TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Nhìn nhận chung
Bệnh cây rừng là một tác hại tự nhiên phổ biến, ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây Những bệnh này có thể làm giảm lượng sinh trưởng hàng năm của cây gỗ, và trong một số trường hợp nghiêm trọng, có thể dẫn đến cái chết của cây hoặc thậm chí gây ra hiện tượng chết hàng loạt.
Nước ta đã đối mặt với nhiều loại bệnh hại cây trồng, trong đó có bệnh khô cành bạch đàn gây thiệt hại trên 11.000 ha tại Đồng Nai, 5.800 ha ở Thừa Thiên Huế và hơn 50 ha ở Quảng Trị Ngoài ra, các bệnh như khô xám thông, khô ngọn thông, thối cổ rễ thông, vàng lá sa mộc, chổi sể tre luồng và tua mực quế cũng đã gây ra những tổn thất nghiêm trọng cho ngành lâm nghiệp.
Cây trồng và vật gây bệnh đều bị ảnh hưởng bởi môi trường xung quanh, dẫn đến sự khống chế lẫn nhau Tính chống chịu của cây và khả năng xâm nhiễm của vật gây bệnh phụ thuộc vào điều kiện môi trường Khi môi trường thuận lợi cho cây chủ và không có lợi cho vật gây bệnh, quá trình gây bệnh có thể bị kéo dài hoặc ngưng lại Ngược lại, nếu môi trường thuận lợi cho vật gây bệnh, quá trình gây bệnh sẽ phát triển mạnh mẽ Mối quan hệ giữa cây chủ, vật gây bệnh và môi trường là chặt chẽ và biến động theo thời gian, ảnh hưởng đến sự phát sinh và phát triển của bệnh cây Việc nghiên cứu mối quan hệ động thái của ba yếu tố này là cần thiết để hiểu rõ quy luật phát sinh bệnh cây và đưa ra các giải pháp phòng trừ hiệu quả.
Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
1.2.1 Tình hình nghiên cứu bệnh hại thực vật trên thế giới
Bệnh cây rừng là một lĩnh vực khoa học đã hình thành hơn 150 năm, phát triển song song với sự gia tăng sản xuất Lâm Nghiệp Robert Hartig, nhà khoa học người Đức (1839-1901), là người đầu tiên đặt nền móng cho lĩnh vực này khi phát hiện ra thể quả nấm và sợi nấm trong gỗ, công bố những phát hiện của mình ra toàn thế giới vào năm 1974.
Nhà bệnh lý học Liên Xô Vanhin (1890-1951) là người có cống hiến xuất sắc cho môn bệnh lý cây rừng, nổi bật với những nghiên cứu thành công về bệnh mục gỗ và bệnh mục trên cây đứng Ông được coi là người sáng lập trường bệnh lý cây rừng ở Liên Xô.
Vào những năm 50 của thế kỷ XX, nhiều nhà khoa học đã tập trung nghiên cứu bệnh cây, với L Roger (1953) nghiên cứu bệnh hại ở các nước nhiệt đới và John Boyce (1951) mô tả một số bệnh hại cây rừng phổ biến Đặc biệt, G.H Haptinh, nhà khoa học người Mỹ, đã dành 30 năm (từ 1940 đến 1970) để điều tra chủng loại và mức độ hại liên quan đến sinh thái cây và bệnh hại.
Nhiều nhà khoa học Ấn Độ và Trung Quốc, như Spaulding (1961), Bavski (1964) và Peace (1962), đã công bố nhiều loại bệnh hại trên cây, trong đó nổi bật là bệnh đốm lá gây hại cho cây Bạch đàn.
* Nghiên cứ về bệnh hại thông
Bệnh hại thông là một vấn đề phổ biến trên toàn cầu Năm 1968, giáo sư F.G Browne từ Trường đại học Oxford đã tổng hợp thông tin về bệnh hại các loài thông, bao gồm ba loài thông chủ yếu được trồng ở Việt Nam Trong tác phẩm "Pests and Disease of Forest Plantation Trees," ông đã công bố danh sách tất cả các loài nấm đã được xác định gây hại cho các loài thông này.
Năm 1972-1974 Uhlig S.K cho rằng bệnh rơm lá có thể là C
Bệnh Pinidensiflorae Hori et Nambu lần đầu được phát hiện vào năm 1917 trên cây Thông Pinus pinaster và P thumbergii Sau Thế chiến thứ hai, bệnh này đã trở nên phổ biến ở miền Nam Nhật Bản Cũng trong năm 1917, Nambu đã xác định vật gây bệnh là C pinidensiflorae Hori et Nambu, ký sinh trên cây Thông đỏ (Pinus densiflora) tại Mogome, Kagoshima, Nhật Bản Từ đó, nhiều tác giả đã phát hiện ra sự hiện diện của bệnh này trên nhiều loài Thông khác nhau trên toàn thế giới.
1.2.2 Những nghiên cứu về bệnh hại thực vật trong nước
Bệnh cây ở Việt Nam rất phổ biến, ảnh hưởng đến hầu hết các loại cây trồng Tuy nhiên, nghiên cứu về bệnh cây, đặc biệt là bệnh cây rừng, bắt đầu muộn hơn so với thế giới Trong thời kỳ thuộc Pháp, một số nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu về các loại nấm gây bệnh cho cây rừng, cây gỗ và cây cảnh, nhưng lĩnh vực khoa học bệnh cây rừng chỉ thực sự phát triển từ những năm đầu thập kỷ 60.
Từ những năm 1960, Hoàng Thị My đã nghiên cứu về các loại nấm hại lá tại khu vực phía Nam, trong khi Nguyễn Sỹ Giao phát hiện bệnh khô lá Thông gây hại cho cây con trong giai đoạn vườn ươm vào năm 1966 Ông đã nghiên cứu đặc điểm sinh học của bệnh và áp dụng thuốc Bordo để phòng chống Đến năm 1969, ông đề xuất gọi bệnh này là rơm lá thông và xác định nguyên nhân gây bệnh là do nấm Cerospora pinidensflorae Hori et Nambu.
Năm 1971, Trần Văn Mão đã công bố nhiều tài liệu quan trọng về nấm bệnh trên các loài cây rừng như trẩu, quế, hồi và sở, trong đó đề cập đến điều kiện phát bệnh và biện pháp phòng trừ Ông đã thực hiện hàng trăm công trình nghiên cứu liên quan đến bệnh cây rừng, góp phần nâng cao hiểu biết về vấn đề này.
Vào năm 1975, Uhlig cùng các nhà khoa học tại viện nghiên cứu lâm nghiệp và Trường đại học Lâm Nghiệp đã tiến hành 12 thử nghiệm với các loại thuốc hóa học nhằm chống lại bệnh rơm lá thông ở Quảng Ninh Đến năm 1991, Phạm Văn Mạch đã nghiên cứu nguyên nhân gây bệnh và đề xuất các biện pháp phòng trừ thối nhũn cây thông trong vườn ươm Trong các năm 2000 và 2002, Phạm Quang tiếp tục công trình nghiên cứu này.
Thu đã nghiên cứu về bệnh tuyến thông ba lá ở Lâm Đồng , bệnh khô lá bạch đàn
Từ năm 1990, Giáo sư Hodges đã tiến hành đánh giá bệnh cây tại vườn ươm và rừng trồng cây bồ đề, keo, mỡ thông và bạch đàn trong vùng nguyên liệu của nhà máy giấy và bột giấy Vĩnh Phúc Ông đã phát hiện một số loại bệnh nghiêm trọng, đặc biệt là do nấm Botrytis cinerea, gây tổn thương đến lá và thân cây con của bạch đàn Eucalyptus camaldulensis và E urophylla.
Trong rừng trồng bạch đàn, phát hiện 2 căn bệnh: Thối mục thân cây do nấm
Cryphonectria cubensis trên cây bạch đàn liễu E excerta lâu năm và bệnh đốm lá Cylindrocladium trong vườn ươm và rừng trồng đang trở thành vấn đề nghiêm trọng Năm 1990, đoàn đánh giá hỗn hợp của FAO/UNDP và chính phủ Việt Nam đã thực hiện đánh giá các dự án VIE/86/026 và VIE/86/028, báo cáo về mối đe dọa nghiêm trọng của nấm bệnh tại Đồng Nai và sông Bé.
Khoa học bệnh cây rừng đang phát triển mạnh mẽ với việc hoàn thiện lý luận và phương pháp phòng trừ hiệu quả, giúp giảm thiểu thiệt hại cho tài nguyên rừng Tuy nhiên, vẫn còn nhiều bệnh nghiêm trọng chưa được giải quyết triệt để, và một số bệnh đã được dập tắt nhưng có thể tái phát trong điều kiện mới Do đó, việc nghiên cứu và áp dụng các kết quả trước đây là cần thiết để phát triển các biện pháp phòng trừ bệnh cây trồng trong tương lai.
* Tình hình nghiên cứu về bệnh hại Thông
Năm 1966, Nguyễn Sỹ Giao phát hiện bệnh khô lá thông gây hại cho cây con trong vườn ươm Ông đã nghiên cứu đặc điểm sinh học của bệnh và áp dụng một số loại thuốc hóa học, chủ yếu là nước Bordo, để chống lại bệnh này.
1969, Nguyễn Sỹ Giao đề nghị gọi bệnh này là bệnh rơm lá thông và phát hiện nguyên nhân gây bệnh là do nấm Cerospora pinidensiflorae Hori et
Vào năm 1975, Uhlig và các nhà khoa học tại viện nghiên cứu Lâm Nghiệp cùng Trường đại học Lâm Nghiệp đã tiến hành nghiên cứu và thử nghiệm một số loại thuốc hóa học nhằm phòng chống bệnh rơm lá thông tại Quảng Ninh.
ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, TÀI NGUYÊN VÀ KINH TẾ XÃ HỘI
Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu
Khu vực núi Luốt, thuộc thị trấn Xuân Mai - Chương Mỹ - Hà Nội, là nơi nghiên cứu thực nghiệm của trường đại học Lâm nghiệp Nơi đây cách trung tâm thành phố Hà Nội 35km về phía Đông Bắc và cách thành phố Hòa Bình 45km về phía Tây Bắc, với tọa độ ranh giới hành chính cụ thể.
- Phía Đông giáp với Quốc lộ 21A - đường Hồ Chí Minh
- Phía Tây và Tây Bắc giáp với xã Hòa Sơn huyện Lương Sơn tỉnh Hòa Bình
- Phía Nam giáp với thị trấn Xuân Mai và Quốc lộ 06
- Phía Bắc giáp với nông trường chè Cửu Long
Theo thông tin từ bộ môn Quản lý môi trường của Khoa Quản lý Tài nguyên và Môi trường - Trường Đại học Lâm Nghiệp, mùa khô diễn ra từ tháng 11 đến hết tháng 3 năm sau, trong khi mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 và kéo dài đến tháng 10.
Tổng lượng mưa hàng năm đạt 1647,1 mm, phân bố không đều theo tháng, với lượng mưa cao nhất vào tháng 7 và tháng 8, vượt 300 mm Ngược lại, tháng 1 ghi nhận lượng mưa thấp nhất chỉ 13,8 mm, trong khi tháng 12 có 22,2 mm Độ ẩm trung bình là 81,5%, với độ ẩm cao nhất vào tháng 3 đạt 85,5%, và thấp nhất vào tháng 12 là 78,4%.
Nhiệt độ trung bình hàng năm tại khu vực này đạt 23,9°C, với tháng 1 là tháng lạnh nhất, nhiệt độ trung bình chỉ 17,1°C Tháng 6 và tháng 7 là hai tháng nóng nhất, nhiệt độ lên tới 28,5°C Khu vực này chịu ảnh hưởng bởi hai loại gió chính: gió mùa Đông Nam, mang lại không khí mát mẻ và ẩm ướt, và gió mùa Đông Bắc, lạnh và khô, hoạt động từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau Ngoài ra, vào mùa hè, đặc biệt trong các tháng 4, 5, và 6, khu vực cũng có thể trải qua những ngày gió Tây khô nóng.
Khu vực nghiên cứu bao gồm hai quả đồi, đồi 76 và đồi 133, với địa hình trung bình và ít bị chia cắt, nối tiếp nhau theo hướng Đông Bắc - Tây Nam Đỉnh đồi 133 có độ cao tuyệt đối 133m, trong khi đỉnh đồi 76 có độ cao 76m Độ dốc trung bình của khu vực dao động từ 17° đến 22°.
133 có độ dốc đột ngột lớn nhất khoảng 26 0 - 27 0 nhỏ nhất khoảng 5 0 Một số nơi ở đồi thấp 76 là sườn thoải nói chung là 50% Phân bố đều
3.5.2.2 Tính mức độ bị bệnh
Mức độ bị bệnh đƣợc tính theo công thức :
R% : mức độ bị bệnh (%) ni : số cụm lá bị hại ở cấp hại i vi : trị số cấp hại i
N : tổng số cụm lá điều tra
V : trị số cấp hại cao nhất ( V=4)
- Mức độ hại bình quân đƣợc tính theo công thức sau :
R% : mức độ hại bình quân của cây n: số cành điều tra
Ri : mức độ bị hại ở từng cành
Từ kết quả tính mức độ bị hại trung bình ( ̅%) của từng loại bệnh, nếu :
0 ≤ ̅% < 10% cây khỏe 10% ≤ ̅%< 25% cây bị hại nhẹ 25% ≤ ̅%< 50% cây bị hại vừa 50% ≤ ̅% < 75% cây bị hại nặng 75% ≤ ̅% cây bị hại rất nặng
3.5.2.3 Phương pháp xác định vật gây bệnh
Sau khi thu thập mẫu lá bị bệnh về phòng thí nghiệm, chúng tôi tiến hành xác định vật gây bệnh nhƣ sau:
Mẫu lá bệnh được thu thập và cho vào túi ni lông, sau đó ghi số mẫu và mô tả các đặc điểm của khu vực lấy mẫu Mẫu này sẽ được buộc kín và mang về phòng thực hành bộ môn Bảo vệ thực vật rừng - Trường Đại học Lâm nghiệp để tiến hành mô tả và xác định nguyên nhân gây bệnh.
Sau khi thu thập mẫu bệnh, chúng tôi tiến hành quan sát hình thái của vết bệnh, chú trọng đến sự thay đổi về màu sắc, kích thước và hình dạng Sự hỗ trợ từ giáo viên hướng dẫn cùng với tài liệu liên quan giúp chúng tôi xác định tên bệnh một cách chính xác.
Để quan sát vật gây bệnh, đầu tiên cần chuẩn bị lam kính sạch và nhỏ một giọt nước cất lên đó Sử dụng que cấy nấm, lấy những chấm đen trên vết bệnh và đặt lên lam kính, sau đó đậy lamen lại Tiến hành quan sát bào của vật gây bệnh dưới kính hiển vi với độ phóng đại 400 lần Nếu phát hiện có cơ quan sinh sản bao bọc bào tử, sử dụng dao lam cắt bộ phận bị bệnh và tiếp tục quan sát trên kính hiển vi Cuối cùng, vẽ, mô tả và đo kích thước cơ quan sinh sản của vật gây bệnh bằng trắc vi thị kính.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Xác định tỷ lệ bị bệnh và mức độ bị bệnh đối với cây Thông đuôi ngựa
4.1.1 Tỷ lệ bị bệnh trên cây Thông đuôi ngựa (P%)
Sau khi điều tra, cây Thông đuôi ngựa ở Núi Luốt bị ảnh hưởng bởi hai loại bệnh chính: bệnh khô xám lá Thông và bệnh rụng lá Thông Kết quả từ 6 đợt điều tra đã được tổng hợp và thể hiện trong bảng 4.1.
Bảng 4.1 Tỷ lệ bị bệnh trên cây Thông đuôi ngựa ( P%) ÔTC
Tổng số cây trong ÔTC
Khô xám lá thông Rụng lá Thông
Kết quả từ bảng 4.1 cho thấy tỷ lệ bệnh trên 6 ÔTC có sự khác biệt không đáng kể, với sự phân bố bệnh tương đối đồng đều Trong số hai loại bệnh được khảo sát, bệnh rụng lá Thông chiếm tỷ lệ 87,2%, trong khi bệnh khô xám lá Thông có tỷ lệ 97,5% Sự khác biệt này được thể hiện rõ hơn qua biểu đồ hình 4.1.
Hình 4.1: Tỷ lệ bị bệnh trên cây Thông đuôi ngựa
4.1.2 Mức độ bị bệnh của Thông đuôi ngựa
Tỷ lệ bị bệnh chỉ phản ánh sự phân bố của bệnh hại mà chưa đánh giá được mức độ nghiêm trọng của bệnh trên cây Thông Vì vậy, chúng tôi đã tiến hành điều tra mức độ hại đối với cây Thông đuôi ngựa và tính toán mức độ hại cho từng loại bệnh cụ thể.
Bảng 4.2 Mức độ bị bệnh lá Thông đuôi ngựa ÔTC Tổng số cây
Khô xám lá Thông Rụng lá Thông
Rụng lá Thông Khô xám lá Thông
Bảng 4.2 cho thấy mức độ hại của bệnh rụng lá Thông và bệnh khô xám lá Thông dao động từ mức độ hại vừa đến nặng Cụ thể, bệnh khô xám lá Thông có mức độ hại trung bình là 57,25%, với tình trạng lá cây khô héo, có thể dẫn đến chết cây nếu bị nặng Trong khi đó, bệnh rụng lá Thông có mức độ hại trung bình là 39,22%, thuộc mức độ hại vừa.
Nhƣ vậy, mức độ bị bệnh của bệnh khô xám lá Thông nặng hơn bệnh rụng lá Thông Điều này thể hiện rõ hơn qua biểu đồ hình 4.2.
Xác định nguyên nhân gây bệnh trên lá cây Thông đuôi ngựa
Qua điều tra và thu thập mẫu bệnh trên cây Thông đuôi ngựa, đã phát hiện hai loại bệnh chính: bệnh khô xám lá do nấm Pestalotiopsis funerea gây ra và bệnh rụng lá do nấm Lophodermium pinastri.
4.2.1 Bệnh khô xám lá Thông
Lá cây Thông đuôi ngựa khi bị bệnh khô xám sẽ xuất hiện các đốm vàng, sau đó chuyển sang màu nâu và hơi thắt lại, cuối cùng trở thành màu trắng xám Bệnh thường xuất hiện ở phần đầu ngọn lá, với ranh giới rõ ràng giữa vùng bệnh và phần lá khỏe mạnh.
Rụng lá Thông là hiện tượng khô xám của lá, trên bề mặt xuất hiện nhiều chấm nhỏ màu đen rải rác, đó chính là cơ quan sinh sản của nấm gây bệnh, được gọi là đĩa bào tử.
Bệnh khô xám lá Thông đuôi ngựa do nấm Pestalatiopsis funerea gây ra, với triệu chứng đặc trưng là sự xuất hiện của các vết nâu xám trên lá Nấm này có khả năng phát triển mạnh trong điều kiện ẩm ướt, ảnh hưởng đến sức khỏe của cây Việc nhận diện sớm triệu chứng và áp dụng biện pháp phòng ngừa là rất quan trọng để bảo vệ cây trồng khỏi bệnh khô xám.
Nấm Desm thuộc bộ nấm bào tử và ngành phụ nấm bất toàn, có đĩa bào tử vùi dưới biểu bì với đường kính từ 100 đến 200 µm Bào tử của nấm này có hình thoi và chứa 5 tế bào.
3 tế bào giữa màu nâu sẫm, 2 tế bào ở hai đầu không màu, trên đỉnh tế bào có
3 lụng roi, lụng roi dài 10 -19àm, bào tử cú kớch thước 15-25àm x 7-10àm (Hình 4.4)
Hình 4.4: Bào tử và đĩa bào tử nấm gây bệnh khô xám lá Thông
Bệnh rung lá Thông đuôi ngựa có triệu chứng rõ ràng với các đốm vàng xuất hiện trên lá, kèm theo những chấm nhỏ màu đen, đó là vỏ bào tử phân sinh Khi lá bị bệnh, chúng sẽ vàng và rụng xuống, sau đó khô lại Trên bề mặt lá khô, có sự xuất hiện của các chấm đen hình thoi, cùng với các đường viền màu đen bao quanh chúng.
Hình 4.5: Triệu chứng bệnh rụng lá Thông Đặc điểm của nấm gây bệnh rụng lá Thông đuôi ngựa: Bệnh rụng lá
Thông đuôi ngựa là một loại nấm thuộc ngành phụ nấm bất toàn, cụ thể là Lophodermium pinastri Chev, gây ra hiện tượng rụng lá Đặc điểm nổi bật của nó là đĩa bào tử hình bầu dục, có màu xám đen và hơi lồi Túi bào tử có hình ống, trong khi bào tử túi thì hình sợi, đơn bào và không màu Sợi bên của nấm thường thẳng, nhưng đôi khi cũng có thể hơi uốn cong.
Hình 4.6: Bào tử và đĩa túi của nấm gây bệnh rụng lá Thông
Ảnh hưởng của một số nhân tố sinh thái tới sự phát sinh, phát triển của bệnh hại lá Thông đuôi ngựa,
Nhiều nhân tố ảnh hưởng đến sự phát sinh và phát triển của nấm bệnh, bao gồm địa hình, khí hậu như nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa, cây chủ, và tác động của con người Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ tập trung vào một số nhân tố có ảnh hưởng rõ rệt đến bệnh hại lá trên cây Thông đuôi ngựa tại núi Luốt.
Theo kết quả điều tra, bệnh khô xám lá Thông có tỷ lệ phổ biến 97,5% và bệnh rụng lá Thông là 87,2% Cả hai bệnh này đều phân bố đều trong khu vực điều tra, với mức độ gây hại nặng đối với bệnh khô xám lá Thông và vừa đối với bệnh rụng lá Thông Mức độ gây hại của các bệnh này cũng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố địa hình, với sự giảm dần của sự gây hại từ chân đồi lên đỉnh đồi, như thể hiện trong bảng 4.3.
Bảng 4.3: Ảnh hưởng của địa hình đến mức độ bị hại ÔTC Vị trí ô tiêu chuẩn Độ cao so với mặt nước biển (m)
Mức độ bị bệnh ( R%) Bệnh khô xám Bệnh rụng lá
6 Đỉnh đồi 133 54,93 37,78 Ảnh hưởng của yếu tố định hình còn được thể hiện trên biểu đồ hình 4.7
Hình 4.7: Ảnh hưởng của địa hình đến mức độ bị hại
Chân đồi Sườn đồi Đỉnh đồi
Bệnh rụng lá Thông Bệnh khô xám lá Thông
Nghiên cứu cho thấy mối quan hệ giữa độ cao so với mặt nước biển và mức độ bệnh hại ở cây Thông Cụ thể, độ cao tăng thì mức độ bị bệnh giảm; ở chân đồi, bệnh khô xám lá Thông đạt 58,23%, trong khi sườn đồi là 57,84% và đỉnh đồi chỉ 55,46% Đối với bệnh rụng lá Thông, mức độ bị bệnh lần lượt là 40,41% ở chân đồi, 38,97% ở sườn đồi và 38,20% ở đỉnh đồi Sự khác biệt này do điều kiện nhiệt độ và độ ẩm tại chân và sườn đồi thuận lợi cho sự phát triển của mầm bệnh, trong khi đỉnh đồi có khả năng giữ ẩm kém và tiếp nhận ánh sáng tốt hơn, dẫn đến điều kiện phát bệnh yếu hơn.
Hướng phơi có ảnh hưởng đáng kể đến mức độ gây hại của bệnh khô xám lá Thông và bệnh rụng lá Thông Trong cùng một địa hình, sự khác biệt về hướng phơi dẫn đến sự phát sinh và phát triển bệnh không đồng nhất Để chứng minh ảnh hưởng này, tôi đã tính toán mức độ bị hại (R%) của các ô tiêu chuẩn ở hai hướng phơi Đông-Nam và Tây-Bắc, với kết quả được trình bày trong bảng 4.4.
Bảng 4.4: Ảnh hưởng của hướng phơi tới mức độ bị hại
Mức độ bị hại Bệnh khô xám Bệnh rụng lá
Sự ảnh hưởng của hướng phơi đến mức độ bị bệnh được thể hiện ở biểu đồ hình 4.8
Hình 4.8: Ảnh hưởng của hướng phơi đến mức độ bị hại
Rụng lá Thông Khô xám lá Thông Loại bệnh
Bảng 4.4 và hình 4.8 cho thấy mức độ hại của bệnh khô xám lá và bệnh rụng lá Thông đuôi ngựa khác nhau giữa hai hướng phơi Cụ thể, bệnh rụng lá Thông ở hướng Đông Nam có mức độ hại là 38,99%, trong khi hướng Tây Bắc là 39,46% Đối với bệnh khô xám lá Thông, mức độ hại ở hướng Đông Nam là 57,56% và ở hướng Tây Bắc là 56,94% Mức độ gây hại ở sườn Đông-Nam luôn lớn hơn sườn Tây-Bắc do ảnh hưởng của ánh sáng mặt trời và nhiệt độ Mặt trời mọc ở hướng Đông cung cấp năng lượng cho quá trình bốc hơi nước và tạo ra sương đọng trên lá, trong khi sườn Tây giữ nhiệt độ cao hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các bệnh này.
4.3.3 Ảnh hưởng của một số nhân tố khí tượng đến sự phát sinh, phát triển của bệnh
Nấm bệnh trong tự nhiên chịu ảnh hưởng lớn từ các yếu tố khí tượng, đặc biệt là nhiệt độ và độ ẩm, theo giáo trình bệnh cây rừng của GS TS Trần Văn Mão (1997) Những yếu tố này không chỉ tác động đến khả năng sinh trưởng và phát triển của sợi nấm mà còn ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát sinh nấm bệnh Trong nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi tập trung vào việc tìm hiểu ảnh hưởng của một số yếu tố khí tượng đến sự phát sinh và phát triển của bệnh tại khu vực nghiên cứu.
Nhiệt độ đóng vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng và phát triển của vết bệnh Hầu hết các loài nấm có khả năng tồn tại trong một khoảng nhiệt độ tương đối rộng.
Nấm phát triển tốt nhất ở nhiệt độ từ 20-30 độ C, với mức tối thiểu là 7-10 độ C và tối đa từ 30-35 độ C Một số loài nấm có khả năng chịu nhiệt độ cao hơn.
Nhiệt độ có ảnh hưởng rõ rệt đến quá trình gây bệnh ở cây trồng, với nhiệt độ càng cao càng tạo điều kiện thuận lợi cho nấm xâm nhiễm Đối với bệnh khô xám lá Thông, nhiệt độ lý tưởng từ 24-28°C giúp tỷ lệ nảy mầm của nấm đạt 95% Ngược lại, ở nhiệt độ 16°C với độ ẩm cao, nấm bắt đầu phát triển, đặc biệt nếu trước đó nhiệt độ vượt 20°C và có nhiều mưa, bệnh sẽ trở nên nghiêm trọng hơn Khi nhiệt độ giảm xuống dưới 11°C, nấm sẽ ngừng phát triển.
Kết quả điều tra về ảnh hưởng của nhiệt độ đến mức độ bị bệnh trên cây Thông tại khu vực nghiên cứu đƣợc thể hiện trong bảng 4.5
Bảng 4.5 Ảnh hưởng của nhiệt độ đến mức độ bị bị bệnh láThông
Mức độ bị hại (R%) Bệnh khô xám Bệnh rụng lá
Số liệu bảng 4.5 đƣợc thể hiện tại hình 4.9
Hình 4.9: Ảnh hưởng của nhiệt độ đến mức độ gây hại lá Thông
Rụng lá Khô xámNhiệt độ
Biểu đồ hình 4.9 cho thấy mối liên hệ giữa nhiệt độ và mức độ hại của các bệnh Cụ thể, khi nhiệt độ tăng, mức độ hại cũng tăng theo Ở lần đo đầu tiên với nhiệt độ 22°C, mức độ hại của bệnh khô xám đạt 56,41% và bệnh rụng lá Thông là 38,61%.
Mức độ bị hại của bệnh khô xám ở nhiệt độ 24 độ C đạt 56,73%, trong khi bệnh rụng lá Thông là 38,82% Ở lần đánh giá thứ ba, mức độ bị hại của bệnh khô xám tăng lên 56,94% và bệnh rụng lá Thông là 38,98% Sự gia tăng này chủ yếu do sự chuyển mùa từ xuân sang hè, dẫn đến nhiệt độ tăng nhanh theo từng tháng, tạo điều kiện thuận lợi cho nấm bệnh phát triển và gây hại cho lá Thông.
4.3.3.2 Độ ẩm Độ ẩm là một nhân tố quan trọng và cần thiết đối với sự sinh trưởng, phát triển của nấm Khi độ ẩm cao, rất thuận lơi cho bào tử nấm nảy mầm, từ đó nấm xâm nhập vào cây chủ rất nhanh, tỷ lệ sống của bào tử nấm cao Vì vậy, nơi có độ ẩm cao thường có số lượng bào tử nhiều và mức độ gây hại lớn “ Bào tử nảy mầm cần phải có giọt nước, độ ẩm bão hòa, hầu hết bệnh cây yêu cầu độ ẩm không khí >80%, nếu độ ẩm không khí tăng sẽ xúc tiến hình thành bào tử ” ( Theo Quản lý bảo vệ rừng, tập II, trang 179) Do đó có thể nói độ ẩm ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và lây lan của nấm gây bệnh
Kết quả điều tra cho thấy độ ẩm có ảnh hưởng đáng kể đến mức độ bị hại của bệnh rụng lá Thông và bệnh khô xám lá Thông, được trình bày chi tiết trong bảng 4.6.
Bảng 4.6: Ảnh hưởng của độ ẩm đến mức độ bị hại
Mức độ bị hại (R%) Bệnh khô xám Bệnh rụng lá
Kết quả từ bảng 4.6 cho thấy trong tháng 3, độ ẩm có sự thay đổi rõ rệt Ở lần đo đầu tiên với độ ẩm 82%, mức độ bị hại của bệnh khô xám là 56,41% và bệnh rụng lá là 38,61% Ở lần đo thứ hai với độ ẩm 84%, mức độ bị hại của bệnh khô xám tăng nhẹ lên 56,73%, trong khi bệnh rụng lá là 38,82% Đến lần đo thứ ba, với độ ẩm 87%, mức độ bị hại của bệnh khô xám đạt 56,94% và bệnh rụng lá là 38,98% Tuy nhiên, do thời gian giữa các lần đo gần nhau, mức độ bị hại không có sự khác biệt nhiều.
Độ ẩm đóng vai trò quan trọng trong từng giai đoạn phát triển của bệnh, quyết định thời kỳ xâm nhiễm của vật gây bệnh và ảnh hưởng lớn đến thời kỳ ủ bệnh.
Số liệu bảng 4.6 đƣợc thể hiện tại hình 4.10
Hình 4.10: Ảnh hưởng của độ ẩm đến mức độ gây hại lá Thông
Đề xuất một số biện pháp quản lý, chăm sóc và phòng trừ bệnh hại Thông tại khu vực nghiên cứu
Mục tiêu của khoa học bệnh cây là phát triển các biện pháp hiệu quả và kinh tế để giảm thiểu tác hại của bệnh, bảo vệ cây trồng, và nâng cao năng suất cũng như chất lượng sản phẩm Do đó, công tác phòng trừ bệnh cây, đặc biệt là bệnh cây rừng, đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì năng suất cây trồng.
Trong khu vực nghiên cứu là rừng trồng Thông đuôi ngựa thuần loài, nấm bệnh có khả năng xâm nhập và phát triển mạnh mẽ, do đó việc phòng trừ nấm bệnh cần áp dụng phương pháp quản lý vật gây hại tổng hợp (IPM) Phương pháp này không chỉ đảm bảo yếu tố cân bằng sinh thái mà còn phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội tại địa phương Bệnh rụng lá và bệnh khô xám trên cây Thông đuôi ngựa phân bố đều và mức độ thiệt hại từ vừa đến nặng Vì vậy, chúng tôi đề xuất một số biện pháp phòng trừ hiệu quả nhằm bảo vệ cây trồng.
Trong giai đoạn gieo ươm, việc kiểm tra chất lượng và tuyển chọn hạt giống là rất quan trọng để ngăn chặn sự phát triển của mầm bệnh Hạt giống được chọn cần phải có phẩm chất tốt và cần được xử lý trước khi gieo nhằm tiêu diệt nguồn bệnh.
- Đất trồng Thông phải phù hợp với vùng sinh thái, nhằm tạo điều kiện thuần lợi cho cây sinh trưởng và phát triển tốt
Nghiên cứu trồng hỗn giao cây Keo, cây Thông và một số loài cây bản địa phù hợp có thể giúp hạn chế khả năng chọn lọc cây chủ của vật gây bệnh, từ đó giảm tác hại của bệnh và ngăn chặn dịch bệnh lây lan.
- Định kỳ điều tra bệnh hại, nhằm sớm phát hiện bệnh hại để có biện pháp phòng trừ
Áp dụng các biện pháp vật lý và cơ giới trong công tác phòng trừ bệnh cây bằng cách chặt bỏ cành, cụm lá và cây bị bệnh giúp giảm thiểu nguồn bệnh hiệu quả.
Công tác chăm sóc và quản lý cây rừng đóng vai trò quan trọng trong sự sinh trưởng, phát triển và khả năng kháng bệnh của cây Để nâng cao hiệu quả chăm sóc, cần tăng cường điều tra và giám sát tình hình bệnh hại trong khu vực Đồng thời, bảo vệ rừng cũng là yếu tố cần thiết để hạn chế tác động xấu đến cây trồng, từ đó giảm thiểu sự phát sinh và phát triển của bệnh hại.
- Trong điều kiện phải phun thuốc hóa học, có thể sử dụng các loại thuốc sau:
(.) Rắc hỗn hợp tro bếp và vôi với tỉ lệ 9 phần vôi + 1 phần tro, 15 ngày
1 lần dưới tán cây, rắc 2 đến 3 lần (http://luanvan.co/luan-van/quan-ly-sau- benh-hai-rung-trong-18128)
(.) Phun bordo 1% hoặc Zineb 0,5% hoặc Tuzed 0,8%, 15 ngày 1 lần, phun vài ba lần
+ Bệnh khô xám lá Thông: Bệnh rất khó phòng trừ, đến nay chƣa tìm ra biện pháp hữu hiệu
Việc sử dụng thuốc hóa học cần tuân thủ đúng loại thuốc và liều lượng, nhằm tránh ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường, sức khỏe con người và các vi sinh vật có lợi Điều này không chỉ đảm bảo hiệu quả trong việc phòng trừ mà còn mang lại giá trị kinh tế bền vững.