1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Chế định thương nhân ở Việt Nam

88 44 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Chế Định Thương Nhân Ở Việt Nam
Tác giả Lê Thị Phương Thảo
Người hướng dẫn PGS. TS Ngô Huy Cương
Trường học Đại Học Quốc Gia Hà Nội
Chuyên ngành Luật Kinh Tế
Thể loại Luận Văn Thạc Sĩ Luật Học
Năm xuất bản 2017
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 88
Dung lượng 1,01 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THƯƠNG NHÂN (12)
    • 1.1 Khái niệm và đặc điểm về thương nhân (12)
      • 1.1.1 Khái niệm về thương nhân (12)
      • 1.1.2 Đặc điểm về thương nhân (15)
    • 1.2 Điều kiện trở thành thương nhân (17)
    • 1.3 Điều chỉnh của pháp luật về thương nhân (19)
      • 1.3.1 Lược sử phát triển pháp luật về thương nhân ở Việt nam (19)
      • 1.3.2 Chức năng của pháp luật về thương nhân ở Việt Nam (21)
      • 1.3.3 Nguồn của pháp luật về thương nhân ở Việt Nam (24)
    • 1.4 Phân loại thương nhân (28)
      • 1.4.1 Các cách phân loại thương nhân (28)
      • 1.4.2 Thương nhân thể nhân và thương nhân pháp nhân (29)
  • CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THƯƠNG NHÂN (37)
    • 2.1 Thương nhân thể nhân (37)
      • 2.1.1 Khái niệm và Điều kiện của thương nhân thể nhân theo pháp luật Việt Nam (37)
      • 2.1.2 Các loại thương nhân thể nhân (38)
    • 2.2 Thương nhân pháp nhân (52)
      • 2.2.1 Khái niệm và Điều kiện của thương nhân pháp nhân theo pháp luật Việt Nam (52)
      • 2.2.2 Các loại thương nhân pháp nhân (53)
  • CHƯƠNG 3 NHỮNG BẤT CẬP, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THƯƠNG NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY (72)
    • 3.2 Một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện pháp luật về thương nhân ở nước ta hiện nay (74)
      • 3.2.1 Luật thương mại 2005 (0)
      • 3.2.2 Luật Doanh nghiệp 2014 (0)
      • 3.2.3 Bộ luật Dân sự 2015 (0)
  • KẾT LUẬN (84)

Nội dung

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THƯƠNG NHÂN

Khái niệm và đặc điểm về thương nhân

1.1.1 Khái niệm về thương nhân

Thương nhân là khái niệm quan trọng trong lĩnh vực thương mại, được coi là chủ thể chính của Luật thương mại Khái niệm này được quy định trong pháp luật của nhiều quốc gia, bao gồm cả Việt Nam Mỗi quốc gia có những cách định nghĩa khác nhau về thương nhân, phản ánh sự đa dạng trong hệ thống pháp luật thương mại toàn cầu.

Theo Điều 1 Luật thương mại Pháp 1807, thương nhân được định nghĩa là những người thực hiện các hành vi thương mại như một nghề nghiệp thường xuyên Luật không yêu cầu trách nhiệm đăng ký kinh doanh mà tập trung vào loại hành vi thương mại mà chủ thể thực hiện Để được coi là thương nhân, ngoài việc thực hiện nhiều hành vi thương mại, chủ thể cần đáp ứng điều kiện về tính chất nghề nghiệp, tức là các hoạt động kinh doanh phải ổn định, lâu dài và mang lại nguồn thu nhập chính cho họ.

Luật thương mại Đức là một trong những bộ luật thương mại tiêu biểu toàn cầu, đại diện cho hệ thống pháp luật La Mã - Đức, với quy định về thương nhân có sự phức tạp hơn Bộ luật thương mại định nghĩa rõ ràng về thương nhân, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động thương mại.

CHLB Đức định nghĩa hành nghề kinh doanh là bất kỳ cơ sở nào hoạt động nhằm mục đích mang lại lợi nhuận Tuy nhiên, có những doanh nghiệp không yêu cầu thiết lập cơ sở để hoạt động kinh doanh, theo quy định tại Khoản 2 Điều 1 Bộ luật thương mại Đức.

Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chưa được xác định là hành nghề kinh doanh theo quy định vẫn được coi là hành nghề thương mại nếu có đăng ký trong danh bạ thương mại Sau khi đăng ký, doanh nghiệp có thể yêu cầu xóa tên hãng cũ nếu không có cơ sở theo quy định Một khi hãng đã được đăng ký, không ai có thể cáo buộc rằng cơ sở ngành nghề của hãng không phải là hành nghề thương mại Các quy định liên quan đến thương nhân cũng được áp dụng cho các công ty thương mại.

Theo Bộ luật thương mại Đức, thương nhân là cá nhân thực hiện hoạt động kinh doanh một cách tự chủ nhằm mục đích thu lợi nhuận, với yêu cầu về phạm vi giao dịch và tổ chức doanh nghiệp nhất định Luật thương mại không áp dụng cho những người kinh doanh nhỏ lẻ, nhưng họ có thể tự nguyện đăng ký làm thương nhân trong danh bạ thương mại Đối với các công ty đối vốn và hợp tác xã, việc tuân thủ hình thức pháp lý của thương gia là bắt buộc.

Luật thương mại tại các quốc gia theo hệ thống pháp luật La Mã - Đức định nghĩa công ty thương mại là những thương nhân theo hình thức Theo đó, bất kỳ thực thể nào có cơ sở hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp được đăng ký tên trong danh bạ thương mại, hoặc những cá nhân kinh doanh nhỏ lẻ đều được coi là thương nhân.

8 đăng ký tên trong danh bạ thương mại sẽ đều được coi là thương nhân và được điều chỉnh bởi pháp luật thương mại

Theo Bộ luật Thương mại Hoa Kỳ (Uniform Commercial Code - 1990), khái niệm “thương nhân” bao gồm ba loại hình chính: cá nhân kinh doanh (sole proprietorship), công ty đối nhân (partnership) và công ty đối vốn (corporation) Thương nhân được định nghĩa là nhóm người thực hiện các hoạt động kinh doanh hàng hóa như một phần công việc thường xuyên của họ Luật thương mại Hoa Kỳ chủ yếu điều chỉnh các loại hàng hóa động sản, không bao gồm bất động sản và dịch vụ.

Pháp luật Việt Nam đã quy định rõ ràng về thương nhân thông qua các văn bản pháp luật thương mại, bắt đầu từ Luật Thương mại năm 1997 và tiếp theo là Luật Thương mại năm 2005.

Theo Luật Thương mại Việt Nam năm 1997, thương nhân được định nghĩa tại Khoản 6 Điều 5 bao gồm cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác và hộ gia đình có đăng ký hoạt động thương mại một cách độc lập và thường xuyên.

Luật thương mại 2005 đã sửa đổi và định nghĩa lại khái niệm thương nhân tại Điều 6, bao gồm các tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp và cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh.

Luật thương mại Việt Nam định nghĩa thương nhân theo hình thức, yêu cầu các chủ thể phải đáp ứng tiêu chí như “tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp” hoặc “cá nhân có đăng ký kinh doanh” Tư cách thương nhân được xác định thông qua việc đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

9 thẩm quyền mà không căn cứ vào hoạt động thương mại do chủ thể kinh doanh thực hiện

Các quốc gia hiện nay có những cách định nghĩa thương nhân khác nhau, mỗi cách mang đến ưu và nhược điểm riêng Những quốc gia định nghĩa thương nhân dựa trên hành vi thương mại cần xác định rõ căn cứ để nhận biết hành vi này trong nhiều hoạt động kinh tế xã hội Trong khi đó, các quốc gia xác định tư cách thương nhân qua việc đăng ký với cơ quan nhà nước gặp nhiều phức tạp trong việc nhận diện tổ chức nào là thương nhân Chẳng hạn, theo pháp luật Việt Nam, thương nhân bao gồm “các tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp,” nhưng Luật Thương mại chưa định nghĩa rõ về tổ chức kinh tế Một số tổ chức như “Hợp tác xã” được thành lập hợp pháp nhưng không được coi là thương nhân, vấn đề này sẽ được thảo luận sâu hơn trong các chương sau của luận văn.

1.1.2 Đặc điểm về thương nhân

Từ việc xem xét các khái niệm về thương nhân như trên, ta có thể đưa ra một số đặc điểm chung nhất về thương nhân như sau

Trước hết , thương nhân là những người thực hiện các hành vi thương mại và coi đó như nghề nghiệp của mình

Mỗi cá nhân khi đạt đủ tuổi vị thành niên thường có một nghề nghiệp riêng, là những hoạt động thường xuyên và lâu dài, mang lại nguồn lợi cho bản thân và gia đình Tuy nhiên, số lượng hành vi thương mại mà một cá nhân thực hiện không tự động biến họ thành thương nhân.

10 được coi là thương nhân khi thực hiện một hoạt động thương mại lặp đi lặp lại mang tính chất nghề nghiệp thường xuyên và có sinh lời

Thứ hai , thương nhân hoạt động thương mại một cách độc lập

Trong hoạt động thương mại, thương nhân có thể thực hiện hành vi thương mại trực tiếp hoặc ủy quyền cho người khác Tuy nhiên, mọi quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hành vi của người được ủy quyền đều thuộc về người ủy quyền Điều này có nghĩa là người làm công hoặc quản lý nhận lương không được coi là thương nhân Ngược lại, người thuê và quản lý một cơ sở kinh doanh để hoạt động thương mại chính là thương nhân, chịu trách nhiệm toàn bộ về quyền và nghĩa vụ liên quan đến cơ sở kinh doanh mà họ sở hữu.

Điều kiện trở thành thương nhân

Theo quy định của từng quốc gia, các điều kiện để được công nhận là thương nhân có sự khác biệt Tuy nhiên, nhìn chung, cá nhân và tổ chức cần đáp ứng những điều kiện cơ bản Điều kiện đầu tiên là các chủ thể phải tồn tại dưới hình thức cá nhân hoặc tổ chức để đủ tư cách thương nhân.

Cá nhân được định nghĩa là công dân có năng lực trách nhiệm dân sự và hành vi dân sự đầy đủ, không bị pháp luật cấm kinh doanh thương mại Theo Luật thương mại Việt Nam, cá nhân từ 18 tuổi trở lên có thể hoạt động thương mại nếu được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp tư nhân và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, qua đó trở thành thương nhân.

Các tổ chức được công nhận tư cách thương nhân phải là những đơn vị được thành lập hợp pháp, hoạt động độc lập và không chịu sự chi phối từ ý chí của các thành viên.

Theo quy định của pháp luật quốc tế, thương nhân được chia thành hai loại chính: thương nhân thể nhân (cá nhân kinh doanh) và thương nhân pháp nhân (tổ chức hợp pháp, thường là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân) Để được công nhận là thương nhân, các chủ thể này phải thực hiện các hoạt động được xem là hành vi thương mại.

Trên toàn cầu, có nhiều quan điểm khác nhau về phân loại hành vi thương mại Các nhà nghiên cứu thường phân chia hành vi thương mại thành hai loại chính: hành vi thương mại thuần túy và hành vi thương mại phụ thuộc.

Hành vi thương mại thuần túy bao gồm những hoạt động có tính chất thương mại, đặc biệt là các hành vi do thương nhân thực hiện, như việc cho thuê động sản.

Những hành vi liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa: hoạt động giao nhận hàng hóa

Các hành vi được pháp luật công nhận là hành vi thương mại bao gồm những hoạt động có bản chất liên quan đến buôn bán, chẳng hạn như ký phát hối phiếu và thành lập công ty thương mại.

- Hành vi thương mại phụ thuộc:

Các hành vi dân sự do thương nhân thực hiện theo yêu cầu nghề nghiệp, chẳng hạn như hoạt động ký hợp đồng mua bán hàng hóa, đóng vai trò quan trọng trong môi trường kinh doanh Những giao dịch này không chỉ thể hiện tính chuyên nghiệp mà còn đảm bảo sự tuân thủ các quy định pháp luật liên quan đến thương mại Việc ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa giúp xác định quyền và nghĩa vụ của các bên, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện giao dịch và bảo vệ lợi ích hợp pháp của thương nhân.

Những hành vi dân sự dân sự nhưng được thực hiện do phụ thuộc vào một hành vi thương mại khác

Tất cả các hành vi của thương nhân trong hoạt động kinh doanh đều được coi là hành vi thương mại, trừ khi thương nhân có thể chứng minh rằng những hành vi đó không nhằm mục đích thương mại.

Ví dụ: Việc thương nhân quyên góp từ thiện cho tổ chức từ thiện

Khái niệm thương nhân và hành vi thương mại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó hành vi chỉ được xem là thương mại khi do thương nhân thực hiện hoặc trong khuôn khổ hoạt động thương mại của họ Đồng thời, một chủ thể chỉ được công nhận là thương nhân khi tham gia vào các hành vi thương mại Tại Việt Nam, khái niệm "hành vi thương mại" đã được quy định trong Luật thương mại 1997 và sau đó được thay thế bởi Luật thương mại 2005.

“hoạt động thương mại” Điều 45 Luật thương mại 1997 quy định Hành vi thương mại chỉ gồm đúng 14 loại hành vi cụ thể, Luật thương mại 2005 quy

Theo Khoản 1 Điều 3 của Luật Thương mại 2005, hoạt động thương mại được định nghĩa rộng rãi, bao gồm các hoạt động sinh lời như mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, và xúc tiến thương mại.

Điều chỉnh của pháp luật về thương nhân

1.3.1 Lược sử phát triển pháp luật về thương nhân ở Việt nam

Trong lịch sử kinh tế Việt Nam, thương mại chỉ bắt đầu phát triển từ thời kỳ phong kiến với sự xuất hiện của tầng lớp thương gia, nhưng hoạt động này chưa được xã hội coi trọng và thương gia đứng ở vị trí thấp trong "sĩ nông công thương" Pháp luật về thương mại gần như không được đề cập trong giai đoạn này Đến thời kỳ Pháp thuộc, Việt Nam mới có những quy định pháp luật đầu tiên về thương mại, bắt đầu từ năm 1864 khi Bộ luật thương mại của Pháp được áp dụng tại Nam Kỳ và Bắc Kỳ vào năm 1888 Năm 1892, Pháp ban hành Sắc lệnh quy định việc hành nghề thương mại của người Á Đông và người Việt tại các vùng thuộc địa như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng.

Ngoài các văn bản đã đề cập, còn có nhiều quy định khác liên quan đến các vấn đề cụ thể, bao gồm Đạo luật bán và cầm cố cửa hàng thương mại năm 1909, Đạo luật bảo vệ quyền sở hữu cửa hàng thương mại năm 1926, cùng với các luật về hối phiếu và thương phiếu được ban hành vào các năm 1894, 1922 và 1935.

Đến năm 1942, triều đình Huế đã ban hành bộ luật thương mại Trung phần, có nội dung cơ bản tương tự như Bộ luật thương mại của Pháp Bộ luật này chính thức có hiệu lực tại Trung bộ từ ngày 25/1/1944.

Năm 1954, Việt Nam bị chia cắt thành hai miền với chế độ chính trị khác nhau, dẫn đến sự khác biệt trong pháp luật thương mại Miền Nam ban hành nhiều văn bản quan trọng như Luật số 13/57 về nhãn hiệu thương mại và Bộ luật thương mại ngày 20/12/1972, quy định về hoạt động của nhà buôn và thương gia Trong khi đó, miền Bắc tập trung vào kinh tế quốc doanh, với luật kinh tế điều chỉnh các quan hệ kinh tế trong bối cảnh kế hoạch hóa Khi bước vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế quản lý kinh tế đã thay đổi, yêu cầu ban hành các văn bản pháp luật mới như Luật Doanh nghiệp 1999 để điều chỉnh các quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp và cơ quan nhà nước, nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế, xã hội của đất nước.

Nhà nước 1995, Luật hợp tác xã 1996, Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993, Luật thương mại 1997

Cho đến nay, với sự phát triển và hội nhập của nền kinh tế Việt Nam, chúng ta đang nỗ lực xây dựng một hành lang pháp lý thông thoáng.

Việc thực hiện 15 hiệu quả nhằm tăng trưởng kinh tế đã tạo ra một môi trường ổn định và thuận lợi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước Để đáp ứng sự phát triển này, chúng ta đã sửa đổi và bổ sung các văn bản pháp luật hiện hành, đồng thời ban hành nhiều quy định mới về thương mại Những luật quan trọng như Luật Thương mại 2005, Luật Doanh nghiệp 2014, Luật Cạnh tranh, Luật Đầu tư, Luật Phá sản, và Luật Đấu thầu đã được áp dụng nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế.

Thương nhân và hoạt động thương mại ở Việt Nam đã xuất hiện từ sớm nhưng trải qua nhiều thăng trầm Việt Nam không có truyền thống thương mại như các quốc gia nông nghiệp khác, và chỉ trong những năm gần đây, nhận thức về thương mại và vai trò của thương nhân mới được đổi mới theo xu hướng phát triển kinh tế toàn cầu Đặc biệt, hệ thống pháp luật liên quan đến kinh tế và thương mại đã có những thay đổi lớn, cho thấy sự tiến bộ và hoàn thiện của pháp luật Việt Nam.

1.3.2 Chức năng của pháp luật về thương nhân ở Việt Nam

Pháp luật về thương nhân được hình thành và phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trong hoạt động kinh doanh thương mại Sự đa dạng và phức tạp của các giao dịch thương mại đòi hỏi sự điều chỉnh kịp thời từ pháp luật Do đó, các quy định pháp lý liên quan đến thương nhân cần phải đảm bảo các chức năng thiết yếu nhằm hỗ trợ và quản lý hiệu quả hoạt động thương mại.

Pháp luật về thương nhân đóng vai trò là khuôn khổ pháp lý quan trọng nhất quy định tư cách chủ thể của các loại hình thương nhân, là những đối tượng chính trong pháp luật thương mại Việc xác định tư cách thương nhân cho từng chủ thể có ý nghĩa quan trọng, vì mỗi loại chủ thể sẽ chịu sự điều chỉnh bởi các quy chế khác nhau, phản ánh những đặc thù riêng của chúng.

Các đặc điểm pháp lý của thương nhân giúp xác định vị thế và quyền lợi hợp pháp của họ trên thị trường, bảo vệ quyền lợi của cả thương nhân và các đối tác kinh doanh Dựa trên các quy định pháp luật, thương nhân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình để tiến hành giao dịch thương mại với các thương nhân khác cũng như với tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước.

Các hoạt động thương mại diễn ra trên nguyên tắc tự do, bình đẳng và độc lập, nhưng vẫn phải tuân thủ sự chỉ đạo và quản lý của Nhà nước Nhà nước kiểm soát hoạt động của thương nhân và tình hình kinh tế thông qua các quy định pháp luật Dựa trên thông tin về nhu cầu và thực trạng hoạt động của thương nhân, Nhà nước điều chỉnh các chính sách để phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế.

Các quy định pháp luật về thương nhân đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng các kế hoạch kinh doanh của họ Pháp luật cung cấp các nguyên tắc hoạt động như trung thực và thiện chí, giúp tạo dựng niềm tin giữa các bên trong thương mại Trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay, thương nhân cần thường xuyên điều chỉnh chiến lược kinh doanh để theo kịp xu thế và tối ưu hóa nguồn lực Việc lập kế hoạch cho tương lai phải dựa trên sự tin tưởng vào pháp luật và các quy định thương mại, từ đó tạo điều kiện cho các dự định kinh doanh trở thành hiện thực Do đó, nguyên tắc trung thực và thiện chí được luật thương mại đặc biệt coi trọng.

Các quy định pháp luật thương mại, đặc biệt là pháp luật về thương nhân, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của thị trường hàng hóa và dịch vụ.

Các quy định pháp luật về thương mại đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng giao lưu thương mại quốc tế và tạo điều kiện cho thương nhân thực hiện các hoạt động kinh doanh phù hợp với sự phát triển kinh tế Những quy định này không chỉ đảm bảo môi trường cạnh tranh công bằng mà còn ngăn chặn các hành vi tiêu cực như đầu cơ, lũng đoạn thị trường và bán phá giá Nhờ đó, thương nhân có thể cạnh tranh hợp pháp, phục vụ nhu cầu xã hội và góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế.

Khi xây dựng pháp luật thương mại, người ta thường dựa vào hai phương pháp chính: một là tập trung vào chủ thể, coi luật thương mại là luật riêng của thương nhân như Bộ luật Thương mại Đức năm 1897; hai là theo khách thể, coi luật thương mại là luật điều chỉnh hành vi thương mại như Bộ luật Thương mại Pháp năm 1807 Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy cả hai phương pháp đều liên quan đến vấn đề chủ thể và khách thể, vì thương nhân là chủ thể chính thực hiện hành vi thương mại Do đó, việc xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh về thương nhân là điều kiện tiên quyết để các hành vi thương mại được thực hiện hiệu quả trên thị trường.

Phân loại thương nhân

1.4.1 Các cách phân loại thương nhân

Thương nhân là chủ thể quan trọng trong luật thương mại, đóng vai trò cốt lõi trong hệ thống pháp luật thương mại toàn cầu Mặc dù nhiều quốc gia đã thiết lập quy định để điều chỉnh chế định thương nhân, vấn đề này vẫn rất rộng lớn và cần được nghiên cứu sâu hơn Để có cái nhìn tổng quát về thương nhân, việc phân loại các loại thương nhân khác nhau là cần thiết để tiến hành phân tích hiệu quả.

Trên thế giới hiện nay, thương nhân được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau Về tư cách, có thương nhân có tư cách đầy đủ và thương nhân khuyết tư cách Xét về quốc tịch, thương nhân được chia thành thương nhân trong nước và thương nhân nước ngoài Theo cơ sở hoạt động kinh doanh, có thương nhân có cơ sở kinh doanh và thương nhân không có cơ sở kinh doanh Ngoài ra, theo ngành nghề, thương nhân có thể hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ hoặc đầu tư Mỗi quốc gia có những cách tiếp cận và phân loại thương nhân riêng, tạo nên sự đa dạng trong cách hiểu về thương nhân trên toàn cầu.

Cách phân loại thương nhân phổ biến hiện nay được các nhà học thuật nghiên cứu chủ yếu dựa trên hình thức tổ chức kinh doanh, trong đó thương nhân được chia thành hai loại chính: thương nhân thể nhân và thương nhân pháp nhân.

Pháp luật Việt Nam cũng đi theo quan điểm chung của thế giới, chia thương nhân thành hai loại chính gồm thương nhân thể nhân (cá nhân kinh

Luật thương mại Việt Nam quy định về nhiều loại hình doanh nghiệp, bao gồm doanh nghiệp tư nhân và thương nhân pháp nhân, nhưng cũng đề cập đến các chủ thể khác như hộ gia đình và tổ hợp tác Những đối tượng này vẫn đang gây ra nhiều tranh cãi liên quan đến việc xác định tư cách thương nhân, và tác giả sẽ thảo luận vấn đề này trong các phần tiếp theo của luận văn.

1.4.2 Thương nhân thể nhân và thương nhân pháp nhân

Từ thời kỳ khai nguyên, cá nhân đã thực hiện hoạt động kinh doanh một cách độc lập, với thương gia thể nhân là hình thức chủ thể đầu tiên tham gia vào các hành vi và quan hệ thương mại Trên toàn thế giới, mỗi quốc gia có cách gọi riêng về thương nhân thể nhân; ví dụ, ở Anh Quốc, họ được gọi là “Sole trader”, còn tại Hoa Kỳ là “Sole proprietorship” Tại Việt Nam, thương nhân thể nhân được hiểu là “cá nhân kinh doanh”.

Thương nhân thể nhân là hình thức kinh doanh cơ bản và đơn giản nhất, ra đời từ khi quan hệ mua bán hàng hóa xuất hiện Những người tham gia trực tiếp vào hoạt động mua và bán hàng hóa nhằm mục đích kiếm lợi nhuận được gọi là "nhà buôn".

Thương gia, ban đầu chỉ tham gia vào các hoạt động kinh doanh mua bán đơn thuần, đã mở rộng quan niệm về thương mại để thực hiện nhiều hoạt động đa dạng hơn như cung ứng dịch vụ, đầu tư, khuyến mại và quảng cáo Tất cả các hành vi thương mại phục vụ cho việc kinh doanh đều do thương nhân hoặc những người được ủy quyền thực hiện Trong quá trình hoạt động kinh doanh, thương nhân chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản cá nhân đối với quyền và nghĩa vụ phát sinh.

Trong bối cảnh kinh tế hiện nay, thương nhân thể nhân đóng vai trò thiết yếu trong các mối quan hệ và hoạt động thương mại Mọi giao dịch thương mại của cá nhân hay tổ chức đều bắt nguồn từ sự tương tác giữa các cá thể riêng biệt Mỗi quốc gia trên thế giới cũng có những quy định riêng biệt về thương nhân thể nhân.

Khái niệm về thương nhân và các yêu cầu để được công nhận là thương nhân thể nhân khác nhau giữa các quốc gia Tại Pháp, thương nhân được xác định dựa trên bản chất hành vi của chủ thể Theo luật thương mại Pháp, để trở thành thương nhân thể nhân, ngoài việc đáp ứng đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi, chủ thể cần phải thỏa mãn các điều kiện cụ thể khác.

- Thực hiện các hành vi thương mại một cách thường xuyên và lấy chúng làm nghề nghiệp của mình;

Tại Đức, thương nhân được xác định là những cá nhân thực hiện các hành vi thương mại dưới danh nghĩa và tài khoản của chính họ, ngoại trừ những người làm việc dưới danh nghĩa của người khác như nhân viên hay người quản lý Bộ luật Thương mại Đức không đưa ra định nghĩa cụ thể về thương nhân và các trường hợp có tư cách thương nhân Các thương nhân thể nhân thường có quyền tự do hoạt động mà không bị ràng buộc bởi nhiều quy định Theo luật, những thương nhân nhỏ được coi là thương nhân khuyết tư cách, không bắt buộc phải thực hiện tất cả nghĩa vụ như đăng ký vào danh bạ thương mại hay sở hữu cửa hiệu riêng, nhưng vẫn cần tuân thủ các quy định của pháp luật thương mại.

Bộ luật Thương mại Hoa Kỳ (UCC-1990) quy định rằng bất kỳ cá nhân nào có đủ năng lực hành vi dân sự đều có thể thực hiện các hoạt động kinh doanh dưới tên riêng hoặc tên thương mại mà không cần xin phép Tuy nhiên, để tham gia vào nền kinh tế Hoa Kỳ, cá nhân cần tuân thủ các điều kiện luật định.

Để tồn tại trong nền kinh tế cạnh tranh khốc liệt, các thương nhân cần trang bị đầy đủ vốn, tài sản, kiến thức chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp Theo Luật Thương mại 2005 tại Việt Nam, thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế hợp pháp và cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên và đã đăng ký kinh doanh Điều kiện tiên quyết để được công nhận là các cá nhân phải có đủ năng lực dân sự, tổ chức phải tồn tại dưới dạng pháp nhân, và tất cả các chủ thể đều phải thực hiện đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật.

Trong hoạt động thương mại, bên cạnh thương nhân thể nhân, còn có nhiều tổ chức và thực thể khác tham gia Để các tổ chức này có thể hoạt động trong các quan hệ pháp luật và thương mại như những chủ thể độc lập, pháp luật cần quy định rõ ràng về hoạt động thương mại của họ Điều này dẫn đến sự hình thành khái niệm thương nhân pháp nhân, nhằm phân biệt với thương nhân thể nhân, là những cá nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật.

Thương nhân pháp nhân là tổ chức có tư cách pháp nhân, do đó, để hiểu rõ về thương nhân pháp nhân, cần tìm hiểu khái niệm pháp nhân và các vấn đề liên quan đến loại chủ thể này.

Pháp nhân là tổ chức độc lập, tồn tại riêng biệt với các thành viên tham gia, có lĩnh vực hoạt động và ý chí riêng, không phụ thuộc vào đời sống cá nhân của các thành viên Được hình thành từ ý chí của người sáng lập, pháp nhân vẫn duy trì sự tồn tại và phát triển bất chấp sự thay đổi trong đội ngũ thành viên Mỗi pháp nhân được xem như một chủ thể độc lập trong các quan hệ thương mại, với quyết định được đưa ra dựa trên sự thống nhất của những người đứng đầu, phản ánh ý chí chung mà không bị ảnh hưởng bởi ý chí của bất kỳ thành viên cụ thể nào.

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THƯƠNG NHÂN

Thương nhân thể nhân

2.1.1 Khái niệm và Điều kiện của thương nhân thể nhân theo pháp luật Việt Nam

Theo Điều 6 Luật thương mại 2005, thương nhân thể nhân gồm: “cá nhân có hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”

Để được công nhận là thương nhân và nhận được sự bảo hộ từ nhà nước về quyền lợi và nghĩa vụ, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực thương mại cần đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định pháp luật.

Để tham gia vào các quan hệ thương mại, điều kiện tiên quyết là các chủ thể phải sở hữu đầy đủ năng lực dân sự.

Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân được quy định tại Điều 16 Bộ luật Dân sự 2015, khẳng định rằng mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau Năng lực này bắt đầu từ khi cá nhân được sinh ra và kết thúc khi cá nhân đó qua đời.

Để trở thành thương nhân, cá nhân cần có đầy đủ năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam Theo Điều 19, 22, 23, 24 Bộ luật Dân sự 2015, một cá nhân được xem là có năng lực hành vi dân sự đầy đủ nếu là công dân Việt Nam từ đủ 18 tuổi trở lên, không bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự, và không gặp khó khăn trong nhận thức hay làm chủ hành vi.

Trong lĩnh vực thương mại, pháp luật yêu cầu cá nhân tham gia phải có năng lực pháp luật đầy đủ và lý lịch trong sạch, không thuộc diện bị cấm tham gia hoạt động kinh doanh.

Để được công nhận là thương nhân và được Nhà nước bảo vệ quyền lợi, cá nhân phải đáp ứng các điều kiện theo Luật thương mại 2005 Cụ thể, Điều 6 quy định rằng cá nhân được xem là thương nhân khi thực hiện hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh.

Như vậy, sau điều kiện về năng lực chủ thể, cá nhân cần đáp ứng điều kiện về hình thức của các hành vi thương mại

Các hành vi thương mại của cá nhân phải mang tính chất nghề nghiệp, được thực hiện một cách độc lập và thường xuyên Theo quy định, cá nhân không được coi là thương nhân nếu chỉ thực hiện hành vi thương mại một cách bộc phát, không ổn định lâu dài, hoặc khi thực hiện theo ý chí của người khác, như trong trường hợp được ủy quyền.

Pháp luật Việt Nam quy định rõ ràng về hình thức trong lĩnh vực thương mại, trong đó yêu cầu các chủ thể phải có Đăng ký kinh doanh để được công nhận là thương nhân Giấy đăng ký kinh doanh không chỉ xác định pháp luật điều chỉnh hoạt động của chủ thể mà còn xác định tư cách tham gia vào các quan hệ dân sự và thương mại của cá nhân.

Để trở thành thương nhân thể nhân, cá nhân cần đáp ứng các điều kiện theo quy định pháp luật Tại Việt Nam, thương nhân thể nhân có thể hoạt động dưới các hình thức như cá nhân kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh.

2.1.2 Các loại thương nhân thể nhân

2.1.2.1 Doanh nghiệp tƣ nhân a) Khái niệm Doanh nghiệp tƣ nhân Ở nước ta, quá trình công nhận hình thức sở hữu tư nhân chiếm một thời gian khá dài trong tương quan so sánh với quá trình phát triển kinh tế Vì

Doanh nghiệp tư nhân, một hình thức sở hữu kinh tế tư nhân, ra đời muộn hơn so với các hình thức doanh nghiệp khác và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường Đến cuối thế kỷ XX, pháp luật mới bắt đầu có quy định cụ thể cho loại hình này, với Luật Doanh nghiệp tư nhân 1990 là văn bản quan trọng Hiện nay, doanh nghiệp tư nhân được điều chỉnh bởi Luật Doanh nghiệp 2014 cùng với nhiều thông tư và nghị định liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp.

Theo Điều 183 Luật Doanh nghiệp 2014, doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ, chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp Điều này cho thấy doanh nghiệp tư nhân là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, với chủ doanh nghiệp có tư cách thương nhân và gánh vác toàn bộ nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp.

Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014, doanh nghiệp tư nhân có các đặc điểm sau:

- Doanh nghiệp tư nhân là một đơn vị kinh doanh

- Doanh nghiệp tư nhân là loại hình doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ

- Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân và không được phát hành chứng khoán

Chủ doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm hoàn toàn bằng toàn bộ tài sản cá nhân cho mọi hoạt động của doanh nghiệp Điều này đồng nghĩa với việc họ có quyền và nghĩa vụ quản lý, điều hành doanh nghiệp của mình một cách hiệu quả và hợp pháp.

Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp tư nhân được quy định tại Điều 183-187 của Luật Doanh nghiệp 2014 Doanh nghiệp tư nhân có quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh, quyết định hình thức tổ chức và quản lý, cũng như quyền sở hữu tài sản và lợi nhuận Đồng thời, doanh nghiệp tư nhân cũng có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật, thực hiện nghĩa vụ thuế và bảo vệ quyền lợi của người lao động.

 Quyền của doanh nghiệp tư nhân

Doanh nghiệp tư nhân có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của mình, đây là quyền cơ bản nhất của loại hình doanh nghiệp này Tài sản của doanh nghiệp tư nhân không phải là tài sản góp vốn của các thành viên như ở công ty, mà chính là tài sản của các chủ doanh nghiệp Mặc dù doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quản lý tài sản, nhưng thực tế chỉ có chủ doanh nghiệp mới đủ điều kiện và khả năng để thực hiện quyền này.

Thương nhân pháp nhân

2.2.1 Khái niệm và Điều kiện của thương nhân pháp nhân theo pháp luật Việt Nam

Luật thương mại không quy định các điều kiện cụ thể cho pháp nhân và tổ chức kinh tế để được công nhận là thương nhân Các điều kiện hình thành pháp nhân, cũng như các vấn đề liên quan đến tổ chức, hoạt động và giải thể của pháp nhân, được quy định trong Bộ luật Dân sự.

Năm 2015, các văn bản pháp luật liên quan như Luật Doanh nghiệp 2014 đã được ban hành Luật Thương mại 2005 chỉ quy định tại Điều 6 rằng pháp nhân được coi là thương nhân bao gồm "các tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp".

Các tổ chức kinh tế tham gia hoạt động thương mại và đáp ứng đủ điều kiện pháp lý có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đăng ký kinh doanh để trở thành thương nhân Trong bối cảnh kinh tế hiện tại tại Việt Nam, các thương nhân pháp nhân chủ yếu bao gồm những loại hình sau đây:

- Công ty trách nhiệm hữu hạn;

Các cơ quan Nhà nước và các tổ chức chính trị, xã hội không được coi là thương nhân vì hoạt động của họ không nhằm mục đích thương mại và không thực hiện đăng ký kinh doanh thương mại.

Theo pháp luật Việt Nam, để một tổ chức được công nhận là thương nhân, cần trải qua hai giai đoạn thủ tục Đầu tiên, tổ chức phải đáp ứng các yêu cầu của Bộ luật Dân sự về việc thành lập pháp nhân, tức là một loại tổ chức kinh tế Tiếp theo, tổ chức cần thỏa mãn các yêu cầu của luật thương mại liên quan đến việc hình thành tư cách thương nhân, chỉ khi đó mới được công nhận là thương nhân hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam.

2.2.2 Các loại thương nhân pháp nhân

2.2.2.1 Công ty cổ phần a) Khái niệm

Công ty cổ phần (CTCP) là một hình thức doanh nghiệp có trách nhiệm hữu hạn, hoạt động độc lập với các chủ sở hữu Theo quy định từ Điều 110 đến Điều 171 của Luật Doanh nghiệp 2014, vốn của CTCP được chia thành các cổ phần bằng nhau để huy động vốn từ các nhà đầu tư Cổ phần là yếu tố quan trọng nhất giúp phân biệt CTCP với các loại hình công ty khác, mỗi cổ phần thể hiện giá trị thực tế bằng tiền và xác nhận tư cách thành viên của cổ đông thông qua cổ phiếu Cổ phiếu là chứng khoán có thể lưu thông và chuyển nhượng tự do trên thị trường, và bất kỳ ai sở hữu ít nhất một cổ phần đều được coi là cổ đông.

CTCP là một tổ chức có tư cách pháp nhân độc lập, được xác nhận từ thời điểm nhận giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Để có tư cách pháp nhân, CTCP cần đáp ứng đủ 4 điều kiện theo quy định tại Điều 74 Bộ luật Dân sự 2015.

Chế độ chịu trách nhiệm của công ty cổ phần (CTCP) là trách nhiệm hữu hạn, nghĩa là CTCP chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ bằng tài sản riêng của công ty mà các cổ đông đã góp vốn Các cổ đông chỉ phải chịu trách nhiệm đối với nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn mà họ đã đầu tư vào công ty.

Cấu trúc vốn của công ty cổ phần (CTCP) được chia thành nhiều cổ phần, với cổ đông là những người sở hữu cổ phần và được cấp chứng nhận sở hữu gọi là cổ phiếu CTCP có quyền phát hành cổ phiếu ra công chúng qua thị trường chứng khoán để huy động vốn từ các nhà đầu tư, điều này thể hiện sự liên kết giữa CTCP và sự phát triển của thị trường chứng khoán Cổ đông không chỉ nhận cổ tức từ lợi nhuận kinh doanh mà còn có quyền bầu cử và ứng cử vào các vị trí quản trị công ty, đồng thời chịu trách nhiệm về thua lỗ hoặc phá sản trong phạm vi số cổ phần mà họ nắm giữ.

Cổ đông là những thành viên nắm giữ cổ phiếu của công ty cổ phần (CTCP), với số lượng có thể lên tới hàng vạn người trên toàn cầu Điều này giúp CTCP có khả năng huy động vốn rộng rãi từ công chúng, phục vụ cho hoạt động kinh doanh và đầu tư trong nhiều lĩnh vực khác nhau.

Từ những đặc điểm nêu trên, CTCP có những ưu và nhược điểm nhất định trong quá trình hoạt động

Do chế độ trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần (CTCP) chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ trong phạm vi vốn góp, giúp giảm mức độ rủi ro cho cổ đông và giữ mọi thứ trong tầm kiểm soát Điều này chính là ưu điểm lớn nhất, khuyến khích sự tham gia của các cổ đông vào công ty.

CTCP có khả năng huy động vốn lớn thông qua việc phát hành cổ phiếu ra công chúng Trên thị trường chứng khoán, cổ đông có thể theo dõi hoạt động của công ty qua giá cổ phiếu, từ đó họ có quyền quyết định mua bán cổ phiếu và trở thành thành viên của công ty Điều này giúp cổ đông nhận thức rõ ràng về trách nhiệm của mình đối với hoạt động kinh doanh của công ty.

Cơ cấu vốn của công ty cổ phần (CTCP) rất linh hoạt, cho phép nhiều cá nhân tham gia góp vốn Mỗi thành viên có quyền tự xác định số vốn góp của mình vào công ty.

Việc chuyển nhượng vốn trong công ty cổ phần (CTCP) diễn ra một cách dễ dàng, tạo điều kiện cho nhiều đối tượng tham gia Do đó, mọi thành phần trong xã hội đều có quyền mua cổ phiếu của CTCP, mở rộng cơ hội đầu tư cho nhiều người.

Việc quản lý và điều hành công ty cổ phần (CTCP) trở nên phức tạp do số lượng cổ đông đông đảo Hoạt động mua bán cổ phiếu diễn ra qua sàn chứng khoán và giao dịch điện tử, khiến cho phần lớn các thành viên không quen biết nhau, ngoại trừ ban điều hành và một số thành viên chính Hơn nữa, các nhóm cổ đông có thể phân hóa mạnh mẽ và có sự đối kháng về lợi ích lẫn nhau.

NHỮNG BẤT CẬP, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THƯƠNG NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện pháp luật về thương nhân ở nước ta hiện nay

Thương mại là một lĩnh vực quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội, được điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp luật khác nhau Pháp luật về thương mại bao gồm các quy định từ Luật thương mại, Bộ luật Dân sự, và Luật doanh nghiệp, tạo thành một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh Để đảm bảo hoạt động thương mại hiệu quả, mỗi văn bản pháp luật cần có những quy định phù hợp, kịp thời và rõ ràng, đồng thời liên kết chặt chẽ với nhau để tránh sự chồng chéo trong quy định.

69 chéo, mâu thuẫn nhau Để làm được những nhiệm vụ đó, mỗi văn bản luật cần có những sự thay đổi hợp lý

Luật thương mại đóng vai trò trung tâm trong việc điều chỉnh hoạt động thương mại, với phiên bản hiện hành được ban hành năm 2005 Mặc dù đã phát huy được tầm quan trọng của mình, luật này vẫn còn tồn tại những bất cập và thiếu sót cần được xem xét và sửa đổi.

Thứ nhất, về khái niệm thương nhân

Theo Luật Thương mại 2005, thương nhân được định nghĩa bao gồm các tổ chức kinh tế hợp pháp và cá nhân thực hiện hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh.

Như đã phân tích ở trên, thương nhân gồm hai thành phần là cá nhân và tổ chức kinh tế

- Về cá nhân cần những điều kiện cụ thể gồm hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh

Pháp luật quy định các điều kiện nhưng thiếu giải thích rõ ràng về chúng, dẫn đến sự hiểu biết về hoạt động độc lập thường phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của từng cá nhân Mỗi người có thể có cách hiểu khác nhau về ngôn từ và suy luận lôgic Để đạt được sự thống nhất trong áp dụng pháp luật, Luật thương mại cần bổ sung quy định giải thích rõ ràng hơn về vấn đề này.

Luật thương mại quy định rằng tổ chức kinh tế phải được thành lập hợp pháp để được công nhận là thương nhân Tuy nhiên, hiện tại, pháp luật chưa làm rõ khái niệm về tổ chức kinh tế, các điều kiện để được công nhận và tư cách chủ thể của tổ chức kinh tế.

Trước đây, trong Luật thương mại 1997, khái niệm thương nhân được định nghĩa rõ bao gồm cả cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình Nhưng

Theo Điều 70 của Luật Thương mại 2005, khái niệm thương nhân đã được rút gọn và bao quát hơn, chỉ bao gồm cá nhân và tổ chức kinh tế Tuy nhiên, hiện nay, các đạo luật chính như Luật Thương mại và Bộ Luật Dân sự vẫn chưa có quy định rõ ràng về định nghĩa tổ chức kinh tế, gây khó khăn trong việc áp dụng pháp luật So với Luật Thương mại 1997, những điểm này vẫn chưa được cải thiện.

Năm 2005, việc áp dụng quy định tổng quát trong các điều luật nhằm khắc phục những hạn chế của phương pháp liệt kê đã được thực hiện thường xuyên, giúp dự đoán các thay đổi và phát sinh trong thực tế xã hội Tuy nhiên, trong một số trường hợp, cách quy định này lại gây ra sự khó hiểu và không rõ ràng, dẫn đến nhiều tranh luận trong việc áp dụng pháp luật.

Thứ hai, về vấn đề đăng ký kinh doanh

- Luật thương mại 2005 đã lược bỏ hoàn toàn những quy định về đăng ký kinh doanh trong Luật thương mại 1997 ngoại trừ quy định tại Điều 7:

Thương nhân có trách nhiệm đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, điều này phản ánh sự nhất quán giữa đăng ký kinh doanh và đăng ký doanh nghiệp đối với thương nhân pháp nhân Tuy nhiên, thực tế cho thấy đăng ký kinh doanh chỉ là một phần trong quá trình đăng ký doanh nghiệp, bao gồm cả giấy chứng nhận đăng ký thuế Đối với những thương nhân không phải doanh nghiệp như hộ gia đình, đăng ký kinh doanh lại là một hoạt động độc lập và chưa được quy định rõ ràng trong các văn bản pháp luật thương mại.

Theo Điều 7, thương nhân có nghĩa vụ đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật Điều này cho thấy rằng việc đăng ký kinh doanh là nghĩa vụ cơ bản mà các chủ thể cần thực hiện trước khi trở thành thương nhân và tham gia vào các hoạt động thương mại.

Theo Điều 71 Luật Thương mại, chỉ những chủ thể thực hiện đăng ký kinh doanh đúng quy định mới được coi là thương nhân Tuy nhiên, bản chất của thương nhân là hoạt động thương mại, không chỉ đơn thuần là việc đăng ký kinh doanh Điều này dẫn đến việc quy định yêu cầu đăng ký kinh doanh có thể không hợp lý Hơn nữa, luật cũng quy định rằng thương nhân chưa đăng ký vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình, cho thấy họ vẫn có thể được coi là thương nhân Vấn đề đặt ra là liệu có bắt buộc những thương nhân chưa đăng ký phải thực hiện đăng ký hay không, và nếu họ không đăng ký, họ có còn được coi là thương nhân hay không Do đó, cần có những quy định cụ thể hơn trong luật thương mại về việc công nhận thương nhân chưa đăng ký kinh doanh.

Các quy định về thương nhân trong Luật thương mại hiện nay đang gặp phải tình trạng chồng chéo, thiếu tính nhất quán và mâu thuẫn, điều này gây khó khăn trong việc áp dụng và thực thi luật.

Thứ ba, về khái niệm hoạt động thương mại

Thương nhân và hoạt động thương mại là hai khái niệm không thể tách rời, với hoạt động thương mại là nền tảng cho sự tồn tại của thương nhân Luật thương mại 2005 đã thay đổi thuật ngữ từ “hành vi thương mại” sang “hoạt động thương mại”, điều này được coi là hợp lý hơn Theo Khoản 1 Điều 3 của Luật thương mại 2005, hoạt động thương mại được định nghĩa rõ ràng thông qua việc liệt kê các loại hình cụ thể như mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, và xúc tiến thương mại, đồng thời chỉ dẫn rằng các hoạt động này bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau trong lĩnh vực thương mại.

Định nghĩa về hoạt động thương mại trong các đạo luật Việt Nam thường không bao quát hết các vấn đề thực tế, dẫn đến sự cần thiết phải xây dựng luật thương mại mới, hoàn chỉnh hơn thay thế cho Luật thương mại 2005 Hoạt động thương mại có thể được phân loại thành hai loại: do bản chất và do phụ thuộc, với phương pháp liệt kê có hạn định và liệt kê chỉ dẫn Trong bối cảnh pháp luật Việt Nam, liệt kê chỉ dẫn được xem là phương pháp hợp lý hơn cả Việc hoàn thiện pháp luật về thương nhân là một nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết, nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu thực tiễn.

Định nghĩa thương nhân cần được làm rõ hơn bằng cách giải thích về tổ chức kinh tế và các hoạt động thường xuyên, lâu dài của thương nhân Cần đưa ra những điều luật cụ thể hơn liên quan đến việc đăng ký kinh doanh và hoạt động thương mại Hơn nữa, luật thương mại nên điều chỉnh quy định tại Điều 7, trong đó yêu cầu thương nhân chưa đăng ký kinh doanh vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình, chuyển sang chế tài trong hoạt động thương mại Việc không thực hiện nghĩa vụ đăng ký kinh doanh đồng nghĩa với việc vi phạm pháp luật, do đó, họ phải chịu các chế tài theo quy định của pháp luật.

Dựa trên Luật Doanh Nghiệp năm 2005, Luật Doanh Nghiệp 2014 đã được ban hành, tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều bất cập liên quan đến thương nhân mà chưa được khắc phục triệt để.

Thứ nhất, về phương pháp tiếp cận

Trong thực tế hiện nay, luật doanh nghiệp vẫn luôn được ví như là

Ngày đăng: 04/02/2021, 22:08

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
7. Ngô Huy Cương (2002), “Hành vi thương mại”, Nghiên cứu lập pháp,tr. 39-43 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hành vi thương mại
Tác giả: Ngô Huy Cương
Năm: 2002
10. Ngô Huy Cương (2014), "Sửa đổi Luật Doanh nghiệp 2005: Phân tích, bình luận và kiến nghị", Nghiên cứu lập pháp, 10(266), Kỳ 2, tr. 25-33 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sửa đổi Luật Doanh nghiệp 2005: Phân tích, bình luận và kiến nghị
Tác giả: Ngô Huy Cương
Năm: 2014
11. Ngô Huy Cương (2014), "Dự án sửa đổi Luật Doanh nghiệp 2005: Bình luận những vấn đề pháp lý chủ yếu", Nghiên cứu lập pháp, 13(269), Kỳ 1, tr. 21-29 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Dự án sửa đổi Luật Doanh nghiệp 2005: Bình luận những vấn đề pháp lý chủ yếu
Tác giả: Ngô Huy Cương
Năm: 2014
14. “Doanh nghiệp xã hội - Giải pháp bù đắp khiếm khuyết của thị trường”- Báo Tia sáng - Ngày 26/3/2015 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Doanh nghiệp xã hội - Giải pháp bù đắp khiếm khuyết của thị trường
16. Trần Đình Hảo (2002), “Thương gia theo luật Hoa Kỳ”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 2/2002, tr. 18 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thương gia theo luật Hoa Kỳ
Tác giả: Trần Đình Hảo
Năm: 2002
17. Lê Nguyên Hùng (2012), Bài viết “Doanh nghiệp xã hội là gì”, Báo Tuổi trẻ 21/2/2012 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Doanh nghiệp xã hội là gì
Tác giả: Lê Nguyên Hùng
Năm: 2012
42. ThS. Nguyễn Thị Vân Anh (2014), Luận văn “Phân loại thương nhân theo pháp luật Việt Nam”, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Phân loại thương nhân theo pháp luật Việt Nam”
Tác giả: ThS. Nguyễn Thị Vân Anh
Năm: 2014
1. Chính phủ (2000), Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03/02/2000 về đăng ký kinh doanh, Hà Nội Khác
2. Chính phủ (2004), Nghị định số 109/NĐ-CP ngày 03/02/2000 về đăng ký kinh doanh, Hà Nội Khác
3. Chính phủ (2006), Nghị định số 88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006 về đăng ký kinh doanh, Hà Nội Khác
4. Chính phủ (2010), Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 về đăng ký kinh doanh, Hà Nội Khác
5. Chính phủ nghị định 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 về Đăng ký doanh nghiệp, Hà Nội Khác
6. Chính phủ nghị định 96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 Quy định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp, Hà Nội Khác
8. Ngô Huy Cương (2012), Luật Thương mại, Bài giảng điện tử Khác
9. Ngô Huy Cương (2013), Giáo trình luật thương mại – phần chung và thương nhân, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội Khác
15. GS. TS. Friedrich Kũbur và GS.TS Jũgen Simon - Mấy vấn đề pháp luật kinh tế CHLB Đức. Nxb Pháp lý 1992. tr. 25 Khác
18. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2001), Giáo trình Luật kinh tế Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội Khác
19. Phạm Duy Nghĩa (2002), Giáo trình luật thương mại Việt Nam, tr.54, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội Khác
20. Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên khảo luật kinh tế, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội Khác
21. Nguyễn Như Phát (Chủ biên) (2013), Giáo trình Luật kinh tế Việt Nam, Nxb Tư Pháp, Hà Nội Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 1: Số doanh nghiệp, vốn, lao động đăng ký thành lập mới theo loại hình doanh - Chế định thương nhân ở Việt Nam
Bảng 1 Số doanh nghiệp, vốn, lao động đăng ký thành lập mới theo loại hình doanh (Trang 64)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN