Tạp chí Văn học, số 4 – 1991, trong bài viết Văn xuôi những năm 80 và vấn đề dân chủ hóa nền văn học của Huỳnh Như Phương, tác giả có nhắc đến Trần Thùy Mai khi đề cập đến nội dung: “K
Trang 1ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Trang 2ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-oOo -
VŨ HẢI SONG QUYÊN
PHONG CÁCH TRUYỆN NGẮN
TRẦN THÙY MAI
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 602234 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS NGUYỄN THÀNH THI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 2011
Trang 3TP Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 2 năm 2012
Vũ Hải Song Quyên
Trang 41 Lí do chọn đề tài……….……….…1
2 Lịch sử vấn đề……….…………2
3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu……….… 4
4 Phương pháp nghiên cứu……….………4
5 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài……….……4
6 Cấu trúc luận văn………5
Chương 1: TRUYỆN NGẮN TRẦN THÙY MAI – NHỮNG SÁNG TÁC NGHỆ THUẬT CÓ PHONG CÁCH 1.1 Truyện ngắn và phong cách truyện ngắn 1.1.1 Những đặc điểm của truyện ngắn……….6
1.1.2 Phong cách truyện ngắn………9
1.2 Những sáng tác của Trần Thùy Mai có phong cách 1.2.1 Truyện ngắn Trần Thùy Mai trong bối cảnh đổi mới của truyện ngắn Việt Nam sau 1975……… 11
1.2.2 Những sáng tác của Trần Thùy Mai có phong cách……… 18
Chương 2: TRUYỆN NGẮN TRẦN THÙY MAI – THẾ GIỚI CỦA CÁI THIÊNG, CÁI ĐẸP VÀ THÂN PHẬN CON NGƯỜI 2.1 Suy nghĩ riêng về Thiền và đời sống tâm linh……… ………… 26
2.2 Cảm quan riêng về lịch sử……….40
2.2 Tiếng nói riêng về tình yêu……… 47
2.4 Tiếng nói riêng về thân phận con người trước cái đẹp, cái thiêng, cái phàm trần………57
Chương 3: TRUYỆN NGẮN TRẦN THÙY MAI – NHỮNG THỂ NGHIỆM THÀNH CÔNG TRONG KĨ THUẬT NGÔN TỪ 3.1 Cốt truyện, tình huống, kết cấu gợi nhiều suy cảm……… ……… .72
3.2 Nhân vật đậm chất thơ……… ……….84
3.3 Ngôn ngữ và nghệ thuật trần thuật……….……… 96
3.4 Giọng triết lí điềm tĩnh, ngọt ngào……….114
PHẦN KẾT LUẬN……… .123
PHẦN THƯ MỤC THAM KHẢO……… 126
Trang 5MỞ ĐẦU
1 Lí do chọn đề tài
1.1 Văn học Việt Nam từ sau 1975 đến nay đặc biệt khởi sắc ở lĩnh vực truyện ngắn nhất là trang viết của các cây bút nữ Trong những gương mặt của truyện ngắn Việt Nam đương đại, Trần Thuỳ Mai đã tạo cho mình một khuôn viên nghệ thuật riêng bằng chất văn tinh tế, sâu lắng, quen mà không cũ mòn, nhẹ nhàng nhưng giàu sức ám ảnh Đặc biệt, với sức bật vượt trội trong những năm gần đây, tác phẩm của Trần Thùy Mai còn chuyển thể thành kịch bản phim để cụ thể hơn những bản nhạc cuộc đời vốn dĩ đa màu đa
đoan mà chị từng sống – yêu – và viết thành Là Trăng nơi đáy giếng, Gío thiên đường, Thập tự hoa … và hơn hết là sáu tập truyện ngắn – kết quả của một quá trình lao động
nghệ thuật bền bỉ - giúp chị tạo dựng được tên tuổi của mình trong văn học thế kỉ XXI Chất văn không cầu kì, gọt giũa, câu chuyên đôi khi ít tình tiết đến mức như không có
“chuyện” lại là cả một chiều sâu những phận đời cần suy ngẫm Trần Thùy Mai đã làm cho người đọc ngạc nhiên trước cuộc đời, thấy lạ những cái đã quen, thấy không thể bỏ qua những cái đôi khi mình cho là tầm thường, nhỏ bé…
1.2 Từ góc độ học thuật, truyện ngắn Trần Thùy Mai có những đóng góp nhiều mặt không thể thiếu cho văn học miền Trung nói riêng và văn chương đương đại nói chung Chọn đề tài này, người viết muốn tìm hiểu sâu hơn những trang văn của chị để phát hiện các đặc sắc trong nguồn gió ý thức cá nhân, giọng văn đầy chất nữ tính, mang đậm dấu ấn văn hóa nơi nhà văn sống và viết Trần Thùy Mai đến với văn chương không
ồn ĩ, không gây bất cứ một sự kiện có tính dư luận, không xây dựng những nhân vật đại diện cho lí tưởng nọ, giai cấp kia, cũng chẳng chạy theo thị hiếu với những đề tài được giới trẻ đặc biệt được giới trẻ quan tâm song trên lộ trình nghệ thuật chông gai ấy, chị đã đứng vững và tự khẳng định mình bằng một phong cách không lẫn lộn Ở cái vườn văn bình lặng ấy, chị vẫn có những tâm hồn đón đợi và không ít những tri âm
1.3 Người viết, với kiến thức phải bù trừ bằng rất nhiều niềm yêu mến chất văn Trần Thùy Mai, thử một lần đi sâu hơn khám phá những đặc sắc ở cả hai phương diện nội dung phản ánh lẫn hình thức nghệ thuật truyện ngắn Trần Thuỳ Mai Từ đó, chắc sẽ có cái
Trang 6nhìn bao quát hơn về văn xuôi nói chung và truyện ngắn Việt Nam đương đại nói riêng trong xu hướng dân chủ hóa nền văn học dân tộc thế kỉ XXI
2 Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Về truyện ngắn Trần Thùy Mai, có ba nhóm bài viết:
Nhóm thứ nhất: Qua rải rác một vài trang có tính chất đánh giá, tổng hợp về văn học Việt Nam sau 75, những năm 80 hay truyện ngắn đương đại không thể thiếu cái tên Trần Thùy Mai, song chỉ dừng lại ở những nhận xét chung chung về một mảng nội dung
Tạp chí Văn học, số 4 – 1991, trong bài viết Văn xuôi những năm 80 và vấn đề dân chủ
hóa nền văn học của Huỳnh Như Phương, tác giả có nhắc đến Trần Thùy Mai khi đề cập
đến nội dung: “Khi con người trở lại với cuộc sống bình thường, trong hàng loạt các tác
phẩm của Lê Lựu, Trần Văn Tuấn, Dạ Ngân, Tạ Duy Anh, Trần Thùy Mai , Dương
Hướng các nhà văn không đặt vấn đề phải hi sinh hạnh phúc cá nhân cho sự nghiệp lớn lao nữa, mà đặt vấn đề: trong khi xây dựng sự nghiệp lớn lao kia, không được bỏ quên hạnh phúc cá nhân ”
Trong bài nguyên cứu Sự khác biệt giới trong quan niệm nghệ thuật về con
người của nhà văn qua một số truyện ngắn đương đại của Hà Trần Thùy Dương, tác giả
cho rằng : “Đi sâu vào phân tích quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn
của các nhà văn nữ, chúng ta thấy Võ Thị Hảo, Trần Thùy Mai và Nguyễn Ngọc Tư đều
là những nhà văn luôn khai thác con người trong sự bi kịch của tình yêu tuổi trẻ”
Tạp chí Non Nước, tháng 10/2008 với bài viết Tình yêu trong truyện ngắn hiện
đại Việt Nam nhìn từ các phức cảm, Hồ Thế Hà cũng mượn truyện ngắn Chị Hai ơi!
của Trần Thùy Mai làm chất liệu cho bài viết, bên cạnh nhiều tác giả cùng thời với nhà
văn để dẫn đến kết luận: “Nhìn từ các phức cảm của tâm lý học chiều sâu, các nhà văn, thông qua từng số phận cá nhân, từng thế giới nội tâm của nhân vật, đã đặt vấn đề và lý giải vấn đề một cách vi tế và mới mẻ về tình yêu và tâm sinh lý phức tạp của con người, giúp cho độc giả nhận ra sự thật cuộc đời.”
Nhóm thứ hai: Các bài viết về Trần Thùy Mai tản mạn trên website của tạp chí
Sông Hương, tạp chí Non Nước, trên blog của các nhà nghiên cứu cũng như các độc giả
Trang 7yêu mến nhà văn này Ở nội dung này, người viết nhận thấy hầu hết là những cảm nhận,
ấn tượng về văn chương Trần Thùy Mai: “Văn của chị để lại dấu ấn trong lòng người đọc một cách thật tinh tế, nhẹ nhàng mà sâu sắc, giàu cảm xúc”, “Trần Thùy Mai đã thể hiện rất rõ bản lĩnh của mình khi dẫn dắt người đọc theo mạch chuyện, mạch cảm xúc đến tận cùng ý tưởng của câu chuyện Kết thúc truyện người đọc luôn cảm nhận một cách thấm thía chất triết lý cuộc sống rút ra từ câu chuyện”, “Sự từng trải, tính lãng mạn, chất nhân văn luôn thấm đẫm trên từng trang viết của Trần Thùy Mai Đó chính là những yếu tố tạo
nên tính hấp dẫn trong truyện của tác giả” của Diệu Hiền qua bài viết Nhà văn xứ Huế
Trần Thùy Mai
Nguyễn Thị Kim Huệ sắc sảo với bài viết Người phụ nữ Tây phương trong thế
giới “Qủy trong trăng” Dù chỉ khảo sát một tập truyện ngắn tiêu biểu của Trần Thùy
Mai song tác giả đã đưa ra những cảm nhận tinh tế : “Trần Thuỳ Mai một lần nữa đã khẳng định được cái “tạng” và sở trường của mình Trái tim của người đàn bà “không còn trẻ” này lúc nào cũng đau đaú những rung cảm, tha thiết về tình yêu như lứa tuổi hai
mươi Văn phong của Thuỳ Mai là văn phong tự do, là sự giao thoa giữa những
khoảnh khắc lãng mạn trong “Thiên đường mong manh”, một chút hiện sinh trong “
Khói trên sông Hương, Quỷ trong trăng”, những giây phút nhục cảm trong “Thuốc ba màu” Người phụ nữ trong truyện có thể là những vị thánh được tôn thờ như thần linh (nàng Akiko , Lilly), nhưng cũng có lúc là những người phụ nữ ngông cuồng và khờ dại (Khánh, Bim, Hà ) Bản chất của người phụ nữ phương Đông chung thuỷ trong “Quỷ
trong trăng” vẫn không hề thay đổi Cái mới lạ là Trần Thuỳ Mai đã phả vào những tâm
hồn ấy sự bất chấp, ngang tàng vốn là thuộc tính mạnh mẽ của người phụ nữ”
Viết về Trần Thùy Mai trong một cái tựa đề ấn tượng: Những cơn bão thường mang
tên phụ nữ, Phan Bùi Bảo Thy cũng tỏ ra đặc biệt yêu mến nhà văn này: “trên từng trang
viết của chị những chắt lọc của nỗi niềm sâu lắng, cô đọng và dữ dội, bạo liệt hơn Đặc biệt là hình ảnh về người phụ nữ với những thiệt thòi, bất hạnh trong cuộc sống, tình yêu và hôn nhân.” , đọc văn Trần Thùy Mai “bắt gặp ở đây những áng văn như những lời thì thầm đầy ma lực.”
Trang 8Nhóm thứ 3:Các bài phỏng vấn Trần Thùy Mai trên báo hoặc các website: Trần Thuỳ
Mai viết văn không vì thương hiệu; Nhà văn Trần Thùy Mai: "Tôn giáo giúp con người hiền lương và văn minh hơn" ; Nhà văn Trần Thuỳ Mai Một mình ở Tokyo và hàng loạt những câu chuyện chia sẻ cùng độc giả khi các tác phẩm của chị lần lượt chuyển thể thành kịch bản phim nhựa và được vinh danh Ở đó, Trần Thùy Mai thường rất ít nói về văn chương của mình, chị muốn người đọc tự tìm đến đọc và khám phá Song những chia sẻ của chị cũng phần giúp chúng ta hiểu người để hiểu văn hơn
Tóm lại, về nghiên cứu Trần Thùy Mai có thể rút ra vài kết luận như sau:
Thứ nhất, những đánh giá về Trần Thùy Mai thường gắn liền với một đặc trưng
về đề tài của văn học đương đại nên khó tránh khỏi những ý kiến chung chung, có tính chất tổng kết
Thứ hai, những bài viết về Trần Thùy Mai hoặc đi sâu một đặc trưng phong cách nghệ thuật, hoặc khảo sát một thế giới đặc thù qua một tập truyện ngắn nên sẽ có cái nhìn chưa thật trọn vẹn đề đặc điểm truyện ngắn Trần Thùy Mai
Thứ ba, những bài phỏng vấn nhà văn chỉ giúp chúng ta hiểu thêm về một tính cách, chia sẻ những trăn trở, ấp ủ, dự định để từ đó cảm nhận sâu hơn về những phút trải lòng trên trang văn
3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Phong cách truyện ngắn Trần Thùy Mai
Phạm vi nghiên cứu: Khảo sát toàn bộ các tập truyện ngắn của Trần Thùy Mai, bao
gồm Bài thơ về biển khơi (1983), Cỏ hát (1984), Thị trấn hoa quỳ vàng (1994), Trò chơi cấm (1998), Qủy trong trăng (2001), Biển đời người (2002), Thập tự hoa (2003), Đêm tái sinh (2004), Mưa đời sau (2005), Mưa ở Strasbourg (2007), Lửa hoàng cung (2007), Một mình ở Tokyo (2008) và một số tác phẩm truyện ngắn đăng rải rác trên báo văn nghệ
trong thời gian gần đây Ngoài ra luận văn cũng khảo sát một vài truyện ngắn của một số tác giả nữ cùng thời với nhà văn Trần Thùy Mai như Phạm Thị Hoài, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Lý Lan để có cái nhìn đối sánh
4 Phương pháp nghiên cứu
Trang 9Ở luận văn này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp nghiên
cứu văn hóa văn học
5 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đây là đề tài nghiên cứu một cách đầy đủ, hệ thống về phong cách truyện ngắn của Trần Thùy Mai trên cả hai phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật Qua đó góp phần khẳng định phong cách độc đáo của tác giả trong bối cảnh đa dạng về phong cách của thể loại truyện ngắn Việt Nam hiện đại, nhất là truyện ngắn sau 1975
Nghiên cứu về phong cách tác giả truyện ngắn có ý nghĩa thực tiễn trong công tác giảng dạy bộ môn Văn ở nhà trường phổ thông Đặc biệt trong xu hướng đổi mới chương trình, nhiều sáng tác sau 1975 được tuyển chọn giảng dạy trong nhà trường Bên cạnh một số nhà văn hiện đại quen thuộc, có phong cách như Thạch Lam, Nguyễn Tuân…nay chúng tôi có dịp giới thiệu thêm nhiều gương mặt nhà văn có phong cách trong bối cảnh văn học đương đại
6 Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung chính của luận văn gồm ba chương
Chương một với tiêu mục “Truyện ngắn Trần Thùy Mai – những sáng tác nghệ
thuật có phong cách”, chúng tôi làm rõ những đặc điểm về thể loại truyện ngắn cũng
như những ưu thế nổi bật của thể loại này, xác định khái niệm phong cách trong sáng tác văn học nghệ thuật nói chung và phong cách truyện ngắn nói riêng Cũng trong chương
một này, chúng tôi trình bày một cách tổng quan về bức tranh truyện ngắn Việt Nam trong bối cảnh đổi mới sau 1975 Trong đó, Trần Thùy Mai là một cây bút đã có sự trưởng thành và hình thành nên phong cách từ những thập niên chín mươi của thế kỉ hai mươi
Chương hai là những trình bày về phong cách truyện ngắn Trần Thùy Mai trên
phương diện nội dung.Ở đó, chúng tôi nhận thấy, “Truyện ngắn Trần Thùy Mai - Thế giới của cái Thiêng, cái Đẹp và thân phận con người”, có những Suy nghĩ riêng về
Trang 10Thiền và đời sống tâm linh, cảm quan riêng về lịch sử, tiếng nói riêng về tình yêu, về thân phận con người
Chương ba là những khảo sát về “Phong cách truyện ngắn Trần Thùy Mai trên phương diện nghệ thuật” Chúng tôi chủ yếu đi sâu khai thác các yếu tố chính như kết
cấu, nghệ thuật trần thuật, giọng điệu, ngôn ngữ, nhân vật
CHƯƠNG 1 TRUYỆN NGẮN TRẦN THÙY MAI: NHỮNG SÁNG TÁC NGHỆ THUẬT CÓ
PHONG CÁCH 1.1 Truyện ngắn và phong cách truyện ngắn
1.1.1 Những đặc điểm của truyện ngắn
Theo định nghĩa trong 150 Thuật ngữ văn học do Lại Nguyên Ân biên soạn,
“Truyện ngắn là một thể tài tự sự cỡ nhỏ, thường được viết bằng văn xuôi, đề cập đến hầu hết các phương diện của đời sống con người và xã hội Nét nổi bật của truyện ngắn
là sự giới hạn về dung lượng; tác phẩm truyện ngắn thích hợp với người tiếp nhận đọc
nó liền một mạch không nghỉ” [4,361] Khác với tiểu thuyết là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn và toàn vẹn của nó, truyện ngắn thường hướng tới việc khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan niệm nhân sinh; nó là một khoảnh khắc, một nhát cắt có ý nghĩa Vì thế mà truyện ngắn thường có ít nhân vật
và các sự kiện phức tạp Truyện ngắn không nhằm khắc họa những tính cách điển hình đầy đặn, nhiều mặt trong tương quan với hoàn cảnh Nhân vật của truyện ngắn thường là hiện thân cho một quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái phụ thuộc của con người
Đặc trưng của từng thể loại văn học và sự tác động qua lại, mối quan hệ giữa các thể loại trong tiến trình phát triển của văn học là những vấn đề cơ bản của lý luận văn học Truyện ngắn xuất hiện tương đối muộn trong lịch sử văn học Khác với tiểu thuyết
là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn và toàn vẹn của nó, truyện ngắn thường chỉ hướng tới việc khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn của con người Vì thế, trong truyện ngắn
Trang 11thường có ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp Nếu mỗi nhân vật của tiểu thuyết là một thế giới thì mỗi nhân vật của truyện ngắn là một mảnh nhỏ của thế giới ấy Có nghĩa truyện ngắn thường không nhắm tới việc khắc họa những tính cách điển hình đầy đặn, nhiều mặt trong tương quan với hoàn cảnh Nhân vật của truyện ngắn thường là hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con người Cốt truyện của truyện ngắn thường diễn ra trong một thời gian, không gian hạn chế, chức năng của nó nói chung là nhận ra một điều gì đó sâu sắc về cuộc đời và tình người Kết cấu của truyện ngắn không chia thành nhiều tầng, nhiều tuyến mà thường được xây dựng theo nguyên tắc tương phản hoặc liên tưởng Bút pháp trần thuật của truyện ngắn thường
là chấm phá Yếu tố quan trọng bậc nhất trong truyện ngắn là những chi tiết cô đúc, có dung lượng lớn và lối hành văn mang nhiều ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết
Truyện ngắn có nhiều khả năng trong việc thể hiện quan niệm về con người Do dung lượng nhỏ, nắm bắt những nét bản chất nhất của cuộc sống, truyện ngắn có khả năng chuyển tải những vấn đề của thời đại, con người, một cách chính xác nhạy bén Cũng chính điều này đã khiến truyện ngắn trở thành thể loại cho phép nhà văn thử nghiệm và triển khai những khía cạnh mới mẻ, linh hoạt trong quan niệm nghệ thuật về con người Truyện ngắn thường chớp lấy những khoảnh khắc của kiếp người, lại có thể chú trọng đến nhiều loại người, cho nên, những vấn đề thời sự, nổi cộm nhất của cuộc sống được nó nắm bắt một cách nhanh chóng, nhạy bén Sự nhanh chóng nhạy bén này không chỉ thể hiện ở việc nắm bắt vấn đề, mà chỉ tính riêng đến thời gian để ra đời một truyện ngắn cũng có thể nói lên điều đó Nhà tiểu thuyết phát hiện ra một vấn đề, nhưng
để viết được một tiểu thuyết có dung lượng vừa phải, ít nhất nghệ sĩ phải mất một năm Những vấn đề nóng hổi của thời đại, những cách nhìn nhận mới về con người loé lên trong đầu nhà văn, có thể nói, thời gian để quan niệm ấy hoá thân thành thế giới nghệ thuật sẽ không cần nhiều như tiểu thuyết Đây là một đặc điểm gắn liền với báo chí của thể loại cỡ nhỏ này
Truyện ngắn không chỉ nắm bắt một cách nhanh nhạy, mà còn thể hiện một cách
ấn tượng và linh hoạt những khía cạnh trong quan niệm nghệ thuật về con người Không
Trang 12phải là trong tiểu thuyết không xuất hiện những kiểu người như trong truyện ngắn, chỉ
có điều những nhân vật đó xuất hiện với tư cách nhân vật phụ nên thường không gây được sự chú ý của người đọc, nhà văn không tập trung làm sáng tỏ những quan niệm mà loại nhân vật này có khả năng thể hiện Truyện ngắn không chỉ tạo điều kiện cho nhà văn thể nghiệm và triển khai những khía cạnh mới mẻ, linh hoạt trong quan niệm nghệ thuật về con người mà còn tạo điều kiện khai thác khả năng đồng sáng tạo của độc giả Đặt con người vào trong "tổng hoà các mối quan hệ xã hội", bên cạnh ý thức, nhân vật còn hiện diện cả phần nội tâm, tiềm thức và vô thức, các tác giả truyện ngắn đã khêu gợi
ở người đọc cách lý giải, nhìn nhận con người Truyện ngắn thường nêu ra các vấn đề của nhân sinh để người đọc tự suy ngẫm, lí giải theo quan niệm của riêng mình Phương thức tồn tại đầy đủ nhất của tác phẩm văn học chính là tồn tại trong chủ quan tác giả, trong văn bản và trong sự tiếp nhận của độc giả Khai thác sự đồng sáng tạo từ phía người tiếp nhận không chỉ tạo nên tính dân chủ trong tiếp nhận mà còn tăng sức nặng của những vấn đề được đặt ra Những vấn đề nhà văn chỉ nêu lên sẽ lớn dần trong sự tiếp nhận Người đọc không đơn giản là người tiếp nhận một cách thụ động mà còn là người tích cực chủ động tham gia cùng nhà văn vào việc nhìn nhận về con người, bổ sung những quan niệm của mình Chính vì thế hình tượng nghệ thuật nói chung và quan niệm nghệ thuật về con người nói riêng trong truyện ngắn trở nên phong phú và sâu sắc hơn Vấn đề đặt ra đối với sáng tác văn học nói chung không đơn giản là chuyện nhà văn viết cái gì, mà là chuyện nhà văn đã gợi lên được điều gì trong lòng độc giả sau khi đọc xong truyện đó Truyện ngắn đã làm được điều này nhờ sức gợi của mình Để tạo nên sức gợi, bên cạnh việc lựa chọn cách trần thuật, tác giả truyện ngắn cũng rất chú trọng đến lựa chọn những sự kiện, chi tiết thể hiện các khả năng có thể có của cuộc đời con người Những số phận, những con người, những sự kiện phức tạp tự nó đã cho phép nhiều cách hiểu khác nhau Truyện ngắn thường sử dụng cách trần thuật đầy ẩn ý, thường sử dụng các biểu tượng đa nghĩa Chính điều này đã tạo nên tính hàm súc, cô đọng, chất thơ của thể loại, đồng thời phát huy khả năng đồng sáng tạo của độc giả trong việc đưa ra những quan niệm về con người, về cuộc sống nhân sinh Cho nên, xét trên bình diện thể loại, khả năng thể hiện phong phú, đa dạng quan niệm nghệ thuật về con người của truyện ngắn là một thực tế Cũng cần phải khẳng định rằng, truyện ngắn tạo
Trang 13thuận lợi cho việc đưa ra những quan niệm nghệ thuật có tầm khái quát cao Sở dĩ như vậy vì truyện ngắn thường "chớp lấy cái thần thái" của nhân vật ẩn sau mỗi sự kiện, chi tiết, nhân vật của truyện ngắn, bao giờ cũng là những ý tưởng hết sức sâu sắc
Trong mỗi giai đoạn lịch sử, những khả năng của truyện ngắn được phát huy và những hạn chế được khắc phục ở mức độ khác nhau, gắn với những quan niệm nghệ thuật khác nhau về con người Sau 1975, trong giai đoạn mới, truyện ngắn đã phát huy được khả năng tiếp cận và phản ánh hiện thực con người một cách nhanh nhạy và sắc bén Với đặc trưng cơ bản của thể loại, truyện ngắn đã tạo cơ sở cho sự biểu hiện những thay đổi trong quan niệm nghệ thuật về con người Có thể nói chưa bao giờ trong văn xuôi nói chung và truyện ngắn nói riêng, con người lại được khai thác ở nhiều chiều kích
và bình diện đến vậy Tiếp cận với thế giới nhân vật trong các sáng tác, người đọc như được tiếp xúc với những con người có thực ở ngoài đời, cũng sinh động, phong phú và không kém phần phức tạp Với ý nghĩa nhân sinh sâu sắc, truyện ngắn góp phần làm cân bằng hài hoà trở lại cách nhìn nhận con người về mặt cộng đồng tập thể của giai đoạn văn học trước./
1.1.2 Phong cách truyện ngắn
Nguyễn Đăng Mạnh trong Nhà văn, tư tưởng và phong cách gắn phong cách với
cá tính nhà văn “Văn chương là một hình thái ý thức xã hội có đặc trưng riêng Đây là lĩnh vực cần đến năng khiếu và tài nghệ, cần cá tính và phong cách” Rồi sau đó, trong
Nhà văn Việt Nam hiện đại: chân dung và phong cách, ông coi phong cách “phụ thuộc
vào những thói quen tâm lý và những sở trường riêng của nhà văn” Từ đó, “dựng” nên phong cách nhà văn, như Nguyễn Tuân ngông, Quang Dũng tài hoa, tài tử, phong tình
và lãng mạn, Nguyễn Đình Thi nhà thơ của đất nước tươi đẹp và hùng tráng đau thương, thơ Hoàng Cầm là linh hồn của quê hương Kinh Bắc cổ kính, đầy huyền thoại, cổ tích và chứa chan chất nhạc, chất thơ, Nguyên Ngọc là cây bút sử thi - lãng mạn, một chủ nghĩa lãng mạn anh hùng đầy chất thơ Phan Ngọc với công trình “Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều” theo ông, mỗi một ký hiệu ngôn ngữ có hai mặt, mặt thông báo và mặt biểu cảm Phong cách học chính là thứ khoa học chỉ nghiên cứu cái mặt biểu cảm này của ngôn ngữ Cụ thể hơn, nó nghiên cứu các kiểu lựa chọn và giá trị
Trang 14biểu cảm của các kiểu lựa chọn ấy Dĩ nhiên, không phải công trình nghệ thuật nào cũng
có phong cách Một tác phẩm chỉ có phong cách khi nó đạt được tính cấu trúc, tức có sự thống nhất hữu cơ của các bộ phận trong một chỉnh thể Bởi vậy, chỉ cần biết một bộ phận là có thể suy ra cái toàn thể, như lý thuyết toàn đồ đã chứng minh Chính vì phong cách là một phạm trù chất lượng, nên trong nghệ thuật có được phong cách là một hiện tượng rất quý Và, vì thế, không phải tác giả nào cũng có phong cách, thể loại nào cũng
có phong cách và thời đại nào cũng có phong cách Phong cách nghệ thuật được nhìn nhận ở những góc độ khác nhau Thế nhưng, nhìn chung có sự gặp nhau của nhiều ý kiến khi bàn đến phong cách văn học, đó là sự thông nhất ở nội dung và nghệ thuật của tác phẩm và đặc biệt coi trọng cá tính sáng tạo của nhà văn trong sáng tác Hầu hết các tác giả đều thừa nhận thống nhất rằng: phong cách là biểu hiện độc đáo của tài năng sáng tạo nghệ thuật, có tính thống nhất và tương đối ổn định, được “lặp đi lặp lại” trong nhiều tác phẩm của nhà văn, thể hiện cái nhìn và sự chiếm lĩnh nghệ thuật độc đáo của nhà văn đối với con người và thế giới Trong các công trình nghiên cứu về phong cách của mỗi nhà văn cụ thể, những định nghĩa, khái niệm nói chung chỉ đóng vai trò công
cụ, chỉ có thực tiễn sáng tác của nhà văn mới là cơ sở để đi đến kết luận Bởi thế, trong từng trường hợp cụ thể, phong cách không phải là khái niệm mang tính bất biến mà còn phụ thuộc vào thực tế sáng tác của nhà văn
Như vậy, phong cách cá nhân nhà văn là khái niệm cơ bản của phạm trù phong cách nghệ thuật Nói đến phong cách tác giả không thể không nhắc đến đặc trưng độc đáo, có ý nghĩa thẩm mĩ và mang tính quy luật, thể hiện qua hệ thống sáng tác của nhà văn Đặc trưng mang tính quy luật ấy thể hiện ở quy luật thống nhất các yếu tố của
“chỉnh thể nhà văn” (hiểu theo nghĩa là các sáng tác của một nhà văn), tạo nên cái riêng độc đáo Bởi vậy, sự tranh cãi xem phong cách biểu hiện ở nội dung hay hình thức, ở tư tưởng hay nghệ thuật là không cần thiết Phong cách tác giả cần phải được nhìn nhận ở tính “tổng hợp” như vừa nói ở trên Với nhận thức như vậy, khi nghiên cứu cụ thể về phong cách truyện ngắn Trần Thùy Mai, chúng tôi thấy rất cần thiết phải chỉ ra những nét đặc trưng của phong cách tác giả trên cả các yếu tố thuộc về nội dung lẫn hình thức trong một mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa chúng
Trang 15Phong cách là quy luật thống nhất các yếu tố của chỉnh thể nghệ thuật, là một biểu hiện của tính nghệ thuật Không phải bất cứ nhà văn nào cũng có phong cách Chỉ
có những nhà văn có tài năng và bản lĩnh mới có phong cách riêng độc đáo “Nhà văn muốn có phong cách riêng trước hết phải có tư tưởng nghệ thuật riêng, có cách cảm nhận riêng độc đáo về con người và thế giới Và thống nhất phù hợp với tư tưởng và cách cảm nhận nghệ thuật độc đáo ấy là bút pháp, giọng điệu, ngôn ngữ cũng phải độc đáo Tất cả những biểu hiện tập trung, thống nhất của người nghệ sĩ” Dĩ nhiên một phong cách như vậy sẽ dễ dàng phân biệt với những hiện tượng văn học khác, và đồng thời cũng thấy được dấu ấn thời đại để lại trong đó
Phong cách nhà văn không chỉ là hiện tượng ngẫu nhiên, tự phát hay tĩnh lại, bất biến, mà là cả một quá trình có sự hình thành, vận động, phát triển, thậm chí có những thay đổi Tuy nhiên, trong sự vận động và biến đổi đó, chúng ta vẫn thấy được nét ổn định, bền vững, xuyên suốt “Cái thống nhất trong đa dạng, sự bền vững trong gián đoạn, cái ổn định trong sự khả biến… trên quá trình vận động của một phong cách là điều hoàn toàn có thể diễn ra”
Những nhận thức trên đây về phong cách nhà văn sẽ tạo cơ sở cho chúng tôi tìm hiểu phong cách Trần Thùy Mai thể hiện qua thể loại truyện ngắn, thể loại chiếm hầu hết các sáng tác của nhà văn nữ này
1.2 Những sáng tác của Trần Thùy Mai có phong cách
1.2.1 Truyện ngắn Trần Thùy Mai trong bối cảnh đổi mới của truyện ngắn Việt Nam sau 1975
Bối cảnh lịch sử và những chuyển biến về mặt văn hóa - tư tưởng
Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, mở ra một kỉ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Cả dân tộc bước vào thời kì xây dựng lại đất nước và đi lên chủ nghĩa xã hội Thời cơ vàng và thuận lợi để đưa đất nước phát triển đi lên đã đến, nhưng thách thức cũng rất nhiều Hậu quả nặng nề của hai cuộc kháng chiến ác liệt kéo dài cho đến nay, hơn 30 năm sau vẫn chưa khắc phục hết
Đó không chỉ là sự khó khăn gian khổ trong đời sống kinh tế trên khắp mọi miền của Tổ
Trang 16quốc; mà còn cả những hậu quả nặng nề không nói hết về mặt tinh thần Đất nước không còn chiến tranh, nhưng cũng hết sức khó khăn vất vả khi vừa phải lo bảo vệ Tổ quốc, vửa xây dựng đất nước theo định hướng XHCN
Năm 1986, Đảng ta tiến hành Đại hội lần thứ VI Đây là Đại hội của thời kì mở cửa, đưa đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng để bước vào thời kì phát triển mới Sự suy thoái kinh tế đã được chặn lại và tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày nay một cao dần có sự
ổn định, nền kinh tế thị trường cũng dần dần được hình thành Đổi mới đi liền với mở cửa, tăng cường giao lưu và hội nhập quốc tế trên mọi bình diện kinh tế, chính trị, văn hóa Hơn hai mươi năm từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới, trên đất nước ta đã có những biến động theo hướng tích cực làm thay đổi diện mạo của đất nước
Thời kì mới của lịch sử đất nước với nền kinh tế thị trường tất yếu kéo theo những thay đổi về mặt xã hội Trong chiến tranh giữ nước và giải phóng dân tộc, sức mạnh tinh thần yêu nước và ý thức cộng đồng được phát huy cao độ Cuộc sống cá nhân, riêng tư của mỗi người được thu hẹp đến mức tối thiểu, nhường chỗ cho đời sống chung của tập thể, của đất nước Con người được đánh giá nhìn nhận chủ yếu ở tư cách con người công dân, con người được đánh giá nhìn nhận chủ yếu ở tư cách con người công dân, con người của dân tộc, của cách mạng Trong chiến tranh, con người phải sống cuộc sống trong hoàn cảnh bất thường Hòa bình trở lại, con người trở về với cuộc sống bình thường, có nghĩa là trở về với đời thường - cái đời thường phồn tạp, muôn vẻ, lẫn lộn tốt xấu, trắng đen, cao thượng, thấp hèn… ý thức cá nhân với mọi nhu cầu của con người như một cá thể, một thực thể sống đã được thức tỉnh trở lại Các giá trị xã hội, đạo đức, nhân cách… lung lay rạn nứt và đổ vỡ từng mảng Tình trạng băng hoại đạo đức ngày một nhiều lên Tất cả những biến động lớn lao về lịch sử xã hội ấy đã kéo theo những xáo trộn trong đời sống văn hóa của dân tộc Và đương nhiên, văn học cũng có nhu cầu đổi mới cho phù hợp với trạng thái xã hội – lịch sử ấy
Văn học từ 1945 đến 1975 đã làm tròn sứ mệnh cao cả của một nền văn học phục
vụ cách mạng, cổ vũ chiến đấu, vì Tổ quốc, dân tộc, nhân dân Đó là một nền văn học theo khuynh hướng sử thi, được thể hiện trong sự thống nhất trên quan điểm sử thi của cảm hứng, đề tài và chủ đề, thế giới nhân vật với cả giọng điệu, ngôn ngữ, kết cấu nghệ
Trang 17thuật Nền văn học sử thi của ba mươi năm ấy là một giai đoạn có tính đặc thù, có những đóng góp riêng cho tiến trình văn học dân tộc Quá trình của nó còn tiếp tục chi phối nền văn học ở nửa cuối thập kỷ 70 và phần nào ở cả những năm đầu của thập kỷ 80 Thế nhưng, sự chuyển biến của đời sống xã hội, văn hóa, tư tưởng tất yếu sẽ dần đến những thay đổi trong nhu cầu và quan niệm thẩm mỹ, đòi hỏi văn học phải đổi mới Vào cuối thập kỷ 70, bản thân văn học đã hình thành rõ rệt nhu cầu nhìn lại thực trạng của nó trong giai đoạn trước đó Nhu cầu đổi mới văn học đã dần trở thảnh đòi hỏi chung của cả giới sáng tác, nghiên cứu lẫn công chúng Bằng những tìm tòi, thể nghiệm trên cả sáng tác và hoạt động lý luận, phê bình, văn học hình thành từng bước một tư duy nghệ thuật mới, trên cơ sở đổi mới toàn diện các quan niệm về văn chương, về hiện thực và con người, về chính nhà văn và về công chúng văn học Nhiều vấn đề cốt lõi cơ bản của quan niệm văn học trược đó vốn được xem là chân lí, thì bây giờ cũng được xem xét lại, trở thành những vấn đề tranh cãi, bàn thảo khá sôi nổi của trong và ngoài giới văn học Đường lối mở cửa, hội nhập quốc tế của Đảng đã tạo cơ hội mở rộng giao lưu văn hóa, văn học giữa nước ta với các nước trên thế giới, dặc biệt là với phương Tây Nhờ thế mà nhiều trào lưu, khuynh hướng và lí luận nghệ thuật hiện đại của thế giới đã được giới thiệu ở Việt Nam, tác động đến sự tìm tòi, sáng tạo của nhà văn và làm biến đổi cả thị hiếu tiếp nhận của công chúng
Sự đổi mới truyện ngắn sau 1975
Như chúng ta đã biết, văn học 1945 – 1975 ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt, đất nước
30 năm có chiến tranh lien tục Văn học lúc này phục vụ đắc lực cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH, tất yếu thường nghiêng về những sự kiện có ý nghĩa lịch sử và có tính cách toàn dân Những điều văn học đề cập đến lúc đó phải là những vấn đề trung tâm, cốt lõi liên quan đến sự sống còn của cả dân tộc, đất nước Không phải ngẫu nhiên Đảng ta, nhân dân ta, những người lãnh đạo văn nghệ thời kỳ đó lại nhắc các văn nghệ sỹ: Tổ quốc và CNXH là hai đề tài thiêng liêng và cao cả của văn học Văn học 1945 – 1975 thực sự trở thành bức tranh chân thực, đẹp đẽ về lịch sử dân tộc Cũng chính vì vậy, đề tài đời tư, đời thường, thế sự đạo đức, số phận cá nhân giữ một vị trí thứ
Trang 18yếu, không đáng kể trong đời sống văn học Các loại đề tài này không đủ tư cách là một
đề tài độc lập Nó là thứ văn học loại hai, không được khuyến khích
Sau 1975, đặc biệt là sau những năm 80, do nhu cầu thẩm mỹ mới của bạn đọc và được sự khuyến khích động viên của Đảng, văn học chúng ta đã có những cách tân đổi mới Cái mới phải kể đến trước hết là trên bình diện tư duy và cảm hứng nghệ thuật Văn xuôi nói chung và truyện ngắn nói riêng sau 1975 chuyển dần từ tư duy sử thi sang tư duy tiểu thuyết Hiện thực đời sống thay đổi khác trước rất nhiều đòi hỏi các nhà văn phải có cách tiếp cận hiện thực phù hợp Từ khoảng những năm 80, cuộc sống thời bình
đã thực sự trở lại, con người hàng ngày phải đối diện với bao nhiêu vấn đề và thực tiễn đời thường, của các quan hệ thế sự, của đời sống riêng tư Quan niệm về hiện thực như
là đối tượng phản ánh khám phá của văn học cũng được mở rộng và mang tính toàn diện Hiện thực không chỉ là hiện thực cách mạng, các biến cố lịch sử và đời sống cộng đồng mà đói còn là hiện thực của đời sống hằng ngày với các quan hệ thế sự vốn dĩ đa đoan, đa sự, phức tạp, chằng chịt Hiện thực đó còn là đời sống cá nhân của mỗi con người với những vấn đề riêng tư, số phận, nhân cách, với khát vọng mọi mặt, cả hạnh phúc lẫn bi kịch Hiện thực đời sống trong tính toàn vẹn của nó đã mở ra những không gian vô tận cho văn học nói chung, truyện ngắn nói riêng thỏa sức chiếm lĩnh, khám phá, khai vỡ Các nhà văn có sự mẫn cảm với cuộc sống đã không thể bỏ qua cái hiện thực đời thường và học đã nhìn ra nhiều vấn đề có ý nghĩa, đáng được quan tâm trong đó Văn học lúc này không chỉ chú trọng vào hai đề tài Tổ quốc và Chủ nghĩa xã hội như trước Một mảng hiện thực lớn trước đây dường như bị bỏ quên nay được đặc biệt chú ý
Đó là vấn đề đời tư, đời thường và thế sự đạo đức Hình như có một quan niệm mới ở nhà văn sau 1975: mọi vấn đề của cuộc sống, hay nói một cách khác, tất cả những gì liên quan đến con người đều được các nhà văn quan tâm và đưa vào văn học Từ những vấn
đề lớn như lý tưởng sống, đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng Chủ nghĩa xã hội đến những vấn đề nhỏ nhặt trong cuộc sống đời thường đều được các nhà văn quan tâm Có thể nói, với sự thay đổi trong quan niệm về hiện thực như thế, văn xuôi nói chung và truyện ngắn nói riêng đã vượt qua tình trạng lệ thuộc vào đề tài, vào một cách nhìn đã được định trước, để mở ra khả năng phong phú, vô tận trong sự khám phá và thể hiện hiện thực đời sống trong tính muôn mặt và muôn vẻ của nó Nhà văn có thể viết về mọi
Trang 19điều, kể cả những điều trước kia phải kiêng kỵ Có thể thấy điều này qua truyện ngắn của các nhà văn: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Quang Sáng, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Kiên, Trần Thùy Mai, Lê Minh Khuê… Và gần đây là Nguyễn Thị Thu Huệ, Đỗ Hoàng Diệu và một số cây bút trẻ khác
Nếu như văn học trước đây quan tâm đến số phận, hạnh phúc chung của cả cộng đồng, cả dân tộc thì nay các nhà văn quan tâm đến số phận cá nhân Cảm hứng sử thi thời kỳ 1945 – 1975 hướng ngòi bút của người nghệ sĩ vào việc khám phá và ngợi ca những con người nghệ sĩ vào việc khám phá và ngợi ca những con người tiên tiến, con người anh hung Con người lý tưởng của một thời vinh quanh và oanh liệt, những con người của một sự nghiệp chung, xả thân vì nghĩa lớn “Mình vì mọi người, mọi người vì mình” là lẽ sống, đạo đức của con người trong văn học sử thi Họ xuất hiện trong các trang văn, vần thơ như là sự đại diện trọn vẹn cho đất nước, cho lý tưởng, lương tâm, khí phách của thời đại Họ đẹp một cách toàn diện, hoàn mĩ như những viên ngọc không có
tỳ viết” Ngược lại, các tác phẩm sau 1975 lại hướng tới những con người đời thường trong cuộc sống, những số phận cá nhân hết sức phức tạp Sự khác biệt giữa những con người được đưa vào tác phẩm qua hai thời kì là ở chỗ: Nếu như nhân vật trong văn học
1945 – 1975 là những con người mẫu mực, lý tưởng mà Đảng, cách mạng, nhà văn mong muốn có, để nêu gương cho mọi người noi theo, học tập, thì văn học sau 1975, con người trong đó vốn như nó hiện hữu trong cuộc sống Như vậy là con người bình thường, đời thường trước đây (1945 – 1975) hầu như bị bỏ quên thì nay lại được các nhà văn đặc biệt chú ý khám phá và miêu tả sâu sắc Cách nhìn vào hiện thực và con người của các nhà văn đi vào các vấn đề đời tư, đời thường và thế sự đạo đức, đa diện, nhiều chiều và phức tạp hơn
Nếu như trước đây với tư duy sử thi và cảm hứng lãng mạn, cách nhìn cuộc đời
và con người của các nhà văn chủ yếu là cách nhìn đơn giản, một chiều, phiến diện và hết sức rạch ròi thiện – ác, địch – ta, cao cả - thấp hèn Tâm hồn con người bấy giờ ít phức tạp, không có sự giằng xé nội tâm trong việc giải quyết mâu thuẫn giữa cái chung
và cái riêng, giữa nghĩa vụ và quyền lợi riêng tư Người đọc có cảm giác nắm bắt, hiểu được con người một cách dễ dàng Thì con người trong truyện ngắn hôm nay được nhìn
Trang 20ở nhiều vị thế và trong tính đa chiều của mọi mối quan hệ: con người xã hội, con người với lịch sử, con người của gia đình, gia tộc, con người với phong tục, với thiên nhiên, với những con người khác và với chính mình… Con người cũng được văn học khám phá
ở nhiều tầng bậc: ý thức và vô thức, đời sống tư tưởng tình cảm và đời sống tự nhiên, bản năng khát vọng cao cả và dục vọng tầm thường, con người cụ thể cá biệt và con người trong tình nhân loại phổ quát; Con người với những niềm vui và nỗi buồn, con người trong niềm tin và cả sự hoài nghi chính đáng Điều dễ nhận ra là trong truyện ngắn thời kì này, con người không còn là đơn trị, nhất phiến mà luôn là con người đa diện, đa trị, lưỡng phân; trong con người đan cài, chen lẫn, giao tranh giữa xấu và tốt, rồng phượng lẫn rắn rết, tiên thần và quỷ sứ, cao thượng và thấp hèn… có khi cùng tồn tại trong một con người Tiếp xúc với các nhân vật Lão Khúng, Lực của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Dương Thu Hương, Nguyễn Thị Thu Huệ… ta thấy họ thực sự là những cá tính không hề giống ai, nhưng lại hiện hữu trong khuôn mặt của cuộc sống đời thường
Như vậy, văn xuôi nói chung và truyện ngắn sau 1975 nói riêng đã bổ sung một mảng hiện thực to lớn trong đời sống mà văn học 1945 – 1975 trước đây hầu như đã bỏ quên Chính vì vậy, hiện thực cuộc sống trong các trang văn đầy đủ, phong phú hơn, gần hơn với hiện thực đang tồn tại Với cách tiếp cận cuộc sống và con người như đã nêu ở trên, truyện ngắn sau 1975 hầu như không bỏ sót một mảng hiện thực nào của cuộc sống Văn học lúc này “thực hơn” và “đời hơn” Chính sự thay đổi về mặt tư duy và cảm hững, mỏ rộng quan niệm và cách tiếp cận hiện thực như vậy đã dẫn đến sự xuất hiện khuynh hướng nhận thức lại để đáp ứng nhu cầu nhìn thẳng vào sự thật Nhiều cây bút viết truyện ngắn đã nhìn lại hiện thực của thời kì vừa qua, phơi bày những mặt trái bấy lâu bị che lấp Nguyễn Minh Châu với một loạt truyện ngắn: Bức tranh, Hạng, Sắm vai trở thành cây bút truyện ngắn tiêu biểu của khuynh hướng này
Khám phá đời sống muôn vẻ trong cái hang ngày, trong các quan hệ thế sự, đời tư
là một hướng hết sức phổ biến của truyện ngắn thời kì đổi mới Đạo đức, gia đình, tình yêu, bất hạnh, tìm kiếm hạnh phúc,… được các nhà văn thời kì này hết sức quan tâm Nguyễn Minh Châu và hang loạt truyện ngắn trong hai tập Người đàn bà trên chuyến tàu
Trang 21tốc hành và Bến quê; Các cây bút nữ: Lê Minh Khuê, Y Ban, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị
Âm, Võ Thị Xuân Hà, Dạ Ngân, Lý Lan, Trần Thùy Mai, Nguyễn Thị Thu Huệ, Trần Thị Trường, Phan Thị Vàng Anh… đều là những cây bút khá tiêu biểu cho khuynh hướng này
Khuynh hướng triết luận cũng phát triển khá mạnh mẽ trong truyện ngắn thời kì đổi mới Chiêm nghiệm, triết lí đã thành nhu cầu không thể thiếu và không chỉ ở những nhà văn “lão luyện” và từng trải như Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Khải, mà còn là đặc điểm của nhiều cây bút khác thuộc thế hệ sau như: Nguyễn Huy Thiệp, Trần Thùy Mai, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ và nhiều cây bút khác
Thời gian gần đây người ta quan tâm khá nhiều đến loại truyện ngắn mang nhiều yếu tố huyền thoại Việc đưa yếu tố huyền thoại, kì ảo vào truyện ngắn cũng là sự cố gắng để cách tân thể loại Đọc nhiều truyện ngắn của Hồ Anh Thái, Phạm Thị Hoài, một số truyện ngắn của Trần Thùy Mai ta thấy rõ điều này
Truyện ngắn những năm sau 1986 lại đây còn có mảng viết về lịch sử Theo dõi sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Trần Thùy Mai… chúng ta thấy những câu chuyện về lịch sử được viết theo cảm quan mới với cái nhìn giải thiêng, thân mật hóa đối tượng Ở truyện ngắn của các nhà văn này, lịch sử như là tấm phông mà trên đó nhà văn tái tạo lại hiện thực bằng những suy lí lịch sử bằng thể giới nhân vật và cách kiến giải hiện thực riêng của họ
Chọn truyện ngắn là thể loại để thử sức hay khẳng định mình, các cây bút luôn cố gắng cách tân, đổi mới lối viết và ngôn ngữ truyện ngắn Năm 2008 vừa qua xuất hiện một số truyện ngắn của Nguyễn Vĩnh Nguyên và Nhật Chiêu đăng trên báo Văn nghệ và Văn nghệ Quân đội Khi đọc truyện ngắn của tác giả này, người đọc không dễ gì nắm bắt được ý tưởng của người viết Đọc truyện ngắn đồng nghĩa với một quá trình đồng hành, khám phá và chiêm nghiệm của người đọc Truyện của họ thường không có trình
tự lớp lang mà là những mảng ghép nối có chủ ý ra những dòng xoáy của suy tưởng
Xuất phát từ ý thức dân chủ và sự tôn trọng cá tính, truyện ngắn sau 1975 tao được sự cách tân rõ rệt về ngôn ngữ văn chương Nhiều nhà văn có một cách ứng xử
Trang 22ngôn ngữ tự do, nhiều khi phá cách nhằm đem lại một hiệu ứng trực tiếp, mạnh mẽ trong
sự tiếp nhận của người đọc Lời văn trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp và Nguyễn Thị Thu Huệ thường được rút gọn Lối kể khách quant hay cho lối tả tỉ mỉ và sự phân tích cặn kẽ… Bên cạnh lối viết như tốc kí, ghi nhanh, tăng cường tính thông tin và tốc độ, lại có lối viết theo dòng ý thức, với những dòng độc thoại nội tâm, hồi tưởng, kí
ức triền mien như trong truyện ngắn Trần Thùy Mai Có nhiều cây bút trẻ gần đây không muốn viết câu theo trật tự cú pháp thông thường, rất ít dung dấu chấm câu, có khi cả trang viết, thậm chí cả truyện không hề có một dấu chấm Trường hợp truyện ngắn Mưa mặt nạ của Nhật Chiêu với toàn bộ truyện không hề có dấu chấm và sự ngắt dòng cũng không theo quy tắc cú pháp điển dụng là một thí dụ điển hình Tác giả chỉ sử dụng dấu phẩy trên mười bốn trang truyện để xây dựng nên một thế giới ảo nhưng rất gần với đời sống thực Truyện ngắn này có sự xóa nhòa ranh giới thể loại, có sự pha trộn giữa văn xuôi và thơ văn xuôi… Đây là một sự cách tân khá thú vị
Sự có mặt của những cây bút trẻ tuổi sinh sau 1980, thậm chí 1990 có thể thấy rõ
sự in dấu của đời sống trẻ trong sáng tác Nhiều truyện ngắn có sự hiện diện của ngôn ngữ mạng, ngôn ngữ chat Có truyện chỉ đơn thuần ghi lại một buổi chat Truyện ngắn của họ không phải dành cho mọi đối tượng độc giả Để đọc được một truyện ngắn của tác giả Nick D (truyện Tôi 20 +) đòi hỏi người đọc phải có một vốn tiếng Anh cần thiết Đọc một số tập tuyện ngắn của “thế hệ 8X” gần đây có thể thấy cách nhìn và quan niệm của họ về đời sống Ở đó có khát vọng, hoài bão, niềm băn khoăn và cả sự hoang mang của một bộ phận giới trẻ - những người mới bước chân vào thực tế đời sống Với những người viết trẻ, nghệ thuật đang là sự thể nghiệm, những vấp váp là không tránh khỏi nhưng sự thể nghiệm là cần thiết để có một đời sống văn học lành mạnh
Trên đây, tác giả luận văn cố gắng phác thảo trên những nét lớn về sự vận động, đổi mới của truyện ngắn sau 1975 đến nay, để làm cơ sở lý thuyết và lịch sử văn học cho việc chỉ ra và khẳng định một phong cách độc đáo của truyện ngắn giai đoạn này Thiết nghĩ rằng, trong điều kiện khoa học kĩ thuật phát triển với tốc độ chóng mặt, cuộc sống chuyển động với cường độ ngày càng cao, nhà văn hơn ai hết phải tự đổi mới mình thì mới bắt nhịp được với hơi thở nóng hổi của cuộc sống Và trong dòng chảy đa sắc của
Trang 23truyện ngắn từ sau 1986 đến nay, mỗi nhà văn đều cố gắng tạo cái mới cho trang viết của mình Bên cạnh những tác giả truyện ngắn gây “sốc” với những đề tài nóng bỏng, cách viết mới và lạ, tạo những ý kiến khen chê trái ngược nhau, còn có một bộ phận tác giả ít tạo ra những song gió trong dư luận, nhưng họ lại có đóng góp không nhỏ trong việc hoàn chỉnh bức tranh truyện ngắn nước nhà Truyện ngắn của họ thấm đẫm chất nhân văn, chạm được đến chiều sâu tâm thức của độc giả, luôn được trân trọng đón chờ Tác giả Trần Thùy Mai với truyện ngắn của chị là một trường hợp như vậy
1.2.2 Quá trình hình thành phong cách truyện ngắn Trần Thùy Mai
Nhà văn Trần Thuỳ Mai sinh năm 1954 ở Hội An, lớn lên tại Huế, chị từng là sinh viên Đại học sư phạm Huế, rồi là giảng viên Khoa Ngữ văn của Trường Đại học
Sư phạm Huế một thời gian dài trước khi chuyển sang làm công tác biên tập ở Nhà xuất bản Thuận Hoá cho đến ngày nay Có truyện ngắn đầu tiên đăng trên báo Văn nghệ năm 1975, lúc đó chị 22 tuổi Giai đoạn này, như chị tâm sự: "Chỉ viết lai rai cho vui thôi Thích thì viết Còn trẻ, nên truyện của mình còn dàn trải lắm" Rồi thời gian trôi
đi, cô gái Huế luôn nhỏ nhẹ, dịu dàng này làm vợ, rồi làm mẹ của hai đứa con Khi cuộc sống có nhiều lo toan và bộn bề dâu bể thì người đọc cũng bắt đầu nhìn thấy trên từng trang viết của chị những chắt lọc của nỗi niềm sâu lắng, cô đọng và dữ dội, bạo liệt hơn Đặc biệt là hình ảnh về người phụ nữ với những thiệt thòi, bất hạnh trong cuộc sống, tình yêu và hôn nhân
Tính đến thời điểm này, nhà văn Trần Thuỳ Mai đã cho xuất bản các tập truyện: Bài thơ về biển khơi, Thị trấn hoa quỳ vàng, Cỏ hát, Trò chơi cấm, Gió Thiên đường, Quỷ trong trăng (Giải B Hội nhà văn Việt Nam - 2002), Biển đời người, Lửa của khoảnh khắc, Thập tự hoa (Giải thưởng văn học nghệ thuật của Uỷ ban toàn quốc các Hội VHNT-2003), Đêm tái sinh, Mưa đời sau Mưa ở Strasbourg và gần đây nhất là Một mình ở Tokyo Bên cạnh những tập truyện ngắn cứ mỗi ngày mỗi thêm hớp hồn độc giả ấy, nhà văn Trần Thùy Mai còn là một người rất có duyên với điện ảnh, những truyện ngắn hay của chị cứ lần lượt được chuyển thể thành kịch bản phim như: Trăng nơi đáy giếng; Thập Tự Hoa và Gió Thiên đường Phim Gió Thiên đường của hãng phim Giải Phóng do đạo diễn Lâm Lê Dũng dàn dựng; Phim Thập Tự hoa của hãng phim Á Châu
Trang 24do đạo diễn Lý Khắc Lynh và Vương Quang Hùng dàn dựng và phim Trăng nơi đáy giếng do đạo diễn Nguyễn Vinh Sơn dàn dựng và đã được vinh danh trong giải Cánh diều vàng năm Lý giải vì sao văn của chị không rộn ràng mà cứ âm trầm như mảnh đất và con người xứ Huế Vì sao phim được chuyển thể từ truyện của chị không có những cảnh ăn chơi trụy lạc, đấm đá, đua xe, áo quần hở hang, rực rỡ như những phim câu khách đương thời Chị nói: Có lẽ là do lúc viết mình luôn nghĩ là viết cho những người đọc của thời bình Đây là lúc người ta có thời gian để trở lại với những vấn đề gần gũi với cuộc sống: tình yêu, tình người, thân phận con người Mặt khác, cuộc sống công nghiệp ngày càng căng thẳng khiến người ta cần có những rung động chân thành, lãng mạn, để chống lại sự công nghiệp hóa tâm hồn những gì mình viết ra đều là từ đời sống này, từ mảnh đất Huế
âm trầm này
Người đọc có thể tìm thấy trong mỗi tập sách của nhà văn Trần Thuỳ Mai những cái tựa truyện ngắn đầy hình tượng và rất gợi cảm, dường như toàn bộ linh hồn của mỗi truyện ngắn đều được nhà văn dồn nén ở phần tựa truyện này Với bạn văn hay những độc giả của mình, nhà văn Trần Thuỳ Mai khi đàm luận về khía cạnh này, chị cũng bộc bạch một cách rất chân thành rằng: Tựa truyện giống như tên của một con người, phải nói lên điều gì đó Trong quá trình viết, cái tựa tự hình thành Như Thập tự hoa chẳng hạn, thập tự giá trước khi trở thành biểu tượng mang tính tôn giáo thì nó vốn là một công cụ dùng để xử giảo, để đóng đinh những kẻ có tội Những người này thường phải tự mình vác trên lưng cây thập tự đến chỗ sẽ bị hành hình, tự chôn xuống Người ta thường dùng hình ảnh cây thánh giá như là một biểu tượng nói về kiếp người Kiếp người
là nhọc nhằn, vất vả và kết thúc là cái chết Nhưng thực ra trong cuộc sống con người ta cũng thu nhặt được biết bao điều hạnh phúc Bởi vậy, theo mình tình yêu rồi hạnh phúc như những bông hoa mọc lên trên thập giá của đời người Mỗi đời người đều có một cây thập tự phải mang, cái cứu chuộc sự nhọc nhằn hữu hạn của kiếp người chính là tình yêu
Có lẽ vì vậy mà nhiều bạn đọc sau khi đọc văn của chị thường có chung một nhận xét: "Truyện của Trần Thuỳ Mai thường rất nhẹ nhàng và giàu nữ tính" Còn bản thân chị, chị đã thổ lộ cùng với độc giả của mình rằng: Truyện của tôi thường là nhẹ nhàng, nhưng cũng có truyện không nhẹ nhàng chút nào Thực ra nữ tính không phải lúc nào
Trang 25cũng được biểu lộ qua tính cách nhẹ nhàng Những cơn bão vẫn thường mang tên phụ nữ, phải thế không ?
Gần đây nhất, chị lại cho ra đời tập truện ngắn với tựa "Một mình ở Tokyo" do NXB Văn nghệ ấn hành Sau khi sách được xuất bản một thời gian ngắn các nhà sách đã bán sạch và phải nối bản tiếp với số lượng vài nghìn cuốn cho một lần in Xét về mặt tổng thể thì 12 truyện trong tập "Một mình ở Tokyo" vẫn phảng phất dáng dấp của cảnh
và người xứ Huế như những tập truyện trước đây, người đọc vẫn bắt gặp ở đây những áng văn như những lời thì thầm đầy ma lực Trong số 12 truyện ở tập này, có đến 7 truyện chị viết với bối cảnh ở nước ngoài, tên nhân vật cũng là ngoại quốc Chị kể: Thời gian sau này, do có nhiều truyện của chị được chuyển ngữ nên chị có thêm nhiều chuyến
đi đến Nhật bản hay Hàn quốc nên có thêm cảm hứng mới, thấy được những góc rộng hơn của cuộc sống, từ đó khung cảnh trong trang viết cũng được đổi khác Cũng phải kể đến những người bạn mới, họ là những kênh thông tin giúp mình thâm nhập một mảng khác của cuộc sống Chị thổ lộ: Đề tài Lịch sử cũng được chị rất chú tâm trong từng sáng tác của mình, đặc biệt là lịch sử các vương triều ở Huế, là đề tài chị mong muốn viết từ rất lâu Trong chính sử, các sử gia thường ghi rất sơ lược về nhân vật, thậm chí có những phần bị giấu nhẹm, nhưng qua những dòng chữ còn lại đó, ta có thể thấy những số phận, những tình cảnh rất con người Trần Thùy Mai luôn muốn phục dựng lại những chỗ bị lướt nhòa đó bằng cách bổ sung những giai thoại trong dân gian, trí tưởng tượng và suy
lý lịch sử Chị cho rằng trong lịch sử luôn có những bài học lặp đi lặp lại, những câu chuyện nhân văn rất gần gũi với con người hiện tại
Vẫn với tư duy nghệ thuật ấy, hiện nay ngoài công việc thường nhật là một biên tập viên văn học của Nhà xuất bản Thuận Hoá Nhà văn Trần Thuỳ Mai đang dành nhiều thời gian còn lại để dịch sách, viết một truyện ngắn có bối cảnh ở Singapore, hoàn thiện một tiểu thuyết đang còn dang dỡ và một kịch bản dành cho phim truyện nhựa có tựa đề
là "Song loan", một bộ phim mà theo chị là sẽ có rất nhiều yếu tố âm nhạc
Tác phẩm của nữ giới thường có tính chất tự truyện “Phụ nữ thường mạnh ở chỗ đưa tất
cả cuộc đời và tâm hồn họ vào trong sách, hoặc nói như phương Tây… họ tự ăn mình” (Đặng Anh Đào) Một nhà văn nữ tự bạch: “Viết mãi thì cũng không ra khỏi thân phận
Trang 26người nữ như chạy trời không khỏi nắng” Nếu xem truyện ngắn Trần Thùy Mai là tự truyện thì không phải, nhưng cảm giác Trần Thùy Mai phân mảnh, hóa thân rất rõ trên từng trang viết đầy nữ tính của nhà văn Trần Thùy Mai từng tâm sự: “Cho đến nay mình vẫn thích viết về những mảnh đời gần gũi quanh mình, của bạn bè, của những người cùng sống, viết như một cách trao đổi tâm tư với người cùng thời và mở rộng cuộc sống nội tâm của chính mình” Không thu hút người đọc bằng những cốt truyện lạ, càng không gây sự chú ý bằng những yếu tố tình dục đang là ưu điểm và cũng là hạn chế của văn học những năm gần đây, Trần Thùy Mai viết như để giải bày Có những truyện nhà văn như cúi xuống lòng mình mà nhả chữ Trừ một số truyện có cốt truyện (thấy rõ ở tập truyện
gần đây nhất của Trần Thùy Mai là Một mình ở Tokyo), phần lớn Trần Thùy Mai để ngòi
bút trôi theo trực cảm, cảm giác Nhỏ nhẹ, dịu dàng, với phương thức tiếp cận cuộc sống nửa cổ tích, nửa thế sự, Trần Thùy Mai đã khẳng định một phong cách riêng Bằng khả năng cảm nhận và miêu tả tinh tế hiện thực cuộc sống thông qua thế giới tâm hồn, Trần Thùy Mai đã góp phần làm nên sự phong phú và chiều sâu của truyện ngắn đương đại
Truyện ngắn Trần Thùy Mai đa dạng Cái lỉnh kỉnh đời thường trong truyện đầu tay Một chút màu xanh là điểm nối đồng cảm giữa Trần Thùy Mai và người đọc Giữa bộn bề cuộc sống, một chút mầm xanh của cây non, của lá, lạ thay cứ biếc ngời Chuyện cũ ở quê nhà là những trăn trở đầy khát vọng nhân bản Ý thức nữ quyền cứ bật lên, loang ra,
từ ba thế hệ- những mảnh đời phụ nữ đồng dạng, rất buồn: Một bà mẹ chồng vừa cay nghiệt, vừa bao dung (bà tôi); một cô con dâu “không có tuổi nào là thiếu nữ, chỉ toàn là gió bụi và gian truân” (mẹ tôi); và “một con người vừa đạp tống vào lòng mẹ, nhảy vào đời” (em gái tôi) Khai thác mảng đời thường mãi cũng dễ lặp lại lối mòn, linh hoạt và nhạy cảm, ngòi bút Trần Thùy Mai ngày càng hướng về những vấn đề lớn có ý nghĩa vĩnh hằng: con người, tình yêu, cái đẹp, nghệ thuật, cõi tâm linh, kể cả hư vô, cái
chết…(Các tập truyện Bài thơ về biển khơi, Thị trấn hoa quỳ vàng, Trò chơi cấm, Đêm tái sinh, Một mình ở Tokyo…) Truyện ngắn Trần Thùy Mai có những khoảng sâu nằm
sau lớp vỏ ngôn ngữ Cụ thể hóa cái tứ, cái hồn mỗi truyện ngắn của Trần Thùy Mai e rằng sẽ phá hỏng tất cả
Trần Thùy Mai viết nhiều về tình yêu Đầy nữ tính, chị dành trọn văn nghiệp của mình cho đề tài vĩnh hằng này Hơn ở đâu hết, mảng đề tài này đã dựng lên chân dung
Trang 27một nhà văn nữ giữa bộn bề những cá tính sáng tạo trong thành tựu của truyện ngắn đương đại Những truyện viết về tình yêu của Trần Thùy Mai thường mang lại cho người đọc cảm nhận thú vị về văn hóa tình yêu Dại khờ, nông nỗi, đam mê, cuồng nhiệt - những cung bậc tình yêu muôn thuở được nhà văn thể hiện đầy nữ tính Có lúc chạm tới
trái cấm, có những phút xao lòng, nhưng vẫn nén lòng trong những trạng thái tâm hồn phức hợp Tôi trong Cánh cửa thứ chín cháy lòng khao khát “cùng anh đi vớt mặt trời
trên biển tây Tôi sẽ chịu bỏng, chịu cháy để được đau đớn được thương yêu” Nhưng cuối cùng tôi không thể thoát ra khỏi những thành trì vây bọc dù có đi khắp thế gian bằng
đôi chân mộng du của mình Đành dằn lòng lại và tự chôn mình (Cánh cửa thứ chín)
Dù viết về vấn đề gì, những trang viết của Trần Thùy Mai vẫn không ra khỏi cái chất kết dính kì diệu là cảm xúc nữ tính Hãy xem chị viết về chiến tranh, mảng đề tài hiếm hoi trong thế giới nghệ thuật của Trần Thùy Mai, và cũng không dễ thành công đối với các cây bút nữ Chiến tranh hiện ra qua khuôn mặt phụ nữ với hận thù và yêu thương,
nồng nàn và kiêu hãnh (Chăn Tha); Chiến tranh trong kí ức của một cô gái trẻ hiện hình
sống động trong những âm thanh dìu dặt của khúc nhạc rừng dương Có tiếng bom đạn, tiếng gió, tiếng cát, tiếng nỉ non của những niềm đau khổ, xót thương, mất mát… Và có
cả tiếng dương liễu trong gió reo… (Khúc nhạc rừng dương); Chiến tranh hiện ra đằng
sau bức tranh của người lính Hàn Quốc trở về từ Việt Nam- bức tranh chỉ vẽ một chữ
“Phật”; và kì lạ thay, đằng sau con chữ tượng hình đó không có chân dung Phật tổ- chỉ có hình ảnh một cánh rừng “mênh mông, với những hoa cỏ mọc hồn nhiên bên nhau không
oán thù” (Phật ở Kyong-ju)
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Trần Thùy Mai không đa dạng lắm nhưng khá sinh động Dẫu Trần Thùy Mai có dàn dựng nhiều kiểu dạng nhân vật (phương Đông – phương Tây; huyền thoại – lịch sử – hiện đại), thì rốt cục thế giới nghệ thuật của tác giả cũng hiện đậm một cái tôi phụ nữ buồn, nhiều khát vọng Đi vào thế giới nhân vật nữ của Trần Thùy Mai, cảm giác về sự hóa thân đậm nét Sự hóa thân ấy có lúc thể hiện ở nhân vật người kể chuyện ngôi thứ nhất Tôi kể chuyện mình, chuyện người, chuyện nhân thế
bằng nhiều giọng điệu Tôi nhìn đời, nhìn người qua cặp mắt rất phụ nữ (Trăng soi đáy giếng) Tôi hóa thân đồng cảm (Hoa sứ trắng) Tôi phân thân trải lòng (Gió thiên đường)
Trang 28Tôi chênh chao giữa những bến bờ hạnh phúc (Dịu dàng như cỏ)… Nhưng đa phần cái tôi ấy ẩn sau những khuôn mặt phụ nữ khác- là Phượng (Huyền thoại về chim phượng), là
Ng (Thị trấn hoa quỳ vàng), Naokô (Chiếc phong linh); là Kyoko (Một mình ở Tokyo)…
Nhân vật của Trần Thùy Mai chủ yếu là nữ trí thức Họ có tất cả Nhan sắc, tâm hồn, đam mê, khát vọng, niềm xác tín vào cái đẹp Nhưng họ cũng không có gì hết Lỗi ở chính họ, những người đàn bà luôn cầu toàn, quá thông minh và quá ham hố Họ không yên ổn Họ khao khát đuổi tìm hạnh phúc, và bất hạnh là ở chỗ họ luôn-ngẫm-ngợi-về-nó Hạnh phúc đối với họ như chiếc cầu vồng mờ ảo cuối chân trời, như cánh cửa thứ chín của mỗi đời người, đầy hứa hẹn nhưng không thể mở ra Hạnh phúc là cái gì vừa như sờ
mó được, lại vừa xa xôi, hư ảo, cứ chấp chới ở phía trước Trong Cánh cửa thứ chín,
bằng bút pháp lãng mạn pha sắc màu huyền ảo, Trần Thùy Mai kể lại một huyền thoại xa xưa: Chàng thanh niên đã lần lượt mở tám cánh cửa, mỗi khung cửa dẫn vào một cảnh
giới tuyệt vời… “Chỉ còn cánh cửa thứ chín, chàng trai tự nhủ mình không được mở ra Nhưng…” Chạm vào là ngũ sắc cầu vồng tan biến Mở toang khung cửa cấm mọi cái chỉ
còn là sương khói Chính vì “cánh cửa thứ chín” ấy mà nhân vật nữ của Trần Thùy Mai
dù khao khát đến cháy lòng vẫn nén lòng Dễ thấy một điều lặp lại trong truyện Trần Thùy Mai, đó là sự cô đơn thăm thẳm của những cái tôi phụ nữ quá thông minh và nhiều khao khát Phải chăng vì thế mà đa phần nhân vật nữ của Trần Thùy Mai đều bất hạnh hoặc một- nửa- hạnh- phúc Nửa kia là mọi cái ràng buộc đời thường Để níu giữ hạnh phúc mỏng mảnh, trớ trêu thay, những người nữ trong truyện Trần Thùy Mai thường tìm
đến cái chết Có khi là cái chết tâm hồn (Thể Cúc, Non Nước mùa đông, Nước vĩnh cửu, Một mình ở Tokyo, Sao La); có khi là cái chết của thân xác trần tục để linh hồn được sống (Ngôi đền sống, Lửa của khoảnh khắc, Thuyền trên núi…) Ít khi nhà văn để cho nhân vật
nữ của mình sống đến tận cùng Những cái tôi hóa thân của tác giả rồi lại lẩn quẩn trong vòng xoáy hạnh phúc- bất hạnh, đam mê- nguội lạnh, ước mơ- vỡ mộng… chợt đến chợt
đi Một nhân vật nữ của chị xót xa thú nhận: cuộc đời có hai thực tại “một thực tại mỗi ngày, tầm thường, bất lực, cay đắng, và thực tại trong khát vọng, huy hoàng rực rỡ, không bến bờ” Với họ “vẫn biết chân trời là nơi không đến được nhưng dù sao tôi cũng
có một chân trời”
Trang 29Để khai thác sâu thế giới tâm hồn, Trần Thùy Mai thường sử dụng huyền thoại
Có lúc tác giả lắp ghép những mẩu huyền thoại vào câu chuyện- như một yếu tố ngoài cốt
truyện, để làm đậm nổi thế giới tâm linh (Huyền thoại về chim phượng, Cánh cửa thứ chín…) Về sau, ngòi bút Trần Thùy Mai nhuần nhuyễn hơn Nhà văn không đan xen
từng mẩu huyền thoại theo cách làm có phần cơ học, mà trong từng truyện, yếu tố ảo thực cứ đan quện vào nhau Chất huyền thoại bàng bạc, lấp lánh ở không gian, thời gian truyện; ở hình ảnh, chi tiết nghệ thuật, ở thiên nhiên; ở cả trạng thái tâm lí của nhân vật
Thị trấn hoa quỳ vàng, Chiếc phong linh, Phật ở Kyong-ju… là những truyện ở đó huyền
thoại, cổ tích và hiện thực nhòe lẫn, tạo cảm giác huyền hồ, lung linh, khiến nhiều truyện ngắn của chị có dạng như một bài thơ trữ tình Những yếu cố cổ tích, huyền thoại này tạo cho truyện ngắn Trần Thùy Mai một sắc thái phương Đông trầm mặc Phải chăng tác phẩm của Thùy Mai hấp dẫn người đọc ở chất phương Đông bàng bạc trên từng trang văn? Và phải chăng, nó làm cho một số truyện của Thùy Mai có vẻ cũ cũ, nhưng lại đáng yêu giữa cái nháo nhác văn-chương-tính-dục vừa đầy chất nhân bản vừa phản nhân văn trong văn học những năm gần đây? Dù viết về cái gì- những mảnh vỡ đời người cay cực, những khuất lấp trong tâm hồn, hay oan nghiệt giả trá, Trần Thùy Mai đều hướng đến cái đẹp Nhân vật nữ của chị, dẫu mỗi người một phúc phận- đau khổ dập vùi, thành đạt hạnh phúc, cái cuối cùng vẫn là khát vọng hoàn thiện Truyện ngắn Trần Thùy Mai ít có những mảng tối của xã hội, hay những nhân vật suy thoái đạo đức trầm trọng Đây là cái tạng của Trần Thùy Mai Đi tìm nét cách tân độc đáo trong truyện ngắn Trần Thùy Mai sẽ phá
vỡ chất lãng mạn, huyền ảo kết dính trên từng trang văn mượt mà của chị Những vấn đề
xã hội nhức nhối lọc qua sự mẫn cảm của trái tim phụ nữ trở nên nhân tình, nhân bản hơn Mọi sự cách tân chưa đến độ sẽ nhạt dần, càng ngày người đọc càng thấy Trần Thùy Mai chín và sâu, thống nhất và biến hóa trong phong cách riêng của mình
Trang 30CHƯƠNG 2 TRUYỆN NGẮN TRẦN THÙY MAI – THẾ GIỚI CỦA CÁI THIÊNG, CÁI
ĐẸP, VÀ THÂN PHẬN CON NGƯỜI
Cái lỉnh kỉnh đời thường trong truyện ngắn Trần Thùy Mai là điểm nối đồng cảm chị và người đọc với những trăn trở đầy khát vọng nhân bản Khai thác mảng đời thường mãi cũng dễ lặp lại lối mòn, linh hoạt và nhạy cảm, ngòi bút Trần Thùy Mai ngày càng hướng về những vấn đề lớn có ý nghĩa vĩnh hằng: con người, tình yêu, cái đẹp, nghệ
thuật, cõi tâm linh, kể cả hư vô, cái chết…
2.1 Suy nghĩ riêng về Thiền và đời sống tâm linh
So với văn học các giai đoạn trước, văn học Việt Nam sau 1975 khám phá con người ở nhiều phương diện, tầng bậc hơn: thân xác và nhân vị; ý thức, tiềm thức và vô thức; đời sống tình cảm – lý trí và đời sống bản năng tự nhiên; những khát vọng cao cả
và những dục vọng tầm thường; cái thường nhật và cái phi thường nhật; cõi thế tục và cõi tâm linh Nhưng, yếu tố tâm linh là gì? Trần Thùy Mai đã đưa yếu tố này vào truyện ngắn của chị nhằm vào dụng ý gì? Theo cách nào? Đó là những câu hỏi cần được đặt
ra và trả lời một cách nghiêm túc Cho đến nay, vẫn chưa có định nghĩa nào về “tâm
linh” đầy đủ và sáng rõ Theo Từ điển tiếng Việt: “Tâm linh là khả năng đoán trước
những điều sắp xảy ra theo quan niệm duy tâm” (tr.264) Theo tác giả Nguyễn Đăng
Dung trong cuốn Văn hóa tâm linh: “Tâm linh là cái thiêng liêng cao cả trong cuộc đời
thường, là niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo” Còn với một số tác giả khác, tâm linh “thường được hiểu như đời sống tinh thần đầy bí ẩn của con người, đối lập với “ý thức” kiểu lý tính thuần túy Nó bao gồm cái phi lý tính, cái tiềm thức, vô thức, bản năng thiên phú “có thể nhấn mạnh phần trực cảm, linh giác, những khả năng bí ẩn” (nhưng vẫn có ý thức của con người) v.v Và, tất nhiên là còn nhiều cách định danh, cắt nghĩa khác nữa Song có thể lưu ý mấy tiêu chí nổi bật sau đây: thứ nhất, xét về tính chất, yếu tố tâm linh là “cái thiêng liêng cao cả”, thường gắn với niềm tin tôn giáo; thứ hai, xét về tầng bậc, tương quan với ý thức, lí trí, yếu tố tâm linh thuộc về một thế giới tinh thần bí ẩn, siêu hình, siêu thực, ngoài tầm tri nhận, ngoài
Trang 31khả năng nhận thức duy lý của con người; thứ ba, xét về công năng, tâm linh có thể mang lại “khả năng đoán trước” “khả năng thấu thị” ở một số người
Khi văn xuôi nói chung, truyện ngắn nói riêng sau 1975 bắt đầu dò tìm một thế giới đằng sau thế giới hiện thực, đó chính là thế giới của những giấc mơ, của vô thức, hư
ảo, thế giới của những vấn đề siêu hình, siêu thực Chính tác giả Trần Thùy Mai cho rằng những yếu tố văn hóa thoát thai từ tôn giáo luôn tiềm tàng trong đời sống tinh thần của con người mà “cuộc sống của chúng ta tất yếu sẽ ngày càng công nghiệp hóa và càng phát triển thì con người càng bị cuốn vào cuộc đua hối hả của toàn nhân loại Tâm linh sẽ là điểm tựa không thể thiếu giúp con người khỏi đánh mất mình Chỗ dựa ấy thường gọi là chân tâm Chân tâm sẽ là nơi xuất phát mọi hành vi hướng thiện, để mỗi người trở thành trung tâm của tình yêu thương, sự tha thứ, những gì làm cho cuộc đời này đẹp và đáng sống hơn Quan trọng hơn, giữ được chân tâm thì con người sẽ luôn là chính mình, tránh được khỏi trở thành một chi tiết trong guồng máy khổng lồ - bi kịch lớn của thời hiện đại” Chính vì vậy, khi viết về đời sống tâm linh, viết về tôn giáo, Trần Thùy Mai thường quan tâm đến vẻ đẹp tâm hồn con người và lựa chọn những vấn đề sinh tử của cuộc sống: đạo và đời, tu hành và thế tục, đối mặt và chạy trốn khát khao…
Trong đời sống của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng, tôn giáo và đời sống tâm linh đóng một vai trò vô cùng quan trọng Trước những khó khăn, mất mát, họ đến với tôn giáo và sống trong cõi tâm linh như một sự cứu chuộc để kiếm tìm sự thanh thản trong cõi lòng, hay ít nhất là tìm ra một lí do để tiếp tục sống Tâm linh như một liều thuốc giải độc tiêu trừ mọi thống khổ trong kiếp người đầy sóng gió, mang đến thảnh thơi nơi cõi lòng Khi rơi vào trạng thái “bất an”, con người cũng thường trở về với thế giới tâm linh Ở đó, họ sẽ hé mở những bí ẩn của lòng mình Tin vào sự ngự trị của những đấng siêu hình quyền năng hay những bậc “thánh nhân” theo tín ngưỡng tôn giáo (Đức Phật, Đức Chúa Giê su ) cũng là cách để con người tìm về với đời sống tâm linh Ở đó, họ bộc lộ sự hiền minh của trí tuệ khi vừa xem tôn giáo như một chỗ dựa tinh thần, vừa dũng cảm đối diện với thực tại theo sự dẫn dắt của tâm linh Mục đích của họ không phải để được “hài xinh” như cô Tấm, được “tre trăm đốt” như anh Khoai hay được những túi vàng như người em khi cho khế Họ cần niềm tin và sức
Trang 32mạnh tinh thần để hướng về phía trước Hay nói như Socrate: “Có một “vị thần hộ mạng”, một tiếng gọi trong tâm linh xui dạy ta làm điều phải”
Từ sự đối diện của con người với những bi kịch đời thường để thể hiện những vấn đề ẩn tàng trong cõi tâm linh huyền bí, truyện ngắn Trần Thùy Mai đã thực hiện những bước chuyển mình trong sáng tạo nghệ thuật Nỗi đau và sự cô đơn khiến con người ta tin vào những điều siêu hình Họ thấy có một cõi khác ngoài cõi người hữu hạn,
có sự tương thông, thấu hiểu, thần giao cách cảm… Lạc vào thế giới tâm linh là cách đào thoát mà ở đó họ tìm thấy niềm an ủi Họ luôn sống trong ám ảnh của quá khứ, của những giấc mơ và sự linh cảm Để thể hiện con người tâm linh, truyện ngắn Trần Thùy Mai thường có sự đan xen, pha trộn giữa thật và ảo, huyền thoại và thực tế, xưa và nay Chất huyền thoại không ngừng được tái hiện trong truyện ngắn của chị Bằng việc khắc họa con người tâm linh, truyện ngắn Trần Thùy Mai đã cho thấy cái nhìn biện chứng, toàn diện về con người, đồng thời thể hiện sự tìm tòi, lí giải, tiếp cận bản chất phức tạp của “con người bên trong con người” trên hành trình nghệ thuật Hơn nữa, người Huế
thường sống nội tâm, thiên về cảm tính, ít hướng ngoại “Người Huế cảm nhận sự vật bằng trực giác hơn là lý tính, tâm hồn Huế thì Thiền hơn Nho”[28] Nét riêng đó trong
tính cách người Huế đã được Trần Thùy Mai thể hiện khá rõ trong tác phẩm của mình
“Trong mối quan hệ với người khác, người Huế lấy cái tâm làm gốc Cái tâm bao gồm tình thương, sự nhường nhịn, lòng bao dung để bỏ qua thù hận, sự điềm tĩnh để không cuồng tín ” [28] Đời sống tâm linh với người Huế như một cõi riêng, một điểm tựa về
tinh thần, để họ thoát tục, lãng quên phiền muộn trong đời thực, phiêu bồng vào cõi mơ ước Vì vậy, ảnh hưởng của tôn giáo thường mang màu sắc huyền ảo, tác động lớn đến đời sống tinh thần của con người, tạo cho con người sức mạnh để vượt lên nỗi đau
“Văn hóa nằm trong các tâm trí, sống động trong các tâm trí, mà các tâm trí thì đều nằm trong văn hóa, sinh tồn trong văn hóa” Đó là câu chuyện của Hạnh – nhân vật chính trong Trăng nơi đáy giếng Cô yêu chồng, tôn thờ chồng như một thần tượng
Trong lòng cô, Phương là “vị thánh sống”, Phương đẹp và rất trong trẻo, tinh tế, nghiêm túc Căn nhà nhỏ họ ở “sạch như lau như li Tính thầy Phương rất sợ bẩn… Cái chậu rửa mặt không lẫn với chậu tắm, cái chậu giặt áo không lẫn với chậu giặt quần giặt giũ phơi phóng xong bao giờ cô Hạnh cũng tháo dây ngay, vì thầy Phương không bao giờ đi qua
Trang 33dưới dây phơi dù quần áo đã cất hết” Câu chuyện về nỗi khổ đau của Hạnh bắt đầu từ chính đức hi sinh cao thượng, từ tình yêu chân thành, sâu sắc, từ niềm tin tuyệt đối vào
sự trong trẻo của người chồng của cô Để xóa đi vẻ buồn thầm lặng trên khuôn mặt chồng, cô năn nỉ, thuyết phục rồi tự tay sắp đặt để Phương “qua lại” rồi lấy Thắm – một cách hợp pháp Chức hiệu trưởng của Phương vẫn vững vàng, Phương có con nối dõi, Hạnh mất đi hạnh phúc Cô bẽ bàng nhận ra chuyện li hôn mà mình thực hiện thực chất
đã có trong kịch bản khi cô vô tình nghe được cuộc nói chuyện của Phương, Thắm và bà Thu và Hạnh chợt hiểu ra “họ mới là hai vợ chồng” Không sống được với Phương, Hạnh đã níu giữ “phiên bản của người đàn ông mà cô tôn thờ” bằng việc chăm sóc thằng
cu Nhứt Những rồi lần lượt thằng cu Nhứt đến cả con chó cũng lần lượt rời bỏ Hạnh để
về bên nhà Thắm Và khi Hạnh muốn tận mắt trông thấy “cái thế giới đang hút về tất cả những gì yêu quý nhất của một đời”cô, tại đây, Hạnh đã chứng kiến trong nỗi sững sờ
vì chưa bao giờ thấy Phương – người đàn ông sạch sẽ “không bao giờ đi qua dây phơi cho dù quần áo đã cất hết” – đang trong tư thế ngồi xổm, giặt một đống quần áo đủ loại Niềm tin thực sự đổ vỡ khi “thần tượng của tôi, vị thánh của tôi ngồi chò hỏ giặt đồ bên
bể nước Những bọt xà phòng bay tấp tới, nhấn chìm tôi, tức tưởi, mê man…” Hạnh ốm một trận thập tự nhất sinh và nếu không có niềm tin thần thánh có lẽ cô đã không thể nào qua khỏi, bởi hình ảnh đời thường – người đàn ông ngồi giặt quần áo kia đã “giết chết cô
và giết luôn cả thần tượng, cả vị Thánh sống của cô” Hạnh bây giờ đã có một “gia đình” mới mà cả chồng và con của cô đều ở cõi vô hình – ông Hoàng Bảy, Trấn thủ Thừa Thiên, và thằng cu Giữa cuộc đời trần thế Hạnh không thể tìm thấy hạnh phúc thực, niềm tin của Hạnh bị người khác tước đoạt, thần tượng của cô đã hết linh thiêng Cô chỉ còn chỗ dựa duy nhất để sống và cười mãn nguyện hạnh phúc, đó là cõi vô hình Ở Hạnh, niềm tin thần thánh, niềm tin tôn giáo đã thay thế niềm tin đời thường Hạnh sống với cái bóng ‘trăng nơi đáy giếng”, cái bóng hạnh phúc với ông chồng và đứa con trai ở cõi tâm linh huyền bí Thế giới tâm linh hầu như thường trực trong đời sống của cô Con người ấy không thể tìm được “phép an trú trong hiện tại” Nghĩa là Hạnh không thể
“sống tỉnh thức trong từng giây phút, biết quý trọng từng giây phút của đời sống” (Nhất Hạnh) Đây là trạng thái tinh thần của con người bị khủng hoảng niềm tin một cách trầm trọng
Trang 34Vẫn biết con người cần có niềm tin, niềm tin vào cuộc sống trần thế và niềm tin tôn giáo – thứ niềm tin vốn dĩ tự nhiên và bền bỉ Nhưng nếu tin tưởng đến mù quáng vào cõi vô hình là một ảo tưởng sớm muộn cũng dẫn đến bi kịch Rõ ràng, nhân vật Hạnh đã rơi vào bi kịch bởi những niềm tin mù quáng ấy, thế nhưng tác giả không đặt ra vấn đề phê phán ở đây Bởi lẽ, nếu xét góc độ bề ngoài của cuộc sống xã hội thì việc lấy chồng cõi âm của cô Hạnh là mê tín dị đoan, đáng chê trách và lên án Song nếu nhìn dưới góc độ tâm lý, với logic cuộc đời và sự sụp đổ niềm tin của Hạnh thì hóa ra đấy lại
là phản ứng tích cực của sự tồn sinh và cũng sẽ rất hợp lí khi nó trở thành lẽ sống của nhân vật bởi sống trong thế giới tâm linh chính là cách đào thoát mà ở đó Hạnh tìm thấy niềm an ủi Bằng ngòi bút đầy yêu thương và nhân ái, Trần Thùy Mai đã thuyết phục được người đọc cảm thông sâu sắc với nỗi bất hạnh này thay vì lên án lối sống không bình thường của Hạnh Chính vì những điều trên, đời sống tâm linh trong tác phẩm của Trần Thùy Mai vừa mang chiều sâu nội dung lại vừa như một thủ pháp nghệ thuật để thể hiện nỗi đau giằng xé và khát vọng bình yên của con người trước cuộc đời đầy trắc trở Đọc truyện ngắn Trần Thùy Mai, chúng ta hiểu rằng “không phải sự hiển linh dành riêng cho ngôi chùa nào, nhưng những chuyến hành hương là những dịp dọn mình; đoạn
đường càng dài, càng khó thì lời nguyện cầu càng lắng sâu và trọn vẹn hơn” (Phật ở Kyongju) Dường như đã trở thành lẽ tự nhiên trong đời sống của người Việt, luôn
hướng về chốn linh thiêng với một tình cảm thành kính, điều đó mang tới sự thanh thản trong cõi lòng người vốn đầy biến động Đời sống tâm linh trong truyện ngắn Trần Thùy Mai không chỉ thể hiện ở những tác phẩm viết trực tiếp về tôn giáo, mà còn thể hiện ở
góc độ khác trong con người thông qua câu chuyện về tình yêu, về cuộc sống Giấc mơ trên đỉnh ngựa trắng là câu chuyện tình yêu nhuốm màu tâm linh huyền thoại Trong
truyện ngắn này, cuộc sống hiện thực và tâm linh, thật vào ảo, huyền thoại và thực tế, xưa và nay pha trộn, đan cài khó có thể bóc tách Thông qua những chi tiết trong cuốn tiểu thuyết viết dở của Tuấn Anh, câu chuyện tình yêu của Lilly, vợ tên đại úy người Pháp và chàng phiên dịch trẻ tuổi, sự hi sinh của người phụ nữ cho tình yêu…tất cả như hiện ra từ một màn sương huyền hoặc, kì bí Tiếp xúc với tác phẩm, có cảm giác như người đọc lạc vào mê lộ của những phỏng đoán và cuối cùng mới vỡ lẽ ra tất cả mọi điều từ ám ảnh quá khứ săn đuổi người ông của Ngọc – chàng phiên dịch trẻ năm xưa
Trang 35Như đã nói ở trên, trong đời sống tâm linh, niềm tin thần thánh, niềm tin tôn giáo
có vai trò rất tích cực đối với con người Nó làm cho người ta nhân ái, bao dung, độ lượng hơn trước mọi biến thiên của sự sống nó giúp con người nhẹ nhõm hơn trước mất
mát, khổ đau và cái chết Hơ Thuyền, cô gái Tây Nguyên trong truyện ngắn Thuyền trên núi đã chết trong sự chờ đợi tình yêu và niềm khao khát được về thăm biển Người cha
dẫu rất đau đớn trước cái chết của con gái, nhưng niềm tin vào thần linh khiến ông không hận thù nhân vật Tôi – người đã gieo hi vọng và cả tuyệt vọng cho Hơ Thuyền, ông tạc tượng nhà mồ cho con gái với tất cả niềm tin thần thánh nguyên sơ, bức tượng
“cô gái ngẩng cao đầu như đang bay lên, mắt nhìn ra xa” Và trong cảm nhận cũng khá tinh tế có pha lẫn chút mặc cảm tội lỗi của nhân vật tôi: “chỉ có thần linh mới lột tả được trong đôi mắt kia tình yêu dữ dội của nàng, con mắt trần gian của tôi đã không nhìn thấy” Tác giả mượn yếu tố thần linh trong đời sống tín ngưỡng thờ thần của văn hóa Tây Nguyên để giải thích cho một cái chết với khát vọng về một thế giới chưa từng được biết đến của người dân tộc
Xây dựng văn hóa nhân văn tuyệt nhiên không tách rời tư tưởng và tình cảm con người, ăn sâu vào cả thân lẫn tâm Tôn giáo có thể an định được tình cảm và tư tưởng của mọi giới, là nơi gửi gắm, nơi thanh lọc ghềnh thác vui buồn sướng khổ, nơi an trú bền chắc nhất Truyện ngắn viết về tôn giáo của Trần Thùy Mai giản dị và đẹp đẽ, những vẻ đẹp của huyền thoại, cổ tích mà qua đó người đọc thấy được tấm lòng yêu thương nồng hậu và nhân ái đối với mọi kiếp người Trôi vào không gian huyền nhiệm của tâm linh, ở đó con người sẽ vượt lên sự ô trọc của thế nhân, được đối diện với những gì thiêng liêng nhất, đối diện với chính mình để nảy sinh khát vọng được thanh
lọc tâm hồn như thế giới trong Thương nhớ hoàng lan, Hải đường tăng, Phật ở Kyongju, Lửa của khoảnh khắc Điều làm chúng tôi chú ý là ở chỗ cái nhìn của tác giả
đối với vấn đề tôn giáo Trần Thùy Mai không viết về vấn đề nhạy cảm và tinh tế này với cái nhìn gay gắt của sự lên án những hiện tượng cuồng tín và dường như chị cũng không dùng ngòi bút của mình vào việc “hoằng dương chánh pháp truyền bá đạo lý nhà Phật” như một số cây bút khác Hạt giống yêu thương mà nhà văn gieo lấy không rơi vào một cánh đồng trừu tượng hay một vùng đất hứa thần thoại mà nó được ươm mầm
Trang 36ngay trên mảnh đất sanh tử khô cằn của chính cuộc đời thật này Rồi hạt giống ấy đã trổ hoa, những đóa hoa lòng thơm ngát một nẻo về để yêu thương
Người Huế nặng suy tư, trăn trở nên cõi đời và cõi đạo, cõi chung, riêng nhiều lúc
là những kết hợp lạ lùng của thực và ảo, của khoảnh khắc và vô tận, của thực tế trần trụi đầy cám dỗ và khát khao mơ ước Những trăn trở, dằn vặt, giằng xé trong nội tâm của nhân vật phản ánh sâu sắc bi kịch thể xác và tâm hồn, trách nhiệm phận vị, lý tưởng và tình yêu của con người nơi đây Huế vốn là mảnh đất lắm chùa chiền, những ngôi chùa nhỏ nhắn, xinh xắn, ẩn sâu giữa vườn cây như một nơi cư ngụ của tâm hồn Hầu hết các làng ở Huế đều có chùa, với hơn 400 ngôi chùa, niệm phật đường, chiếm 1/3 số lượng chùa chiền trên cả nước, ảnh hưởng của văn hóa chùa đã tác động không nhỏ đến đời sống tâm linh của người dân nơi đây Người Huế đi chùa, đến với tôn giáo không cầu danh lợi mà cầu sự bình an, thanh thản cho tâm hồn Đạo không nằm ở những gì cao sang, xa vời mà ngay giữa đời thường trần tục, trong nếp sống, nếp nghĩ, trong ứng xử hàng ngày, đem đến cho con người sự cân bằng trong đời sống Trong văn học Việt Nam hiện đại, có rất nhiều tác phẩm viết rất hay về vẻ đẹp tình cảm trong cửa Thiền Hồn bướm mơ tiên, Tắt lửa lòng, Tình người, Đưa em tìm động hoa vàng và nhiều tác phẩm khác nữa Thương nhớ hoàng lan của nhà văn nữ đương đại Trần Thuỳ Mai cũng là tác phẩm rất hay viết về đề tài này Đọc Trần Thuỳ Mai, người ta thường thấy chất giọng Huế, màu xanh Huế, tính cách Huế trong tác phẩm và xem đó như là dấu ấn phong cách của chị Còn với tôi, Thương nhớ hoàng lan là một tác phẩm rất Huế hoàn toàn.Tác phẩm mở màn hay một ngày mới bắt đầu, sao lại bàng bạc lung linh cái không - thời gian sương khói huyền ảo của chốn thần kinh này “Tôi sinh ra dưới một mái chùa Nghe
kể rằng sư phụ tôi khi ấy còn trẻ, một hôm đi ngang bỗng động tâm hỏi: “Mô Phật, sao sau chùa lại phơi tả lót?” Nghe chuyện đời cha tôi, thầy bảo: “Hãy nhớ ngày này Nếu có
cơ duyên, mười năm sau ta sẽ trở lại.” Trở về thầy bỏ tăng viện, lên một ngọn núi hẻo lánh trong rú xa, dựng mấy nếp nhà cỏ Từ ấy, thầy ẩn tu, hiếm khi xuống núi.” “Hãy nhớ ngày này Nếu có cơ duyên, mười năm sau ta sẽ trở lại.” Câu nói huyền bí ấy dẫn dắt tôi trở về sống lại trong tâm tưởng vẻ đẹp uy linh của các bậc cổ đức lên núi chống
trượng, mở ra thiền phong cho xứ sở này Ở truyện ngắn này có sự kết hợp lạ lùng giữa
đạo và đời, giữa ý định và số phận Nhân vật trong truyện như có cơ duyên với cõi đạo
Trang 37nhưng lại “nặng nợ với đời” Họ tìm đến cửa Phật như một cái duyên tiền định Cha của Minh vốn là một chú tiểu hiền hòa, trung thực, thông minh, học giỏi, được cử làm giáo
sư ở một trường tư thục của giáo hội nhưng ông không đi trọn nghiệp tu hành bởi vướng duyên đời khi gặp một cô bé “nữ sinh tinh nghịch có đôi mắt hút hồn, đôi môi đầy đam mê”, cô bé ấy đã “yêu thầy đến phát bệnh, để rồi thầy phải lựa chọn” Ông rời chùa, bởi
“tu hành là để cứu chúng sinh Nay có thể cứu một sinh linh, sao lại khước từ” Trở về giữa đời, nhưng vẫn không dứt nỗi nghiệp tu, “ông vẫn ăn chay, mặc áo nâu và tụng kinh sớm chiều” vì “không bỏ đời theo đạo được thì ông đem đạo về giữa đời” Chuyện thầy tiểu rời chùa thoát tu để về giữa cõi tục lấy vợ sinh con là một điều cấm kị của Phật giáo Thế nhưng Trần Thùy Mai không xây dựng tình huống ấy nhằm vào mục đích phê phán mà chị nhìn chuyện tu thành hay không, nhìn sự day dứt giữa đạo và đời của nhân vật với cái nhìn nhân ái và cảm thông Dù cha Minh đã quyết tu giữa đời, nhưng ‘tiếng tụng kinh đêm khuya nghe chừng khắc khoải Chao ôi, với những con thuyền khắc khoải
ấy, kiếp nào cha mới đến được Tây phương?” Với tiếng cầu kinh của một cõi lòng không yên tịnh, làm sao nhân vật này có thể đắc đạo khi vẫn còn duyên nợ với cõi đời
Đọc Thương nhớ hoàng lan, dường như ta thấy rõ một quan điểm: tu không nhất thiết là
phải khổ hạnh theo kiểu hành xác, ép xác, cũng không phải “tu trên núi thì dễ, tu giữa chợ mới khó Không ở giữa đời, làm sao biết đời đục mà tránh” theo kiểu ngụy biện, bởi thực ra “đời không đục, không trong” Trong quan niệm của nhà Phật, thì tu ở đâu chăng nữa, điều cốt lõi vẫn là ở cái tâm của mình: “thứ nhất tại tâm, thứ hai tại cảnh, thứ ba tại chùa” Giữ được cái tâm trong sáng, an bằng thì việc ngộ đạo mới dễ dàng Khi kiếp tu hành vướng phải nghiệp duyên, về sống giữa cuộc đời trần tục vẫn thấy rất cần cái tâm trong sáng ấy Một mặt nào đó, tinh thần nhập thế của đạo Phật cũng được thể hiện kín đáo qua truyện ngắn này Đạo Phật đã đi vào cuộc sống, đem những giáo lí của mình để phổ độ chúng sinh Nếu phát tâm ngộ đạo thì vẫn có thể tu tại gia, không có điều kiện tụng kinh thì chỉ cần tu tâm, gắng sửa những sai lầm trong cuộc sống làm người, bởi khi
“tâm không an thì có cầu cũng vô ích” Tôn giáo nào cũng hướng cho con người giữ lấy chân tâm rồi mới cầu mong giải thoát Đạo giúp cho cái tâm trong sáng, giúp cho cuộc đời nhân ái và tốt đẹp hơn, còn đời đối với kẻ tu hành lại là bước thử thách như “lửa thử vàng” để đạt đến chân tu
Trang 38Trở lại với truyện ngắn Thương nhớ hoàng lan, dường như cuộc đời của chú tiểu
Đăng Minh và người cha đều gặp nhau ở định mệnh Hai cha con họ đều lựa chọn cuộc sống tu hành và đều vướng nghiệp duyên, dù đã coi tu hành là chuyện sinh tử của đời mình nhưng tình duyên khó dứt Minh tự nhận thấy, hình như mình sinh ra là để đi tiếp con đường dang dở của cha mình, nhưng dù đã xuất gia, Minh vẫn không “vô vi” được với đời Mâu thuẫn trong tư tưởng của Minh là một minh chứng sinh động cho sự day dứt giữa đạo và đời, những gì mà hầu hết tiểu tăng trên con đường ngộ đạo cũng đều gặp phải Cũng giống như cha, trước Lan, Minh cũng chới với “Vẻ đẹp này là sắc hay không?” Trong kinh Phật có câu “không bất dị sắc, sắc bất dị không”, nên khi cõi lòng day dứt không yên, nhân vật không thể phân biệt rạch ròi đâu là đời, đâu là đạo Trần Thùy Mai sử dụng triệt để khả năng phân tích tâm lí nhân vật khi để cho Minh độc thoại: “Vẻ đẹp này có phải phù du? Vẻ đẹp này là sắc hay không? Chỉ thấy ngợp vì trăng (…) trước mắt tôi chập chờn lấp lóa những con đường những mê lộ giữa đạo vào đời, giữa ma và Phật…” Đó là những chấp chới của một trái tim rung động trước vẻ đẹp, trước tình yêu Khi đối diện với Lan, chú tiểu Minh bối rối, hốt hoảng khi thấy mình đỏ mặt, “ngắt những cọng cỏ, vò nát trong đôi tay run run” Rồi cả những ám ảnh khiến tâm người tu hành không thể bằng an: “Bao nhiêu đêm, cứ chợp mắt là thấy Lan hiện ra, mảnh dẻ, thanh thoát, đầu đội chiếc mâm vàng sóng sánh nước đi thẳng đến bờ vực Tôi nghe tiếng thét của nàng vang động cả giấc mơ, nàng nhào xuống rơi thẳng vào không gian mênh mông như chiếc lá lìa cành trước gió” Trần Thùy Mai đã để cho Minh băn khoăn: “Nếu vào niết bàn mà phải đạp lên một chiếc lá, Phật có làm không? Trời đất nặng hơn hay chiếc lá nặng hơn?” Tác giả đã đi sâu vào khai thác triệt để và có hiệu quả những mâu thuẫn, giằng xé nội tâm, những uẩn khúc tạo nên bi kịch ngầm đang diễn ra trong tâm hồn nhân vật Nhờ đó, nó gợi lên những ám ảnh, suy ngẫm trong lòng người đọc bởi sự khắc khoải của tâm linh, bởi “chưa nghe gỗ đá thành Phật bao giờ” Để có được sự đắc đạo theo đúng quan niệm của nhà Phật, hẳn trên hành trình gian khổ, người
tu hành cũng phải sống rất người, rất đời, đủ trải nghiệm, đủ bản lĩnh để vượt lên chính mình Minh hoàn toàn quyết tâm với nghiệp tu hành, Minh không muốn như cha mình, không muốn tiếng tụng kinh giữa đêm khuya của mình nghe có những day dứt nửa đời nửa đạo, dù vẫn đôi khi “chợt nghe lòng khắc khoải” Ngộ ra được một điều: Đạo và đời
Trang 39là hai thế giới hoàn toàn khác nhau mà đối với người xuất gia thì không thể dung hòa hai thế giới ấy, không thể đi chung một con đường, chú tiểu Minh “nguyện giữ thân trong sạch để tụng cho mẹ một nghìn lần kinh Thủy sám” và “tụng cho Lan một lần kinh cầu siêu thoát” Đoạn kết của tác phẩm viết về tâm sự của Minh trước sự lựa chọn, hi sinh của Lan thấm đẫm tinh thần nhân ái, từ bi hỉ xả của đạo Phật Những giọt nước mắt rất
tự nhiên, rất đời, đúng với quy luật tâm lí, tình cảm của con người, nhưng lại là cả một
sự nỗ lực của Minh “như ép cho hết những dòng tục lụy cuối cùng” để đưa chiếc thuyền lòng vào neo nơi bờ thanh thản trước khi bước hẳn từ cõi đời sang cõi đạo Trong tác phẩm, Trần Thùy Mai cũng đã xây dựng thành công nhân vật vị thầy của Đăng Minh Là người có linh giác về tương lai con người, rất nghiêm mà giàu lòng từ mẫn, không la rầy, trách cứ đệ tử, lại có tâm bình đẳng, dung thông, nhìn đời vốn không trong không đục, sinh ra đời được trưởng ngộ bậc minh sư giác ngộ như thế này, quả là một phúc diễm lớn mà Đăng Minh có được Đăng Minh – cái tên có ý nghĩa thật hay – ngọn đèn đang chiếu sáng – là chính thầy đã đặt Phải chăng, thầy đã kí thác một niềm tin kiên cố vào người đệ tử chân tu tương lai: giàu lòng từ bi, trí tuệ, có bản lĩnh Điều đáng quý là thầy thấu hiểu được hoàn cảnh, căn cơ và tư chất giác ngộ của đệ tử mình Khi thấy lòng
đệ tử mình đang chao, lòng từ bi đã vướng ái kiến, thầy không la rầy, trách mắng mà chỉ nhìn thẳng vào mắt đệ tử một cách thùy từ và trả lời: “Chỉ có con tự trả lời được thôi Ngày mai con hãy về, cứ nhìn thẳng vào nghiệp duyên mà tự quyết lòng mình” Đức Phật cũng chỉ là người chỉ đường, còn việc chọn lựa và đi hay không là mỗi người phải
tự quyết và tự độ Khi thấy đệ tử òa khóc trước sự hi sinh của Lan, luống cuống che mặt, thầy từ bi và thông cảm, vỗ về: “cứ khóc đi con”, “thầy chưa nghe nói gỗ đá thành Phật bao giờ” Khi đệ tử xin phép được hay không , trồng cây hoàng lan tội nghiệp ấy, thầy bảo: “Cây cỏ vô tội, sao mình không thể bao dung?” Đặc biệt vị thầy tuyệt vời ấy đã để lại trong lòng người đọc một ấn tượng quá đẹp, khiến người ta bật khóc khi một tay dắt người đệ tử đáng thương, một tay cẩm túi cây đến bên góc vườn, thầy tự mình trồng xuống Chính thầy là hiện thân vẻ đẹp tình thương quảng đại và trí giác của vị Tăng trong đạo Phật đã thong dong bước vào thế giới nghệ thuật ngôn từ
Khác với Thương nhớ hoàng lan, truyện ngắn Hải đường tăng kể về câu chuyện
của một nhà sư Trước khi đến với chốn tu hành, ông đã làm lễ ăn hỏi với người con gái
Trang 40mình yêu và đã thoái hôn khi nhận ra cõi tu hành mới là cuộc sống thực của mình Ông
đã quyết tâm lựa chọn và sẵn sàng bỏ đi dù biết rằng mình đã gây đau khổ cho Luyến Luyến - người con gái bị từ hôn đã tìm đến chùa với nỗi thống hận sau hai mươi năm chịu đựng mọi đắng cay tủi nhục, mất mát, tan vỡ đến tận cùng Đến bấy giờ, nhà sư mới nhận ra rằng: “Kẻ thù lớn nhất của đời người là chính mình, …một hạt mầm vô tình gieo từ hai mươi năm đã thành cây đắng trái độc Không tránh khỏi Nghiệp dĩ đã khởi, hãy để cho nghiệp đi đến cùng rồi mới có thể sánh vai với trời xanh mây trắng” Với tấm lòng ngộ đạo của một nhà sư suốt hai mươi năm sống kiếp tu hành, sư Viên Tâm đã làm nguôi dần và tắt hẳn ngọn lửa thù hận trong lòng Luyến bằng cách để cho người phụ nữ bất hạnh này nói ra hết những điều chất chứa trong lòng Bởi có lẽ, thù hận kia ngày càng nặng nề do Luyến không có chỗ để chia sẻ, không có người nào là tri âm Thế nên khi bình minh đến, Luyến “nhận thấy rõ ánh mắt hiền hậu đang chăm chú lắng nghe…lòng nàng bỗng nhẹ đi Có một người đang lắng nghe nàng… giờ đây, nàng đã biết sợ vực sâu, và đã trút được hết lửa bỏng trong lòng Lúc đến đây, nàng nghĩ mình không có gì để mất bây giờ, nàng biết quý trọng sinh mạng của mình Còn sư Viên Tâm khi gặp tình huống Luyến trần truồng trong thiền phòng của mình, sau khi trấn tĩnh được, “ông đã không nghĩ đến việc làm sao gỡ mình ra khỏi thế bí, mà nghĩ làm thế nào
để cứu chữa cái tâm hồn què quặt đã đến với ông trong đêm này” Sư Viên Tâm vẫn biết việc “cứu chữa cái tâm hồn què quặt” của Luyến sẽ ảnh hưởng đến việc thăng chức thượng tọa của mình và làm cho “tăng chúng trong chùa nhìn ông bằng ánh mắt khác”
Ở đây tác giả dường như muốn ngợi ca vẻ đẹp tấm lòng từ bi bác ái của một nhà sư đặt viêc cứu vớt chúng sinh lên trên cả thanh danh Hình tượng sư Viên Tâm cũng cho người đọc hiểu rằng, người tu hành tụng kinh niệm phật tích thiện sửa mình để cầu mong giải thoát và cứu độ chúng sinh, họ sẽ thấy thanh thản với những gì mình đã làm,
đã sống với cái tâm trong sáng của mình Chính tư tưởng và vẻ đẹp tấm lòng ấy đã làm cho ngôi chùa nhỏ trên núi mà sư Viên Tâm tự mình dựng lên sau ngày rời chùa Phật Tích với cành hải đường của sư trụ trì đưa về từ xứ Phật, ngày càng đông khách đến Có thể nói, qua tác phẩm, người đọc thấy được dấu ấn văn hóa Phật giáo của mảnh đất cố
đô đã đi vào trang viết của chị tự nhiên như hơi thở, như chính đời sống tâm linh của người dân xứ Huế vậy