giả quyết định chọn đề tài: “Giáo dục thẩm mỹ cho thiếu nhi thông qua hoạt động nghệ thuật tại câu lạc bộ Trúc Xinh” để nghiên cứu và bảo

vệ trong lễ bảo vệ luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn hóa học của mình

2 Tình hình nghiên cứu đề tài

Trang 6

Về các vấn đề Giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thị hiếu thẩm mỹ, giáo dục lý tưởng thẩm mỹ, vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ…, ở nước ta cho đến

nay đã có một số công trình nghiên cứu và đề cập như: “Giáo dục thẩm mỹ và xây

dựng con người mới” – Tác giả Lê Anh Trà; “Giáo dục thẩm mỹ, mấy vấn đề lý luận

và thực tiễn” – Tác Giả Đỗ Huy; “Văn hóa thẩm mỹ và sự phát triển năng lực sáng tạo của con người” của TS Nguyễn Ngọc Thu”… là những công trình có tính chất

chuyên sâu về mỹ học và GDTM Các tác giả của những công trình này đã đi sâu nghiên cứu những phương diện khác nhau của GDTM, vai trò của GDTM, quan hệ biện chứng giữa giáo dục đạo đức với GDTM và khẳng định vai trò quan trọng của GDTM đối với việc xây dựng và phát triển toàn diện con người, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ hiện nay

Các tác giả như Vũ Khiêu, Như Thiết, Nguyễn Văn Huyên, Hồng Mai, Lương Quỳnh Khuê… đã bàn nhiều đến mối quan hệ của nghệ thuật và công chúng Một số luận án Tiến sỹ nhiều năm về trước cũng đã nghiên cứu những khía cạnh và hình

thức cụ thể của GDTM bằng nghệ thuật Chẳng hạn như trong nghiên cứu: “Giáo dục

thẩm mỹ cho thanh niên thông qua hệ thống thiết chế nhà văn hóa”, tác giả đã phân

tích Vai trò của giáo dục thẩm mỹ đối với việc hình thành nhân cách xã hội chủ nghĩa cho thanh niên; những tác động của các giá trị văn hóa truyền thống và sự phát triển kinh tế - xã hội với việc giáo dục lý tưởng thẩm mỹ ở hệ thống thiết chế nhà văn hóa,

từ đó đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục lý tưởng thẩm

mỹ cho thanh niên trong hệ thống thiết chế nhà văn hóa.Các tác giả Lê Quang Vinh –

“Vai trò của văn học trong giáo dục thẩm mỹ”, tác giả Đỗ Xuân Hà - “Giáo dục thẩm

mỹ, món nợ lớn đối với thế hệ trẻ; Tác giả Trần Túy - “Vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ”… đã đi vào nghiên cứu sâu hơn về mỗi quan hệ, cơ chế tác động của

nghệ thuật trong quá trình giáo dục thẩm mỹ

Quan hệ của nghệ thuật và giáo dục thẩm mỹ là một vấn đề rất sâu, rộng và phức tạp, đặc biệt là cơ chế tác động của nghệ thuật tới các nhóm công chúng khác nhau Các tác giả cũng những nghiên cứu đi trước đã khai thác rất nhiều về giáo dục thẩm mỹ và cơ chế tiếp nhận trong giáo dục thẩm mỹ, một số công trình đã đề cập đến vấn đề giáo dục thẩm mỹ thông qua nghệ thuật và các phong trào văn hóa văn nghệ Tuy nhiên, các đề tài này chủ yếu đề cập chung chung, không hướng đến lứa tuổi cụ thể trong phạm vi cụ thể nào

Trang 7

Trên cơ sở kế thừa những thành tựu đã đạt được của những công trình đi trước, luận văn này sẽ tập trung đi sâu vào nghiên cứu cụ thể hơn về các hoạt động nghệ thuật nhằm giáo dục thẩm mỹ cho thiếu nhi tại câu lạc bộ Trúc Xinh – Nhà thiếu nhi Thành phố Bắc Ninh

3 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích:

Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về giáo dục thẩm mỹ, nghệ thuật

và tầm quan trọng của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ, luận văn khảo sát và đánh giá thực trạng các hoạt động nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ cho thiếu nhi tại câu lạc bộ Trúc Xinh – Nhà thiếu nhi Thành phố Bắc Ninh Từ đó, tác giả đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện và nâng cao giáo dục thẩm mỹ cho thiếu nhi thông qua các hoạt động nghệ thuật tại câu lạc bộ Trúc Xinh

4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu

Luận văn tập trung vào vấn đề lý luận thực tiễn về bản chất, vai trò của giáo dục thẩm mỹ, tác động của nghệ thuật đối với việc giáo dục thẩm mỹ , trong đó đặc biệt chú ý tới đối tượng thiếu niên, nhi đồng

Phạm vi nghiên cứu:

Luận văn tập trung nghiên cứu các hoạt động nghệ thuật trong chương trình giáo dục thẩm mỹ cho thiếu nhi tại câu lạc bộ Trúc Xinh – Nhà thiếu nhi Thành phố Bắc Ninh trong giai đoạn từ 2005 – 2010

Trang 8

5 Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn dựa trên cơ sở lý luận Mỹ học, giáo dục học, Tâm lý học, văn hóa học của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tuởng Hồ Chí Minh để phân tích bản chất của giáo dục thẩm mỹ và vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ

Tác giả cũng đã vận dụng những nghị quyết của Đảng, những chỉ đạo trong văn kiện lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đồng thời có tham khảo các công trình nghiên cứu khoa học trước đây để hoàn thành luận văn của mình

Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng các phương pháp: Phân tích, tổng hợp, lịch sử và logic, phương pháp điều tra xã hội học, sử dụng các kiến thức liên ngành về văn hóa nghệ thuật

6 Đóng góp mới về khoa học của đề tài

Luận văn vận dụng những phát hiện mới trong nghiên cứu nghệ thuật nhằm phân tích sâu hơn vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ và cơ chế tác động của nó đến sự phát triển hài hòa nhân cách của thiếu nhi

Luận văn nghiên cứu thực trạng quá trình hoạt động của câu lạc bộ Trúc Xinh – Nhà thiếu nhi Thành Phố Bắc Ninh, chương trình giáo dục thẩm mỹ kết hợp với những bộ môn và các hoạt động nghệ thuật cho thiếu nhi, từ đó rút ra những kết luận

về các mặt tích cực, hạn chế và các nguyên nhân

Luận văn đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao việc giáo dục thẩm mỹ cho thiếu nhi tại câu lạc bộ Trúc Xinh qua các hoạt động nghệ thuật

7 Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn chia làm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề chung về hoạt động nghệ thuật với giáo dục thẩm mỹ cho thiếu nhi

Chương 2: Thực trạng giáo dục thẩm mỹ cho thiếu nhi thông qua hoạt động nghệ thuật tại câu lạc bộ Trúc Xinh

Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục thẩm mỹ cho thiếu nhi qua các hoạt động nghệ thuật tại câu lạc bộ Trúc Xinh

Trang 9

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG NGHỆ THUẬT VỚI GIÁO

DỤC THẨM MỸ CHO THIẾU NHI

1.1 NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ GIÁO DỤC THẤM MỸ

1.1.1 Khái niệm về thẩm mỹ

Trong thực tế có rất nhiều quan điểm khác nhau về bản chất của cái đẹp, cái thẩm mỹ Các nhà Triết học duy tâm chủ quan, khách quan quan niệm cái đẹp là một loại cảm giác đặc biệt của một cá nhân nào đó, là trò chơi cầu kỳ của trí tưởng tượng,

là những phán đoán thuần tuý của đầu óc con người hoặc là hình ảnh của một ý niệm tuyệt đối, là hồi quang của cái đẹp vĩnh cửu và siêu nhiên, không liên hệ gì với hiện thực, là sự linh cảm thần bí Với quan niệm như vậy thì vai trò của giáo dục thẩm mỹ hoặc đã bị phủ nhận hoặc nó chỉ là nhân tố bên ngoài có tác dụng làm tăng nhanh hay kìm hãm quá trình bộc lộ những phẩm chất tự nhiên bị chế ước bởi tính di truyền mà thôi

Đối lập với các quan điểm trên, mỹ học Mác – Lê nin với tư cách là một ngành khoa học triết học, nghiên cứu lĩnh vực cái thẩm mỹ như là biểu hiện chuyên biệt của các quan hệ giá trị của con người đối với thế giới và lĩnh vực hoạt động nghệ thuật của con người

Mỹ học Mác – Lê nin đã vạch ra bản chất của thẩm mỹ trong đời sống, trong nghệ thuật, đề ra nguyên tắc chung của việc chiếm lĩnh thế giới về mặt thẩm mỹ, phát hiện các quy luật hoạt động thẩm mỹ của con người Cái đẹp và cái xấu, cái bi và cái hài, cái cao cả và cái thấp hèn, cái anh hùng và cái đê tiện – đó là những thuộc tính có thực của mọi sự vật, hiện tượng và tình huống trong hiện thực, được cảm nhận bằng tình cảm thẩm mỹ và được biểu hiện trong những cảm xúc, thị hiếu thẩm mỹ

Mỹ học Mác – Lê nin còn khẳng định cái đẹp là một giá trị, nguồn gốc của cái đẹp là cuộc sống, là hiện thực xã hội với toàn bộ tính đa dạng của nó, nó tồn tại một cách khách quan không phụ thuộc vào ý muốn của riêng ai Và cuộc sống cao hơn nghệ thuật, nhưng nghệ thuật là lĩnh vực tập trung một cách cô đọng cái đẹp của hiện thực, đồng thời cũng là công cụ để xã hội tác động đến những khía cạnh thầm kín và sâu xa trong tâm hồn con người, nghệ thuật phản ánh chân thành cuộc sống đồng thời phê phán, đánh giá và làm lại cuộc sống theo lý tưởng thẩm mĩ của người nghệ sỹ,

Trang 10

xây dựng một mô hình – hình tượng cao hơn cuộc sống Nghệ thuật chân chính kích thích “người nghệ sỹ” trong mỗi con người, nghĩa là xây dựng trong mỗi con người

sự nhạy cảm về cái đẹp và lòng mong muốn đưa cái đẹp vào cuộc sống hiện thực Nghệ thuật có khả năng mạnh mẽ thống nhất tình cảm, tư tưởng – ý chí của quần chúng theo phương hướng của lý tưởng cách mạnh

Hoạt động thực tiễn của con người là cơ sở của quan hệ thẩm mĩ đối với hiện thực Chính trong hoạt động mang tính xã hội này đã hình thành nên năng lực sáng tạo theo quy luật cái đẹp và xem xét mọi sự vật, hiện tượng với cái “độ thẩm mỹ” Nhờ đó con người đã tìm thấy trong thế giới tự nhiên, trong đời sống xã hội, trong nghệ thuật cái thẩm mĩ đa dạng

Thẩm mỹ là hiểu biết và thưởng thức cái đẹp

Đời sống thẩm mỹ được cấu thành bởi ba bộ phận sau:

mỹ

Chủ thể thẩm

mỹ

Nghệ thuật

Trang 11

- Khách thể thẩm mỹ: Nói đến cái xấu, cái đẹp, cái trác tuyệt, cái bi kịch, cái hài kịch Chúng có quan hệ với nhau

- Nghệ thuật: Được xem là phương tiện quan trọng để thực hiện giáo dục thẩm mỹ

Cùng với sự ra đời và phát triển của giới tự nhiên, loài người cũng dần dần từng bước tiến hóa, tự hoàn thiện mình Từ đó, đối tượng thẩm mỹ được phát triển Trước đây con người chỉ biết ăn no, mặc ấm, nhưng giờ đây nhu cầu đó không còn đáp ứng nữa Thay vào đó là: ăn ngon, mặc đẹp

Như vậy, chúng ta thừa nhận: “Sống đúng, sống tốt, sống đẹp” không chỉ là khát vọng của một dân tộc mà là khát vọng của toàn nhân loại từ cổ chí kim, từ Bắc đến Nam, từ Đông sang Tây Nhưng việc sống thế nào cho đúng, cho tốt, cho đẹp vẫn luôn là một câu hỏi chưa có lời giải đáp thuyết phục Tuy vậy, theo quan điểm của Nho giáo, Phật giáo đế nay, các chuẩn mực đó vẫn xoay quanh trục giá trị: Chân – Thiện – Mỹ với một hệ thống giá trị tương ứng

Thẩm mỹ cũng là mục tiêu giáo dục mà xã hội ngày nay đang thực hiện Giáo dục thẩm mỹ là một bộ phận tất yếu hợp thành của hệ thống giáo dục, nhằm tạo ra những con người phát triển toàn diện

1.1.2 Bản chất của giáo dục thẩm mỹ

1.1.2.1 Giáo dục thẩm mỹ là một bộ phận hợp thành của giáo dục xã hội

Theo nghĩa hẹp, giáo dục thẩm mỹ là quá trình tác động có định hướng, có kế hoạch và có ý thức của con người nhằm hình thành và phát triển trong họ các năng lực nhận thức, cảm thụ và sáng tạo các giá trị thẩm mỹ Nói cách khác, mục đích trực tiếp của giáo dục thẩm mỹ là phát triển năng lực hoạt động lĩnh vực thẩm mỹ với tính cách là một lĩnh vực hoạt động đặc thù của con người Trong sự tương ứng với các năng lực nhận thức, đạo đức và các năng lực thực tiễn, năng lực thẩm mỹ tham gia vào sự hình thành nhân cách toàn vẹn của con người Do vậy, sự phát triển nhân cách phụ thuộc vào sự phát triển của năng lực thẩm mỹ như là một bộ phận, một thành tố cấu thành nhân cách Trong cơ cấu chung của nhân cách, năng lực thẩm mỹ có qua lại với các năng lực ngoài thẩm mỹ Nó chịu ảnh hưởng của năng lực nhận thức, đạo đức cũng như năng lực thực tiễn, đồng thời lại ảnh hưởng tới sự phát triển của các năng lực này Vì vậy, giáo dục thẩm mỹ với tính cách là quá trình hình thành và phát triển năng lực thẩm mỹ là một bộ phận hợp thành hữu cơ của giáo dục xã hội Nó

Trang 12

thống nhất và tác động qua lại với giáo dục nhận thức, giáo dục đạo đức, giáo dục thể lực và giáo dục các năng lực cụ thể khác Tuy nhiên, năng lực thẩm mỹ của con người không chỉ được thể hiện và thực hiện trong sự đồng hóa hiện thực về mặt thẩm

mỹ như là một lĩnh vực hoạt động chuyên biệt của con người Không phải chỉ trong quá trình nhận thức, cảm thụ và sáng tạo thẩm mỹ con người mới thể hiện năng lực thẩm mỹ

Trong quá trình đồng hóa hiện thực nói chung, nghĩa là trong mọi hoạt động sống của mình, con người đều có thể “áp dụng thước đo thích hợp cho đối tượng Do

đó con người cũng nhào nặn vật chất theo quy luật của cái đẹp”[4, tr.93] Như vậy,

trong khi thể hiện các năng lực ngoài thẩm mỹ, con người vẫn hoạt động theo quy luật của cái đẹp, tạo ra khía cạnh thẩm mỹ cho các hoạt động đó Mức độ bộc lộ khía cạnh thẩm mỹ của các hoạt động sống của con người, nhìn chung, phụ thuộc vào mức

độ phát triển các năng lực nhân cách của họ Sự hoàn thiện nhân cách là đảm bảo cho khả năng hoạt động theo quy luật cái đẹp của con người Do đó, giáo dục nói chung, với tính các là quá trình làm phát triển toàn diện nhân cách cũng chính là quá trình

àm phát triển năng lực thẩm mỹ của con người, năng lực hoạt động theo quy luật của cái đẹp Theo nghĩa đó, giáo dục xã hội cũng chính là giáo dục thẩm mỹ Chính xác hơn, giáo dục xã hội, tự nó và về bản chất đã bao chứa, đã bộc ộ khía cạnh giáo dục thẩm mỹ

Như vậy, theo nghĩa rộng, giáo dục thẩm mỹ bao chứa hai phương diện: Phương diện hình thành năng lực thẩm mỹ với tính cách là năng lực đặc thù (trong sự tương ứng với các năng lực ngoài thẩm mỹ) và phương diện hình thành năng lực hoạt động theo quy luật cái đẹp trong mọi lĩnh vực của xã hội và con người Sự thống nhất giữa giáo dục thẩm mỹ và giáo dục xã hội, vai trò của giáo dục thẩm mỹ với tính cách là một bộ phận hợp thành hữu cơ của giáo dục xã hội cần được xem xét theo cả nghĩa rộng

và nghĩa hẹp như vậy

Vì thế, giáo dục thẩm mỹ, theo quan điểm Mác xít được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực hoạt động xã hội và con người

1.1.2.2 Tính đặc thù của giáo dục thẩm mỹ

Trung tâm của giáo dục thẩm mỹ là tạo ra những năng lực hiểu biết, đánh giá

và sáng tạo thẩm mỹ Xét từ góc độ mỹ học, xây dựng con người phát triển toàn diện

Trang 13

chính là hình thành một chủ thể thẩm mỹ tài năng, sáng tạo Chủ thể thẩm mỹ là con người – xã hội có ý thức xã hội nói chung và có ý thức thẩm mỹ nói riêng Một chủ thể thẩm mỹ không thể sống và sáng tạo theo quy luật của cái đẹp nếu như không có

những năng lực giúp con người đồng hóa thẩm mỹ với hiện thực

Năng lực là một phạm trù của tâm lý học dung để chỉ các thuộc tính tâm sinh

lý cũng như phẩm chất về thể chất và tinh thần của mỗi cá nhân giúp họ hoạt động tích cực trong đời sống xã hội Nói cách khác, năng lực là một tổng hợp những thuộc tính của cá nhân con người, đáp ứng nhu cầu hoạt động và đảm bảo hoạt động có kết quả cao

Năng lực thẩm mỹ với tính cách là năng lực hoạt động, chỉ có thể hình thành trong thực tiễn thẩm mỹ Mác đã chỉ ra rằng do hoạt động thực tiễn mà con người khác loài vật Hành động lịch sử đầu tiên của con người là sáng tạo ra công cụ lao động Chính việc sáng tạo ra công cụ lao động đã tách con người khỏi thế giới động vật Khi có công cụ sản xuất thì con người không chỉ ăn những thứ có sẵn trong tự nhiên mà còn sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần để thỏa mãn nhu cầu của mình,

biết tạo ra thước đo không chỉ cho mình mà còn cho muôn loài, do đó: “Con người

cũng nhào nặn vật chất theo quy luật của cái đẹp”[3, tr.93] Quy luật của cái đẹp

được Mác hiểu không phải đơn giản là một trong những mặt mà là một trong những

mặt căn bản của hoạt động thực tiễn Do vậy, thực tiễn thẩm mỹ rõ ràng là một hoạt

động sáng tạo Mác đã viết rằng: “Chỉ có thông qua sự phong phú đã được phát triển

về mặt vật chất của bản thân con người thì sự phong phú của tính cảm giác chủ quan của con người mới phát triển và một phần, thậm chí lần đầu tiên mới được sản sinh ra: lỗ tai thính âm nhạc, con mắt cảm thấy cái đẹp của hình thức”[3, tr.137] Lỗ

tai thính âm nhạc, con mắt cảm thấy cái đẹp của hình thức là hoạt động đặc thù của chủ thể thẩm mỹ

Thống nhất trong các hoạt động của con người với tư cách con người tộc loại

và các quan hệ xã hội của con người, Mác đã đặt cơ sở thiết yếu nhất cho quá trình con người trở thành một chủ thể thẩm mỹ Khi Mác mượn câu nói của Phrăngcơlanh

để định nghĩa: “Người là động vật biết chế tạo công cụ lao động” thì ở đó Mác đã

nhìn thấy con người là sản phẩm trực tiếp của tự nhiên, và thông qua lao động nó sẽ

tự phát hiện ra cái năng khiếu tiềm tàng trong bản thân mình Bản chất của giáo dục thẩm mỹ không hề gói trọn trong ý nghĩa là giáo dục có tính trường quy Khái niệm

Trang 14

giáo dục thẩm mỹ mang ý nghĩa hình thành thẩm mỹ Đó là quá trình con người được trưởng thành về nhu cầu, thị hiếu, lý tưởng thẩm mỹ thông qua lao động Nhờ lao động, con người đã tác động vào thiên nhiên, cải tạo tự nhiên, bắt tự nhiên phục vụ đời sống cho con người Bằng lao động con người đã biến mình thành sản phẩm trực tiếp của tự nhiên, thành con người xã hội Con người vừa là một thực thể của tự nhiên, vừa là một thực thể của xã hội Thông qua hoạt động thực tiễn, các quan hệ xã hội của con người được hình thành Từ thực tiễn, con người tự rèn luyện, tự trưởng thành, tự giáo dục và tự phát triển chính bản thân mình Bản chất thật sự của giáo dục thẩm mỹ là bằng thực tiễn thẩm mỹ , con người đã trở thành một chủ thể thẩm mỹ biết nhận thức, cải tạo và đánh giá mọi quan hệ của con người theo quy luật của cái đẹp Thông qua lao động, con người đã phát hiện ra rằng vẻ đẹp và tính hữu ích gắn bó chặt chẽ với nhau Nhờ lao động, ở con người đã nảy sinh những tình cảm thẩm mỹ, các nhu cầu, thị hiếu và lý tưởng về cái đẹp Nhờ lao động, con người đã biết phân biệt cái xinh xắn với cái quái gở, cái đẹp với cái xấu Các chuẩn mực xã hội về mặt thẩm mỹ đã xuất hiện cùng lao động

Từ thực tiễn, Mác đã nhìn thấy toàn bộ sự vận động mãnh liệt của con người

và xã hội con người mà trước đó người ta đã không hiểu được hoặc hiểu một cách sai lệch về sự vận động của con người Và cũng bằng cách hiểu mang tính chất cách mạng về con người, trên thực tế, Mác đã mở đường cho cả quá trình thưởng thức, đánh giá và sáng tạo chủ thể thẩm mỹ

Mác cho rằng, đầu tiên con người phải ăn, mặc, ở, đi lại và làm việc rồi sau đó mới đến làm triết học, nghệ thuật Dưới ánh sáng của quan điểm thực tiễn, quan điểm

về con người của Mác, quan hệ thẩm mỹ xuất hiện muộn hơn quan hệ thực dụng Nói một cách khác, lịch sử lao động dài hơn lịch sử quan hệ thẩm mỹ Con người lòng nặng trĩu lo âu chuyện sinh tồn thì không có cảm giác gì về thẩm mỹ Lúc đầu, những nhu cầu về sinh tồn chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng trong đời sống con người Trong quá trình lao động thực tiễn, con người đã tự hoàn thiện thông qua việc hoàn thiện các công cụ sản xuất và công cụ chiến đấu Đó là quá trình thẩm mỹ hóa quan trọng của chủ thể người Đối với mỹ học và nghiên cứu nghệ thuật, quan điểm thực tiễn của Mác lần đầu tiên trong lịch sử mỹ học đã chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa chủ thể thẩm mỹ và đối tượng thẩm mỹ Chính nhờ thông qua thực tiễn mà chủ thể thẩm mỹ đã phát hiện thấy các giá trị thẩm mỹ của đối tượng Nhờ hoạt động thực

Trang 15

tiễn của con người mà sự vật được trải ra thành một thế giới quan hệ biết bao phong phú

Theo Mác, quá trình đồng hóa của con người về mặt thẩm mỹ bao gồm sự tương tác của cấu trúc sau đây:

- Cấu trúc của bản thân đối tượng thẩm mỹ

- Cấu trúc của chủ thể thẩm mỹ tác động vào đối tượng thẩm mỹ

- Cấu trúc của quan hệ giữa đối tượng thẩm mỹ và chủ thể thẩm mỹ

- Cấu trúc của sản phẩm quan hệ thẩm mỹ giữa chủ thể và đối tượng

- Tái cấu trúc quan hệ thẩm mỹ mới cao hơn, phù hợp hơn với hoạt động thực tiễn mới của con người

Đây là cơ chế của mối quan hệ thẩm mỹ nói chung và cũng là cơ chế của quan

hệ giữa chủ thể và đối tượng trong giáo dục thẩm mỹ

1.1.2.3 Sự thống nhất giữa cái xã hội và cái sinh học người trong giáo dục thẩm mỹ

Để hình thành một chủ thể thẩm mỹ có khả năng cảm thụ, đánh giá và sáng tạo thẩm mỹ cũng như nghệ thuật, không thể bỏ qua các nhân tố sinh học người, nhất

là đôi tai và đôi mắt Không có bộ phận than quản tốt thì sự rèn luyện miệt mài cũng không hát hay được Không có cảm quan thị giác về hình thức thì dù có lao động nghệ thuật thật lực cũng không tạo ra bức tranh có giá trị cao

Hoạt động thẩm mỹ là hoạt động gắn với mọi sự thưởng ngoạn với cái đẹp và hình tượng Đặc điểm này bắt nguồn sâu xa từ bản chất của quan hệ thẩm mỹ Đó là quan hệ giữa đối tượng thẩm mỹ và chủ thể thẩm mỹ mang tính hình tượng, cảm tính Trong quan hệ thẩm mỹ, đối tượng là đối tượng của chủ thể, vì chủ thể và cho chủ thể Sự thống nhất toàn vẹn – cảm tính của đối tượng hiện thực được con người tiếp nhận dưới dạng cảm xúc – tình cảm là đặc trưng cơ bản của quan hệ thẩm mỹ Đi theo phương thức tư duy hình tượng, ý thức thẩm mỹ vừa giữ lại những ấn tượng cảm tính, vừa có khả năng khám phá những mối liên hệ có tính bản chất sâu kín bên trong của đối tượng Đặc trưng hình tượng – cảm tính của ý thức thẩm mỹ được bộc lộ quán xuyến trong mọi thành tố cấu trúc của nó Điều này nói rõ bản chất đặc thù của giáo dục thẩm mỹ là khác với giáo dục đạo đức hay giáo dục tri thức Giáo dục tri

Trang 16

thức là giáo dục theo tư duy khoa học, giáo dục đạo đức là giáo dục theo chuẩn mực thiện – ác

Hoạt động thẩm mỹ phải tiến hành theo phương thức trực tiếp – cảm tính, nên trong năng lực thẩm mỹ của chủ thể thẩm mỹ, các yếu tố bẩm sinh như độ nhạy của tai, mắt, độ khéo léo của đôi bàn tay, trí tưởng tượng phong phú, tư duy hình tượng phát triển mạnh, óc liên tưởng nhanh và độc đáo…giữ vai trò quan trọng

Năng khiếu bẩm sinh là những yếu tố sinh lý ban đầu nằm rất sâu kín trong cơ thể Những khả năng ban đầu ấy chủ yếu gắn liền với các hoạt động sống ở những thời kỳ thơ ấu của đời người Để những khả năng ấy trở thành sức mạnh sáng tạo, cần được giáo dục, rèn luyện công phu qua các quan hệ thực tiễn Đồng chí Trường Chinh đã viết:

Không quan niệm tài năng và thiên tài là những cái gì siêu hình, bẩm sinh

đã có Sự cấu tạo của khối óc và truyền thống gia đình có phần ảnh hưởng tới văn nghệ sĩ Những tài năng và thiên tài chủ yếu là những cái mà người ta có thể do dày công học tập, rèn luyện mà tạo nên được [2, tr.232]Mục đích khởi đầu của giáo dục thẩm mỹ là xây dựng những tình cảm thẩm

mỹ tốt đẹp, và mục đích cuối cùng của nó là xây dựng con người phát triển toàn diện

Sự nghiệp giáo dục thẩm mỹ của chúng ta mang ý nghĩa nhân đạo sâu sắc bởi vì nó quan tâm đến khả năng nhận thức, đánh giá và sáng tạo của mỗi người và hướng tới việc giải phóng nhân cách, sự nghiệp giáo dục thẩm mỹ của chúng ta không những không tách rời khỏi các mục tiêu của sự nghiệp giáo dục chung của toàn xã hội mà còn hỗ trợ cho sự nghiệp giáo dục chung, cùng đạt tới mục tiêu của mình Tuy nhiên, việc giáo dục thẩm mỹ không thể tách rời cở sở sinh học người, các năng khiếu và tài năng Vì thế, hơn bất cứ một lĩnh vực giáo dục nào khác, giáo dục thẩm mỹ cần quan tâm tới năng khiếu và tài năng của con người từ những lứa tuổi nhỏ nhất

1.1.3 Các hình thức, biện pháp giáo dục thẩm mỹ

Con người phát triển toàn diện không phải là con người được hình thành bẩm sinh Trước hết nó phải được giáo dục thông qua hệ thống xã hội Sự nghiệp giáo dục thẩm mỹ có hệ thống đòi hỏi 4 yêu cầu cơ bản sau đây:

Trang 17

 Phải căn cứ vào lứa tuổi để có những biện pháp tác động giáo dục thẩm mỹ khác nhau, có mục tiêu và nội dung tri thức khác nhau, từ đó hình thành những khả năng sáng tạo phong phú

 Giáo dục thẩm mỹ đòi hỏi tính liên tục Tính liên tục ở đây không phải như một vòng tròn khép kín mà nó là những vòng xoáy ốc Ở mỗi vòng xoáy rộng đều có

hệ thống đón nhận và chuẩn bị mở rộng khả năng sáng tạo tốt hơn, cao hơn

 Tính liên tục trong giáo dục thẩm mỹ phải gắn với tính logic Tính logic đảm bảo cho sự phát triển từ giản đơn đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến chỗ hoàn thiện hơn

 Giáo dục thẩm mỹ không thể thiếu đi các quan điểm toàn diện Nó đảm bảo khả năng phát huy mọi mặt sáng tạo của con người

Dù giáo dục thẩm mỹ có một hệ thống kiến thức rộng là vậy, nhưng điểm trung tâm nhất của nó vẫn là nhằm xây dựng những năng lực thẩm mỹ khởi đầu từ việc hoàn thiện các giác quan mang lại sự phát triển phong phú về tinh thần như tai, mắt…Mac cho rằng: Sự hình thành các giác quan này ‘là công việc của toàn bộ lịch

sử thế giới đã diễn ra từ trước tới nay” Nghĩa là rèn luyện cách nhìn, cách nghe và cả cách làm bằng hai bàn tay nữa thì xuất hiện một năng lực cảm xúc đúng đắn và từ đó nảy sinh một cách phổ biến những tài năng sáng tạo

Ở nước ta, trong nhiều năm nay, việc giáo dục thẩm mỹ đã được tiễn hành trong các trường nghệ thuật, trong một số trường Đoàn, một số trường Đại học, một

số Đoàn thanh niên địa phương… Tuy nhiên, các biện pháp giáo dục cũng chưa thật thống nhất Tùy theo nghề nghiệp xã hội và đối tượng tiếp nhận khác nhau mà mỗi

cơ sở giáo dục ưu tiên cho một biện pháo Để cho sự nghiệp giáo dục thẩm mỹ đạt kết quả tốt và có hệ thống, hiện nay, các nhà nghiên cứu đã nêu lên bốn hình thức giáo dục thẩm mỹ cơ bản cho tuổi trẻ như sau:

1 – Giáo dục thẩm mỹ bằng văn hóa – nghệ thuật

2 – Giáo dục thẩm mỹ bằng cách nêu gương

3 – Giáo dục thẩm mỹ bằng lao động và thông qua lao động

4 – Giáo dục thẩm mỹ bằng mỹ học Mác – Lênin

Nghệ thuật được xem là phương tiện quan trọng nhất để thực hiện giáo dục thẩm mỹ Nguyên tắc cơ bản là phải sử dụng hình tượng cụ thể để tạo ra con người cảm xúc cá nhân mạnh mẽ Các hoạt động nghệ thuật nhằm mục tiêu giáo dục nhân cách con người Hoạt động này nhằm cung cấp những tri thức về mỹ học và nghệ

Trang 18

thuật, giáo dục cho học sinh cách cảm thụ trực tiếp các loại hình nghệ thuật, tạo điều kiện kích thích hoạt động sáng tạo, đồng thời củng cố, nâng cao, phát triển thẩm mỹ cho đối tượng giáo dục

Trong thực tế hiện nay, điểm yếu nhất của hoạt động này là cách tổ chức chưa thể hiện được đặc trưng của hoạt động nghệ thuật Do đó, tất cả các khâu giúp cho học sinh cảm thụ, đánh giá thẩm mỹ còn rất yếu hoặc không đầy đủ Giáo dục thẩm

mỹ bằng văn hóa nghệ thuật với việc tạo ra một sân chơi bổ ích là điều thiết thực và thực sự cần thiết Để nâng cao giáo dục thẩm mỹ bằng văn hóa nghệ thuật, cần thực hiện theo quy trình nhất định:

Bước 1 – Định hướng hoạt động: Bao gồm các hình thức hoạt động nhằm tạo tâm thế, cung cấp tri thức, cung cấp các kiến thức thực tế cho quá trình cảm thụ và sáng tạo thẩm mỹ

Bước 2 – Tổ chức trải nghiệm và sáng tạo thẩm mỹ: Bao gồm các hình thức hoạt động cụ thể, các sân chơi lồng ghép việc truyền đạt kiến thức nghệ thuật và cơ hội thực hành nghệ thuật nhằm giúp học sinh tiếp xúc trực tiếp với đối tượng thẩm

mỹ, tạo điều kiện cho học sinh phát huy cao khả năng sáng tạo thẩm mỹ

Bước 3 – Tổ chức đánh giá và thu hoạch: Bao gồm các hình thức hoạt động nhằm nâng cao và giúp học sinh tự khẳng định mình, tự đánh giá, so sánh bản thân trong tập thể với tư cách là một chủ thể thẩm mỹ, phát huy tác dụng của các kết quả hoạt động

1.2 ĐẶC ĐIỂM LỨA TUỔI THIẾU NHI

1.2.1 Quan niệm về thiếu nhi

Lứa tuổi thiếu nhi (thiếu niên và nhi đồng) là một giai đoạn quan trọng trong

độ tuổi trẻ em, với những đặc điểm tâm sinh lý đặc thù có ý nghĩa đặc biệt trong sự phát triển nhân cách của con người [16, tr.5]

Trẻ em được coi là giai đoạn đầu tiên của cuộc đời con người, giai đoạn chuẩn

bị các phẩm chất, năng lực cần thiết để tham gia lao động xã hội Trẻ em là đối tượng thu hút sự quan tâm nhiều nhất của các nhà sư phạm, tâm lý học, Triết học… trong

đó có các nhà văn hóa học

Các nhà tâm lý học cho rằng: trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ lại, mà là một thực thể đang phát triển và vận động theo quy luật đặc thù Sự vận động tất yếu

Trang 19

của trẻ em do quá trình phát triển bên trong của nó sẽ tạo ra sự phủ định bản thân để chuyển thành người lớn Sự phát triển này diễn ra đồng thời trong quá trình trẻ lĩnh hội nền văn hóa loài người Những biến đổi về chất trong tâm lý là dấu hiệu quan trọng đánh dấu bước chuyển biến căn bản của trẻ em từ nhóm tuổi này sang nhóm tuổi khác

Theo công ước Quốc tế, khái niệm “trẻ em” được tính từ lọt lòng đến 16 tuổi, trong đó có những giai đoạn phát triển khác nhau Các giai đoạn lứa tuổi của trẻ em

là những thời kỳ phát triển nhất định, đóng kín một cách tương đối, là kết quả của nhiều yếu tố: đều kiện sống và hoạt động của trẻ cùng hệ thống các yêu cầu đề ra cho trẻ trong giai đoạn đó; các mối quan hệ của trẻ với môi trường xung quanh; vốn tri thức và kiểu hoạt động mà trẻ đã nắm được cùng với phương thức lĩnh hội các tri thức đó; đặc điểm phát triển cơ thể của trẻ…Trong các yếu tố đó, có những yếu tố là chủ đạo, có tác dụng quyết định, làm nên những nét căn bản đặc trưng co giai đoạn lứa tuổi, đồng thời chi phối tính chất của các hoạt động khác

Xuất phát từ quan điểm đó, tâm lý học đã xác định các giai đoạn lứa tuổi chủ yếu đối với trẻ em như sau:

* Giai đoạn trước tuổi đi học: từ sơ sinh đến trước 6 tuổi bao gồm hai thời kỳ:

- Tuổi sơ sinh (từ lọt lòng mẹ đến 12 tháng): hoạt động chủ đạo là hoạt động giao tiếp với mẹ và những người xung quanh

- Tuổi mầm non (từ 1 đến 6 tuổi): hoạt động chủ yếu là vui chơi

* Giai đoạn tuổi học sinh: Từ 6 đến 15 tuổi (tương đương với độ tuổi học sinh tiểu học và trung học cơ sở) bao gồm hai thời kỳ:

- Thời kỳ đầu tuổi học (từ 6 – 11 tuổi) là độ tuổi nhi đồng hay học sinh tiểu học: hoạt động chủ đạo là học tập nhằm vào phần lĩnh hội hệ thống tri thức vỡ lòng

và kinh nghiệm xã hội

- Thời kỳ giữa tuổi học (từ 11 đến 15 tuổi) là độ tuổi thiếu niên hay học sinh trung học cơ sở: cùng với hoạt động học tập, hoạt động chung trong nhóm bạn trở thành nét chủ đạo trong đời sống

Như vậy, thiếu nhi (thiếu niên, nhi đồng) là trẻ em ở độ tuổi từ 6 đến 15 tuổi

Trang 20

Mỗi giai đoạn lứa tuổi có vai trò nhất định trong quá trình phát triển nhân cách của trẻ Lứa tuổi thiếu nhi là giai đoạn phát triển phức tạp nhất và quan trọng nhất Ở tuổi này, hoạt động học tập chiếm ưu thế, tạo điều kiện cho các em lĩnh hội nền văn hóa loài người một cách tích cực nhất, đồng thời cũng là giai đoạn nhân cách hình thành và phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có sự quan tâm đặc biệt Việc nghiên cứu

về tâm lý, tình cảm, trí tuệ lứa tuổi thiếu nhi càng được tiến hành kỹ sẽ càng mang lại hiệu quả cao trong việc giáo dục cũng như đình hình tư tưởng, cảm xúc, thị hiếu cho các em

1.2.2 Đặc điểm trí tuệ lứa tuổi thiếu nhi

1.2.2.1 Độ tuổi nhi đồng (từ 6 – 11 tuổi)

 Sự phát triển tri giác

- Nét đặc trưng của tri giác là tính chất ít phân hoá của nó Nhi đồng phân biệt những đối tượng giống nhau còn sai lầm và chưa chính xác Thường nó phân biệt những chi tiết ngẫu nhiên mà người lớn ít chú ý đến, nhưng lại không nhìn thấy được những chi tiết quan trọng và bản chất

- Tri giác của nhi đồng gắn chặt với hành động, với hoạt động thực tiễn của trẻ Tri giác sự vật có nghĩa là làm một cái gì đó với sự vật, cầm nắm, sờ mó sự vật

ấy

- Tri giác thời gian và không gian ở nhi đồng hãy còn yếu Trẻ chưa hiểu hết các khái niệm "thế kỷ", "thiên kỷ", "kỷ nguyên", "thời đại", độ lớn của các nước, các lục địa, các biển và đại dương, chiều dài của những con sông và chiều cao của những ngọn núi Tất cả những điều đó đều được trẻ tri giác một cách không phân biệt "từ lâu", "ở xa", "rất dài", "rất cao" v.v

- Trong quá trình học tập, tri giác của trẻ được tổ chức lại, được nâng lên trình

độ phát triển cao hơn Việc khái niệm, gọi tên sự vật, phân biệt các đối tượng, xác định thời gian sẽ dần dần thay đổi và rõ nét hơn trong tri giác của trẻ thông qua quá trình học tập

Ở đây vai trò của giáo viên là rất lớn Giáo viên không chỉ dạy trẻ kỹ năng nhìn, mà còn dạy kỹ năng xem xét, không chỉ dạy nghe mà còn dạy trẻ lắng nghe, dạy trẻ phát hiện những dấu hiệu và những thuộc tính bản chất của sự vật và hiện tượng Để từ đó trẻ nhìn nhận, ghi nhớ sự vật và hiện tượng thông qua bản chất

Trang 21

 Sự phát triển chú ý:

- Đặc điểm cơ bản của lứa tuổi này là chú ý có chủ định hãy còn yếu Khi đến trường trẻ em còn chưa có sự chú ý có mục đích Chúng chủ yếu chú ý đến cái gì mà chúng trực tiếp thấy thú vị, đến cái gì nổi bật nhờ tính thực rõ và khác thường Vì vậy, việc sử dụng rộng rãi các tài liệu trực quan, như các tranh minh hoạ, hình vẽ, hình mẫu, mô hình là điều kiện quan trọng nhất để tổ chức sự chú ý

- Khả năng điều chỉnh, điều khiển chú ý còn bị hạn chế ở tuổi nhi đồng Bản thân quá trình học tập đòi hỏi các em phải rèn luyện thường xuyên sự chú ý có chủ định, nỗ lực ý chí để tập trung Trên cơ sở đó các em nhi đồng sẽ hình thành được kỹ năng tổ chức, điều chỉnh, điều khiển chú ý của mình một cách có ý thức

 Trí nhớ

- Nhờ ảnh hưởng của hoạt động học tập, trí nhớ của các em nhi đồng được phát triển theo hai hướng: tăng cường việc ghi nhớ có ý nghĩa, ghi nhớ từ ngữ - lôgic (so với ghi nhớ trực quan - hình tượng) và điều khiển một cách có ý thức trí nhớ của mình (ghi nhớ, tái hiện, nhớ lại)

- Các em nhi đồng (đặc biệt là lớp 1 - lớp 2) có khuynh hướng ghi nhớ máy móc, bằng cách nhắc lại một cách máy móc Chúng thường đọc thuộc lòng tài liệu học tập theo đúng từng câu từng chữ, mà không sắp xếp lại, không sửa đổi lại, không

có ý định diễn đạt nội dung của bài theo cách hiểu của mình

 Sự phát triển tưởng tượng

- Tưởng tượng của nhi đồng được hình thành trong quá trình hoạt động học tập dưới tác dụng những yêu cầu của hoạt động này Những ấn tượng trực tiếp xem viện bảo tàng và triển lãm, xem phim, tham gia lao động góp phần phát triển trí tưởng tượng

- Trong lứa tuổi nhi đồng, tưởng tượng tái tạo được hoàn thiện, gắn liền với những hình tượng đã tri giác từ trước hoặc tạo ra những hình tượng phù hợp với những mô tả, sơ đồ, tranh vẽ v.v

- Tưởng tượng sáng tạo, với tư cách là xây dựng những hình ảnh mới gắn liền với

sự cải tạo, chế biến những ấn tượng của kinh nghiệm quá khứ, kết hợp chúng lại thành một

tổ hợp mới mẻ cũng được tiếp tục phát triển Trẻ đôi khi kể lại một cách say mê về một sự kiện nào đó, không chủ tâm và không chủ định đã đưa vào sự kiện đó phần thêm thắt của

Trang 22

mình, làm phong phú câu chuyện kể Do những chi tiết "bịa đặt" của trẻ, câu chuyện trở nên sinh động và gây hứng thú nhiều hơn, kích thích khả năng biểu đạt bằng ngôn ngữ và khả năng tưởng tượng của trẻ phát triển

 Sự phát triển tư duy

- Trong quá trình học tập, tư duy của trẻ nhi đồng thay đổi rất nhiều Trẻ nhi đồng, đặc biệt là 7-8 tuổi, thường tư duy bằng những phạm trù cụ thể, bằng cách dựa vào những thuộc tính trực quan của sự vật, hiện tượng cụ thể Nhờ ảnh hưởng của học tập, trẻ dần dần chuyển từ nhận thức các mặt bên ngoài của hiện tượng đến nhận thức những mặt bản chất của chúng

- Hoạt động phân tích - tổng hợp ở đầu tuổi nhi đồng còn rất sơ đẳng Cuối tuổi nhi đồng khả năng phân tích tổng hợp đã cao hơn, đã chú ý đến mối liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng

- Ở tuổi nhi đồng còn gặp một khó khăn nhất định khi xác định và hiểu mối quan

hệ nhân - quả, từ nguyên nhân suy ra kết quả dễ hơn là từ kết quả suy ra nguyên nhân

Nhà trường, cha mẹ, anh chị phụ trách cần phải có chương trình dạy, học thích hợp, phương pháp đúng đắn để phát triển trí tuệ của các em

1.2.2.2 Độ tuổi thiếu niên (từ 11 – 15 tuổi)

Sự thay đổi tính chất và các hình thức hoạt động cùng với óc tò mò, ham hiểu biết đang phát triển, đòi hỏi hoạt động trí tuệ của thiếu niên phải có tổ chức và cao hơn

- Khi xem xét các sự vật và hiện tượng, thiếu niên có khả năng phân tích, tổng hợp phức tạp hơn Thiếu niên bắt đầu sử dụng những biện pháp đặc biệt để ghi nhớ như so sánh, hệ thống hoá, phân loại Tốc độ ghi nhớ và khối lượng tài liệu được giữ gìn trong trí nhớ cũng được tăng lên Ghi nhớ máy móc ngày càng giảm dần nhường chỗ cho ghi nhớ lôgic, ghi nhớ có ý nghĩa, hiệu quả của trí nhớ trở nên tốt hơn

Trong lứa tuổi thiếu niên sự chú ý có chủ định, bền vững được hình thành Tính lựa chọn của chú ý được bộc lộ rất rõ ở thiếu niên Trong lứa tuổi này, khối lượng chú ý tăng lên rõ rệt, đồng thời khả năng di chuyển chú ý từ thao tác này đến thao tác khác, từ loại hoạt động này đến loại hoạt động khác cũng được tăng cường rõ rệt

Trang 23

- Đến thời kỳ thiếu niên các em đã có những điều kiện để tư duy tốt Hệ thần kinh phát triển hoàn thiện, hoạt động phong phú, đa dạng: nội dung học tập mang tính khoa học cao hơn

Sự chiếm ưu thế của tư duy trừu tượng là đặc điểm cơ bản về hoạt động tư duy của thiếu niên Tuy nhiên tư duy trực quan không mất đi mà vẫn tồn tại và được phát triển và vẫn giữ vai trò quan trọng trong cấu trúc chung của tư duy

Đối với thiếu niên, sự phát triển tư duy phê phán là một đặc điểm rất rõ Khác với nhi đồng, thiếu niên luôn có ý kiến riêng, độc lập của mình trước mỗi vấn đề

Tuy nhiên cần phải chú ý khuynh hướng tranh cãi không có căn cứ, bướng bỉnh là hiện tượng thường gặp ở tuổi thiếu niên

1.2.3 Đặc điểm tâm lý lứa tuổi thiếu nhi

1.2.3.1 Độ tuổi nhi đồng

 Tính cách của nhi đồng

Tính cách của nhi đồng hình thành do tác động của các kích thích trực tiếp những lý do ngẫu nhiên, mà không suy nghĩ và cân nhắc mọi tình huống Vì vậy mà không phải tất cả mọi trường hợp nhi đồng vi phạm nội qui đều được giải thích bằng tính vô kỷ luật

- Ở lứa tuổi này, các em phục tùng người lớn một cách tuyệt đối và đồng thời chúng cũng rất nhạy cảm với sự đối xử của người lớn Tuổi nhi đồng là tuổi có nhiều nét tính cách tốt như: lòng vị tha, tính ham hiểu biết, tính chân thực Tính bắt chước cũng là một đặc điểm quan trọng của lứa tuổi này Điều đó, một mặt cũng có tác dụng tốt trong giáo dục, song cũng có một số tác hại các em không chỉ bắt chước những điều tốt

- Thiếu sót trong tính cách thường gặp ở trẻ nhi đồng là tính khí thất thường và bướng bỉnh Đó là do giáo dục gia đình chưa đúng mức Trẻ quen được thoả mãn tất

cả những nguyện vọng và nhu cầu Đây là hình thức phản ứng lại những yêu cầu mà người lớn đề ra cho nó, chống lại sự cần thiết phải hy sinh cái "nó muốn" cho cái nó

"phải làm"

- Trong lứa tuổi nhi đồng, ý chí chưa được phát triển đầy đủ, tính độc lập còn yếu, tính tự chủ, khả năng kiềm chế còn thấp Khi gặp thất bại, trẻ có thể mất lòng tin vào sức lực và khả năng của mình Giữa tuổi nhi đồng xuất hiện tính kiên trì bền bỉ, song các em dễ lầm lẫn bền bỉ với sự bướng bỉnh

Trang 24

- Cuối cùng, nhi đồng dưới ảnh hưởng của giáo dục và dạy học đúng đắn, khả năng điều chỉnh ý chí đối với hành vi được phát hiện, khả năng tự kiềm chế và kiểm tra hành vi của mình xuất hiện, những xung động trực tiếp bị nén lại, tính kiên trì và khả năng vượt khó tăng lên

 Tình cảm của nhi đồng

- Ở tuổi nhi đồng, đời sống tình cảm chiếm ưu thế hơn so với đời sống nhận thức

Thứ nhất, nhi đồng rất xúc cảm, được thể hiện trước hết ở sự tri giác, quan sát,

tưởng tượng, hoạt động trí tuệ của các em thường đượm màu sắc cảm tính

Hai là, trẻ nhi đồng (đặc biệt 7-8 tuổi) chưa biết kiềm chế những tình cảm của

mình, chưa biết kiểm tra sự thể hiện tình cảm ra bên ngoài

Ba là, tình cảm của các em chưa bền vững, xúc cảm rất không ổn định, thường

hay thay đổi tâm trạng, hay thiên về xúc động, biểu lộ rất mạnh và trong chốc lát sự vui mừng, tự hào, hờn giận, lo sợ

- Ở tuổi nhi đồng ở các tình cảm cấp cao cũng được phát triển khá rõ nét Tình cảm đạo đức xuất hiện vào giữa tuổi nhi đồng như tình cảm tập thể, tình cảm bạn bè, tình yêu đất nước, lòng thương người, thật thà, ngay thẳng Tình cảm nghĩa vụ xuất hiện vào cuối tuổi nhi đồng, nhưng chưa đủ bền vững và hoàn toàn không phải là tình cảm độc lập Tình cảm trí tuệ của nhi đồng được thể hiện qua tính tò mò, sự ngạc nhiên nghi ngờ khi nhận biết các sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh, sự hài lòng khi đạt được kết quả học tập hoặc thất vọng khi không giải được bài tập Tình cảm thẩm mỹ bộc lộ khá rõ nét khi được tri giác cái đẹp, tuy nhiên khả năng cảm thụ cái đẹp chưa sâu sắc đầu đủ

 Hứng thú của nhi đồng

- Trong những năm đầu tiên học tập ở trường phổ thông, hứng thú của trẻ phát triển rất rõ nét, đặc biệt là hứng thú nhận thức, hứng thú tìm hiểu thế giới xung quanh, tính tò mò ham hiểu biết Đầu tiên, ở các em xuất hiện hứng thú đối với những sự việc riêng lẻ những hiện tượng riêng biệt (lớp 1, 2) sau đó đến các hứng thú gắn liền với sự phát hiện những nguyên nhân, qui luật, các mối liên hệ và quan hệ phụ thuộc giữa các hiện tượng (lớp 3, 4 và đặc biệt là lớp 5)

Trang 25

- Ở nhi đồng có sự phát triển các loại hứng thú sau: Hứng thú đọc sách được hình thành cùng với sự phát triển kỹ xảo đọc Hứng thú kỹ thuật được hình thành nhanh chóng (chủ yếu ở con trai) Ở nông thôn, trẻ bắt đầu thể hiện rõ hứng thú với nông nghiệp Từ lớp 3, các hứng thú học tập, bắt đầu được phân hoá, hứng thú với các bài toán, bài văn, bài thơ hay, bức tranh đẹp

- Trong tuổi nhi đồng những khả năng phát triển to lớn về mặt nghệ thuật, thẩm mỹ của trẻ được hình thành Trẻ thường rất thích thú vẽ, nặn, hát, nhạc Việc tổ chức đúng đắn hoạt động này có tác dụng phát triển những tình cảm thẩm mỹ này ở các em Đó là tiền đề

để phát triển khả năng văn học, âm nhạc, vẽ ở lứa tuổi lớn hơn

1.2.3.2 Độ tuổi thiếu niên

 Khuynh hướng muốn làm người lớn

Sự hình thành cảm giác độc đáo rằng mình là người lớn, coi mình như người lớn, là một thành viên bình đẳng với người lớn là một cấu tạo tâm lý trung tâm của lứa tuổi thiếu niên Những biểu hiện cụ thể là: Sự hình thành phong thái chững chạc trong phạm vi đạo đức - xã hội (như thoát khỏi sự ràng buộc với người lớn, có quan điểm và lập luận riêng của mình), trong hoạt động trí tuệ (độc lập lĩnh hội tri thức), trong hứng thú (bắt chước người lớn), trong vui chơi giải trí và hành vi cử chỉ bề ngoài Thiếu niên không muốn người lớn can thiệp vào đời sống cá nhân

Những thiếu niên có khuynh hướng cường điệu hoá ý nghĩa của những thay đổi nhanh chóng của bản thân Ở tuổi này xuất hiện mâu thuẫn giữa nhu cầu muốn làm người lớn với khả năng thực tế chưa tương xứng với nhu cầu đó, với kinh nghiệm sống còn ít ỏi Khát vọng muốn độc lập là một nguyện vọng có ích và tốt đẹp, nhưng nó có thể mang những hình thức tiêu cực là chống đối ảnh hưởng của người lớn

Vì vậy công tác giáo dục cần phải tính đến quyền độc lập và tự chủ tương đối cao của thiếu niên, luôn luôn khích lệ, động viên những cố gắng của chúng và cách giúp đỡ, hướng dẫn tốt nhất cho lứa tuổi này là cách nêu gương của người lớn: cha,

mẹ, thầy cô giáo, anh chị phụ trách

Trang 26

Gắn liền với ý thức muốn làm người lớn ở thiếu niên xuất hiện óc phê phán cao đối với người lớn: phát hiện nhanh những khuyết điểm và sai lầm của người lớn, hay nghi ngờ, không tin ngay, luôn đặt câu hỏi "tại sao?"

 Sự hình thành tự ý thức:

- Ở lứa tuổi nhi đồng chưa có nguyện vọng tự đánh giá mình Tuổi thiếu niên

đã xuất hiện sự quan tâm đến bản thân, đến đời sống nội tâm, đến những phẩm chất riêng của nhân cách, xuất hiện nhu cầu tự đánh giá, nhu cầu so sánh mình với người khác

Do phát triển mối quan tâm đối với tập thể và đời sống xã hội mà ở thiếu niên nảy sinh nhu cầu tự đánh giá khả năng của mình, tìm chỗ đứng của mình trong tập thể

- Sự phát triển tự ý thức của thiếu niên bắt đầu từ sự nhận thức hành vi của mình, tiếp theo là nhận thức những phẩm chất đạo đức, tính cách và năng lực của mình, nhận xét mình bằng con mắt người khác ở thiếu niên hình thành khuynh hướng độc lập phân tích và đánh giá bản thân

- Đặc điểm quan trọng trong sự tự ý thức của thiếu niên là mâu thuẫn giữa nhu cầu nhận thức bản thân với kỹ năng chưa đầy đủ để phân tích đúng đắn những biểu hiện của nhân cách, với tầm hiểu biết chưa đủ khách quan về bản thân Do đó đôi khi xuất hiện những trạng thái cực đoan là tự cao và tự ti

- Trên cơ sở phát triển sự ý thức ở thiếu niên nảy sinh nhu cầu tự tu dưỡng, tự rèn luyện bản thân, phát triển những phẩm chất tốt, khắc phục những nét tính cách xấu, loại trừ những sai lầm khuyết điểm của mình Tuy nhiên do kinh nghiệm sống của thiếu niên còn tương đối ít, tầm hiểu biết còn hạn chế nên ở thiếu niên việc tự giáo dục thường có những hình thức kỳ quái, ngây thơ (mà đôi khi còn nguy hại đến cả sức khỏe nữa) Chính điểm này rất cần sự định hướng, giúp đỡ của người lớn

 Sự phát triển đạo đức

Tuổi thiếu niên là tuổi hình thành thế giới quan, niềm tin, nguyên tắc đạo đức chỉ đạo hành vi Nếu nhi đồng hành động theo sự chỉ dẫn trực tiếp của người lớn, hoặc là do ảnh hưởng của những kích thích có tính ngẫu nhiên, thì ở tuổi thiếu niên những nguyên tắc riêng của hành vi, những quan điểm và niềm tin có ý nghĩa chủ đạo

Trang 27

Lý tưởng đạo đức của thiếu niên đã đủ sâu sắc, có khả năng chỉ đạo hành vi của chúng Lý tưởng này thường gắn với một con người cụ thể nào đó: bố, mẹ, thầy cô giáo, bạn bè, những nhân vật trong tiểu thuyết, phim ảnh

Tuy nhiên ở tuổi thiếu niên có thể có những khái niệm đạo đức sai lầm do được hình thành một cách tự phát, do ảnh hưởng của sách báo, phim ảnh (sĩ diện hão, anh hùng cá nhân )

Để giáo dục đạo đức cho thiếu niên, nhiệm vụ của các nhà giáo dục là phải tế nhị, khéo léo, thức tỉnh lý trí và khả năng phân tích, phê phán vốn có trong các em

 Sự phát triển tình cảm

Tình cảm của tuổi thiếu thiên sâu sắc và phức tạp hơn tuổi nhi đồng

- Đặc điểm nổi bật về tình cảm trong tuổi thiếu niên là sự lạc quan, yêu đời, không có tâm trạng u uất, thất vọng Thiếu niên có tính xúc cảm cao, dễ xúc động và

dễ bị kích động (nhất là khi bị đối xử thô bạo, không công bằng) Tình cảm của thiếu niên còn chưa bền vững và dễ thay đổi, vui buồn chuyển hóa dễ dàng, tình cảm còn mang tính chất bồng bột, hăng say…Điều này do ảnh hưởng của sự phát dục và thay đổi một số cơ quan nội tạng gây nên Tuy nhiên so với nhi đồng, tình cảm của thiếu niên đã biết phục tùng lý trí

- Trong đời sống tình cảm của thiếu niên, tình cảm bạn bè chiếm một vị trí quan trọng trên sự thống nhất nhu cầu và hứng thú, mục đích và nguyện vọng, cùng một quan niệm về những vấn đề giống nhau Tuy nhiên cần đề phòng khuynh hướng tình bạn nảy nở trên cơ sở những hứng thú và sở thích không lành mạnh: (vụ lợi, bao che khuyết điểm cho nhau, ăn chơi đua đòi )

- Đặc điểm quan hệ bạn bè khác giới cũng có những thay đổi cơ bản ở tuổi thiếu niên Bắt đầu xuất hiện sự quan tâm đến nhau, có nguyện vọng được ưa thích và

do đó quan tâm đến sự hấp dẫn bên ngoài nhiều hơn

Đôi khi cũng xuất hiện tình yêu ở tuổi thiếu niên, nhưng còn mang tính chất cảm tính bộc trực, vụng về Người lớn, nhà giáo dục cần phải giúp các em, tránh để các em bước vào tình yêu quá sớm, nhưng không được can thiệp một cách thô bạo

mà có thể dẫn đến những hậu quả tai hại

Trang 28

Rõ ràng, cách biểu hiện xúc cảm của thiếu niên mang tính chất độc đáo Đó là tính bồng bột, sôi nổi dễ bị kích động và dễ thay đổi Tình cảm của các em rất phong phú, nhiều cung bậc khác nhau Tuổi thiếu niên là tuổi dễ tiếp thu và làm quen nhanh với các phương pháp giáo dục mới Tuy nhiên, các em cũng dễ bị phân tâm bởi tình cảm, cảm xúc, đặc biệt là trong các mối quan hệ trong tình bạn

1.3 HOẠT ĐỘNG NGHỆ THUẬT VỚI GIÁO DỤC THẨM MỸ CHO THIẾU NHI

1.3.1 Đặc trưng của hoạt động nghệ thuật

1.3.1.1 Nghệ thuật làm lây lan cảm xúc

Con người từ lúc lọt lòng đến khi khôn lớn, già cỗi đều trải qua một tiến trình tăng trưởng của sự rung động trong tâm tư Chính sự rung động này đã làm nẩy sinh nghệ thuật bằng cách thôi thúc sáng tạo, ham thích thưởng thức trong mỗi người

Với người nghệ sỹ, cảm xúc là một cấu tạo tâm lý xuất hiện thường xuyên trong cuộc sống họ Có thể nói rằng, khi tiếp nhận thế giới hiện thực, song song với quá trình nhận thức (tri giác) thì cảm xúc của người nghệ sỹ cũng được trải nghiệm Chính vì có sự trải nghiệm này mà người nghệ sỹ luôn luôn có sự đam mê, có những khát vọng cháy bỏng tạo nên động lực bên trong, thôi thúc họ thể hiện vào trong tác phẩm của mình

Nghệ thuật làm lây lan sang con người nhiều cảm xúc và nghệ thuật được xây dựng trên cơ sở sự lây lan này Tônxtôi nói: "Sự hoạt động của nghệ thuật chính là dựa trên cái khả năng những người này bị lây cảm xúc của những người khác Những cảm xúc hết sức đa dạng, rất mạnh mẽ và yếu ớt, rất có ý nghĩa và rất nhỏ nhặt, rất xấu xa và rất tốt đẹp, chỉ cần chúng lây lan sang được độc giả, khán giả, thính giả sẽ làm nên đối tượng của nghệ thuật" [12, tr.62]

Có thể nói, lây lan là quá trình chuyển toả trạng thái cảm xúc từ cá thể này sang cá thể khác ở cấp độ tâm sinh lý, xảy ra một cách nhanh chóng, mạnh mẽ, nằm ngoài những tác động qua lại ở cấp ý thức – tư tưởng Khi con người rung động, họ trải qua nhiều cung bậc của cảm xúc Các cung bậc cảm xúc ấy lại dễ lây lan từ người này sang người khác Chính vì có sự lây lan cảm xúc thông qua nghệ thuật mà con người cảm thấy gần gũi nhau hơn

Trang 29

Điều đó được thể hiện rõ qua việc thưởng thức âm nhạc Âm nhạc có thể đem đến cho mọi người những phản ứng tình cảm dễ chịu, thoải mái và bình tĩnh, hay kích thích sự sáng tạo và hứng khởi Sức mạnh của âm nhạc còn giúp ta loại bớt cảm giác tiêu cực từ những việc đã qua, có thể lọc ra những thông điệp lành mạnh và tích cực nhất Âm nhạc giúp hài hòa môi trường sống, giúp con người thư giãn, quên đi những lo âu, căng thẳng, tự ti và hòa nhập Nó cũng chính là chìa khoá để con người nâng cao cảm xúc, thị hiếu và lý tưởng thẩm mỹ trong hoạt động tập thể, hoạt động xã hội, giao lưu văn hoá Nghệ thuật âm nhạc ngoài khả năng đem lại niềm vui, sự sảng khoái và nguồn nghị lực cho con người trong cuộc sống còn có tác dụng thức tỉnh tình cảm của họ qua những cung bậc hết sức tinh tế Sức mạnh cảm hoá của âm nhạc tiến bộ, lành mạnh sẽ giúp con người vươn tới một nhân cách toàn vẹn Vì thế, âm nhạc là một trong những nhu cầu không thể thiếu trong đời sống mỗi người Có âm nhạc, con người cảm thấy yêu đời hơn, gần gũi nhau thêm và mang lại sự cân bằng về tâm - sinh lý

1.3.1.2 Nghệ thuật giúp trút xả tinh thần

Trong nghệ thuật, một mặt nào đó của tâm hồn chúng ta được trút xả, thể hiện

kể cả những góc khuất, sâu kín.Vì lẽ đó, con người có thể bộc lộ cảm xúc, khống chế

và giảm căng thẳng thông qua các hình thức nghệ thuật

Âm nhạc có thể gây ảnh hưởng mạnh tới tâm trạng của chúng ta, giúp bồi dưỡng những trạng thái tích cực như sự hăng hái, phấn khởi và lạc quan yêu đời Đồng thời âm nhạc cũng giúp con người giảm những trạng thái tiêu cực như lo âu, buồn rầu, chán nản, căng thẳng, tức giận…

Sự căng thẳng là nguyên nhân phá hoại hệ thống miễn dịch của chúng ta Âm nhạc có thể hạn chế hoặc ngăn ngừa những âm thanh và cảm xúc gây căng thẳng Nhạc nhẹ là thể loại êm dịu giúp chúng ta có cảm giác an toàn, tin tưởng và tạo sự hưng phấn cao

Nghệ thuật giúp thư giãn tâm hồn và các cơ bắp ở người đang có căng thẳng,

lo âu Điển hình như âm nhạc, hội họa giúp tâm hồn ta cởi mở và giải thoát những cảm xúc tiêu cực Khi bị lâm bệnh, bệnh nhân thường rơi vào tình trạng lo âu, sợ hãi, cảm thấy đau đớn, buồn rầu, đôi khi kém tự tin Âm nhạc, hội họa có thể giúp họ khuây khỏa, giảm thiểu các cảm xúc tiêu cực, khiến họ vui hơn, tự tin hơn, có nhiều phấn khởi hơn trong đời sống

Trang 30

Đối với con người thế kỷ 17, hình ảnh núi non hùng vĩ gợi cho họ nhiều điều khó chịu, mệt mỏi Nhưng những con người thời đại văn minh, núi non lại gợi cho họ khả năng xả hơi, thoát khỏi những cảnh hè nóng nực, bàn giấy cứng nhắc….Đó chính

là sức mạnh của nghệ thuật mang lại

1.3.1.3 Nghệ thuật giải quyết và cải biến nhu cầu của con người

Nghệ thuật tạo ra nhu cầu rất lớn, thôi thúc con người hành động Nó mở đường và dọn đường cho những sức mạnh sâu lắng nhất của chúng ta Nó tác động chẳng khác nào một cuộc động đất, làm lộ ra những vỉa đất mới Vì thế, theo Biukher, Âm nhạc

có cội nguồn xuất phát từ công việc tay chân nặng nề, và chúng có nhiệm vụ giải quyết sự căng thẳng nặng nề của lao động:

 Theo gót tiến trình lao động, chúng ra hiệu để cho mọi người cùng một lúc dồn hết sức vào làm việc

 Chúng cố gắng kích thích mọi người vào làm việc

 Chúng tổ chức lao động tập thể và đưa lại cách tháo thoát cho sự căng thẳng của cơ thể

Dường như chính tự nhiên đã tặng âm nhạc cho chúng ta để gánh vác lao động được nhẹ nhàng hơn Ví dụ: bài hát kích thích người chèo thuyền hăng say đưa nhịp mái chèo; Nó có ích không chỉ trong những công việc đòi hỏi sự hợp lực của nhiều người mà

cả sự mệt nhọc của một người cũng được giảm bớt nhờ bài hát thô sơ

Trong âm nhạc, nhịp điệu hàm chứa kích thích lớn Nhịp điệu làm nảy sinh trong con người ham thích ghê gớm muốn bắt chước, hòa nhịp với nó không chỉ bằng bước chân, mà cả tâm hồn cũng đi theo nhịp… Thật vậy, một cung đàn không thể cứ đánh liên miên đều đều bất phân nhịp mạnh nhịp yếu mà khỏi nhàm tai Một họa phẩm cũng vậy, các đường nét phải đặt sao cho có tổ chức không hỗn loạn, mầu sắc phải ăn nhập hài hòa, mới không tức mắt

Đối với loài người mê tín cổ xưa, còn cái gì có ích hơn là nhịp điệu Nhờ nó

mà mọi chuyện đều có thể làm được: Nó giúp cho công việc một cách thần kỳ; Nó buộc thần linh phải xuất hiện, phải đến gần và lắng nghe; Nó có thể uốn nắn được tương lai theo ý muốn của mình, giải thoát tâm hồn khỏi những điều tai ương và không chỉ riêng tâm hồn mình mà cả tâm hồn của quỷ sứ độc ác nhất

Trang 31

Như vậy, toàn bộ hành vi ứng xử của con người là quá trình làm cân bằng cơ thể với môi trường Trong quá trình đó, nghệ thuật đã thực sự đưa lại sự cân đối và trật tự cho những cảm xúc của chúng ta

1.3.1.4 Giáo dục nghệ thuật hỗ trợ, thúc đẩy sự hình thành và xuất hiện hành vi sáng tạo

Việc thưởng thức nghệ thuật đòi hỏi sự sáng tạo, bởi để cảm thụ nghệ thuật thì đơn thuần việc trải nghiệm thành thật các cảm xúc đã chiếm lĩnh tác giả vẫn chưa đủ, còn nhất thiết phải khắc phục một cách sáng tạo cảm xúc của bản thân Chỉ khi đó tác động của nghệ thuật mới được thể hiện đầy đủ Do đó, không phải ngẫu nhiên ngay từ thời cổ xưa nhất, nghệ thuật đã được nhìn nhận như một bộ phận và một phương tiện giáo dục Ý nghĩa ứng dụng của nghệ thuật xét đến cùng đều được quy vào tác động giáo dục của nó

Khi một tác phẩm nghệ thuật xuất hiện, con người sẽ đứng dưới nhiều góc độ khác nhau để đánh giá, phê bình nó Tuy nhiên, cơ chế phê bình tác phẩm nghệ thuật

- với tư cách như một sức mạnh xã hội mở đường cho nghệ thuật - đánh giá nó với chức trách cơ bản là chuyên đóng vai như là một bộ phận truyền lực giữa nghệ thuật

và xã hội

Xét theo quan điểm của tâm lý học, vai trò của phê bình nghệ thuật được quy vào việc tổ chức các hậu quả của nghệ thuật Nó vạch ra một phương hướng giáo dục nhất định cho sự tác động của nghệ thuật Làm sao giữ cho được tác động của nghệ thuật như là của nghệ thuật, chứ không để cho độc giả vung vãi sức mạnh do nghệ thuật dấy lên và đánh tráo các xung động hùng mạnh của nó bằng những lời răn dạy đạo đức duy lý vô vị như giáo lý tin lành Đặc biệt, cần để cho tác động của nghệ thuật được thể hiện, để cho người ta được xúc động vì nghệ thuật

Dạy cho người khác hành vi sáng tạo nghệ thuật là điều không thể làm được, nhưng điều này không có nghĩa là người dạy không thể góp phần hỗ trợ và thúc đẩy

sự hình thành và xuất hiện của hành vi ấy Điều này được thể hiện rất rõ trong quan điểm của PGS TSKH Phạm Lê Hòa, Hiệu trưởng Trường Ðại học Sư phạm nghệ thuật trung ương khi được phóng viên báo Nhân Dân phỏng vấn: Con người ngày hôm nay đang chuyển động rất nhanh, một ngày của hôm nay có thể bằng mấy mươi năm trước, vì thế, cần phải xem thế hệ hôm nay đang đòi hỏi những gì, để cập nhật những kiến thức mới, đưa hơi thở của cuộc sống vào chương trình giảng dạy Chúng

Trang 32

ta phải lắng nghe xem trẻ em hôm nay đang nói như thế nào, học cách nói của chúng,

để có thể đưa những kiến thức cần thiết đến được với tâm hồn các em Trẻ em hôm nay đang dùng một "hệ ngôn từ" khác, nếu những người làm công tác giáo dục nghệ thuật không đi sâu tìm hiểu thế giới ngôn từ đó, tìm hiểu tâm tư tình cảm của các em,

mà cứ tự ngồi vẽ ra chương trình giảng dạy theo ý mình thì không thể đạt kết quả như mong muốn Người làm công tác giáo dục phải xây dựng chương trình giảng dạy phù hợp với lứa tuổi Đặc biệt, ta cũng không nên kỳ vọng đào tạo tất cả đều thành thiên tài Chúng ta chỉ cung cấp cho trẻ cái nền, còn phát triển lên như thế nào là tùy vào năng lực của mỗi người

Nghệ thuật là điểm tập kết quan trọng nhất các quá trình của một cá nhân trong xã hội Nó là phương thức để cân bằng con người với thế giới vào những giây phút nguy kịch và nghiêm trọng của cuộc đời

Trong kế hoạch của tương lai, rõ ràng không chỉ có việc xây dựng lại toàn bộ nhân loại theo những nguyên tắc mới, không chỉ có việc làm chủ các quá trình xã hội

và kinh tế, mà còn có cả “việc tôi đúc lại con người” Trong việc tôi đúc lại con người, nghệ thuật sẽ nói lên tiếng nói có trọng lượng và có ý nghĩa quyết định nhất Giáo dục nghệ thuật có một sứ mệnh đào tạo con người, huy động sức mạnh tồn tại trong cơ thể ta Không có nghệ thuật thì sẽ không có con người mới sáng tạo trong học tập, trong lao động, vì “Nghệ thuật là tiếng nói của tâm hồn”

1.3.2 Nghệ thuật với giáo dục thẩm mỹ

Thực tế đã xác định rằng, nghệ thuật là phương tiện giáo dục thẩm mỹ quan trọng nhất và hiệu quả nhất Do vừa là hình thái đặc biệt của ý thức xã hội, vừa là biểu hiện hiện tập trung đầy đủ nhất quan hệ thẩm mỹ của con người đối với hiện thực nên nghệ thuật có khả năng rất to lớn trong sự tác động tới tư tưởng, tình cảm của con người, tới sự phát triển toàn diện của nhân cách Với sức mạnh riêng của mình, nghệ thuật đã giúp cho công chúng xây dựng những tư tưởng đúng, những tình cảm đẹp làm cơ sở vững chắc cho việc hình thành những thị hiếu tốt, hướng tới một

lý tưởng trong sáng, lành mạnh, một lẽ sống đạo đức tốt đẹp, một khả năng sáng tạo phong phú mà không một hình thái ý thức xã hội nào có được Vì thế, nghệ thuật có một sức mạnh to lớn trong giáo dục thẩm mỹ Nói một cách khác, trong hoạt động giáo dục thẩm mỹ không thể thiếu đi nghệ thuật Bởi nghệ thuật với những đặc trưng

Trang 33

và vai trò vốn có của nó đã tạo ra mối liên hệ khăng khít trong sự nghiệp giáo dục về cái đẹp cho con người

1.3.2.1 Nghệ thuật gợi mở các tiềm năng sáng tạo, hoàn thiện năng lực tư duy

Hình tượng nghệ thuật với tư cách là thành quả sáng tạo có định hướng của người nghệ sĩ luôn trở thành một tín hiệu thẩm mỹ đặc biệt Tín hiệu thẩm mỹ này là sản phẩm của sáng tạo, kết tụ những kỉ niệm máu thịt của cuộc đời, chứa đựng sức sống, tiềm ẩn năng lượng Tín hiệu này có khả năng thức tỉnh mạnh mẽ tâm hồn con người theo nguyên tắc gợi mở và lan tỏa Hình tượng nghệ thuật tác động đến vùng cảm xúc sâu kín và tinh tế nhất của tâm hồn con người Khi đánh thức năng lực sáng tạo thẩm mỹ của mọi đối tượng công chúng, băng những liên tưởng, tưởng tượng, gợi

mở, nghệ thuật cũng tác động vào toàn bộ vùng sáng tạo tiềm ẩn của con người, làm cho có thể trong khoảnh khắc, tất cả những gì dường như đang miên man trong giấc ngủ mơ màng dưới đáy sâu tiềm thức chợt lay động, bừng dậy, lan tỏa…Mác – Ăngghen đã suy nghĩ bao vấn đề Triết học, Kinh tế học sâu sắc từ hình tượng nghệ

thuật Hylạp cổ đại

Âm nhạc Môda, tiểu thuyết của Đôtxtôiepxki đã tác động tới tư duy sáng tạo của Anhxtanh khi ông xây dựng những lý thuyết cơ bản về không gian, thời gian và vận động; Còn nhà Vật lý học nguyên tử Xô viết Cudơnexốp thường tìm được sự chín muồi một kết luận khoa học nào khi ông đứng đắm say trong suy tư các tác phẩm nghệ thuật Chính nghệ thuật đã làm dâng lên trong ông những kích thích mạnh

mẽ khiến cho các ý tưởng còn đang lờ ờ ẩn hiện bỗng dần dần hiện rõ, chặt chẽ và mạch lạc Có thể kể ra nhiều ví dụ về các trạng thái cảm hứng sáng tạo không chỉ của các nhà bác học nổi tiếng, mà còn ở công chúng bình thường được gây nên bởi tác động nghệ thuật Ở đây, nghệ thuật giữ vai trò gợi ở óc tưởng tượng của công chúng với tư cách là người cảm thụ, đánh thức những năng lực tiềm ẩn, chuyển sức mạnh tinh thần thành sức mạnh vật chất trong hành động sáng tạo

Vì sao nghệ thuật có khả năng kích thích các năng lực hoạt động sáng tạo của con người như vậy?

Trước hết, nghệ thuật cần được khẳng định là một hiện tượng văn hóa toàn vẹn Mặc dù chỉ là các giá trị tinh thần, song nghệ thuật là hình thức hoạt động sáng tạo của con người, nhằm mục đích nhận thức, chiếm lĩnh và xây dựng bức tranh về thế giới Nếu như khoa học tìm kiếm chân lý bằng khái niệm, thì nghệ thuật là sự tìm

Trang 34

kiếm chân lý bằng hình tượng Nghệ thuật sáng tạo ra sự hài hòa cũng như nghệ thuật

đã tìm ra sự hài hòa ở trong lòng thế giới Xét đến cùng, điều này rất gần với quan niệm về bản chất khoa học mà Anhxtanh và các nhà khoa học đã nói Khoa học với tính cách là sự khám phá, phát hiện ra tính hài hòa, khách quan của thế giới hiện thực Cho nên sự thống nhất bên trong của khoa học và nghệ thuật tòn tại trong tất cả

sự khác nhau của chúng Như vậy, cùng một bản chất sáng tạo, cũng mục đích khám phá để nhận thức thế giới, cũng là một bộ phận của thực thể văn hóa toàn vẹn, khoa học và nghệ thuật luôn tương tác, xâm nhập vào nhau, kích thích sự phát triển của nhau, tác động tới cả hai quá trình phát triển trí tuệ và nhân cách Tác động nghệ thuật đối với sự sáng tạo khoa học không phải ở chỗ nghệ thuật phải trực tiếp định ra những tư tưởng Triết học, tiền đề, định lý Toán học hay những định luật Hóa học, Vật lý học…mà bằng cơ chế gợi mở, đánh thức thông qua một loạt những cảm xúc, liên tưởng, suy tư…do hình tượng nghệ thuật mang lại

Tâm lý học sáng tạo cho biết, sáng tạo nghệ thuật không chỉ cần đến ý thức mà còn huy động cả đến tiềm thức và vô thức của con người, nhất là thế hệ trẻ Khi tiếp xúc với nghệ thuật, con người được biến đổi tâm lý một cách sâu sắc, tạo ra những đột biến trong hoạt động sáng tạo Nghệ thuật có khả năng giải tỏa tâm lý, bù đắp hoạt động của hệ thần kinh, tạo cảm hứng sáng tạo cho công chúng

Có thể nói, nghệ thuật có đóng góp không nhỏ trong việc hoàn thiện năng lực

tư duy của con người Đó là vai trò gợi mở và kích thích năng lực trực giác

Nét nổi bật, đặc trưng cho tư duy nghệ thuật chính là trực giác thẩm mỹ Đối với sáng tạo nghệ thuật, trực giác thẩm mỹ chi phối hầu như toàn bộ giai đoạn sáng tạo hình tượng ý đồ Trong giai đoạn này, nghệ sĩ cảm hứng và bất ngờ hình dung ra hình tượng nghệ thuật Việc sáng tạo hình tượng ý đồ có ý nghĩa quyết định đối với sáng tạo nghệ thuật Bởi vì sau khi vượt qua được giai đoạn khó khăn này, vấn đề còn lại chỉ là chuyển hình tượng ý đồ thành hình tượng tác phẩm Tư duy logic làm tiếp quá trình này Đối với thụ cảm nghệ thuật, trực giác thẩm mỹ thể hiện trong các phán đoán thị hiếu với tính cách là sở thích và năng lực đánh giá trực tiếp các giá trị thẩm

mỹ

Mặc dù có mối liên hệ sâu xa với tư duy logic và giáo dục, nhưng năng lực trực giác thẩm mỹ lại không quy phạm hóa được và do đó không truyền đạt được Người ta chỉ có thể rèn luyện được trực giác thẩm mỹ bằng những hoạt động sáng tạo

Trang 35

và thưởng ngoạn nghệ thuật Việc nâng cao năng lực trực giác thẩm mỹ thông qua việc sáng tạo và thưởng ngoạn nghệ thuật sẽ kích thích yếu tố gợi mở trực giác nói chung, là hoàn thiện tư duy, nâng cao năng lực sáng tạo của con người Đánh giá vai trò của trực giác thẩm mỹ, cụ thể là trực giác về cái đẹp, đối với sự gợi mở trực giác nhận thức trong khoa học, nhà toán học Pôanhcarê từng cho rằng: ấn tượng về cái đẹp có thể gây ra sự bất ngờ đối với việc làm gần lại các sự vật mà chúng ta không quen làm gần hay nói cách khác chính là phát hiện, phát kiến khoa học

Như vậy, với khả năng gợi mở trực giác, nghệ thuật có vai trò đối với việc hoàn thiện và phát triển tư duy sáng tạo của con người Giáo dục thẩm mỹ thông qua nghệ thuật cần phát huy tối đa vai trò đó của nghệ thuật

1.3.2.2 Nghệ thuật xây dựng những tình cảm đẹp, bồi dưỡng năng lực cảm xúc, tạo dựng một nhân cách hài hòa

Trước hết, nghệ thuật tạo ra những cảm xúc thẩm mỹ cho người tiếp nhận

Bằng việc tạo nên những cảm xúc thẩm mỹ, nghệ thuật tác động đến những cảm thụ tinh tế nhất, sâu xa nhất của con người, tham gia vào quá trình bồi dưỡng năng lực cảm xúc, tạo dựng một nhân cách hài hoà, hoàn thiện bắt đầu bằng việc xây dựng những tình cảm thẩm mỹ tốt đẹp

Tình cảm thẩm mỹ là một bộ phận của hệ thống tình cảm, đó là các xúc cảm, nhu cầu, thị hiếu thẩm mỹ Tình cảm thẩm mỹ phản ánh các đặc điểm, các quá trình vận động của chủ thể thẩm mỹ trước các hiện tượng thẩm mỹ khách quan Nó là sản phẩm của hoạt động thực tiễn thẩm mỹ của con người và thường xuyên thúc đẩy thực tiễn đó tiến lên Tình cảm được bộc lộ bằng các xúc cảm: vui sướng, hân hoan chào đón trước cái đẹp Chỉ có thông qua tình cảm thẩm mỹ, con người mới biết thưởng thức cái đẹp, căm giận cái xấu, xót xa cái bi thương, khâm phục cái cao cả và anh hung Nhờ tình cảm thẩm mỹ, con người mới hiểu đời sống cải tạo đời sống, hoàn thiện mọi quá trình sống Tình cảm thẩm mỹ là một bộ phận quan trọng của chủ thể thẩm mỹ, bởi tình cảm thẩm mỹ có sự tác động sâu sắc đến sự hình thành cá tính cao đẹp, các khả năng sáng tạo vượt bậc, và làm nền tảng cho tài năng nghệ thuật Tình cảm thẩm

mỹ cao đẹp sẽ kích thích hoạt động trong mọi lĩnh vực của con người Hiểu được vai trò tình cảm trong hoạt động sáng tạo và vai trò của nghệ thuật với tư cách là phương tiện giáo dục tình cảm thẩm mỹ phù hợp nhất với mọi đối tượng công chúng

Trang 36

Bằng cái đẹp, cái cao cả, nghệ thuật tăng cường bồi dưỡng năng lực cảm xúc, ngăn chặn các bệnh vô cảm về mặt thẩm mỹ thường gặp trong xã hội: lấy cạnh tranh làm lẽ sống, lấy mức độ tiêu dung làm thước đo mọi giá trị

Cảm xúc thẩm mỹ lành mạnh là khả năng rung cảm của con người trước những hiện tượng thẩm mỹ Bản thân sự rung cảm này là sự xáo động tâm lý, là niềm vui, nỗi buồn, sự xúc động được khơi dậy bởi các hiện tượng thẩm mỹ như cái đẹp, cái cao cả, cái bi, cái hài trong nghệ thuật và trong cuộc sống Cảm xúc thẩm mỹ là loại cảm xúc cao quý, vô tư, mang tính người, khẳng định sự tồn tại của con người như một chủ thể có văn hóa Là loại tình cảm đặc thù của con người, cảm xúc thẩm

mỹ nảy sinh khi chủ thể thẩm mỹ tiếp xúc trực tiếp với khách thể thẩm mỹ đặc biệt như tác phẩm nghệ thuật, sản phẩm đẹp của lao động, vẻ đẹp của tự nhiên Những cảm xúc đó kích thích tính tích cực về mặt xã hội của con người, điều tiết hành vi của

họ và tác động đến sự hình thành những lý tưởng chính trị-xã hội, đạo đức, thẩm mỹ Cảm xúc thẩm mỹ giúp con người khám phá ra vẻ đẹp của thế giới và của chính mình, cảm xúc thẩm mỹ giúp con người gạn đục, khơi trong, gạt bỏ những hình tượng nhạt nhẽo và tập trung vào những hình tượng bản chất của cuộc sống Khi quan sát và thâm nhập vào cuộc sống, chủ thể thẩm mỹ nhờ có cảm xúc thẩm mỹ mà phát hiện được những hình tượng biểu hiện đúng chiều hướng tất yếu của đời sống Khi con người biết yêu cái đẹp cũng có nghĩa là biết yêu cái thiện, tôn trọng lẽ phải, căm ghét cái xấu, cái ác, sự bất công…

Sự tồn tại của nghệ thuật với tư cách là cái đẹp ở trong tất cả các lĩnh vực của đời sống, được con người tiếp cận một cách tích cực sẽ trau dồi văn hóa cảm quan, bồi dưỡng và làm phong phú năng lực cảm xúc của con người Trái lại, nếu không có cảm xúc thẩm mỹ sẽ không có thiên tài, tài năng…

Trong công tác giáo dục thẩm mỹ, việc trau dồi cảm xúc thẩm mỹ thông qua hoạt động nghệ thuật sẽ góp phần làm nên một nhân cách hài hòa giữa lý trí và cảm xúc, giữa nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần, giữa con người kinh tế và con người văn hóa Cảm xúc thẩm mỹ cũng góp phần tự điều chỉnh hành vi cơ sở, làm xuất hiện nhu cầu và thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh

1.3.2.3 Nghệ thuật định hướng sự phát triển nhu cầu, xây dựng những thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh, góp phần giáo dục lý tưởng thẩm mỹ

Trang 37

Giáo dục thẩm mỹ là nâng cao năng lực thẩm mỹ cho con người bằng việc hướng vào các thị hiếu, các lý tưởng thẩm mỹ, hưởng thụ, đánh giá thẩm mỹ Do bản chất nhận thức thế giới, nghệ thuật giúp cho con người được giáo dục có trí tuệ phong phú hơn đồng thời nhận thức các quy luật khách quan thêm sinh động Hoạt động nghệ thuật không chỉ là hoạt động tâm lý sáng tạo mà hơn thế là thể hiện khát vọng đạo đức muốn thế giới tốt hơn, con người nhân đạo hơn Vì lẽ đó, giáo dục thẩm mỹ bằng các hoạt động nghệ thuật không chỉ đánh thức năng lực sáng tạo tiềm ẩn của con người mà còn làm cho những kết quả sáng tạo đó có ích hơn, nhân văn hơn, giúp phát triển và hướng tới nhu cầu, thị hiếu, lý tưởng thẩm mỹ cao đẹp, lành mạnh

Nhu cầu thẩm mỹ là năng lực phản ánh cảm tính, mang dấu ấn tình cảm cá nhân về những gì phổ biến trong xã hội Bản chất sâu xa của loại nhu cầu này là vừa

cố gắng vật chất hóa những năng lực bản chất của con người trong đối tượng tương ứng, lại vừa điều tiết và tổ chức toàn bộ trạng thái tinh thần của cá nhân trong hưởng thụ và sáng tạo thẩm mỹ Nhu cầu thẩm mỹ được chia làm hai loại nhu cầu cảm thụ

và sản xuất các giá trị thẩm mỹ lành mạnh và nhu cầu không lành mạnh Chỉ trong hoạt động thẩm mỹ mà nhu cầu được hình thành Và nhu cầu thẩm mỹ sau khi được hình thành lại trở thành động lực cho hoạt động thẩm mỹ ở công chúng Khi nảy sinh, nhu cầu thẩm mỹ đòi hỏi được thỏa mãn.Tuy là loại nhu cầu tinh thần, song nhu cầu thẩm mỹ lại có thể thỏa mãn bằng cái vật chất, bằng những sự vật, hiện tượng có chứa đựng giá trị thẩm mỹ Trong lĩnh vực nghệ thuật, đó chính là tác phẩm nghệ thuật Ở đây, tác phẩm nghệ thuật có giá trị góp phần định hướng, xây dựng những nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu nghệ thuật mới lành mạnh, chính đáng cho con người Trong quá trình hoạt động, nhu cầu thẩm mỹ không ngừng được thỏa mãn và nâng cao, góp phần thúc đẩy sự phát triển nhân cách của công chúng Bên cạnh những nhu cầu thưởng thức và sáng tạo thẩm mỹ đúng đắn mà nghệ thuật đã cổ vũ và nêu gương, thì đồng thời, sự nghiệp giáo dục thẩm mỹ bằng nghệ thuật cũng phê phán triệt để các nhu cầu thẩm mỹ xa xỉ, giả tạo, thấp hèn, hạ thấp nhân phẩm và giá trị vốn có của con người

Nhu cầu thẩm mỹ là nhu cầu không thể thiếu được của con người, nó luôn vận động, biến đổi, phát triển và hoàn thiện Mức độ phát triển nhu cầu thẩm mỹ lành mạnh nói lên mức độ phát triển tự do và hoàn thiện nhân cách của con người Càng khát khao vươn tới cái đẹp, con người càng rời xa khỏi điểm xuất phát là những nhu

Trang 38

cầu thực dụng, thô thiển Nghệ thuật khơi dậy ở con người những nhu cầu thẩm mỹ tốt đẹp Đây chính là nền tảng để dẫn tới những xúc cảm, thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh, chân chính

Thị hiếu thẩm mỹ (óc thẩm mỹ hay khiếu thẩm mỹ) là sở thích của con người

về phương diện thẩm mỹ Thị hiếu thẩm mỹ biểu hiện thái độ, tình cảm của con người trước những hiện tượng thẩm mỹ như cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài…trong cuộc sống và trong nghệ thuật Biểu hiện phổ biến và quan trọng nhất của thị hiếu là

và hiện tượng quan trọng, nổi bật nhất trong cuộc sống của chúng ta ngày nay Do đó, văn nghệ gây được những ấn tượng sâu sắc và bền lâu, tạo ra những rung cảm mãnh liệt, tác động đến con người một cách mạnh mẽ” [2, tr 200-201] Tiếp thu được hình tượng tốt đẹp của cuộc sống, tâm hồn con người sẽ trở nên phong phú, thị hiếu sẽ lành mạnh hơn

Sự phát triển tư duy hình tượng là kết quả cao nhất trong giáo dục thẩm mỹ bằng nghệ thuật, đồng thời là tiền đề chuyển sang mức độ phát triển thẩm mỹ cao hơn của con người Qua việc phát triển tư duy hình tượng, nghệ thuật giúp cho con người xây dựng được thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh

Muốn xây dựng một chủ thể thẩm mỹ cần thiết phải bắt từ từ cảm xúc thẩm

mỹ, làm đa dạng và phong phú ở thị hiếu tốt, ổn định ở tình cảm và hoàn chỉnh ở lý tưởng thẩm mỹ Vì thế, sự nghiệp giáo dục ở nước ta coi lý tưởng thẩm mỹ của chủ nghĩa Mác – Lênin là mục tiêu quan trọng nhất trong quá trình làm xuất hiện trên thực tế một nhân cách mới.Thông qua lý tưởng thẩm mỹ, nghệ thuật góp phần định

Trang 39

hướng giá trị, phê phán cái sai, lên án cái ác, cái xấu hướng con người tới cái đúng, cái thiện, cái đẹp; xây dựng những yếu tố tích cực của xu hướng cá nhân trong sự phát triển nhân cách

Lý tưởng thẩm mỹ thể hiện sinh động bằng những chuẩn mực của đời sống hoặc bằng hình tượng nhân vật, hình tượng cuộc sống trong nghệ thuật Vì vậy, tính chất tình cảm, cảm tính, khả năng tác động toàn vẹn và trực tiếp là những đặc điểm nổi bật của lý tưởng thẩm mỹ Mặt khác, lý tưởng thẩm mỹ lại là biểu hiện cao nhất của ý thức thẩm mỹ Sự hình thành lý tưởng thẩm mỹ ở mỗi cá nhân không chỉ tác động đến các yếu tố cấu thành ý thức thẩm mỹ mà còn tác động đến toàn bộ các nhu cầu, hứng thú, thị hiếu, lý tưởng nói chung trong xu hướng của nhân cách

Sự định hướng giá trị của lý tưởng thẩm mỹ trong nghệ thuật có thể được thể hiện bằng cả hình tượng tích cực và hình tượng tiêu cực Hình tượng tích cực vừa khái quát cái đẹp trong cuộc sống vừa thể hiện khát vọng về sự hoàn thiện như một khuynh hướng tất yếu của sự phát triển Vì thế nó có thể ảnh hưởng tới định hướng giá trị của cả một thế hệ, một thời đại Hình tượng tiêu cực phản ánh cái sai, cái xấu, cái ác trong cuộc sống Song nó phản ánh cái xấu, cái ác là để phê phán cái sai, cái xấu, cái ác, hướng con người tới cái đúng, cái thiện, cái đẹp

Thông qua đó việc định hướng lý tưởng thẩm mỹ, nghệ thuật còn là cầu nối truyền đạt thông điệp chân - thiện - mỹ từ thế hệ này sang thế hệ khác và là ngôn ngữ chung của loài người, làm cho tư tưởng, tình cảm và ý chí của con người thêm phong phú và đa đạng

1.3.3 Vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ cho thiếu nhi

Nghệ thuật là tấm gương phản ánh trung thực đời sống xã hội loài người, do đó hoạt động dạy và học nghệ thuật cho lứa tuổi thiếu nhi có tính cấp thiết, không thể thiếu, bởi yêu cầu phát triển toàn diện con người Việt Nam đầu thế kỷ XXI Nghệ thuật với mục đích cao cả nhất là hướng tới sự phát triển toàn diện trí- đức- thể- mỹ Vấn đề cốt lõi của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ cho thiếu nhi là mang đến cho trẻ những phương thức độc đáo để khám phá, định hình, thể hiện, thấu hiểu ý tưởng của bản thân và của những người xung quanh Với chức năng vai trò đặc thù, các loại hình nghệ thuật đang đóng góp tích cực vào quá trình hình thành con người mới ở Việt Nam

1.3.3.1 Sự có mặt của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ đóng vai trò quan trọng trong sự trưởng thành của trẻ em

Trang 40

Sử dụng các hoạt động nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ là sự cần thiết đối với tuổi thiếu niên, nhi đồng Âm nhạc, hội họa, múa, diễn kịch…đóng góp tích cực đào tạo con người toàn diện trong bối cảnh Việt Nam cần nguồn nhân lực vừa có tài vừa có đạo đức nghề nghiệp, do đó nghệ thuật là cơ sở tạo nhân cách biểu lộ qua ứng

xử trong sinh hoạt Sự hiểu biết đa dạng kích thích mạnh mẽ ý thức nên làm điều tốt đẹp cho mọi người, tránh điều xấu xa có hại đến bản thân, xã hội Khi tham gia trực tiếp vào hoạt động nghệ thuật, các em sẽ tự điều chỉnh hành vi, tìm đến lẽ phải, chân

lý, rút ra những bài học về lối sống có văn hóa, từ đó phẩm chất cá nhân: tính cách, năng lực được bộc lộ và sớm hình thành

Song song với các môn học trong trường, lớp, việc học nghệ thuật giúp các em tăng cường thụ cảm về thế giới nội tâm, đời sống tinh thần phong phú, nhanh chóng phát triển, mở mang trí tuệ Các hình khối, màu sắc hội họa luôn thu hút các em tìm hiểu, tạo hiệu ứng so sánh giữa tranh và cuộc sống Âm nhạc vang lên, đem lại giá trị

ý nghĩa trong mối liên hệ giữa lời ca và mối quan hệ xã hội, hình ảnh trong nghệ thuật luôn hiện lên vẻ đẹp hướng đến chân- thiện- mỹ đầy xúc cảm Đó chính là giá trị mà nghệ thuật có được, giống như ống kính vạn hoa kích thích khả năng tưởng

tượng đầy ước mơ và hoài bão Trong cuốn sách The child’s conception of the word

(xuất bản năm 1929 ở London), tác giả Jean Piaget đưa ra lý thuyết về sự phát triển các nguyên nhân của suy nghĩ logic ở trẻ em Ông cho rằng mọi sinh vật đều cố gắng

để đạt tới trạng thái cân bằng với môi trường sống của mình, thăng bằng giữa yếu tố nhận thức bản thân với sự vật, hiện tượng xã hội đang diễn ra Nghệ thuật chứa đựng hàm số tạo đà phát triển trí tuệ theo các hướng:

 Tư duy được tổ chức thúc đẩy sáng tạo đạt tới sự thăng bằng giữa cá nhân với cộng đồng

 Cảm thụ nghệ thuật tốt giúp trí tuệ hình thành phản ứng chuỗi giai đoạn, có thể đạt tới khả năng dự đoán trước, tổng hợp thành ý nghĩa, năng lực bản thân

Nghệ thuật đóng vai trò đặc biệt trong giáo dục thẩm mỹ, bởi sự tác động và ảnh hưởng lớn đến quá trình hình thành nhân cách, phát triển trí tuệ mỗi con người, đặc biệt đối với lứa tuổi thiếu niên, nhi đồng Xét cho cùng, nghệ thuật là chìa khóa phát huy cao độ phẩm chất cá nhân nhìn từ góc độ xã hội Triết học duy vật biện chứng chỉ rõ nguồn gốc sự phát triển con người tồn tại trong quá trình sinh sống của

Ngày đăng: 25/06/2021, 16:50

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
3. C. Mac (1962), Bản thảo kinh tế - Triết học năm 1844, Nxb Sự thật. Hà Nội 4. C. Mac và Ph. Ăng – ghen (1985), Về văn học nghệ thuật, Nxb Sự thật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bản thảo kinh tế - Triết học năm 1844
Tác giả: C. Mac
Nhà XB: Nxb Sự thật
Năm: 1962
5. Đinh Xuân Đại (2007), Giáo trình múa và phương pháp dạy trẻ vận động theo âm nhạc, Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình múa và phương pháp dạy trẻ vận động theo âm nhạc
Tác giả: Đinh Xuân Đại
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 2007
6. Trần Độ (1987), Thỏa mãn nhu cầu văn hóa và nâng cao thị hiếu nghệ thuật, Nxb Văn hóa, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thỏa mãn nhu cầu văn hóa và nâng cao thị hiếu nghệ thuật
Tác giả: Trần Độ
Nhà XB: Nxb Văn hóa
Năm: 1987
7. Phạm Văn Hanh (1982), Dàn dựng hoạt cảnh cho thiếu nhi, Nxb Kim Đồng, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Dàn dựng hoạt cảnh cho thiếu nhi
Tác giả: Phạm Văn Hanh
Nhà XB: Nxb Kim Đồng
Năm: 1982
8. Nguyễn Mạnh Hùng, Nguyễn Thúy Cảnh, Phạm Mỹ Hạnh (2005), Phương pháp tổ chức hoạt động hát múa thiếu nhi, Nxb Hà Nội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phương pháp tổ chức hoạt động hát múa thiếu nhi
Tác giả: Nguyễn Mạnh Hùng, Nguyễn Thúy Cảnh, Phạm Mỹ Hạnh
Nhà XB: Nxb Hà Nội
Năm: 2005
9. Bùi Văn Huệ (1997), Tâm lý tiểu học, Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tâm lý tiểu học
Tác giả: Bùi Văn Huệ
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 1997
10. Đỗ Huy (1987), Giáo dục thẩm mỹ - một số vấn đề lý luận thực tiễn, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo dục thẩm mỹ - một số vấn đề lý luận thực tiễn
Tác giả: Đỗ Huy
Nhà XB: Nxb Thông tin lý luận
Năm: 1987
11. Đỗ Huy (2002), Cơ sở triết học của văn hoá nghệ thuật Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cơ sở triết học của văn hoá nghệ thuật Việt Nam
Tác giả: Đỗ Huy
Nhà XB: Nxb Văn hóa thông tin
Năm: 2002
12. Khánh Linh (2010), “Báo động các cuộc thi nghệ thuật thiếu chân chính”, An ninh Thế giới Giữa tháng (30), tr.16 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo động các cuộc thi nghệ thuật thiếu chân chính”, "An ninh Thế giới Giữa tháng
Tác giả: Khánh Linh
Năm: 2010
13. L.N. Tônxtôi (1953), “Thư gửi L.N.Xtrakhốp ngày 23 tháng 4 năm 1976”, Toàn tập tác phẩm (3), tr. 6 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thư gửi L.N.Xtrakhốp ngày 23 tháng 4 năm 1976”, "Toàn tập tác phẩm
Tác giả: L.N. Tônxtôi
Năm: 1953
14. L.X. Vugôtxki (1997), Trí tưởng tượng và sáng tạo ở tuổi thiếu nhi, Nxb Phụ Nữ, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trí tưởng tượng và sáng tạo ở tuổi thiếu nhi
Tác giả: L.X. Vugôtxki
Nhà XB: Nxb Phụ Nữ
Năm: 1997
15. Đức Minh (1975), Một số vấn đề tâm lý học sư phạm và lứa tuổi học sinh Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề tâm lý học sư phạm và lứa tuổi học sinh Việt Nam
Tác giả: Đức Minh
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 1975
16. Trần Thị Minh Nguyệt (2007), Hướng dẫn thiếu nhi đọc sách, Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hướng dẫn thiếu nhi đọc sách
Tác giả: Trần Thị Minh Nguyệt
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 2007
17. Trần Thị Tuyết Oanh (2003), Giáo trình giáo dục học, Nxb Đại học Sư Phạm, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình giáo dục học
Tác giả: Trần Thị Tuyết Oanh
Nhà XB: Nxb Đại học Sư Phạm
Năm: 2003
18. Nguyễn Văn Phúc (1991), “Giá trị thẩm mỹ và chất lượng nghệ thuật”, Triết học (53), tr.7 - 9 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giá trị thẩm mỹ và chất lượng nghệ thuật”", Triết học
Tác giả: Nguyễn Văn Phúc
Năm: 1991
19. Suốc - cốp (1987), Vấn đề sáng tác cho thiếu nhi, Lê Đạt dịch, Nxb Văn nghệ, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vấn đề sáng tác cho thiếu nhi
Tác giả: Suốc - cốp
Nhà XB: Nxb Văn nghệ
Năm: 1987
20. Lương Thanh Tân (2009), Giáo dục thẩm mỹ trong việc hình thành lối sống văn hoá cho thanh niên vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Hành chính Quốc Gia, TP HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo dục thẩm mỹ trong việc hình thành lối sống văn hoá cho thanh niên vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện nay
Tác giả: Lương Thanh Tân
Năm: 2009
21. Nguyễn Thạc (2003), Lý thuyết và phương pháp nghiên cứu sự phát triển của trẻ em, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lý thuyết và phương pháp nghiên cứu sự phát triển của trẻ em
Tác giả: Nguyễn Thạc
Nhà XB: Nxb Đại học Sư phạm
Năm: 2003
22. Lê Thanh và An Vũ biên dịch (2000), Học vẽ có phương pháp, Nxb Trẻ, TP HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Học vẽ có phương pháp
Tác giả: Lê Thanh, An Vũ
Nhà XB: Nxb Trẻ
Năm: 2000
23. Phạm Thị Thành, Nghệ thuật sân khấu dành cho trẻ em Việt Nam, Luận án PTSKH Nghệ thuật, Viện văn hóa nghệ thuật Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghệ thuật sân khấu dành cho trẻ em Việt Nam
Tác giả: Phạm Thị Thành
Nhà XB: Viện văn hóa nghệ thuật Việt Nam

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN