TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm cây Lim xanh
Cây Lim xanh (Erythrophloeum fordii oliv) thuộc họ Đậu (Fabaceae) và phân họ Vang (Caesalpiniaceae), là cây thân gỗ lớn, thường xanh, cao từ 37-45 mét và có đường kính lên đến 200-250 cm Thân cây tròn, vỏ nâu đậm với vết nứt vuông và khí khổng dễ thấy Cây có tán lá dày, xanh quanh năm với lá kép lông chim hai lần, mặt trên màu xanh đậm và mặt dưới xanh nhạt Hoa Lim xanh mọc thành chùm ở đỉnh sinh trưởng, dài 20-30 cm, nở vào tháng 3-4, trong khi quả có hình dạng thuỗn dài 20 cm, rộng 3-4 cm, thường chín vào tháng 12 và tháng 1 hàng năm.
Hạt dẹt màu nâu đen có lớp vỏ cứng và chất sừng, xếp chồng lên nhau, giúp bảo vệ hạt và cho phép chúng tồn tại lâu trong đất, đồng thời dễ dàng trong việc bảo quản.
Lim xanh là cây ưa sáng, thường chiếm tầng trên của rừng và có khả năng phát triển trên nhiều loại đất khác nhau, bao gồm sa thạch, đá phiến sét và đá phiến mica Cây có thể chịu được độ ẩm cao và các điều kiện đất có tính axit, thường phát triển trong môi trường rừng nhiều tầng cùng với các loài cây gỗ lá rộng khác.
Lim xanh là một loại cây gỗ quý, nổi bật với đặc tính tĩnh mạch tốt, độ cứng và bền bỉ, có khả năng chịu đựng thời tiết khắc nghiệt mà ít bị cong hoặc nứt Gỗ lim xanh thuộc nhóm gỗ tứ thiết của Việt Nam, bao gồm Đinh, Lim, Sến, Táu, và đã được sử dụng rộng rãi trong xây dựng, cầu đường, cũng như sản xuất đồ gia dụng và đồ cao cấp Tuy nhiên, do nhu cầu cao và khai thác không hợp lý, nguồn gỗ lim xanh tự nhiên đang dần cạn kiệt, điều này đòi hỏi sự chú ý trong nghiên cứu, gây trồng và bảo tồn loại cây quý giá này.
Lim xanh hiện đang được xếp vào nhóm cây nguy cấp và có nguy cơ tuyệt chủng, theo Nghị định 06/2019/NĐ-CP về quản lý thực vật và động vật rừng quý hiếm Cụ thể, Lim xanh thuộc nhóm II, nghĩa là hạn chế khai thác và sử dụng cho mục đích thương mại Theo sách Đỏ IUCN, Lim xanh cũng được phân loại là loài có nguy cơ tuyệt chủng (Nguyễn Hoàng Nghĩa, 1998).
Cơ sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu cây Lim xanh
Lim xanh chủ yếu phân bố ở châu Á, đặc biệt là miền nam Trung Quốc, phía bắc Campuchia, Lào và Việt Nam, sống ở độ cao từ 300-900m Năm 1993, Viện Nghiên cứu Quốc tế Nấm Lim Xanh tại New York đã tổ chức sự kiện quan trọng nhằm thúc đẩy nghiên cứu khoa học và y học về Nấm Lim Xanh, thiết lập tiêu chuẩn chất lượng cho sản phẩm liên quan và hướng dẫn sử dụng hiệu quả để điều trị bệnh Nghiên cứu của Chen và cộng sự (1993) tại sông Savannah, Nam Carolina đã xác định nấm Lim xanh là loài bào tử đầu tiên mọc trên cây Lim xanh.
Lim xanh, một loài cây bản địa của Đông Nam Á, có giá trị gỗ cao nhưng đang bị khai thác quá mức, đe dọa nghiêm trọng đến sự tồn tại của nó Hiện tại, nhiều dự án đang được triển khai nhằm gieo ươm và trồng cây Lim xanh tại các khu vực phân bố, góp phần bảo tồn loài cây quý giá này.
Nghiên cứu về loài cây Lim xanh trên thế giới còn rất hạn chế, với thiếu hụt các công trình nghiên cứu sinh thái Hiện tại, thông tin về Lim xanh chủ yếu đến từ các nghiên cứu dược học liên quan đến Nấm Lim mọc trên cây, được thực hiện bởi Đại học California, Viện Nghiên cứu quốc tế ở New York, cũng như các quốc gia như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc Đặc biệt, Lim xanh được xếp vào nhóm thực vật có nguy cơ đe dọa cao.
Lim xanh, theo tác giả Nguyễn Hoàng Nghĩa, phân bố tự nhiên chủ yếu ở miền Bắc Việt Nam, với dải phân bố chính kéo dài từ Quảng Ninh, qua Nam Lạng Sơn, Bắc Ninh, Bắc Giang, và tiếp tục đến Vĩnh Phúc, Phú Thọ.
Cây Lim xanh phân bố từ Hà Tây (cũ), Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh đến Quảng Bình, theo nghiên cứu của Lê Mộng Chân và Lê Thị Huyên, từ biên giới Việt Trung đến Quảng Nam Hiện nay, cây Lim xanh cũng xuất hiện ở Quảng Ngãi, Bình Định và Hàm Tân (Bình Thuận) Cây phát triển trong khoảng vĩ độ 10°47'N đến 23°N và kinh độ 102°E đến 108°E, nhưng tập trung chủ yếu ở vĩ độ 17°-23°N Đến nay, chưa có tài liệu công bố tổng quan về cây Lim xanh trên thế giới, trong khi Việt Nam đã có một số nghiên cứu liên quan.
- Lim xanh (Erythrophloeum fordii oliv): Đề tài Đại học Lâm nghiệp, năm
Vào năm 1985 và trong các đề tài Viện KHLN năm 1994, 1995 do Phó Giáo sư Tiến sỹ Phùng Ngọc Lan làm chủ nhiệm, nghiên cứu chỉ tập trung vào một số vấn đề và nội dung cụ thể liên quan đến đặc điểm sinh học, lâm học và hình thái.
Đề tài Nghiên cứu Khoa học về Bảo tồn nguồn gen cây rừng do Tiến sỹ Nguyễn Hoàng Nghĩa tại Viện KHLN thực hiện từ 1996-2000, tập trung vào điều tra khảo sát một số loài cây bản địa, đặc biệt là Lim xanh Nghiên cứu bao gồm thu hái hạt, tư liệu hóa danh mục cây và xuất bản báo cáo, cùng với bảo tồn các loài cây thông qua gieo trồng Phương pháp điều tra truyền thống và sinh thái di truyền được áp dụng để xác định các vùng phân bố, nguồn gốc và tình trạng đe dọa của nguồn gen Kết quả cho thấy Lim xanh có đa dạng di truyền đáng kể, được đánh giá bằng các phương pháp phân tử như RAPD và cpADN cho 9 xuất xứ khác nhau.
Nguyễn Minh Đức (1998) đã tiến hành nghiên cứu đầu tiên về các yếu tố sinh thái dưới tán rừng và tác động của chúng đến quá trình tái sinh của loài Lim xanh tại Vườn quốc gia Bến En, Thanh Hóa.
Khi nghiên cứu về đảm bảo tái sinh trong khai thác, Phùng Ngọc Lan
Năm 1964, nghiên cứu tại lâm trường Hữu Lũng, Lạng Sơn đã chỉ ra rằng Bọ xít là yếu tố sinh vật đầu tiên ảnh hưởng đến tỷ lệ nảy mầm của hạt Lim xanh ngay từ giai đoạn nảy mầm Tác giả nhấn mạnh sự cần thiết bảo vệ và phát triển cây Lim xanh, đồng thời đề xuất một số biện pháp kỹ thuật cho việc xử lý hạt giống và gieo trồng Ông cũng khuyến cáo không nên trồng thuần loài Lim xanh.
Nghiên cứu của Kỹ sư Bùi Trọng Thủy tại Trung tâm lâm nghiệp Bắc Trung Bộ, thực hiện từ 2007-2011, tập trung vào các biện pháp kỹ thuật gây trồng một số loài cây lá rộng bản địa dưới tán rừng Thông Đề tài điều tra và đánh giá kỹ thuật trồng cây bản địa, bao gồm cây Lim xanh, tại bốn tỉnh Quảng Ninh, Hà Tây, Vĩnh Phúc và Phú Thọ.
- Bước đầu đánh giá khả năng sinh trưởng của cây Lim xanh
Nghiên cứu về Erythrophloeum fordii oliv tại Bình Phước được thực hiện bởi Phạm Văn Bốn tại Phân viện Nghiên cứu Khoa học lâm nghiệp Nam Bộ vào năm 2009 Đề tài tập trung vào khả năng sinh trưởng của cây Lim xanh trong các mô hình làm giàu rừng theo rạch và mô hình rừng trồng thuần loài cây Lim xanh.
Vào năm 2011, các tác giả Chaw Chaw Sein và Ralph Milohner từ Trung tâm Nghiên cứu Lâm nghiệp Quốc tế (CIFOR) đã tiến hành nghiên cứu về sinh thái của cây Lim xanh tại Phú Thọ, nhằm hỗ trợ cho việc trồng rừng các loài cây bản địa được lựa chọn ở Việt Nam.
Các cuộc điều tra và nghiên cứu hiện tại chỉ tập trung vào đánh giá sinh thái và đa dạng sinh học theo nhóm loài hoặc trong giai đoạn gieo ươm của cây Lim xanh Chưa có nghiên cứu tổng thể nào về tình hình phân bố, đặc điểm sinh thái, tái sinh, phát triển và công tác bảo tồn riêng cho loài cây này.
Trong giai đoạn 2011-2014, Vườn quốc gia Bến En đã thực hiện nghiên cứu về đặc điểm phân bố của loài Lim xanh (Erythrophloeum fordii oliv) Kết quả cho thấy tần suất xuất hiện của loài này là 7,33 cây/1km, chủ yếu tập trung ở địa hình đồi núi thấp và đồi thoải với độ cao từ 50-150 m Lim xanh cũng được phát hiện ở độ cao từ 30-50 m và 150-500 m, nhưng với mật độ thưa Nghiên cứu khẳng định rằng Lim xanh phân bố rộng rãi trong các trạng thái rừng và địa hình khác nhau tại Vườn quốc gia Bến En.
Nghiên cứu cho thấy, trong 05 trạng thái IIa, IIb, gỗ - nứa, IIIa1 và IIIa2, Lim xanh là thành phần chính trong cấu trúc tổ thành, đặc biệt ở trạng thái IIIa1 và IIIa2, nơi Lim xanh là loài quan trọng nhất Trong khi đó, ở trạng thái IIa, IIb và rừng hỗn giao gỗ - nứa, Lim xanh đóng vai trò là loài quan trọng thứ 3 trong việc hình thành cấu trúc lâm phần.
ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, MỤC TIÊU, NỘI DUNG
Phạm vi nghiên cứu
2.2.1 Phạm vi về nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc lâm phần và quan hệ sinh thái loài Lim xanh với các loài khác trong tổ thành
- Nghiên cứu đặc điểm tái sinh của loài Lim xanh
- Đề xuất một số giải pháp bảo tồn loài Lim xanh ở khu Bảo tồn thiên nhiên ĐaKrông
2.2.2 Phạm vi về không gian
Luận văn nghiên cứu cây Lim xanh tại khu Bảo tồn thiên nhiên ĐaKrông, tập trung vào các trạng thái rừng gỗ tự nhiên lá rộng thường xanh Mỗi trạng thái rừng được thiết lập 3 ô tiêu chuẩn để thu thập và phân tích dữ liệu.
2.2.3 Phạm vi về thời gian
Luận văn thực hiên từ năm 2018 đến 2019.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chung của đề tài là:
Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và khả năng tái sinh tự nhiên của loài Lim xanh là cần thiết để đề xuất các giải pháp hiệu quả cho việc bảo tồn, phục hồi và phát triển cây Lim xanh tại Khu bảo tồn thiên nhiên ĐaKrông.
- Xác định được cấu trúc lâm phần và quan hệ sinh thái loài Lim xanh với các loài khác trong tổ thành
- Đánh giá được đặc điểm tái sinh tự nhiên của loài Lim xanh
- Xác định được các nhân tố sinh thái ảnh hưởng tới phân bố và tái sinh loài Lim xanh
- Đề xuất được các giải pháp bảo tồn, phục hồi và phát triển cây Lim xanh trong Khu Bảo tồn thiên nhiên ĐaKrông, tỉnh Quảng Trị.
Nội dung nghiên cứu
2.4.1 Một số chỉ tiêu về nhân tố điều tra lâm phần có Lim xanh phân bố 2.4.2 Đặc điểm cấu trúc lâm phần và quan hệ sinh thái loài Lim xanh với các loài khác trong tổ thành
- Cấu trúc tổ thành lâm phần và loài Lim xanh
- Quan hệ sinh thái loài Lim xanh với các loài khác trong cấu trúc tổ thành rừng
- Phân bố số cây theo cỡ đường kính của lâm phần và của loài Lim xanh
- Phân bố số cây theo cỡ chiều cao của lâm phần và của loài Lim xanh
2.4.3 Đặc điểm tái sinh của loài Lim xanh
- Tổ thành cây tái sinh
- Mật độ cây tái sinh
- Chất lượng cây tái sinh
- Phân bố cây tái sinh theo cấp chiều cao
- Ảnh hưởng của cây bụi, thảm tươi tới tái sinh
- Nghiên cứu ảnh hưởng của một số nhân tố hoàn cảnh tới sinh trưởng chiều cao loài Lim xanh tái sinh tự nhiên
2.4.4 Một số giải pháp bảo tồn loài Lim xanh ở khu Bảo tồn thiên nhiên ĐaKrông
Phương pháp nghiên cứu
- Thu thập các tài liệu đã nghiên cứu trước đây về hệ thực vật phân bố các loài thực vật của Khu BTTN ĐaKrông
Bài viết tập trung vào việc thu thập các loại bản đồ liên quan đến quy hoạch bảo tồn và phát triển bền vững Khu BTTN ĐaKrông, nhằm mục tiêu đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 Các bản đồ này bao gồm bản đồ hiện trạng, quy hoạch và phân bố các loài thực vật quý hiếm trong khu vực.
- Báo cáo và kết quả điều tra trên Ô định vị sinh thái rừng của Khu BTTN ĐaKrông, năm 2017
- Chuẩn bị dụng cụ, trang thiết bị, vật tư
- Vật tư, văn phòng phẩm,
- In bản đồ phục vụ ngoại nghiệp thể hiện: hiện trạng tài nguyên rừng, địa hình, giao thông, các cơ sở hạ tầng phục vụ công tác QLBVR,
Tiến hành nghiên cứu bản đồ hiện trạng rừng và các trạng thái rừng, chúng tôi sẽ sơ thám và quan sát để hiểu rõ về sự phân bố của Lim xanh Đồng thời, tìm hiểu sơ bộ về tài nguyên thực vật, đất đai và khí hậu của khu vực nghiên cứu nhằm xác định địa điểm, diện tích và khối lượng công việc, phục vụ cho việc xây dựng kế hoạch và thời gian điều tra ngoại nghiệp.
2.5.3 Điều tra cây Lim xanh trên ô tiêu chuẩn
* Phương pháp lập ô tiêu chuẩn
Luận văn nghiên cứu thảm thực vật và địa hình trên ba trạng thái rừng: trạng thái II A, trạng thái III A1 và trạng thái III A2 Ô tiêu chuẩn (OTC) được thiết lập theo phương pháp điển hình nhằm khảo sát đặc điểm cấu trúc rừng có sự phân bố của Lim xanh Các OTC được bố trí tại những vị trí có tính đại diện cao trong ba trạng thái rừng nghiên cứu, với địa hình tương đối đồng nhất Đặc biệt, các OTC không nằm qua các khe, đỉnh núi, đường mòn hoặc khu vực có xe ô tô lưu thông.
Tổng số OTC được lập là 16 ô, mỗi ô có diện tích 2.000 m² (50 m x 40 m), bao gồm 8 ô ở trạng thái IIB, 4 ô ở trạng thái IIIA1 và 4 ô ở trạng thái IIIA2 Mỗi OTC được chia thành các phân ô, với diện tích mỗi phân ô là 100 m² (10 m x 10 m) Do đó, tổng số phân ô điều tra ở trạng thái IIB là 160 phân ô, trong khi trạng thái IIIA1 và IIIA2 mỗi loại có 80 phân ô.
- Dùng máy định vị GPS để xác định vị trí tâm ô tiêu chuẩn tại thực địa
- Diện tích ô tiêu chuẩn 2.000 m 2 , kích thức hình chữ nhật (50m x 40m)
- Trong ô tiêu chuẩn, thu thập các nội dung sau:
+ Đo D1.3 và Hvn tất cả các cây gỗ có D1.3 ≥ 6cm, đánh giá chất lượng theo ba cấp: A; B; C
+ Kết quả đo được ghi chép vào Biểu 2.1
Biểu 2.1 Điều tra cây Lim xanh và các loài cây gỗ trên ô tiêu chuẩn
TT Tên cây Chu vi D 1.3 (cm) H VN (m) Phẩm chất Ghi chú
* Điều tra tái sinh cây Lim xanh trên ô dạng bản
Trong mỗi ô tiêu chuẩn, có 4 ô dạng bản được thiết lập tại 4 góc, với diện tích mỗi ô là 25m² (5 x 5m) Tổng cộng có 64 ô dạng bản được sử dụng để điều tra tái sinh Cây tái sinh được khảo sát trong các ô này là những cây có đường kính ngang ngực nhỏ hơn 6 cm.
- Nội dung đo đếm: Đo đếm tất cả cây tái sinh xuất hiện trong ô dạng bản theo các nội dung sau:
- Chiều cao cây tái sinh phân theo 3 cấp: < 1m, 1-3 m, >3m
- Phẩm chất cây tái sinh phân theo 3 cấp: tốt, trung bình và xấu
Cây tốt là những cây có tán lá phát triển đều đặn, tròn xanh biếc, thân tròn thẳng, không bị khuyết tật, không bị sâu bệnh
Cây trung bình là những cây có thân thẳng, tán lá không đều, ít khuyết tật, không bị sâu bệnh
Cây xấu là những cây có tán lá lệch, lá tập trung ở ngọn, sinh trưởng kém, khuyết tật nhiều và bị sâu bệnh
- Nguồn gốc cây tái sinh phân theo hạt và chồi
Kết quả đo đếm tái sinh trên ô dạng bản được ghi chép vào Biểu 2.2
Biểu 2.2 Điều tra cây tái sinh trên ô dạng bản
Chất lƣợng Cấp chiều cao/nguồn gốc
< 1, 0 m 1,0 – 3,0 m > 3,0 m Hạt Chồi Hạt Chồi Hạt Chồi
* Điều tra một số nhân tố sinh thái nơi cây Lim xanh tái sinh tự nhiên
- Đặc điểm nhân tố khí hậu: Kế thừa tài liệu về khí tượng của trạm khí tượng thủy văn gần Khu bảo tồn thiên nhiên Đăkrông nhất
- Điều tra nhân tố đất đai: Kế thừa tài liệu nghiên cứu về đất của Khu bảo tồn thiên nhiên Đăkrông
* Điều tra cây bụi, thảm tươi
Cây bụi là loại cây thân gỗ thuộc tầng thấp, với các tiêu chí điều tra bao gồm tên loài, số lượng, phẩm chất và chiều cao được đo bằng thước mét Độ che phủ trung bình của các loài cây bụi được tính theo tỷ lệ phần trăm thông qua phương pháp ước lượng.
Thảm tươi là lớp cây cỏ bao phủ mặt đất rừng, với các chỉ tiêu điều tra bao gồm tên loài, chiều cao trung bình và độ che phủ Độ che phủ của các loài được xác định thông qua phương pháp ước lượng Việc điều tra cây bụi và thảm tươi được thực hiện trên các ô tương tự như điều tra cây tái sinh Kết quả điều tra được tổng hợp trong bảng 2.3.
Biểu 2.3 Điều tra cây bụi thảm tươi trên ô dạng bản
TT Tên loài cây chủ yếu H VN (m)
Số lƣợng (cây) Độ che phủ (%)
2.5.4 Phương pháp nội nghiệp a) Phân chia trạng thái rừng
Hệ thống phân loại rừng theo trạng thái của Loetschau (1960) đã được Viện Điều tra, Quy hoạch rừng phát triển và bổ sung thành bảng phân loại các trạng thái rừng, được quy định tạm thời trong văn bản pháp quy tại Quy phạm thiết kế kinh doanh rừng (QPN6-84).
Kiểu II A : Rừng phục hồi sau nương rẫy, đặc trưng bởi lớp cây tiên phong ưa sáng, mọc nhanh, đều tuổi, một tầng Đất trảng cây bụi có nhiều cây gỗ tái sinh tự nhiên, mật độ cây gỗ tái sinh > 1000 cây/ha với độ tàn che > 10%
Kiểu II B : Rừng phục hồi sau khai thác kiệt, phần lớn kiểu này bao gồm những quần thụ non với những loài cây tương đối ưa sáng, thành phần loài phức tạp đều tuổi, độ ưu thế không rõ ràng Vượt lên khỏi tán rừng kiểu này có thể còn sót lại một số cây của quần thụ cũ nhưng trữ lượng không đáng kể Chỉ được xếp vào kiểu này những quần thụ mà đường kính phổ biến không vượt quá 20 cm Rừng non phục hồi trên trảng cây bụi, mật độ cây gỗ > 1000 cây/ha, với đường kính > 10 cm
Kiểu III A : Được đặc trưng bởi những quần thụ đã bị khai thác nhiều, khả năng khai thác hiện tại bị hạn chế Cấu trúc ổn định của rừng bị phá vỡ hoàn toàn hoặc thay thế cơ bản Kiểu này được chia ra các kiểu phụ:
Rừng kiểu phụ III A1 đã trải qua sự khai thác mạnh mẽ, dẫn đến tình trạng kiệt quệ và sự phá vỡ tán rừng thành những mảng lớn Mặc dù trên tầng cao vẫn còn một số cây lớn, nhưng chất lượng của chúng không tốt, trong khi đó, nhiều loại dây leo, bụi rậm và tre nứa đang xâm lấn khu vực này.
Kiểu phụ III A2 là loại rừng đã trải qua quá trình khai thác quá mức nhưng hiện tại đang trong giai đoạn phục hồi tốt Đặc điểm nổi bật của kiểu rừng này là sự hình thành của tầng giữa chiếm ưu thế sinh thái, với các cây có đường kính từ 20-30m Rừng có cấu trúc đa tầng, với tầng trên tán không liên tục, chủ yếu được hình thành từ những cây của tầng giữa trước đây, trong khi một số cây lớn khỏe mạnh vẫn còn vượt tán từ rừng cũ.
Kiểu phụ III A3 là rừng đã trải qua khai thác vừa phải hoặc phát triển từ kiểu III A2, với quần thụ tương đối khép kín và có từ hai tầng trở lên Đặc điểm nổi bật của kiểu này là số lượng cây nhiều hơn, trong đó có một số cây có đường kính lớn trên 35 cm, cho phép khai thác gỗ lớn.
Kiểu III B : Rừng tự nhiên bị tác động ở mức trung bình, còn có kết cấu
3 tầng cây, với trữ lượng gỗ: 250 – 350 m 3 /ha
Kiểu III C : Rừng tự nhiên bị tác động ít, rừng có cấu trúc 3 tầng cây, các dấu vết rừng bị tàn phá không còn thể hiện rõ, có trữ lượng gỗ: 350
- 450 m 3 /ha b) Xác định công thức tổ thành các loài cây gỗ trong khu vực nghiên cứu bằng chỉ số tầm quan trọng IVI% (Important Value Index – IVI%) của
Daniel Marmillod, Vũ Đình Huề (1984)
IV% là chỉ số mức độ quan trọng của loài trong quần xã
G% là tiết diện ngang thân cây tương đối
Ni và Gi là mật độ và tổng tiết diện ngang của loài i
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI
Vị trí địa lý
Khu BTTN Đakrông có diện tích 37.681ha, tọa lạc tại 8 xã thuộc huyện Đakrông, tỉnh Quảng Trị, bao gồm Triệu Nguyên, Ba Lòng, Hải Phúc, Đakrông, Tà Long, Húc Nghì, Ba Nang và A Bung Khu vực này cách trung tâm thành phố Đông Hà khoảng 70km về phía Tây Nam.
Phía Bắc tiếp giáp xã Cam Chính - huyện Cam Lộ; xã Triệu Ái, Triệu Thượng – huyện Triệu Phong
Phía Nam tiếp giáp huyện A Lưới tỉnh Thừa Thiên Huế
Phía Đông tiếp giáp xã hải Lâm, Hải Lệ - huyện Hải Lăng, Quảng Trị và huyện Phong Điền tỉnh Thừa Thiên Huế
Phía Tây tiếp giáp Sông Đakrông và Quốc lộ 14B.
Địa hình, địa mạo
Địa hình Khu BTTN Đakrông thuộc phần phía Nam của giải Trường Sơn Bắc, với các dãy núi chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, nằm giữa hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế Những đỉnh núi cao nổi bật trong khu vực bao gồm Coc Muen (1.410m), Ca cút (1.405m), và Kovaladut (1.409m), trong khi cao độ giảm dần đến đèo Pake, nơi bắt đầu các lưu vực thượng nguồn sông Đakrông Địa hình nơi đây bị chia cắt mạnh mẽ do quá trình kiến tạo địa chất, tạo nên các kiểu địa hình đặc trưng.
Kiểu địa hình núi trung bình có độ cao từ 800 đến dưới 1.500m so với mặt nước biển, bao gồm dãy núi chạy dọc ranh giới giữa hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế Khu vực này nổi bật với các điểm như núi Đá Bàn, động Ba Sai và Đèo Peke giáp với A Lưới, là nơi có độ chia cắt mạnh mẽ nhất Độ dốc của địa hình thường dao động từ 30 đến 35 độ, thậm chí có thể lớn hơn.
Kiểu địa hình núi thấp có độ cao từ 300m đến dưới 800m, chiếm diện tích lớn nhất trong khu bảo tồn Địa hình này chủ yếu tập trung tại các xã Húc Nghì, Tà Rụt, Tà Long, A Bung và một phần phía Nam của các xã Triệu Nguyên, Ba Lòng, Hải Phúc Độ cao và độ dốc của khu vực này giảm dần, với mức độ chia cắt không phức tạp như vùng núi trung bình, độ dốc bình quân đạt khoảng 25 độ.
Địa hình đồi ở khu vực này có độ cao dưới 300m, chủ yếu phân bố tại các xã Ba Lòng, Hải Phúc, Triệu Nguyên, và một phần nhỏ ở các xã Tà Long, Húc Nghì Đặc điểm nổi bật của địa hình là độ dốc phổ biến từ 15 đến 20 độ.
- Kiểu địa hình thung lũng và đồng bằng: Độ cao từ 20m đến dưới
Thung lũng hẹp có chiều dài 300m, với phần thượng nguồn dốc và hạ lưu sông bằng phẳng, chủ yếu nằm ngoài Khu BTTN Đakrông Địa hình bằng phẳng và đất đai màu mỡ gần nguồn nước thu hút đông đảo dân cư sinh sống Diện tích bảo tồn chủ yếu tập trung tại xã Ba Lòng và một số điểm rải rác khác trong khu vực.
Đặc điểm khí hậu, thủy văn
Khu BTTN Đakrông thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, đặc trưng bởi mùa đông lạnh nhẹ và mưa vào các mùa hè, thu và đông, cùng với thời gian khô hạn kéo dài từ 1,1 đến 3 tháng Dữ liệu quan trắc khí tượng thủy văn tại trạm Đông Hà cung cấp thông tin chi tiết về điều kiện khí hậu trong khu vực này.
A Lưới, số liệu quan trắc tính trung bình trong 20 năm:
Khu vực Đakrông có chế độ nhiệt với nhiệt độ bình quân năm dao động từ 21.6 đến 25 độ C, với nhiệt độ tối cao đạt 29.6 độ C và tối thấp là 17.3 độ C, tổng nhiệt hàng năm từ 8.300 đến 8.500 độ C Mùa hè tại đây rất nóng và khô, kéo dài từ 3 đến 4 tháng, trong đó tháng có nhiệt độ cao nhất đạt 29.6 độ C Mùa đông bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 2 năm sau, chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc, với nhiệt độ trung bình luôn đạt 21.6 độ C và tháng có nhiệt độ thấp nhất dưới 17.3 độ C (A Lưới).
- Lượng mưa: Tổng lượng mưa trong năm đạt 2.244,8mm (trạm Đồng
Mùa mưa tại A Lưới thường diễn ra từ tháng 10 đến tháng 3, chiếm 95,2% tổng lượng mưa hàng năm với lượng mưa đạt đỉnh vào các tháng 10, 11 và 12, thường đi kèm với hiện tượng lũ lụt Lượng mưa ghi nhận cao nhất tại trạm A Lưới lên tới 3.404,6mm.
Độ ẩm không khí trong khu vực này tương đối cao, với mức độ ẩm trung bình hàng năm dao động từ 82% đến 86% Thời gian có độ ẩm cao nhất thường bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, đạt giá trị từ 87% đến 92% Ngược lại, tháng 6 và tháng 7 là thời điểm khô nhất trong năm, với độ ẩm giảm xuống còn 69% đến 81%.
Khu vực Đakrông chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của gió Tây khô nóng, dẫn đến tình trạng hạn hán trong giai đoạn đầu và giữa mùa hè (tháng 5 - 7) Trong thời gian này, nhiệt độ có thể đạt mức cao hơn 39 độ C, trong khi độ ẩm giảm xuống dưới 30%.
Mùa mưa bão tại khu vực này thường diễn ra vào tháng 9 và 10, khi có nhiều bão xuất hiện Những cơn bão này thường đi kèm với mưa lớn và lũ lụt, gây thiệt hại đáng kể cho người dân Tóm lại, đây là một trong những vùng có khí hậu ít thuận lợi nhất ở nước ta.
Mật độ sông suối trong vùng khá dày đặc, phân bố đều trong Khu
BTTN Đakrông có chiều dài khác nhau tùy thuộc vào điều kiện địa hình cụ thể Tất cả các sông suối trong khu vực đều đổ về sông Thạch Hãn trước khi chảy ra Biển Đông tại Cửa Việt Hệ thống thủy văn trong vùng được chia thành hai lưu vực chính.
Lưu vực sông Ba Lòng là nơi hội tụ của nhiều nhánh sông chính, bao gồm Khe Làng An, Ba Giang và Sông Nhùng, nằm trong khu bảo tồn thiên nhiên Những chi lưu lớn này không chỉ cung cấp nước tưới tiêu mà còn phục vụ sinh hoạt cho các xã lân cận Tuy nhiên, trong tổng thể toàn lưu vực, các chi lưu này chỉ đóng vai trò là những nhánh nhỏ góp phần vào dòng chảy chính.
Lưu vực sông Đakrông dài khoảng 145 km, bao trọn ba mặt của Khu Bảo Tồn (KBT) ở phía Tây, Bắc và Nam Trong KBT, sông Đakrông được hình thành từ các chi lưu chính như Khe Achò, Khe Ba Lê, Suối Trù và sông Tà Long, với độ dài của từng dòng suối phụ thuộc vào đặc điểm địa hình cụ thể Sông Đakrông là nhánh chính cung cấp nước cho sông Ba Lòng.
Hệ thống sông suối trong Khu BTTN Đakrông có mật độ dày, nhưng thường ngắn và dốc với nhiều ghềnh thác cùng cửa sông hẹp Vào mùa mưa, lưu lượng nước sông tăng cao, trong khi vào mùa khô, lưu lượng giảm Điều này dẫn đến hiện tượng nước triều cường chảy ngược lên nguồn, gây ảnh hưởng mặn đến ruộng đồng và các hoạt động sản xuất xung quanh bờ sông.
Địa chất, đất đai
Khu vực nghiên cứu theo tài liệu của A.E Dov jikov năm 1971 nằm trong hệ tầng máng uốn nếp Caledon Việt-Lào ở Bắc Trung Bộ, được giới hạn bởi đứt gãy sâu sông Mã phía Bắc và đứt gãy sâu Tam Kỳ - Hiệp Đức phía Nam Các núi thấp trong Khu BTTN Đakrông chủ yếu được cấu tạo từ đá Macma bazơ và trung tính có nguồn gốc núi lửa, trải dài từ Cồn Tiên, Dốc Miếu đến Hướng Hóa, Khe Sanh, Lao Bảo và các khu vực lân cận gần A Lưới Các loại đá tiêu biểu bao gồm Forfirit, Andezit, và Diorit với màu sắc phớt lục, nâu đỏ hoặc tím hồng.
Các núi thấp và đồi cao ở vùng Đakrông, Mò Ó, Triệu Nguyên, Ba Lòng, Hải Phúc chủ yếu được hình thành từ các loại đá trầm tích và biến chất có kết cấu hạt mịn như phiến thạch sét, phylit, sa phiến thạch, mica, bột kết và cát kết, có niên đại từ thời Ocdovic đến Silua.
Quá trình hình thành đất trong khu vực KBT xuất phát từ nền địa chất phức tạp cùng với sự phân chia khí hậu và thủy văn đa dạng, phong phú Kết quả điều tra đã xác định được một số loại đất chính phân bố trong khu vực này.
Đất Feralit có mùn trên núi trung bình hình thành trong điều kiện nóng ẩm, dốc và không có nước đọng, với nhiều mùn và tầng đất màu đỏ phát triển trên đá Macma bazơ trung tính Loại đất này thường có tỷ lệ đá lẫn cao, với thành phần cơ giới mịn và nặng, phân bố ở độ cao từ 800 đến 1.500m so với mực nước biển, chủ yếu tập trung tại dãy núi giữa Quảng Trị và Thừa Thiên Huế.
Nhóm đất Feralit đỏ vàng phát triển trên núi thấp, có quá trình Feralit hóa điển hình và màu sắc phụ thuộc vào loại đá mẹ Loại đất này thường phân bố ở độ cao dưới 800m và được chia thành hai dạng chính.
Đất Feralit đỏ vàng là loại đất hình thành trên nền đá phiến thạch sét, có cấu trúc cơ giới nặng và thường có độ dày lớn, chất lượng đất tốt và không chứa đá lẫn Loại đất này chủ yếu phân bố tại các xã Triệu Nguyên, Ba Lòng và Hải Phúc.
Đất Feralit nâu đỏ là loại đất hình thành từ đá Macma Bazơ và trung tính, có đặc điểm cơ giới nặng và kết cấu tốt Loại đất này có tầng dày và không chứa đá lẫn trong lớp đất Đất Feralit nâu đỏ chủ yếu phân bố tại các xã Tà Long và Húc Nghì.
Nhóm đất dốc tụ và phù sa sông suối trong các thung lũng là loại đất phì nhiêu, có tầng dày và màu nâu, với thành phần cơ giới chủ yếu là cát pha và thịt nhẹ, giàu dinh dưỡng Hàng năm, đất này được bồi đắp thêm một lớp phù sa mới rất màu mỡ Loại đất này phân bố dọc theo các sông suối trong vùng, tập trung nhiều ở hạ lưu sông Đakrông, Thạch Hãn và các chi lưu của chúng.
Thảm thực vật rừng và đa dạng sinh học
3.5.1 Hiện trạng Thảm thực vật rừng Để phân loại thảm Khu BTTN Đakrông nhóm nghiên cứu lựa chọn quan điểm của Thái Văn Trừng Ông vận dụng 5 yếu tố quần lạc sinh địa phát sinh thảm thực vật rừng: Vị trí địa lý, Khí hậu, Thổ nhưỡng, thực vật và yếu tố xã hội Trên quan điểm phân chia đó Thảm thực vật rừng Đakrông được chia thành các kiểu chính và phụ sau: a) Rừng kín lá rộng thường xanh mưa mùa nhiệt đới núi thấp:
Kiểu rừng này có diện tích 14.411,5 ha, chiếm 38,25% tổng diện tích tự nhiên, phân bố chủ yếu tại các xã Tà Long và Hải Phúc, với một phần nhỏ ở xã Húc Nghì, giáp với núi Thượng Hùng và núi Ba Sai Độ tàn che của rừng đạt từ 0,7 đến 0,8, với cấu trúc rừng phân thành 4 tầng Trong tầng chính, các loài cây chủ yếu là Cóc đá.
Garuga pierrei, also known as Lim xanh, and Erythrophleum fordii are notable species among various tree genera, including Lithocarpus spp., Castanopsis spp., and Quercus spp Additionally, Cinnamomum tonkinense, Melanorrhoea laccifera, and Aphanamixis polystachya contribute to the diversity of the region Other significant species include Polyalthia modesta, Nephelium cuspidatum (commonly referred to as Chôm chôm hậu giang), Pometia pinnata (Trường sâng), Pterospermum spp., and Phoebe lanceolata, along with several Syzygium spp trees.
Tầng cây bụi và thảm thực vật ngoại tầng trong rừng phát triển mạnh mẽ, với nhiều loài tiêu biểu như Lấu - Psychotria spp., Xú hương - Lasianthus condorensis, cùng các loài thuộc họ Ba mảnh vỏ - Euphorbiaceae, Ô rô - Acanthaceae, Cam quýt - Rutaceae, và các loài thảm tươi trong ngành Dương xỉ - Polypodiophyta, họ cỏ - Poaceae, và họ Ráy - Araceae Những loài này tái sinh dưới tán rừng, tạo điều kiện cho sự phát triển của lớp cây kế cận cho tầng trên trong môi trường rừng kín lá rộng thường xanh mưa mùa á nhiệt đới ở vùng núi thấp.
Kiểu rừng á nhiệt đới núi thấp có diện tích 6.278,0 ha, chiếm 16,66% tổng diện tích rừng, chủ yếu phân bố tại khu vực giáp ranh giữa hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Độ tàn che của rừng dao động từ 0,7 đến 0,9, với cấu trúc rừng được chia thành 4 tầng Thành phần thực vật của tầng cây gỗ đại diện cho kiểu rừng này thường bao gồm loài Re gân hình thang.
- Cinnamomum scalarinervium, Dẻ lá tre - Quercus bambusifolia, Giổi xanh -
Michelia mediocris, Huỳnh nương - Ternstroemia japonica, Thích lá thuôn - Acer oblongum, Vàng tâm - Manglietia dandyi, Dẻ cau - Quercus xanthoclada, Trâm - Syzygium hancei, Thâu lĩnh - Alphonsea squamosa,
Trong khu vực này, có nhiều loài cây lá kim mọc xen kẽ như Kim giao, Thông nàng, Hoàng đàn giả và Thông tre lá dài Các loài thực vật ở tầng B và C chủ yếu thuộc các họ như Cà phê (Rubiaceae), Cam quýt (Rutaceae), Ba mảnh vỏ (Euphorbiaceae), Ráy (Araceae), Cỏ (Poaceae) và Dương xỉ (Polypodiophyta) Kiểu phụ thứ sinh lá rộng thường xanh xuất hiện sau quá trình khai thác kiệt.
Diện tích 8.411,70 ha, chiếm 22,32% tổng diện tích khu rừng đặc dụng, phân bố chủ yếu dọc theo hai dãy núi ven sông Thạch Hãn Hệ sinh thái ở đây đã bị ảnh hưởng bởi hoạt động khai thác trước đây, dẫn đến sự phá vỡ cấu trúc tầng tán và tạo ra nhiều khoảng trống trong rừng Các loài cây nổi bật bao gồm Bời lời (Litsea spp.), Kháo (Machilus spp.), Bồ hòn (Sapindus mukorossi), và nhiều loài khác như Vối thuốc (Schima wallichii) và Ba bét (Mallotus spp.) Ngoài ra, khu vực còn có các loài cây bụi như Xú hương, Lấu và thảm thực vật như Dương xỉ, Ráy, Cỏ.
Kiểu phụ thổ nhưỡng có diện tích 59.6 ha, chiếm 0.16% và phân bố tại phân khu hành chính dịch vụ ban quản lý KBT Với cấu trúc địa chất đặc biệt, môi trường sống không thuận lợi đã dẫn đến sự phát triển không rõ ràng của tầng tán Một số loài cây thường gặp ở kiểu thảm này bao gồm Trường sâng (Pometia pinnata), Sấu (Dracontomelon duperreanum), Ruối rừng (Streblus asper), Ô rô (Streblus ilicifolius) và Nhò vàng (Streblus taxoides).
Trai lý - Garcinia fagraeoides, Đa - Ficus vasculosa, Xanh - Ficus virens,…
Tầng cây bụi thảm tươi phát triển bình thường Tái sinh tự nhiên dưới tán rừng kém phát triển e) Kiểu phụ thứ sinh phục hồi trên đất mất rừng:
Kiểu rừng này có diện tích 5.487,7 ha, chiếm 14,56% KBT, phân bố chủ yếu ở vùng thấp gần dân cư tại các xã như Triệu Nguyên, Ba Lòng, Tà Rụt Rừng có nguồn gốc từ nương rẫy bỏ hoang, đặc trưng với cấu trúc một tầng, đường kính và chiều cao đồng đều Thành phần thực vật chủ yếu gồm các cây tiên phong ưa sáng mọc nhanh như Hu đay (Trema orientalis), Màng tang (Litsea cubeba), Sếu (Celtis japonica), Chặc khế (Dysoxylum binectariferum), Thẩu tấu (Aporosa dioica), Ràng ràng mít (Ormosia balansae), Ràng ràng xanh (Ormosia pinnata), Cà ổi Ấn Độ (Castanopsis indica), Cò ke (Grewia laurifolia), và Vối thuốc (Schima wallichii).
Ba soi - Macaranga spp., Ba bét - Mallotus spp., Sòi - Sapium sebiferum, Sòi tía - Sapium discolor, f) Kiểu phụ thứ sinh tre - nứa và hỗn giao gỗ - nứa:
Kiểu rừng này có diện tích 109,3 ha, chiếm 0,29% của KBT, phân bố gần thác Đỗ Quyên Nó hình thành trên đất mất rừng do canh tác nương rẫy, khai thác quá mức và chiến tranh Các loài tre nứa như Lồ ô (Bambusa balcooa), Giang (Maclurochloa montana) và giang đặc (Melocalamus compactiflorus) cùng với các loài cây gỗ như Sến (Sarcosperma kachinense), Vạng trứng (Endospermum chinense), Dẻ (Castanopsis ceratacantha) và Chẹo (Engelhardtia spicata) cũng mọc xen kẽ Tầng thảm tươi ở đây phát triển kém.
Kiểu rừng này không nhiều có diện tích 403.7ha chiếm 1.07% tổng diện tích KBT, được trồng tại xã Ba Lòng, Hải Phúc Các loài cây được trồng là
Keo các loại (Acacia spp.) và Sao đen (Hopea odorata) là những loài cây chủ yếu được trồng trong dự án 5 triệu héc ta rừng nhằm phủ xanh đất trống và đồi núi trọc Dưới tán rừng, lớp thảm tươi chủ yếu bao gồm các loài dương xỉ thuộc ngành Polypodiophyta.
Cỏ - Poaceae và rải rác một số loài cây bụi như Lấu - Psychotria adenophylla, Lâu đỏ - Psychotria poilanei,… h) Trảng cỏ, cây bụi, cây gỗ rải rác:
Kiểu thảm thực vật này có diện tích 2.488,7 ha, chiếm 6,6% diện tích KBT, hình thành từ đất nương rẫy cũ bị bỏ hoang và chịu ảnh hưởng của chiến tranh Với thành phần loài tương đồng, thảm thực vật bao gồm các cây bụi và cỏ như Sim (Rhodomyrtus tomentosa), Cỏ tranh (Imperata cylindrica), Mua (Melastoma spp.), Cỏ lào (Eupatorium odoratum), Đót (Thysanolaena maxima), Lách (Saccharum spontaneum) và Tế guột (Dicranopteris linearis).
3.5.2 Khu hệ Thực vật rừng a) Đa dạng thành phần loài
Kết quả các đợt điều tra, nghiên cứu đến tháng 8 năm 2012 tại Khu BTTN Đakrông đã xác định được 1.452 loài thực vật bậc cao có mạch, thuộc
670 chi, 153 họ của 5 ngành thực vật khác nhau, thể hiện qua bảng 02 dưới đây:
Bảng 3.1 Phân bổ các Taxon thực vật Khu BTTN Đakrông
TT Ngành thực vật Số họ Số chi Số loài
Nguồn: Trung tâm Tài nguyên & MTLN năm 2012 và 2015
Khu BTTN Đakrông đã ghi nhận 5 trong tổng số 6 ngành thực vật phân bố ở Việt Nam, chiếm 71,43% về số ngành và 40,48% về số họ Ngành Mộc lan - Magnoliophyta chiếm ưu thế với 1.399 loài, tương đương 96,48% tổng số loài được ghi nhận Tiếp theo là ngành Dương xỉ - Polypodiophyta với 37 loài (2,55%), ngành Thông - Pinophyta với 10 loài (0,69%), và cuối cùng là ngành Thông đất - Lycopodiophyta với 3 loài.
Cỏ tháp bút – Equisetophyta 1loài
Hệ thực vật Đakrông có sự đa dạng phong phú với 22 yếu tố địa thực vật toàn cầu, trong đó nhóm nhiệt đới chiếm ưu thế với 1.347 loài, tương đương 92,82% tổng số loài Nhóm thực vật gây trồng có 67 loài (4,62%), nhóm ôn đới 28 loài (1,94%), và nhóm toàn cầu 8 loài (0,55%) Trong số các yếu tố nhiệt đới, hệ thực vật Đakrông có mối quan hệ chặt chẽ với 368 loài thuộc Nhiệt đới châu Á, tiếp theo là 222 loài đặc hữu và 164 loài từ lục địa châu Á Yếu tố đặc hữu được coi là quan trọng nhất trong việc xác định mục tiêu bảo tồn.
Vào năm 2010, trong khuôn khổ khảo sát theo chuyên đề tại Khu BTTN Đakrông, Tiến sỹ Andrew Henderson đã phát hiện ra một loài mới cho khoa học mang tên Lá nón Đakrông - Licuala dakrongensis tại khu vực Ba Lòng.
Đặc điểm kinh tế - xã hội
3.6.1 Dân số, dân tộc a) Dân số
Khu vực 13 xã vùng đệm của Khu BTTN Đakrông, thuộc 4 huyện Đakrông, Cam Lộ, Triệu Phong và Hải Lăng, có tổng dân số 42.821 người với 8.943 hộ, trung bình 4,78 nhân khẩu/hộ tính đến tháng 12 năm 2015 Tỷ lệ tăng dân số trung bình đạt 1,42%, nhưng có xu hướng giảm trong những năm gần đây và không đồng đều giữa các xã; các xã dọc đường Hồ Chí Minh thường có tỷ lệ tăng cao hơn, trong khi xã Cam Chính ghi nhận tỷ lệ thấp nhất là 0,8% Cơ cấu và mật độ dân số được trình bày trong bảng dưới đây.
Bảng 3.3 Dân số, lao động các xã vùng đệm Khu BTTN Đakrông
Số nhân khẩu Trong tuổi lao động Người
Tỷ lệ tăng dân số %
Nguồn: Niêm giám thống kê huyện Đakrông và điều tra tại các xã năm 2015
Trên địa bàn các xã vùng đệm của KBT có ba dân tộc sinh sống là: Pa
Dân tộc Pa Kô và Vân Kiều chiếm tỷ lệ cao tại các xã dọc đường Hồ Chí Minh, trong khi các chính sách của Đảng và Nhà nước được thực hiện hiệu quả hàng năm nhằm hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số tại các xã đặc biệt khó khăn Công tác định canh định cư, hạn chế di dân tự do, và ổn định sản xuất cũng như đời sống là những ưu tiên quan trọng trong phát triển nguồn nhân lực tại khu vực này.
Theo thống kê, vùng đệm có 23.265 người trong độ tuổi lao động, trong đó nữ giới chiếm khoảng 49% Đa phần lao động tại huyện làm việc trong nông, lâm nghiệp, chiếm hơn 80% tổng số lao động Tỷ lệ lao động trong các lĩnh vực công nghiệp, xây dựng và thương mại đang gia tăng Sự phát triển kinh tế đã ảnh hưởng đến cơ cấu lao động và phân công lại lao động xã hội Tuy tỷ lệ lao động có trình độ qua đào tạo nghề đạt khoảng 1,8%, nhưng phần lớn không tham gia trực tiếp vào sản xuất Mặc dù có sự tiến bộ trong trình độ lao động, một bộ phận dân cư vẫn duy trì tập quán canh tác lạc hậu, dẫn đến năng suất và hiệu quả lao động chưa cao.
Sản xuất nông nghiệp đóng vai trò chủ yếu trong nền kinh tế của các xã vùng đệm Khu BTTN Đakrông Dù gặp nhiều khó khăn về thời tiết và trình độ canh tác, nền kinh tế nông nghiệp tại đây đang dần ổn định về cả chất lượng lẫn số lượng, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Cây lúa nước là một trong những cây lương thực chủ yếu, đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực với diện tích gieo trồng ngày càng tăng Nhà nước đã đầu tư vào các chương trình khai hoang và cải tạo đồng ruộng, cùng với việc xây dựng các công trình thủy lợi để mở rộng diện tích trồng lúa Các khu vực như xã Cam Chính, Triệu Ái, Mò Ó, Đakrông, Ba Nang và Tà Long là những nơi có điều kiện thuận lợi về đất đai và nguồn nước tưới tiêu Trong những năm gần đây, năng suất lúa trung bình đạt từ 36 đến 38 tạ/ha.
Vào năm 2015, diện tích cây lúa nương tại các xã vùng đệm đạt khoảng 968,7 ha với tổng năng suất 32.868 tạ Tuy nhiên, năng suất trung bình của lúa nương chỉ đạt từ 6-8 tạ/ha, cho thấy lúa nương có năng suất thấp Người dân vẫn tiếp tục canh tác lúa nương một cách tự phát và thực hiện đốt rẫy để làm nương, điều này gây ảnh hưởng tiêu cực đến hệ sinh thái rừng.
Trong những năm gần đây, diện tích gieo trồng ngô đã có xu hướng tăng lên, với sự đầu tư từ nhà nước về giống và phân bón, đạt 1.124,9 ha vào năm 2015 Tuy nhiên, do chủ yếu được trồng trên đất nương rẫy, năng suất ngô vẫn còn thấp, chỉ đạt bình quân 11 tạ/ha Các xã có diện tích trồng ngô tập trung bao gồm Tà Rụt, A Bung, Ba Nang, Đakrông, Ba Lòng, và Triệu Nguyên.
Diện tích cây công nghiệp lâu năm, bao gồm cây cà phê và cây hồ tiêu, đang có xu hướng giảm Nguyên nhân chủ yếu là do biến đổi khí hậu, thời tiết bất lợi, mưa bão lớn và đất đai không còn phù hợp cho việc trồng trọt Cà phê đã được trồng từ nhiều năm trước, nhưng tình hình hiện tại đang gây khó khăn cho sự phát triển bền vững của các loại cây này.
- Chăn nuôi : Trong những năm gần đây, tại các xã vùng đệm của Khu
Ngành chăn nuôi tại BTTN Đakrông hiện đang gặp khó khăn với giá trị sản xuất còn thấp Số lượng đàn bò chỉ đạt 3.547 con và đàn trâu không có sự thay đổi đáng kể với 4.716 con Đàn lợn đang có xu hướng giảm dần với tổng số 14.223 con, trong khi đàn gia cầm chỉ tăng không đáng kể với 116.347 con Đàn dê hiện có 2.536 con, cho thấy sự phát triển chậm của ngành chăn nuôi trong khu vực.
Trong những năm qua, các xã vùng đệm đã triển khai trồng rừng sản xuất tập trung và rừng phòng hộ thông qua các chương trình như dự án 5 triệu ha rừng và trồng rừng thay thế nương rẫy Đặc biệt, huyện Đakrông được chọn làm thí điểm cho đề án giao rừng tự nhiên Khu BTTN cũng đã cử cán bộ hỗ trợ các hộ gia đình ở Triệu Nguyên và Mò ó áp dụng các mô hình phát triển lâm sinh như trồng tre lấy măng và cây ăn quả, nhằm tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho người dân Những nỗ lực này không chỉ giúp bảo vệ tài nguyên rừng mà còn phục hồi những khu rừng đã bị khai thác kiệt, góp phần vào sự bền vững của Khu BTTN.
Tổ chức đã triển khai giao khoán bảo vệ 460ha rừng tự nhiên cho các hộ gia đình và cộng đồng dân cư tại các xã vùng đệm như Ba Lòng, Triệu Nguyên, Húc Nghì Đồng thời, tổ chức cũng làm việc với phòng tài nguyên môi trường để bàn giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Công tác giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp được chú trọng và thực hiện hàng năm Hiện tại, bên cạnh thu nhập từ rừng trồng, nhiều hộ gia đình còn có thêm nguồn thu từ việc khai thác lâm sản ngoài gỗ như mây, lá nón, tre và vỏ cây đay.
3.6.4 Hệ thống hạ tầng thiết yếu a) Hệ thống đường giao thông
Hệ thống giao thông đường bộ được phân bố hợp lý với các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ, huyện lộ và mạng lưới đường liên xã đã được nâng cấp và mở rộng Sự phát triển đồng bộ này cơ bản đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
Quốc lộ 9, dài 29 km, là tuyến đường quan trọng trong Hành lang kinh tế Đông-Tây, kết nối miền Trung Việt Nam với các nước Lào, Thái Lan và Myanmar Tuyến đường này cũng đóng vai trò thiết yếu trong việc kết nối các khu vực miền núi phía Tây của huyện với vùng biển tỉnh Bên cạnh đó, Đường Hồ Chí Minh huyền thoại dài 72 km đi qua huyện, giúp các xã vùng sâu vùng xa dễ dàng liên thông với các khu vực trong tỉnh và lân cận.
- Tỉnh lộ: Có 02 tuyến với tổng chiều dài 31,5 km Gồm tuyến 41-Ba
Lòng (19,5 km) và Tà Rụt-La Lay (12 km)
Việc xây dựng hệ thống giao thông nông thôn theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm đã mang lại nhiều kết quả tích cực, tuy nhiên vẫn còn nhiều khó khăn Đặc biệt, đường đến các thôn, bản chủ yếu là đường đất, gây khó khăn trong việc di chuyển vào mùa mưa, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế Hệ thống giao thông đến khu sản xuất nông lâm nghiệp vẫn chưa được đầu tư đầy đủ, và cần cải thiện hệ thống các công trình thủy lợi và cấp nước để hỗ trợ phát triển nông thôn hiệu quả hơn.
Trong thời gian qua, huyện đã ưu tiên đầu tư xây dựng hệ thống thuỷ lợi với hơn 44 công trình tại các xã vùng đệm và 01 trạm bơm tại xã Mò Ó, tổng diện tích tưới thiết kế trên 600 ha Tuy nhiên, thực tế chỉ sử dụng tưới được 350 ha lúa đông xuân và khoảng 300 ha lúa hè thu, cùng với việc kiên cố hoá 20 km kênh mương Một số công trình quy mô vừa, như hệ thống đập dâng Khe Lau tại xã Hải Phúc, đã hoàn thành và phát huy hiệu quả tích cực.