1. Trang chủ
  2. » Tôn giáo

Ebook Học gần học xa - GS. Bùi Trọng Liễu

20 12 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 20
Dung lượng 485,7 KB

Nội dung

Khi bà ta ch ết rồi, mấy người họ L ữ nghe xúi dại, hám gi àu sang ch ức tước cao xa, thả binh quyền ; các c ận thần cũ của Hán Cao Tổ mới đảo chính, giết hết họ h àng nhà L ữ, kể cả [r]

(1)(2)

2

HỌC GẦN, HỌC XA

(Tạp đàm) Bùi Trọng Liễu

Nguyên Giáo sư Đại học (Paris, Pháp)

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội 2005

Mục lục

0. Lời nói đầu

Chương 1: Tạp đàm với Y, Y ? Chương 2: Từ ngữ, chơi chữ, « biết hay » 15

Chương 3: Thương nhân ảnh hưởng 25

Chương 4: Về báo mang tên « Giảm khinh » 56 Chương 5: Về sắc đẹp phụ nữ chuyện tình 71

Chương 6: Đọc sách điểm sách 82

Chương 7: Lại chuyện Giáo dục Đào tạo 120

Về tác giả:: Sinh năm 1934,

du học Pháp (1950), định cư Pháp

Tiến sĩ nhà nước khoa học, ngành Toán (Docteur d’Etat ès sciences mathématiques), Paris 1962

(3)

3 Nghỉ hưu 2003

Bùi Trọng Liễu tác giả sách xuât Việt Nam:

- "Tự người xa quê hương” (tên cũ “Chuyện gia đình ngồi đời”) , nxb Đại học Quốc gia Hà Nội 2004

- "Chung quanh việc Học", nxb Thanh niên 2004 - “Học gần, Học xa”, nxb Đại học Quốc gia Hà Nội 2005

Hai sách sau Trung tâm Nghiên cứu Quốc học Nxb Tổng hợp HCM tái đầu đề “Học gần, Học xa” 2006

- "Học Một Sàng Khôn", nxb Tri thức Hà Nội 2007

Một sách thứ 5, chưa xuất bản, "tạp ký bỏ ngỏ: "Hướng quê cũ lúc chiều

(4)

4

Li nói đu

Tơi vốn nhà giáo Thuở trẻ học ; lúc vào đời dạy học Nhưng dạy học luôn phải học, học để trau dồi nghề nghiệp, học để hiểu biết thêm giới chung quanh mình, hiểu biết có liên quan Trong bốn mươi năm hành nghề giáo sư đại học Pháp khuôn khổ chuyên môn mình, tơi chăm chắt lọc, thu gọn hiểu biết tích lũy thiên hạ tìm tịi suy ngẫm mình, tìm mà cho tinh túy để ghi thành giảng, để chuyển giao cho sinh viên Tơi nghĩ cách tiết kiệm thời nhất, có hiệu nhất, để chuyển giao kiến thức cho người theo học, dù cấp bậc nào, dù năm đầu đại học hay cấp nghiên cứu sinh ; thu gọn cho họ, để họ có thời gian suy ngẫm tự tìm hiểu thêm điều cần biết muốn biết Đó khung cảnh nghề nghiệp tơi

Như nói trên, ngồi đời, tơi có nhiều điều phải học hỏi, lịch sử, văn hóa, học thuật, cách ứng xử, vv Học hỏi đây, không qua việc đọc sách, đọc báo, đọc tin, tìm tài liệu, mà cịn qua trao đổi với người khác, điều biết nhớ lấy, điều chưa tỏ hỏi người biết Những tích lũy đó, mà tơi « học gần, học xa », không muốn bỏ phí Từ năm nghỉ hưu, tơi chẳng bổn phận phải chuyển giao hiểu biết cho ; ý tiết kiệm thời cho người khác cịn ; nên tơi muốn ghi chép lại số điều tích lũy, để « tặng » muốn đọc, muốn biết, muốn giải trí lúc thư nhàn

Sự hiểu biết vô tận, mà biết hết điều muốn biết ! Mục tiêu sách khiêm tốn : ghi chép lại số điều thu thập chuyện đông, tây, kim, cổ, dạng trao đổi khơng « hàn lâm », với cách viết bình dị

(5)

5

Viết sách, nhận thấy khó khăn ghi tên người, địa danh nước ngồi, tiếng ta chưa định chuẩn thống Ghi tự dạng nước gốc, tất nhiên khơng phải lúc làm (như chữ Hán, chữ A-rập, …) , phiên âm từ cách phát âm xứ ; viết có gạch nối hay khơng, vv Có lẽ tên ta tên Tàu, ngơn ngữ đơn tiết, tơi viết khơng gạch nối Cịn tên thuộc ngơn ngữ khác, phiên âm, đành để gạch nối, với chữ hoa khởi đầu, không dùng chữ hoa sau gạch nối Nhưng tên người Mông Cổ, lúc chưa Hán hóa viết nào, lúc Hán hóa vào Trung quốc viết ? Lại cịn khó khăn khác Xin đơn cử vài thí dụ : tên gọi giáo hoàng, ghi theo âm quốc tịch gốc vị, hay theo tên ghi tiếng La-tinh ? Lại tên nhà thám hiểm Kha-luân-bố (sinh năm 1450 hay 1451 không rõ, năm 1506) Ông ta vốn sinh Genova (nay thuộc Ý), tên lúc sinh Cristoforo Colombo, tiếng Bồ-đào-nha (nơi mà ông ta sinh sống nhiều năm cố thuyết phục không thành công vua nước giúp cho ông ta thực đề án thám hiểm) gọi ơng ta Cristóvão Colombo ; tiếng Tây-ban-nha (nơi mà ông ta thuyết phục vua Fernando II hoàng hậu Isabel la Catolica đỡ đầu trao sứ mạng thám hiểm cho ơng ta) gọi ông ta Cristóval Colón (xứ Castillan) Cristofor Colom (xứ Catalan) ; người Pháp gọi Christophe Colomb ; tiếng La-tinh viết Christophorus Colombus ; tiếng Anh Christopher Columbus ; tiếng Đức Christoph Kolumbus ; tiếng Hà-lan Christoffel Columbus, tiếng Thụy-điển Kristoffer Kolumbus ; người thủy thủ xứ Breton (Pháp) gọi ông ta Kristol Goulm, vv Còn ta thuở xưa, theo tự dạng chữ Hán người Tàu phiên âm theo cách đọc họ, đọc theo kiểu đọc chữ Nho ta thành Kha-luân-bố Biết viết cho hợp ? Rốt cục, đánh cố gắng tùy trường hợp, ghi cách mà tự cho phù hợp cả, sống Pháp, quen với cách phát âm người Pháp, nên có phần thiên vị ngả tiếng Pháp Mong người đọc thông cảm khoan dung

Tôi có lời cám ơn anh chị ĐT, NT, KV, QV, ĐVN nói riêng DĐF nói chung, trực tiếp hay gián tiếp cho số thông tin việc, điển tích hay cách dùng từ ngữ

Viết sách mà có người đọc, may mắn ; khen hay chê điều mà tác giả, tôi, phải biết sẵn sàng đón nhận

(6)

6

Chương 1

Tạp đàm với Y Nhưng Y ?

Y ? Y tên húy đại từ thứ ba? Gọi Y « y » hay gọi Y « »? Mà viết Y với chữ hoa, hay viết y với chữ thường ?

Thuở nhỏ, cịn Việt Nam, y ngủ hay bị « bóng đè » Nghĩa giở tỉnh giở mê, muốn thức dậy mà khơng được, tựa có « bóng » đè xuống làm ngạt, phải cố vùng vẫy, đụng đậy tay hay bàn chân, để tỉnh dậy Hình thời, có người cựu « thuyền nhân » định cư nước ngồi tự nhiên chết bóng đè Thế đêm mộng mị, y mơ thấy xác, hồn bay lên cao nhìn thấy xác y cịn nằm đó, y nhìn người khác Tỉnh dậy, y nghĩ : vậy, có lẽ nhìn khơng khác nhìn người khác

(7)

7

những khởi hứng cho nhiều nhà văn nhà thơ, mà cho nhà kiến trúc Đặc biệt, xin kể đến Mê lộ nhà thờ Amiens, Reims Chartres, ba nhà thờ có tiếng Pháp

(2) Mê lộ nhà thờ Amiens (thế kỉ 13) hình bát giác lát đá nhà thờ, «vẽ» theo nét sợi dây liên tục dài 234m; hình bát giác gần cân đối, nét vẽ quanh co làm lên, trung tâm, thánh bốn đầu bốn phương Mê lộ nhà thờ Chartres (cũng kỉ thứ 13) hình trịn lát đá nhà thờ, «vẽ» theo nét sợi dây liên tục dài 261m50 Mê lộ nhà thờ Reims hình vng chiều 10m36 lát đá nhà thờ, góc «cắm vào » hình bát giác, bốn bát giác đóng khung hình bốn ơng kiến trúc sư xây dựng nhà thờ Vấn đề : ba Mê lộ «vẽ » theo nét liên tục sợi dây Ariane; quanh co khơng thể «lạc », theo truyền thuyết Mê lộ quanh co mắc míu khó ra, chủ ý làm cho người ta bị lạc Vậy Mê lộ « giả » hay Mê lộ «thật »?

Câu hỏi này, y đặt cho y ngắm hai tranh gỗ vẽ : vẽ tặng vợ tơi, thể câu Kiều lẩy « Mấy mươi năm biết tình » tranh thưởng cho cháu cháu biết đọc, thể câu Kiều lẩy « Đầu lịng ả tố nga » Cả hai chữ Nôm viết theo thể chữ triện, cháu nhỏ gọi đùa Mê lộ, tất nhiên nét vẽ không liên tục chặng sợi dây Ariane, không chủ ý làm lạc lối Vậy Mê lộ tất Mê lộ « giả » Vậy có « giả » mà có « thật »

Rồi ngày nay, Pháp, Mê lộ thời thượng nhà nông chế biến : vào mùa hè, số nhà nông trồng bụi cây, xếp chúng theo hàng rào Mê lộ vườn rộng rãi, để du khách dạochơi Cũng thú vui giải trí lành mạnh, tao

Đời Đường bên Tàu có chuyện « Giấc mộng kê vàng »: Lư Sinh thi không đỗ, chán nản trở quê Trên đường, ghé vào quán trọ, thấy ông già chủ quán (một đạo sĩ) nấu nồi kê Chàng mệt mỏi ngủ thiếp đi, mơ thấy thi đỗ, lấy vợ đẹp, làm quan to, hiển vinh, bị họa Chợt vùng tỉnh dậy, thấy nồi kê chủ qn cịn chưa chín Một cách diễn tả cảnh phù du cõi đời

(8)

8

(5) kể, ơng có viện cớ câu chuyện ông Hồ Tông Thốc để gửi gắm tâm vào khơng, lại mơ mơ ảo ảo

Khi đề cập đến chuyện trên, y muốn nói thật giả khó lường Mê mê tỉnh tỉnh Rồi có lúc mê, có y lại ngỡ y ai Nhưng điều Y « » hay y « nhiều »? Thôi, xét cho cùng, khơng quan trọng

Cái đáng ý y lại có nhiều điều muốn kể, muốn luận bàn Rồi y rủ trao đổi; y muốn viết Cũng Nhưng tơi cơng ghi chép, tơi muốn nhận phần « » : ơn tồn, nghiêm chỉnh, tú, tơi nhận phần tơi ; thơ bạo, ngang ngược, chướng tai y phải nhận Và y đồng ý

Nào, mời bạn đọc nghe y tạp luận

Chú thích :

(1) Câu chuyện khơng có : Sau giết xong quái Minotaure, nhờ sợi dây Ariane, chàng Thésée thoát khỏi Mê lộ Nàng Ariane mê chàng nên bỏ đảo, theo chàng lên thuyền Trên đường trở nước, để tránh bão, thuyền ghé vào đảo hoang để tạm trú Mọi người mỏi mệt, lên nghỉ ngơi Ariane ngủ quên, lúc tỉnh dậy thuyền hút : chàng Thésée tệ bạc bỏ rơi nàng Nàng chơ vơ, khóc lóc, than vãn ; may có thần Dionysos (người La-mã gọi Bacchus, thần Mùa màng Rượu) bay qua đó, thấy nàng xinh đẹp, ghé lại hỏi thăm Đơi bên chuyện trị, cảm thấy vừa ý, lấy Thế nàng Ariane vừa người tình bạc, lại vớ ơng chồng sộp ! Cịn chàng Thésée đường cịn có chuyện Vốn đi, trước chàng đám thủy thủ lên thuyền, vua cha có dặn người hoa tiêu : « Nếu ta giết quái trở bình yên, thuyền phải kéo buồm trắng báo hiệu ; ta bị quái ăn thịt, để buồm đen lúc » Lúc trở về, người mừng thoát nạn, quên lời dặn, người hoa tiêu quên Lúc thuyền trở về, xuất chân trời, vua Egée trông thấy buồm đen ngỡ chết, buồn bã đau đớn, đâm đầu xuống biển tự tử Từ thuở ấy, biển mang tên biển Egée (tức phần Địa Trung hải ngày nay)

(9)

9

Con bò đực thấy bò cái, tưởng lầm nên giao hoan với bà hoàng Bà thụ tinh bò, đẻ quái Minotaure nửa bị nửa người, thích ăn thịt người kể Để giấu quái Minotaure này, vua Minos sai Dédale xây Mê lộ để giấu kín quái Như nàng Ariane chị em mẹ khác cha với quái, nhờ dẫn Dédale, biết bí để giúp cho Thésée khỏi Mê lộ Sau Thésée trốn thoát rồi, vua Minos giận việc Dédale tiết lộ bí mật, giam ơng trai ông ta Icare (I-ca) Để trốn thoát ra, Dédale chế cách dùng lơng chim sáp dính lại thành cánh chim gắn vào hai cánh tay Icare, để chàng cõng bố bay lên không trốn khỏi nơi giam Dédale dặn đừng bay thấp sợ nuớc biển bốc lên làm ướt cánh, đừng bay cao , sợ sức nóng mặt trời làm chảy sáp gắn lơng cánh Nhưng tới lúc Icare bay cao quá, sáp chảy ra, hai bố lăn tòm xuống biển, Icare chết đuối Bố vớt thây đem chôn đảo, đảo Icara Hy-lạp, mang dấu tích tên Icare Nhưng khơng chuyện thần thoại Hy-lạp quái gở mà kể ra, mà liên quan chút đến ngày Trên kênh France 5-Arte đài truyền hình Pháp tối 26-2-2005, có chiếu phim thời mang tên « Những ngày cuối thành phố Zeugma », kể lại câu chuyện xây đập Birecik Thổ-nhĩ-kì Nhân đào bới xây đập, người ta phát duới lịng đất ngơi thành cổ xây đá có từ khoảng hai nghìn năm trước đây, với nhà cửa phố xá, hệ thống cống rãnh tinh vi, vv., dinh thự, nhà lát tranh ghép mảnh (mosaïques), tất khoảng 15 bức, tổng cộng đến hàng trăm mét vng, cịn ngun vẹn, màu sắc hình thể thật đẹp, diễn lại tích Pasiphắ, Ariane, Dédale, vv kể trên… Trong năm năm làm việc khẩn cấp nhà khảo cổ Thổ-nhĩ-kì Pháp cố cứu cứu được, trước nước đập làm ngập hết di tích nằm lịng đất hai nghìn năm Người xem tơi tất cảm thấy niềm khâm phục kiến trúc nghệ thuật người thời

(2) Ba nhà thờ lớn ba nhà thờ cổ có danh nước Pháp, cịn tồn Đó ba nhà thờ 88 xây kỉ 13 Pháp Nhà thờ Reims xây hai nhà thờ cũ (cái cũ có từ năm 401 nơi tơn (khoảng năm 498) Clovis vua « Pháp » theo đạo Ki-tô Nhà thờ Reims bắt đầu xây vào năm 1211, tạm xong vào năm 1275 tiếp tục sửa sang thêm Tất có 25 vua làm lễ đăng quang nhà thờ Mê lộ nhà thờ khởi lát năm 1286, bị hủy năm 1779 Nhà thờ Amiens (cao 112,70 m kể đỉnh tháp) bắt đầu xây năm 1220, đến năm 1269 tạm xong khung ngồi ; Mê lộ khởi cơng năm 1288 Nhà thờ Chartres (cao 115 m kể đỉnh tháp), khởi công xây năm 1194 et tạm xong năm 1223 (trên nhà thờ cổ kỉ 4)

( 3) Hạng vương Hạng Vũ, thời cổ Trung quốc, tương truyền có sức khỏe tuyệt luân Nhắc thơ « Nói khốc » :

(10)

10 Sức khỏe Hạng vương cho đấm

Cờ cao Đế thích chấp đơi xe Nhẩy ùm xuống biển lơi tàu lại Chạy tót lên non bắt cọp Thuở vào chơi Thủy phủ, Ba nghìn cơng chúa phải lịng mê

Cái câu thứ ba ơng Hạng vương Cịn Đế Thích ơng tiên cao cờ

Sau Tần Thủy hoàng chết, người thứ Hồ Hợi theo mưu kế hoạn quan Triệu Cao, tử người anh thái tử Phù Tô, lên tức Tần Nhị Thế Vì sách nhà Tần q khắc nghiệt, dân chúng oán hận Khoảng năm 209 trước Công nguyên, Hạng Vũ (Sở) Lưu Bang (người đất Bái, sau Hán vương) khởi binh, diệt nhà Tần Tiếp đó, Hán Sở tranh hùng, Hạng Vũ thua tự tử chết, Lưu Bang thống nước Tàu, lên tức vua Cao Tổ nhà Hán Trong truyện, thơ Hồ Tông Thốc viết chữ Hán, phiên âm sau :

Bách nhị sơn hà khởi chiến phong, Huề tương tử đệ nhập Quan Trung, Yên tiêu Hàm Cốc châu cung lãnh, Tuyết tán Hồng môn ngọc đẩu không Nhất bại hữu thiên vong Trạch tả, Trùng lai vô địa đáo Giang Đông Kinh doanh ngũ tải thành hà ? Tiêu đắc khu khu táng Lỗ Công

Trúc Khê dịch sách dẫn trên, có dịch thơ sau : Non nước trăm hai bụi hồng,

(11)

11 Thua chạy giời xui đường Trạch tả,

Quay đất lấp nẻo Giang Đông Năm năm lăn lộn hồi cơng cốc, Cịn vùi mả Lỗ Cơng

Và ơng có thích rõ ràng điển tích dùng thơ để người đọc hiểu nội dung : Nhà Tần đóng Quan Trung nới hiểm cố, hai người chống với trăm người ngồi, nên gọi « non nước trăm hai » Câu thơ thứ ba việc Hạng Vũ đốt cung A Phòng nhà Tần Câu thứ tư bữa tiệc Hồng Môn, Phặm Tăng khuyên Hạng Vũ giết Lưu Bang, Hạng Vũ không nghe, Phạm Tăng giận chém vỡ đấu ngọc Trương Lương, mưu sĩ Lưu Bang biếu Câu thứ năm việc Hạng Vũ thua chạy đến nơi đường, hỏi thăm ông già làm ruộng ; ông đánh lừa bảo theo phía bên tả, mắc kẹt vào đầm (trạch) khơng chạy Câu thứ sáu việc Hạng Vũ chạy đến sông Ô, người lái thuyền khuyên nên qua sông trở Giang Đơng sau tính chuyện phục thù, Hạng Vũ không nghe, tự tử Câu thứ tám kể việc Hạng Vũ chết rồi, Lưu Bang lấy lễ chôn Hạng Vũ theo tước công nước Lỗ, tiếng tử tế, thực mỉa mai lúc sống Hạng Vũ xưng Sở Bá vương đứng chư hầu kể Lưu Bang (Một số chi tiết nói đây) Nói tóm, thơ nêu điều lầm lẫn Hạng Vũ ; đối đáp với Hạng Vương giấc mơ, ơng Hồ Tơng Thốc cịn nêu số điều nữa, nhắc đến tàn bạo Hạng vương ngụ ý cho mà thua Hán Hạng vương Phạm Tăng giấc mơ cãi lại cho thắng thua số phận trời, nêu xấu Hán, để dẫn chứng Những điều trách Hạng Vũ sau : (a) Thuở cịn giao tranh, bữa tiệc Hồng Mơn, Phạm Tăng xui Hạng Vũ giết Lưu Bang, Vũ khơng nghe, để Bang (b) Tần Nhị Thế chết rồi, Tử Anh nối Tần Tam Thế, người ác, đầu hàng mà Hạng Vũ giết (c) Hạng Vũ đốt cung A Phòng tráng lệ nhà Tần phí phạm vơ ích (d) Hàn Sinh khun Hạng Vũ đóng Quan Trung lời khuyên đúng, Vũ không nghe, Hàn Sinh nói lén, Hạng Vũ đem nấu cho chết vạc dầu, vv

Những điều chê Lưu Bang sau : (e) Thuở giao tranh, Hạng Vũ bắt cha Lưu Bang mang trước trận để làm áp lực với Lưu Bang, Lưu Bang giả say bảo « Cha ta cha mày, mày nấu cha ta chia cho ta bát nước » (Sau Hạng Vũ thả cha Lưu Bang cho về) (g) Khi Lưu Bang lên (Hán Cao Tổ) rồi, yêu vợ lẽ Thích Cơ, muốn cho nhỏ Như Ý nối ngôi, mà không thực được, để Lưu Bang chết rồi, vợ Lữ hậu đổ thuốc độc giết Như Ý có che chở vua Hiếu Huệ đế (con Lữ hậu) Rồi Lữ hậu báo thù Thích Cơ cách chặt cụt chân tay, móc mù hai mắt, đốt tai cho điếc, đổ thuốc cho câm, vứt vào nhà xí gọi « lợn người », vv (Những việc có kể Sử ký Tư Mã Thiên)

(12)

12

Lưu Bang vốn gốc gác thường dân đất Bái , sau làm đình trưởng (cai quản « đình », tức đơn vị gồm mười làng), lấy vợ họ Lữ (sau Lữ hậu) có trai gái với bà (sau vua Hiếu Huệ cơng chúa Lỗ Ngun) Đời nhà Tần, chức vụ đình trưởng, Lưu Bang có nhiệm vụ đưa người bị tội đày đến Lịch Sơn ; đường nhiều người bỏ trốn Theo pháp lệnh nhà Tần, để người trốn, người trách nhiệm bị tội chết Lưu Bang họp người chưa trốn, thả họ khun họ trốn đi, cịn phải trốn ln ; có số người tình nguyện theo Năm thứ đời Tần Nhị Thế (209 trước Tây lịch), hào kiệt nhiều nơi lên chống nhà Tần, Lưu Bang khởi nghĩa đất Bái, nên gọi Bái cơng Lúc lực khởi nghĩa tạm tơn người làm vua, tức Hoài vương Quân Tần lúc cịn mạnh, đánh lúc lúc thua Hoài vương giao ước đánh chiếm đất Quan Trung trước, làm vua nơi Các tướng khơng xem việc đánh Quan Trung có lợi cho mình, nên khơng mặn mà, có Hạng Vũ Lưu Bang chịu đi, Hạng Vũ vốn bị tiếng tàn ác hay giết, nên bị gạt Sau nhiều gian nan, Lưu Bang mang quân chiếm Quan Trung Đó vào năm 207 trước Cơng ngun Lúc Tần Nhị Thế chết, Tần Tử Anh làm vua bốn mươi sáu ngày đầu hàng Lưu Bang Lưu Bang tỏ rộng lượng không giết, vào kinh đô Hàm Dương niêm phong kho tàng, bỏ pháp luật khắc nghiệt nhà Tần, vỗ dân chúng, khơng vào cung A Phịng (là cung tráng lệ nhà Tần) để hưởng lạc, nên lịng dân Có người khun Lưu Bang đất Tần đất giàu có, để quân chư hầu kéo vào đất khơng thuộc phần nữa, nên sai quân sĩ giữ cửa ải Hàm Cốc không cho họ vào Tháng sau, Hạng Vũ thống lĩnh quân chư hầu đến nơi, bị chặn cửa Hàm Cốc, không vào

Hạng Vũ giận muốn đánh ; quân Hạng Vũ bốn mươi vạn, quân Lưu Bang mười vạn, liệu chống không nổi, nghe theo kế, xin đến gặp Hạng Vũ Hồng Môn, dùng lời lẽ khéo léo ngụy biện để xin hòa Phạm Tăng quân sư Hạng Vũ khuyên Hạng Vũ nhân bữa tiệc, bắt Lưu Bang giết để trừ hậu hoạn, Hạng Vũ không nghe, để Lưu Bang trốn Đấy tích Hồng Mơn nói (a)

Hạng Vũ đem quân vào Hàm Dương, sai giết Tần Tử Anh vua Tần hàng mà trước Lưu Bang tha Đó tích (b)

Lại sai lửa đốt cung A Phòng cung điện khác, cháy ba tháng khơng hết ; tích (c) Lúc có Hàn Sinh khuyên Hạng Vũ nên đóng đất Quan Trung, nơi « bốn phía có núi sơng che chở, đất đai phì nhiêu, đóng để làm nên nghiệp bá » Hạng Vũ không nghe, muốn đem quân trở phía q cũ đất Sở đóng nơi khác Hàn Sinh nói : « Người nước Sở giống khỉ đội mũ người », ý nói khỉ dù có đội mũ người chốc lát vứt mũ tính khỉ lộ Hạng Vũ nghe thấy, giận sai bắt bỏ vào vạc dầu mà nấu Đó tích (d)

(13)

13

Trương Lương làm quân sư, Tiêu Hà lo việc hậu cần, Hàn Tín làm tướng cầm qn, có biệt tài, công lao lớn

Lúc đầu Hán vương thua, nhiều lần nguy khốn, có lúc cha vợ bị Hạng vương bắt làm tin để ép Hán vương hàng, không nấu cha ; Hán vương khơng chịu, giả say nói câu « Cha ta cha mày, mày nấu cha ta chia cho ta bát nước » kể ; tích (e) Năm 202 trước Công nguyên, Hán vương thắng Hạng vương (Hạng vương tự tử chết) Hán vương Lưu Bang lên ngơi Hồng đế, tức vua Hán Cao Tổ

Lữ hậu vợ Hán Cao Tổ , từ thuở hàn vi Sau Hán Cao Tổ yêu vợ thứ Thích Cơ, có lúc muốn cho trai Thích Cơ Như Ý làm thái tử, Lữ hậu theo mưu Trương Lương nhờ quần thần can ngăn nên việc không thành Hán Cao Tổ chết, trai Lữ hậu nối tức (Hiếu) Huệ đế, người hiền lành, nhân từ, yếu đuối Trước đó, Hán Cao Tổ cẩn thận phong cho Như Ý làm vương đất Triệu Nhưng Hán Cao Tổ chết rồi, Lữ hậu, Lữ thái hậu giam Thích Cơ triệu Như Ý kinh Huệ đế biết ý mẹ, nên thân hành đón Như Ý, luôn kèm bên cạnh để che chở, Lữ Thái hậu muốn giết Như Ý mà khơng có dịp Năm 194 trước Công nguyên, hôm Huệ đế săn buổi sớm, Như Ý cịn nhỏ khơng dạy sớm theo Lữ thái hậu cho người mang thuốc độc đến bắt uống, Hiếu Huệ đế săn về, Như Ý chết Tiếp đó, Lữ thái hậu thực việc báo thù Thích Cơ cách chặt cụt chân tay, móc mù hai mắt, đốt tai cho điếc, đổ thuốc cho câm, vứt vào nhà xí gọi « lợn người », Hiếu Huệ đế biết việc, khóc rống lên mà nói « Việc khơng phải việc người làm » Đó tích (g) nói

Lữ thái hậu người cứng rắn, đốn, củng cố quyền lực cách cất nhắc người thân dòng họ Lữ Thí dụ việc « vơ hiệu hóa » cơng thần cũ Hán Cao Tổ dịng dõi họ Lưu, bổ nhiệm người tình Thẩm Tự Cơ làm tả thừa tướng, bắt Hiếu Huệ đế lấy cháu gái Vốn Lữ thái hậu có hai người : Lỗ Nguyên chị Hiếu Huệ em trai Lỗ Nguyên lấy chồng Trương Ngao, đẻ người gái Lữ thái hậu bắt Huệ Đế lấy người gái để củng cố uy mình, bà khơng có ; Lữ thái hậu bắt bà ta phải giả có mang, chọn người khác, giết mẹ đi, thay vào Năm 191 trước Cơng nguyên, Huệ đế chết, người Lữ thái hậu đưa lên làm vua, người biết nói « Giết mẹ ta, lại gọi ta ; ta bé, sau ta trưởng thành thay đổi » Lữ thái hậu nghe được, sợ cho sau này, nên giam vua trông cung, phao tin vua mắc bệnh nặng, trí, phế truất giết đi, đưa người khác lên làm hoàng đế, sử gọi Thiếu đế Lữ thái hậu thường dặn tơng tộc nhà thả binh quyền vào tay người khác Khi bà ta chết rồi, người họ Lữ nghe xúi dại, hám giàu sang chức tước cao xa, thả binh quyền ; cận thần cũ Hán Cao Tổ đảo chính, giết hết họ hàng nhà Lữ, kể vua Lữ thái hậu lập nên, đưa người khác Lưu Bang lên làm vua tức Hán Văn đế

Lữ thái hậu cầm quyền tám năm, ám sát, giết người ghê gớm, để uy hiếp tinh thần đối thủ, việc chủ yếu việc giành quyền lực cho họ Lữ cung đình Cịn ngồi dân gian thái bình, khơng bị khổ chiến tranh, hình phạt dùng, dân yên lòng cày cấy, ăn no mặc đủ, chuyện lạ thời

(14)

14

lên ngơi hồng đế Hán Cao Tổ, có nhiều lần có chư hầu làm phản Hàn Tín có tài nên ln ln bị Hán Cao Tổ nghi sợ, sau Hán Cao Tổ giả vờ tuần thú, lập mưu dụ Hán Tín lại chầu, sai bắt, chở kinh đô Lạc Dương Nhưng chứng cớ nên tha tội, cải phong làm Hồi Âm hầu Năm 116 trước Cơng ngun, người quen Hán Tín Trần Hy dấy binh làm phản Cự Lộc, Hán Cao Tổ thân chinh, Hán Tín cáo ốm khơng theo Có người vu cáo (hay gợi ý vu cáo), Lữ thái hậu bàn với tướng quốc Tiêu Hà giả vờ có sứ giả từ chỗ vua sai báo tin phá Trần Hy Các quan vào chầu mừng ; tướng quốc lừa khun Hán Tín : « Tuy ngài ốm, nên cố gắng vào mừng » Hán Tín vào, Lữ thái hậu sai võ sĩ bắt trói, đem chém giết ba họ Khi Hán Cao Tổ thực phá Trần Hy trở kinh đô, nghe tin Hàn Tín bị giết, nhà vua vừa mừng vừa thương Mừng trừ người sợ, thương có cơng lao lớn mà bị giết oan ? Bà Lữ thái hậu người ghê gớm Cũng điều lạ : Tiêu Hà thuởtrước người thân với Hàn Tín, Tiêu Hà tiến cử Hàn Tín với Lưu Bang thuở cịn tranh giành với Hạng Vũ, lại lừa Hàn Tín cho Lữ thái hậu bắt giết ? Quan hệ Tiêu Hà Hàn Tín nhắc đến phần sau nói họ Vi

(4 ) Ơng Hồ Tơng Thốc người kỉ 14, quê phủ Diễn Châu (nay thuộc Nghệ An) thi đỗ trạng nguyên vào khoảng năm 1370-1372 đó, làm quan to cuối đời Trần, tác giả Việt sử cương mục, Việt Nam chí, Thảo nhàn hiệu tần thi tập, Phú học nam, vv (Theo Từ điển Văn hóa Việt Nam, nxb Văn hóa 1993)

(15)

15

Chương 2

Từ ngữ, chơi chữ và « biết hay »

Y chuyên gia từ ngữ, lại có ý kiến muốn phát biểu Thế thứ « múa rìu qua mắt thợ »

Y bảo :

Tiếng Việt xưng hô thật phức tạp.Thuở xưa mà ngày Luôn thứ bậc Trong gia đình thân, cha mẹ anh chị em ruột thịt đành, biết Chứ cịn xa chút thấy khó Cịn người lạ, thật khó q Thí dụ xửa xưa : Với vua, chúa tâu Bệ hạ, Chúa thượng, Thượng đức, xưng tiện thần – thí dụ cách xưng hơ Nguyễn Thiếp Nguyễn Huệ, xem « La Sơn Phu tử » Hoàng Xuân Hãn, nxb Minh Tân, 1952 – với quan văn bẩm tướng cơng, quan võ bẩm tướng quân, xưng tiện dân Trong giới quan với gọi người hạ, xưng hạ ; quan với kẻ xưng chức… Phiền hà Ngày lại phiền Thí dụ viết đại từ ngơi thứ ba, chữ Người viết hoa tơn kính, chữ người khơng viết hoa giễu cợt – thí dụ « Chiều chiều », ông Tô Hoài, nxb Hội Nhà văn, Hà Nội 1999, trang 164, bồ ơng Đ.Đ.H nói : « Người khó tính Địi phải mua rau lấy người xơi Nhưng người khơn lắm, khơng địi luộc lấy » – dùng đại từ thứ hai gọi người theo kiểu xưa khinh Ngày lại sinh việc dùng chữ « Ngài » Thơi nghi lễ triều đình, nghi lễ ngoại giao, vào dịp long trọng, cịn hiểu Chứ lạm dùng nghe thật kỳ : có vị đại sứ gửi giấy mời chiêu đãi cịn tự xưng « Ngài » [« Ngài Đại sứ cạnh Cơ quan … xin có lời mời »] Qua điện thoại, người đầu dây ai, giả thử đốn người nam giới (nữ giới), gọi người ta anh (chị), ông (bà), bác cụ ? Gọi khơng làm mích lịng người ta, người ta làm mích lịng Lấy thí dụ kẻ trung niên gặp vị lớn tuổi, tơi gọi cụ, cụ gọi tơi ơng, khách sáo ; tơi gọi cụ bác, bác gọi tơi anh bác sợ tơi cho thiếu tôn trọng ; bác gọi tơi khơng ưa thứ bực gia trưởng

(16)

16

Trong « Tâm tình cụ Hồ », tạp chí Xưa Nay, số' tháng 6/2003, tác giả Trần Văn Giàu có kể sau: [Cuối năm 1945, gọi Hà Nội, ] Nhớ đời, phút đầu tiên, gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh (hơm Bắc phủ), tơi Cụ « chỉnh » cho trận Chủ tịch bắt tay tơi Tơi nhanh miệng nói « Chào anh, anh mạnh giỏi » Chủ tịch vừa siết chặt tay tơi, vừa đưa ngón tay lên mơi, mỉm cười nói : « Nên nói chào Cụ nghe, đừng nói chào anh, có biết khơng? » Tôi hiểu ngay; ỏ đông khách, xưng hô theo lối đồng chí nội với nhau, bất lịch

Y :

Thuở ấy, 1945, 1946, tơi nghe nói gọi cụ Hồ cụ, trừ nhi đồng gọi cụ Bác, hát : « Ai yêu bác Hồ Chí Minh chúng em nhi đồng, … » Hình sau 1950, cách xưng hơ « Bác » phổ biến Cũng năm kháng chiến gần gụi với người cộng tác, cách xưng hơ « gia đình » trở thành thói quen (?) Rồi chữ « Bác » trở thành « Bác » viết hoa Ơng Cù Huy Cận trả lời vấn vụ « ấn kiếm » hồi vua Bảo Đại thoái vị 1945 (nay không nhớ xuất xứ) kể bắt đầu 1950 gọi Cụ Bác Trong thư Cụ viết hỏi thăm sức khỏe ông Tạ Quang Bửuđang ốm, đề tháng 5/1950, lúc kháng chiến chống Pháp, Cụ viết: « Chú Bửu Hơm gặp Hai (chú thích: Đại tướng Võ Nguyên Giáp), hỏi thăm Mới biết mệt Sao? Đủ cơm ăn thuốc uống chứ? Cần phải nói thật với Hai, hỏi B (chú thích : Bác)… » (bút tích chụp lại tập hồi ký « Tạ Quang Bửu, nhà trí thức yêu nước cách mạng », Hội khoa học lịch sử Việt Nam, Hà Nội 1996, « GS Tạ Quang Bửu, người nghiệp »nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000) Nhưng cách xưng hơ với ơng Bửu khơng phải điển hình Cụ với ơng Bửu chỗ có quan hệ mật thiết (mẹ ông Bửu thuở xưa chỗ thân với bà Thanh, chị Cụ Hồ)

Thành ta trì quan hệ lích kích trên-dưới, quan-dân, sang-hèn, gần-xa, … Nghe nói người Trung quốc ngày nay, đại từ nhân xưng số ít, họ dùng chữ « ngã » cho thứ (tương đương với « I » tiếng Anh hay « je » tiếng Pháp), « nhĩ » cho ngơi thứ hai (tương đương với « you » tiếng Anh hay « tu /hay vous » tiếng Pháp), chữ « tha » cho ngơi thứ ba (tương đương với « he, she » tiếng Anh hay « il, elle » tiếng Pháp), đại từ nhân xưng số nhiều họ dùng « ngã mơn » cho ngơi thứ nhất, « nhĩ mơn » cho ngơi thứ hai « tha mơn » cho ngơi thứ ba Xem chừng phù hợp với đời sống giao dịch đại, họ không câng câng khoe cách xưng hô họ đầy « tình người »…

Y lại bảo :

Thôi, qui ước gọi « vị » hay cả, chả cịn thứ, không cao thấp, không giới, không sang hèn, khơng giàu nghèo, lễ độ chung chung, hồn tồn « nặc danh » (anonyme)

(17)

17 Tôi : Đồng ý

Y kể :

Này, nghe câu chuyện vui tai, (chuyện lượm mạng DĐF, nhiều tác giả trao đổi mà nên), chép lại Chuyện vầy : Có ca sĩ Nam Bộ Bắc hát dân ca « Trống cơm » ; hát « Một bày tang tình nít,…, lội, lội, lội sơng,… » Mấy chị ngồi Bắc sửa : phải hát « xít » khơng phải « nít », có điều chị khơng biết viết tả « xít » hay « sít », Mấy anh Việt kiều Pháp nghe chuyện, kể ngày xưa, thời chiến tranh, hát hợp xướng buổi văn nghệ hát « nít », mà lại nít … Bắc kỳ, mà lại … lội sông, kỳ ! Rồi có anh tra cứu từ điển suy « sít », loại chim to cỡ gà, chân cao mỏ đỏ, lông đen ánh xanh, sống ruộng nước, hay phá hại lúa Có điều tả « x » hay « s » khó phân biệt cho số người, đặc biệt người quê miền Bắc Có anh kể thuở nhỏ học ông thày dạy cho mẹo để phân biệt : gọi « x » « xờ bướm » dấu chéo hai cánh bướm, gọi « s » « sờ chim » ký tự viết tay chữ « s » giống mỏ chim, có câu : « sờ chim sướng, « xờ » bướm xấu xa » Hay chưa ?

Tơi :

Đó thuộc lĩnh vực « biết hay khơng biết » mà chuyện « biết hay khơng biết » linh tinh Như chuyện Trong «Bà huyện Thanh Quan, nhà thơ luật Đường Hà Thành tiếng », đăng tạp chí Dạy Học ngày Hội Khuyến học, số tháng 6/2004, trang 41, tác giả viết: « [ ] Thời gian « bóng xế tà », « bóng tịch dương », « bảng lảng bóng hồng » … Bởi buổi chiều dễ gợi nhớ, gợi thương Rất nhiều buổi chiều thơ ca sử dụng để diễn tả tâm trạng Ta chả thấy, buổi chiều xao xuyến thơn nữ ? » Tôi đọc thấy ngỡ ngàng, tự hỏi tác giả muốn nói câu thơ bà huyện Thanh Quan hiểu sai ý tác giả muốn dẫn thơ khác tác giả khác ? Chứ « Chiều hơm nhớ nhà » bà huyện Thanh Quan, tơi nhớ có hai câu:

Gác mái ngư ơng viễn phố, Gõ sừng mục tử lại cô thôn

« Cơ thơn » nghĩa xóm [« thơn »] hẻo lánh [« »], tơi khơng hiểu « thơn nữ »! Hai câu tơi hiểu : ơng chài gác mái chèo phố xa, trẻ chăn trâu gõ sừng trở lại xóm hẻo lánh Chao ơi, học văn thời mà khó thế!

(18)

18

Loại chuyện thiếu đâu Nghe kể học sinh cịn lầm « sĩ tử » với « tử sĩ » Cịn thày giáo lầm « Nam triều » (triều đình nước Nam, cụm từ hay dùng thời triều Nguyễn thuộc Pháp) với lính « Nam Triều tiên » sang đánh hôi miền Nam thời kỳ chiến tranh chống Mỹ

Đã có ông Việt kiều kể báo Văn Nghệ số 39, 29/9/1979, viết nhà văn Triêu Dương, có đoạn : « Có giáo viên giảng Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc Nguyễn Đình Chiểu, khơng có thích chữ linh , đọc lính giảng cụ Đồ Chiểu đứng vững quan điểm nhân dân lao động nên ý tới lính khơng ý đến tướng tá Sau lời bàn anh NHT : « Thày giáo nói thuộc diện hồng chuyên (có lẽ chiếu cố), biết thầy cô xứng đáng, tận tụy với nghề mà không đủ sống với nghề mà lương không đủ nuôi sống » Nhưng chuyện thời có lẽ qua

Y kể tiếp hỏi :

Trong buổi trao đổi, nghe kể cách hai mươi lăm năm, có quan chức lớn sang Pháp, nói chuyện với bà Việt kiều, để chứng tỏ nhìn « thống » ơng vấn đề « quốc tịch » (Việt Nam hay nước ngồi), đại khái ơng bảo : «Tịch chiếu ; quốc tịch chiếu, lúc đứng dậy nơi khác lại thơi mà » Tất nhiên, ý tưởng rộng rãi - người gốc Việt Nam nơi nào, mang quốc tịch nào, Việt Nam coi người Việt Nam - nhiều người hoan nghênh, chả có đáng bàn Vấn đề chữ « tịch » (mang nghĩa chiếu) chữ « tịch » từ kép « quốc tịch » (mang nghĩa sổ sách, quê quán, chữ « tịch » từ kép « hộ tịch ») , đồng âm, chữ Nho viết khác nghĩa khác Đó nhắc nhở giải thích học giả Việt kiều Ca-na-đa nghe câu chuyện Do có người đặt câu hỏi vị quan chức nói nhầm hai chữ với nên ơng nói - khơng lẽ ơng người cầm trịch cho nước văn hóa nhiều năm, mà lại phân biệt hai chữ sao? - ơng « chơi chữ » ?

Tơi góp lời :

(19)

19

Trung Viên, nxb Nghiêm Hàm, 1925,1927,1930, tái tập 1931 nxb Nam ký, sau có in lại)

Nhân đây, tơi xin kể vài chuyện vặt, liên quan đến việc « chơi chữ » hay đến việc « biết hay khơng biết »

Hồi Hội nghị Paris (1968-1973) chiến tranh Việt-Mỹ, buổi gặp gỡ với trí thức Việt kiều, có chị giới thiệu nhà khoa học Việt kiều với ông Nguyễn Minh Vỹ ( tên thật Tơn Thất Vỹ, lúc phó trưởng Xuân Thủy, trưởng đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng Hịa) Chị nói : « Đây anh X, nhà khoa học làm việc CNRS » (chú thích : CNRS tên gọi tắt Centre National de la Recherche Scientifique, Trung tâm quốc gia nghiên cứu khoa học Pháp) Tơi khơng rõ ơng Vỹ khơng có cảm tình với anh đó, hay ơng muốn « chơi chữ », mà ơng hỏi : « CRS ? » (chú thích : CRS tên gọi tắt Compagnie Républicaine de Sécurité, đội lính giữ an ninh Pháp, thực tế thuở đó, thường dùng để dẹp buổi biểu tình hay đình cơng, thí dụ giới lao động) Rõ ràng ơng nói đùa, nên anh chị em chung quanh cười ầm lên Nhưng « chị giới thiệu » lại ngây thơ, ngỡ ông không hiểu, nên vội vàng giải thích, làm cho anh chị em chung quanh lại cười ầm lên đợt Lại loại « chơi chữ » nữa, nhảm :

Tôi nhớ lống thống (nếu tơi nhớ nhầm biết xin sửa hộ, sách báo nói đến) : vào khoảng năm 1943 xảy câu chuyện tình, lẽ « đại » nước Đại Nam Việc xảy Đà Lạt: Đức vua lên nghỉ ấy, chả biết chim chuột mà ngài Nam Phuơng ghen, rút súng bắn (?), may mà Đức vua kịp ngự xuống gầm giường nên Do đó, tồn quyền Decoux (đọc Đờ-Cu) vội cử toàn quyền phu nhân lên Đà Lạt hòa giải Chẳng may xe phu nhân bị nạn, phu nhân bị chết (nghe nói mộ cịn Đà Lạt, tu viện Couvent des Oiseaux) Cho nên thời có câu : bà chết, nên ơng « đờ cu »! Sau để đền cơng Tồn quyền đại nhân, nhà vua ban tặng cho quan tồn quyền tước « Phị vương », hay « Phị quận vương »

Y bảo :

Ngày nay, học sinh ta học tiếng Việt khơng có vốn chữ Nho nên có hiểu sai tuột, thí dụ đọc « trọng nghĩa khinh tài » lại hiểu trọng nghĩa khinh tài giỏi, khơng biết tài « tiền tài » Nếu ta đùa chút, chế cụm từ « trọng tài khinh tài » theo nghĩa trọng tiền tài khinh tài giỏi, có lẽ phù hợp cho ngày Rồi « cố » « cố vấn » lại hiểu « cũ », hỏi cũ Hay phải dạy lại chữ Nho trường ?

(20)

20

Chớ nên mỉa mai đáng Như viết « Thống nghĩ chữ Nho »đăng tạp chí Tia Sáng, số Xuân, tháng 2/2002, chẳng cần học chữ Nho nhớ tự dạng chữ đâu, khó nhớ lại vơ ích, cần học tiếng Việt, học sinh giải thích cặn kẽ có nhiều từ đồng âm mà khác nghĩa đủ Thí dụ « đại diện », hiểu « thay mặt », có hiểu « mặt to » đâu ; có cắt nghĩa mặt to thay mặt cho người khác được, bỡn cợt

Y :

Giữa « biết hay khơng biết » « chơi chữ », đống trường hợp trung gian Có chuyện ơng già Việt Nam quen nói tiếng Pháp kiểu xưa, cịn quen thuộc với kiểu cách baisemain (cúi đầu hôn tay phụ nữ hay vua chúa), với kiểu cách rút pochette (khăn để thò túi ngực áo) lót tay mời phụ nữ khiêu vũ, vv Vào khoảng năm 1950, ông sang Pháp sống ; lúc ơng chưa thích nghi với thay đổi xã hội Một bữa dạo, ông gặp bà già Pháp người quen, dắt cháu chơi Cháu bé trai bà gặp cháu bé gái bà kia, hai bé lên năm tuổi ; chúng làm bisous (hôn má) Ơng cụ nói đùa với bé trai : « A ton âge, tu baises déjà les petites filles? » Mấy bà già Pháp chưng hửng, không dám cười, mà khơng dám sửa (vì lẽ tiếng Pháp đại, động từ « baiser » chuyển nghĩa : khơng cịn nghĩa « » mà mang nghĩa « làm tình » Như câu « Ở tuổi cháu mà cháu biết cháu gái ? » hiểu « Ở tuổi cháu mà cháu làm tình với cháu gái ? » Chuyện có thật, khơng phải chuyện tiếu lâm bịa đặt

Tôi :

Cũng khơng nên « trách » ơng cụ, Từ điển Pháp-Việt , nhóm Lê Khả Kế thuộc Ủy Ban Khoa học Xã hội Việt Nam soạn, Tổ chức Hợp tác Văn hóa Kỹ thuật (Agence de Coopération Culturelle et Technique) xuất năm 1981, trang 96, cịn dịch từ « baiseur » « người hay » Nhóm người làm từ điển cịn nhầm, người thường tránh

Tơi nói tiếp :

Ngày đăng: 09/03/2021, 08:11

TỪ KHÓA LIÊN QUAN