Trong cuốn sách: “Hiểu về trái tim” của tác giả Minh Niệm 2010 NXB Trẻ, tác giả đi sâu vào luận bàn những cảm xúc của mỗi cá nhân theo logic của các cung bậc cảm xúc và có sự đan xen giữ
Trang 1ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-
NGUYỄN THỊ MINH NGUYỆT
QUAN NIỆM VỀ HẠNH PHÚC TRONG GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY QUA NGHIÊN CỨU
TẠI HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Hà Nội - 2020
Trang 2ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-
NGUYỄN THỊ MINH NGUYỆT
QUAN NIỆM VỀ HẠNH PHÚC TRONG GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY QUA NGHIÊN CỨU
TẠI HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 8229001.01
Người hướng dẫn khoa học: TS Hà Thị Bắc
Hà Nội - 2020
Trang 3LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoản đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi Các kết quả trình bày trong luận văn là trung thực, đảm bảo độ chuẩn xác cao nhất có thể, được các tác giả cho phép sử dụng Các tài liệu tham khảo, trích dẫn có xuất xứ
rõ ràng Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình
Hà Nội, ngày 15 tháng 06 năm 2020
Tác giả
Nguyễn Thị Minh Nguyệt
Trang 4LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều tập thể, cá nhân trong và ngoài trường
Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS Hà Thị Bắc, đã luôn ủng
hộ, động viên và tận tụy hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy, cô giáo trong khoa Triết học, trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập tại trường
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của UBND huyện Gia Lâm, các ban ngành đoàn thể trong huyện đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong quá trình triển khai và thực hiện đề tài
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới các bạn trong lớp Cao học khóa
2018 và gia đình đã quan tâm, tạo điều kiện, luôn bên cạnh động viên, đóng góp những ý kiến quý báu giúp tôi hoàn thiện luận văn
Hà Nội, ngày 15 tháng 06 năm 2020
Tác giả
Nguyễn Thị Minh Nguyệt
Trang 5DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
CEP: Tổ chức tài chính vi mô GDP: Tổng sản phẩm quốc nội GNP: Tổng sản lượng quốc gia GNH: Tổng hạnh phúc quốc gia HPI: Chỉ số hành tinh hạnh phúc HDI: Chỉ số phát triển con người NEF: Quỹ kinh tế mới
OECD: Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế TCN: Trước công nguyên
WHR: Báo cáo hạnh phúc thế giới
Trang 6DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Quan niệm về nhóm yếu tố quan trọng nhất trong việc xây dựng và gìn giữ hạnh phúc trong gia đình 44 Bảng 2.2: Mối quan hệ giữa thu nhập và xây dựng, gìn giữ hạnh phúctrong gia đình 49 Bảng 2.3: Mức độ hài lòng với các điều kiện nhà ở, bữa ăn, mặccủa gia đình 50 Bảng 2.4: Sự ảnh hưởng của hạnh phúc trong gia đình bởi sự thay đổicủa điều kiện kinh tế - vật chất 51 Bảng 2.5: Ảnh hưởng của nghề nghiệp và sự ổn định nghề nghiệp với hạnh phúc trong gia đình 54 Bảng 2.6 Nguyên nhân hiện tượng li thân, li hôn của các cặp vợ chồng 56 Bảng 2.7: Sự hài lòng của người dân với các yếu tố môi trường, an toàn thực phẩm,dịch vụ công và các dịch vụ tiện ích 57 Bảng 2.8: Vai trò của sự quan tâm, chia sẻ giữa vợ và chồng và mức độhài lòng với sự quan tâm của vợ/ chồng 61 Bảng 2.9: Trách nhiệm dạy dỗ con cái trong gia đình và sự hài lòngcủa cha mẹ với con cái 66 Bảng 2.10: Sự hài lòng trong các mối quan hệ của gia đình với gia đình lớn và
họ tộc 68 Bảng 2.11: Mức độ hài lòng với sự lựa chọn hôn nhân của cá nhân 72 Bảng 2.12: Mức độ ảnh hưởng của trình độ học vấn, địa vịvà sở thích cá nhân tới hạnh phúc gia đình 73 Bảng 2.13: Sự ảnh hưởng và mức độ hài lòng của cá nhân với nghề nghiệp 76 Bảng 2.14: Mức độ hài lòng địa vị gia đình và thời gian dànhcho gia đình, dành cho bản thân 77
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Sự ưu tiên lựa chọn mức độ quan trọng của các yếu tố kinh tế - vật chất, môi trường trong việc xây dựng và gìn giữ hạnh phúc tronggia đình 46 Biểu đồ 2.2: Vai trò kinh tế giữa vợ và chồng trong gia đình 53 Biểu đồ 2.3 Sự ưu tiên các ưu tiên các yếu tố quan hệ gia đình – xã hội 58 Biểu đồ 2.4: Thứ tự ưu tiên các yếu tố về đời sống cá nhân trong xây dựngvà giữ gìn hạnh phúc trong gia đình 70 Biểu đồ 2.5: Mức độ hài lòng với sức khỏe bản thân 75
Trang 7MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
MỞ ĐẦU 3
Chương 1 QUAN NIỆM VỀ HẠNH PHÚC VÀ HẠNH PHÚC TRONG GIA ĐÌNH: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN 15
1.1 Quan niệm về hạnh phúc 15
1.1.1 Quan niệm về hạnh phúc trong lịch sử 15
1.1.2 Quan điểm và cách đo lường, tính toán chỉ số hạnh phúc trên thế giới và Việt Nam hiện nay 18
1.2 Quan niệm về hạnh phúc trong gia đình và một số yếu tố tác động đến quan niệm về hạnh phúc trong gia đình 27
1.2.1 Khái quát về gia đình 27
1.2.2 Quan niệm về hạnh phúc trong gia đình của người Việt Nam hiện nay 29
Chương 2 NỘI DUNG QUAN NIỆM VỀ HẠNH PHÚC TRONG GIA ĐÌNH Ở HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ CÁC GIẢI PHÁP CƠ BẢN 40
2.1 Khái quát về huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội 40
2.1.1 Về vị trí địa lý và cơ cấu tổ chức hành chính của huyện Gia Lâm 40
2.1.2 Về tình hình kinh tế, văn hóa - xã hội của huyện Gia Lâm 40
2.2 Một số nội dung quan niệm về hạnh phúc trong gia đình ở huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội hiện nay 43
2.2.1 Hạnh phúc trong gia đình là sự hài lòng với các điều kiện kinh tế - vật chất, môi trường của các thành viên trong gia đình 46
2.2.2 Hạnh phúc là sự hài lòng với các quan hệ gia đình – xã hội của các thành viên trong gia đình 58
Trang 82.2.3 Hạnh phúc trong gia đình là sự hài lòng trong đời sống cá nhân của các thành viên trong gia đình 69 2.3 Một số vấn đề đặt ra và các giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những quan niệm tích cực và hạn chế quan niệm tiêu cực về hạnh phúc trong gia đình ở huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội 78 2.3.1 Một số vấn đề đặt ra trong quan niệm về hạnh phúc trong gia đình ở huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội 78 2.3.2 Các giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những quan niệm tích cực và hạn chế những quan niệm tiêu cực về hạnh phúc trong gia đình ở huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội 82
KẾT LUẬN 90 TÀI LIỆU THAM KHẢO 92 PHỤ LỤC
Trang 9MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
Hạnh phúc là động lực, là mục đích cuối cùng của con người ở mọi thời đại lịch sử Chính vì vậy, quan điểm về hạnh phúc, bàn về vấn đề hạnh phúc thu hút được sự quan tâm của rất nhiều nhà triết học, các tôn giáo ngay từ thời cổ đại như: Phật giáo, Ki – tô giáo, Sô- crat, Arixtot, Êpiquya… Hạnh phúc – với tư cách là mục đích cuối cùng của con người một lần nữa được khẳng định lại
trong bản tuyên ngôn Độc lập (1776) của Hoa Kỳ: “Tất cả mọi người đều sinh
ra có quyền bình đẳng Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” [50] Khẳng định hạnh phúc là thước đo đúng đắn và tiến bộ của
nhân loại với cuộc sống của con người, trong bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh đã mượn lời của bản tuyên ngôn của Hoa Kỳ để khẳng định quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc không chỉ là quyền riêng biệt của người Mỹ, người Pháp… mà là của tất cả các
dân tộc trên thế giới Người viết “… Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc
lập năm 1776 của nước Mỹ Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” [26]
Gia đình là “tế bào” của xã hội, của dân tộc Một dân tộc chỉ có được
hạnh phúc khi mỗi cá nhân, mỗi gia đình của dân tộc đó hạnh phúc Vì vậy, trong chiến lược phát triển các quốc gia đều đặt mục tiêu: Xây dựng cuộc sống của các cá nhân, gia đình ngày càng hạnh phúc hơn Vậy làm sao để xây dựng cuộc sống gia đình của con người ngày càng hạnh phúc? Đó là mục tiêu và trăn trở của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam Để kỉ niệm và hướng tới xây dựng một dân tộc hạnh phúc với những “tế bào” hạnh phúc, Đảng và Nhà nước đã chọn ngày 20/03 (hưởng ứng ngày hạnh phúc thế giới) [29] và 28/06 hằng năm để kỉ niệm, tôn vinh giá trị hạnh phúc đối với cuộc sống con người, giá trị của gia đình và lấy đó làm động lực để toàn dân xây dựng hạnh
Trang 10phúc trong gia đình Trong bối cảnh chung của xu thế hội nhập toàn cầu, về cơ bản khiến đời sống vật chất, tinh thần của các gia đình Việt Nam không ngừng được nâng cao (thu nhập trung bình trên/ người năm 2019 ở Việt Nam là 2.560 USD/ năm), các quyền cá nhân của mỗi thành viên trong gia đình – xã hội ngày càng được quan tâm, chú trọng Vậy trong điều kiện vật chất ngày càng cao ấy, người dân Việt Nam nói chung, các gia đình Việt Nam nói riêng, họ có hài lòng cao hơn với cuộc sống? Họ có cảm thấy hạnh phúc hơn? Trong hoàn cảnh mới, quan niệm của các gia đình, các thành viên trong gia đình về hạnh phúc gia đình như thế nào?
Trong điều kiện có hạn, để tìm hiểu quan niệm về hạnh phúc trong gia đình Việt Nam hiện nay, tôi đã lựa chọn một địa bàn cụ thể (huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội) để tiến hành khảo sát Gia Lâm là huyện ngoại thành phía đông thành phố Hà Nội Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, từ sớm huyện Gia Lâm đã là vùng phát triển kinh tế nông nghiệp và xây dựng bản sắc văn hóa nông nghiệp lâu đời Trước những biến đổi kinh tế quốc gia, huyện Gia Lâm nằm trong quy hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa, nắm vai trò là đầu cầu kết nối vùng kinh tế phía đông, các tỉnh Hải Phòng, Hài Dương, Bắc Ninh, Hưng Yên với thành phố Hà Nội Vậy quan niệm
về hạnh phúc trong gia đình của người dân huyện Gia Lâm như thế nào trong bối cảnh kinh tế mới? Họ có hài lòng hơn với cuộc sống của gia đình mình không?
Xuất phát từ những lí do trên, tôi đã lựa chọn đề vấn đề: Quan niệm về
hạnh phúc trong gia đình Việt Nam hiện nay qua nghiên cứu ở huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ
2 Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về “hạnh phúc” và “hạnh phúc gia đình” là một lĩnh vực nghiên cứu còn mới tại Việt Nam Trong vài năm trở lại đây, các tác giả đã đặt vấn đề và nghiên cứu hạnh phúc với tư cách là một đối tượng độc lập và nghiên
cứu về hạnh phúc là một ngành khoa học Luận bàn về “hạnh phúc” thu hút
Trang 11được không ít tác giả xem xét, nghiên cứu ở các lĩnh vực khoa học, dưới nhiều cấp độ khác nhau Cụ thể:
Các công trình chuyên khảo:
Trong cuốn sách viết dưới nhan đề "Happier: Learn the Secrets of Daily Joy and Lasting Fulfillment” ("Để hạnh phúc hơn: Hãy học những bí mật niềm vui hàng ngày và hiện thực hóa lâu dài") của tác giá Tal Ben-shahar xuất bản năm (2007) Hạnh phúc được nhìn nhận và đánh giá với tư cách là một đối tượng của cảm xúc và được miêu tả hạnh phúc như sự cảm nhận những điều sung sướng và cảm nhận ý nghĩa cuộc đời
Trong cuốn “Hạnh phúc trong tầm tay” của tác giả Thích Nhật Từ, NXB
Phương Đông (2010), tác giả đã bàn về hạnh phúc dưới góc độ Phật giáo Ở góc
độ này, hạnh phúc được hiểu đó là sự nhận thức về hạnh phúc của chính chủ thể,
là mưu cầu tất yếu của con người Khi có được nhận thức về điều này chủ thể sẽ biết bỏ qua những bực dọc, nhận thức sự đau khổ, biết mơ ước và theo đuổi những mơ ước của bản thân, biết chấp nhận và dung hòa với sự khác biệt Đến nội dung chương 2 tác giả đi sâu bàn về hạnh phúc với những biểu hiện cụ thể:
no đủ về vật chất, con cái hiếu thuận, có trí tuệ và biết hưởng phước đúng cách.Vận dụng quan điểm biện chứng vào xem xét vấn đề hạnh phúc, tác giả khẳng định hạnh phúc và những biểu hiện của hạnh phúc có sự thay đổi theo không gian và thời gian Dựa trên lí luận bàn về hạnh phúc, Thích Nhật Từ đã luận chứng về con đường giúp con người đi đến hạnh phúc và xây dựng cuộc sống hạnh phúc
Trong cuốn sách: “Hiểu về trái tim” của tác giả Minh Niệm (2010) NXB Trẻ, tác giả đi sâu vào luận bàn những cảm xúc của mỗi cá nhân theo logic của các cung bậc cảm xúc và có sự đan xen giữa các cảm xúc tích cực và những cảm xúc tiêu cực: đau khổ, hạnh phúc, tình yêu, tình thương, tức giận, chịu đựng, ghen tuông, tha thứ…Cũng đồng quan điểm với tác giả Thích Nhật Từ, một lần nữa tác giả Minh Niệm khẳng định lại luận đề hạnh phúc không phải thứ từ trên trời rơi xuống, và cũng không có cái thiên đường nào chỉ toàn là hạnh phúc Vì
Trang 12hạnh phúc chỉ có được khi con người biết cảm nhận sự đau khổ Bằng những lí luận đanh thép tác giả đã chỉ ra rằng quan niệm về hạnh phúc ở mỗi cá nhân, vào một giai đoạn khác nhau, một góc nhìn khác nhau thì luôn tạo ra những đáp số khác nhau Bản thân con người không thể cảm nhận hạnh phúc vì họ luôn đuổi hình bắt bóng, đứng núi này trông núi kia Và bản thân con người quá tham lam không bao giờ biết điểm dừng cho sự thỏa mãn của những xúc cảm Từ đó, tác giả đi đến kết luận không có thứ hạnh phúc bất biến, đặc biệt nào trong tương lai
cả nên con người đừng mất công kiếm tìm, có chăng nó chỉ là những cảm xúc khác nhau mà thôi “Mà cảm xúc thì chỉ có nghiện ngập chứ có bao giờ là đủ!”
Trong cuốn “The art of Happiness” (Nghệ thuật của hạnh phúc) của tác
giả Đức Đạt Lai Lạt Ma và Bác Sĩ Howard C Cutler lần đầu tiên năm 1988 sau
đó được tái bản lại (2012), nhà xuất bản Easton Press Bằng sự kết hợp tài tình giữa đạo Phật phương Đông và khoa học tâm lý phương Tây, bác sĩ Howard C Cutler đã chứng minh rằng hạnh phúc không từ trên trời rơi xuống Và ông cũng
có cái nhìn rất biện chứng của đạo Phật khi khẳng định rằng hạnh phúc và gian khổ là hai mặt của một vấn đề Cái ranh giới mong manh, hành vi tinh tế ấy quả thật không dễ phân biệt Nếu chúng ta không định nghĩa rạch ròi, làm sao chúng
ta biết làm gì để đạt được hạnh phúc Và trên cơ sở đó, tác giả bằng lập luận của mình đã chỉ ra rằng hạnh phúc có nguồn gốc từ chính bên trong bản thân sự vật,
đó là từ “tâm” Và để con người luôn có được hạnh phúc thì cần làm cho cái tâm luôn khỏe mạnh bằng cách “luyện tâm”
Trong cuốn “Alain nói về hạnh phúc”của Émile Chartlier, NXB Trẻ
(2013), những “trao đổi” về đề tài hạnh phúc và bất hạnh được Alain tập hợp lại thành quyển sách Propos sur le bonheur (dịch: Alain nói về hạnh phúc) Qua những mẩu chuyện nhỏ có thể thấy Alain quan tâm nhiều đến thái độ của mỗi người đối với hạnh phúc và bất hạnh, phân tích tại sao người ta không biết hạnh phúc với hạnh phúc của mình và tự làm cho sự bất hạnh nhân lên nhiều lần nhờ vào nó mà bạn có thể học được cách hạnh phúc thực sự với những hạnh phúc mà cuộc đời đã mang đến, và không tự làm mình bất hạnh hơn những bất hạnh mà
Trang 13cuộc đời đã bắt chúng ta phải chịu
Đề tài cấp Nhà nước: “Hạnh phúc của người Việt Nam: Quan niệm, thực
trạng và chỉ số đánh giá” (2018) do tác giả Lê Ngọc Văn làm chủ nhiệm Đề tài
thực hiện với mục tiêu: Làm rõ quan niệm về hạnh phúc trong điều kiện của đất nước và con người Việt nam hiện nay; Phân tích thực trạng về hạnh phúc của con người Việt Nam hiện nay; Xác định chỉ số đánh giá hạnh phúc của con người Việt Nam phù hợp với điều kiện Việt Nam và có khả năng so sánh quốc
tế, trước hết là so sánh với các quốc gia về trình độ phát triển gần với Việt Nam; Nghiên cứu tạo cơ sở cho việc định hướng chính sách phát triển kinh tế - xã hội
Đề tài có nhiều đóng góp về mặt khoa học cụ thể là: Xây dựng khái niệm hạnh phúc; Đề xuất hệ thống chỉ báo đo lường hạnh phúc; Đề xuất phương pháp tính toán chỉ số hạnh phúc Kết quả nghiên cứu của đề tài cũng chỉ ra các nhóm xã hội/ dân số có các mức độ hạnh phúc khác nhau; Xếp theo thứ tự từ cao xuống thấp, 5 nhóm dân số có chỉ số hạnh phúc cao nhất lần lượt là: nhóm có mức sống khá giả, nhóm tôn giáo khác, nhóm nông thôn đồng bằng, nhóm Phật giáo và nhóm nội trợ/nghỉ hưu
Sự hài lòng với cuộc sống trên các khía cạnh khác nhau được coi như
thang đo đánh giá sự hạnh phúc của con người Đề tài “Sự hài lòng về cuộc
sống” do tác giả Hoàng Bá Thịnh làm chủ nhiệm, thuộc đề tài cấp Đại học Quốc
gia Hà Nội, thực hiện giữa năm 2011 tại 8 xã và 6 phường của 4 tỉnh/thành phố
là Hải Dương, Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh và Bình Dương Nghiên cứu này sử dụng câu hỏi Likert với thang đo 5 bậc (1= hoàn toàn không hài lòng; 5= rất hài lòng) với dung lượng mẫu 2400 Kết quả nghiên cứu của đề tài cho thấy người dân Việt Nam có mức độ hài lòng cao nhất là ở các lĩnh vực: quan hệ cha mẹ - con cái; hôn nhân, gia đình, con cái Mức độ hài lòng thấp nhất thuộc các lĩnh vực chi tiêu, học vấn, thu nhập, cơ sở hạ tầng
Đề tài cấp bộ “Đánh giá việc thực hiện các tiêu chí gia đình văn hóa hiện
nay và xây dựng tiêu chí gia đình văn hóa trong giai đoạn mới” (2005) do tác
giả Lê Trung Trấn làm chủ nhiệm Trong công trình này, nhóm tác giả đã tiến
Trang 14hành điều tra 1600 đối tượng đại diện cho hộ gia đình, các cấp lãnh đạo tại 6 tỉnh thành Trên cơ sở kết quả điều tra, tác giả đã đề xuất thay thế việc xây dựng gia đình văn hóa bằng việc xây dựng gia đình hạnh phúc và đi xây dựng những tiêu chí về gia đình hạnh phúc
cơ sở tình và nghĩa giữa đôi vợ chồng trong suốt quá trình chung sống Đó là kết nối bền chặt nhất trong mối quan hệ của gia đình Ngoài ra, tác giả còn đề xuất một
số giải pháp xây dựng hạnh phúc trong gia đình Việt Nam
Bài viết “Định hướng giá trị của sinh viên về gia đình hạnh phúc” của
hai tác giả Phùng Bích Thủy và Văn Thị Kim Cúc (2004), trên cơ sở điều tra xã
hội học đã đưa ra quan điểm về gia đình hạnh phúc gia đình hòa thuận và ổn định kinh tế Tác giả cũng chỉ ra những yếu tố tác động tới hạnh phúc của một gia đình: mối quan hệ tình yêu giữa vợ và chồng, mối quan hệ cha mẹ và con cái, yếu tố kinh tế, vật chất đầy đủ Tác giả chỉ ra rằng, quan niệm của giới trẻ có
sự thay đổi khi cho rằng yếu tố vật chất có vai trò này càng quan trọng đối với hạnh phúc của gia đình Ngoài ra, trong bài viết tác giả còn đề cập tới vị trí, vai trò của vợ và chồng đối với việc xây dựng và gìn giữ hạnh phúc trong gia đình
Bài viết “Quan niệm về hạnh phúc gia đình thời kỳ Đổi mới” (so sánh
giữa nông thôn và thành thị) của giả Phùng Thị Kim Anh trên Tạp chí Gia đình
và Giới, số 3 -2009 Trong bài viết của mình tác giả khẳng định gia đình là một
thiết chế xã hội với chức năng cơ bản nhất là đảm bảo sự thoả mãn nhu cầu cho các thành viên gia đình, đặc biệt là đem lại hạnh phúc cho mỗi cá nhân Hạnh
Trang 15phúc gia đình là mục tiêu mà mỗi cá nhân luôn luôn hướng đến Trong thời kỳ đổi mới, những biến động của nền kinh tế thị trường đã tạo nên những cái nhìn mới, lối sống mới Cách nhìn mới đó đã làm thay đổi quan niệm về hạnh phúc gia đình như thế nào? Để trả lời câu hỏi đó, trong bài viết tác giả đi tìm các yếu
tố tạo nên hạnh phúc gia đình, giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp trong gia đình Kết quả phân tích cho thấy, mối quan hệ bình đẳng giữa vợ và chồng là yếu tố quan trọng nhất đảm bảo hạnh phúc gia đình, bất kể gia đình nông thôn hay thành phố Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất các giải pháp xây dựng hạnh phúc gia đình thời kỳ đổi mới
Bài viết: “Quan niệm của các thế hệ Việt Nam về hạnh phúc gia đình và
giải pháp xây dựng”, Tạp chí Nghiên cứu con người số 1 năm 2010, tác giả Lê
Thi đã đề cập tới bối cảnh mới: xu hướng toàn cầu hóa, quá trình hội nhập quốc
tế khiến gia đình Việt Nam có nhiều biến động mạnh mẽ Tác giả đã tiến hành điều tra ở 4 điểm thuộc đồng bằng sông Hồng Trên cơ sở kết quả thu được, tác giả khẳng định, quan niệm về hạnh phúc gia đình của các thế hệ khác nhau cũng khác nhau và hết sức đa dạng, phong phú trên cơ sở các chỉ số đánh giá: gia đình hạnh phúc từ kinh tế, gia đình hạnh phúc từ mối quan hệ giữa vợ và chồng, gia đình hạnh phúc từ con cái, gia đình hạnh phúc từ các mối quan hệ nội – ngoại,
họ hàng…Kết quả khảo sát cho thấy, dù thế hệ giới tính và tuổi tác khác nhau song đều khảng định yếu tố tôn trọng vợ chồng, cư xử bình đẳng, yêu thương lẫn nhau là quan trọng nhất để xây dựng gia đình hạnh phúc Còn các yếu tố: kinh tế xếp thứ hai, con cái ngoan ngoãn thành đạt xếp thứ 3, các mối quan hệ xếp vị trí thứ 4 Từ kết quả khảo sát và một số phỏng vấn sâu, tác giả đề xuất một số biện pháp xây dựng hạnh phúc gia đình trong bối cảnh mới
Bài viết: “Các yếu tố tác động đến hạnh phúc vợ chồng, mức độ hài lòng với hôn nhân và cuộc sống gia đình của người dân” (nghiên cứu trường hợp tại
tỉnh Quảng Ngãi), Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 5 năm 2014, của tác
giả Lê Việt Nga, tác giả đã bản đến khái niệm hạnh phúc trong hôn nhân và các yếu tố tác động tới hạnh phúc trong gia đình từ đó tác giả đi khảo cứu tại khu
Trang 16vực tỉnh Quảng Ngãi
Bài viết “Suy ngẫm về hạnh phúc và cách đạt được hạnh phúc” của TS
Trần Việt Dũng đăng trên báo điện tử Chungta.com đã bàn về khái niệm hạnh phúc Sau những phân tích quan điểm của các nhà tư tưởng, tác giả cho rằng hạnh phúc là trạng thái tinh thần tốt đẹp nhất, cao quí nhất, xứng đáng là nhu cầu, khát vọng của tất cả chúng ta Bằng những con đường và mức độ khác nhau, hạnh phúc đã, đang là mục đích và lẽ sống chung cho tất cả mọi tầng lớp trong xã hội Trong bài viết này tác giả đề cập đến 6 yếu tố tác động đến hạnh phúc của con người: đối tượng tinh thần tác động lên con người (môi trường, điều kiện vật chất, sức khỏe), nhu cầu cá nhân, quan điểm của cá nhân, mức độ xâm nhập của tinh thần vào đối tượng, cảm nhận của chủ thế với đối tượng tác động và tính cách cá nhân
Bài viết: “Cảm giác hạnh phúc dưới góc nhìn của khoa học” trên trang
báo điện tử khoahoc.tv cho rằng cảm giác hạnh phúc của con người và những kí
ức tươi đẹp của họ chịu sự kiểm soát của não bộ (vùng hồi hải mã), được sản sinh ra từ chất dẫn truyền thần kinh serotonin được tổng hợp từ amino acid trytophan Các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng con người sẽ cảm thấy hạnh phúc khi mỗi ngày họ dành ít nhất 20 phút để suy nghĩ về những điều tích cực,
mở rộng tư duy và tăng cường trí nhớ làm việc Trong nghiên cứu này cũng chỉ
ra nhiều điểm thú vị: Một là, những người đã kết hôn thường cảm thấy hạnh phúc hơn 10% so với những người độc thân Hai là, những nghề nghiệp đem lại cảm giác hạnh phúc nhất trên hành tinh: mục sư, diễn viên, kiến trúc sư, cứu hỏa Ba là, những bài tập rèn luyện cơ thể, giúp giải phóng protein và endophin khiến não bộ cảm thấy hạnh phúc hơn, và những người được ngủ đủ giấc sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn những người thiếu ngủ Bốn là, những người theo tôn giáo thường cảm thấy hạnh phúc hơn so với những người không theo bất kỳ tôn giáo nào Năm là, khi con người được đáp ứng những nhu cầu cơ bản (tháp nhu cầu Maslow) và họ dành được 2h/ tuần làm việc từ thiện, giúp đỡ cộng đồng họ sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn so với những người khác
Trang 17Luận văn, luận án:
Trong luận án tiến sĩ “Hạnh phúc của con người được quyết định bởi điều
gì?” của Howard Dickinson, Colombia, Mỹ (1988) ông đã tiến hành điều tra
trên 121 người với công việc và mức độ thành đạt khác nhau Sau các cuộc điều tra xã hội học ông đi đến kết luận: Trên thế giới này có 2 loại người hạnh phúc:
1, Những người bình thường sống thanh bạch, an nhiên tự tại; 2, Những người nổi danh thành công kiệt xuất Trên cơ sở đó, ông đi tìm phương pháp để đạt đến hạnh phúc ở mỗi nhóm người Sau 20 năm khi luận án được công bố, ông tiếp tục liên lạc lại và làm cuộc điều tra với 121 nười này Kết quả thu được có sự chênh lệch quan điểm rất lớn trong nhóm người thứ 2, ông đi đến kết luận: Hạnh phúc có được nhờ vào địa vị và vật chất là thứ hạnh phúc mong manh không có
sự bền vững Khi địa vị và vật chất không còn thì hạnh phúc cũng ra đi cùng với
nó Chỉ có những người có được hạnh phúc nhờ vào sự tu dưỡng của bản thân, buông bỏ dục vọng khiến cho tâm hồn trở nên thăng hoa, đó mới là thứ hạnh phúc lâu bền Cho nên, tu dưỡng tâm hồn mới là khởi nguồn của hạnh phúc
Luận án tiến sĩ Tâm lý học của Đặng Hoàng Ngân (2018) bàn về “Ảnh
hưởng của tiêu điểm kiểm soát đến cảm nhận hạnh phúc của sinh viên” Trong
luận án, tác giả đã bàn tới khái niệm cảm nhận hạnh phúc được nhìn nhận không chỉ là sự hài lòng với cuộc sống, có nhiều cảm xúc tích cực, ít cảm xúc tiêu cực
mà còn là sự trải nghiệm sự hiện thực hóa cá nhân thông qua tăng cường tính tự chủ, làm chủ hoàn cảnh, phát triển cá nhân, có các mối quan hệ tích cực, có mục tiêu sống, tự chấp nhận bản thân Cùng với lí thuyết tiêu điểm kiểm soát trong luận án tác giả đã đề cập tới một số cơ chế đo lường cảm nhận hạnh phúc dưới góc độ tâm lý học
Luận án tiến sĩ Xã hội học của Phạm Thị Pha Lê (2019) bàn về “Hạnh
phúc của người dân theo Thiên Chúa Giáo (nghiên cứu trường hợp tại thành phố
Hồ Chí Minh)”đã làm rõ một số khái niệm cơ bản: hạnh phúc, công giáo, hạnh
phúc của người công giáo ở thành phố Hồ Chí Minh Trên cơ sở các lý thuyết xã hội học, tác giả đã đi sâu làm rõ hạnh phúc của nguời công giáo trên 3 phương
Trang 18diện: vật chất – kinh tế, môi trường; các quan hệ gia đình – xã hội và hạnh phúc
cá nhân của người công giáo trên cơ sở có sự so sánh với hạnh phúc của người theo các tôn giáo khác: Phật giáo và các tín ngưỡng khác tại Việt Nam
Qua khảo sát các công trình nghiên cứu về hạnh phúc, hạnh phúc gia đình trên nhiều lĩnh vực, dưới nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau, cho thấy vấn đề hạnh phúc trong gia đình chủ yếu được nghiên cứu dưới những góc độ lí luận chung nên rất cần những công trình nghiên cứu một cách hệ thống, cụ thể về vấn
đề hạnh phúc trong gia đình Việt Nam hiện nay
3 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lí luận về hạnh
phúc, hạnh phúc trong gia đình, các yếu tố tác động tới quan niệm về hạnh phúc trong gia đình luận văn đi sâu làm rõ nội dung quan niệm về hạnh phúc trong gia đình ở huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy những quan niệm tích cực và hạn chế quan niệm tiêu cực trong quan niệm về hạnh phúc trong gia đình tại địa bàn nghiên cứu
- Nhiệm vụ của luận văn: Để đạt được những mục đích trên, luận văn thực
hiện những nhiệm vụ cụ thể sau:
+ Làm rõ một số vấn đề lý luận về hạnh phúc, quan niệm về hạnh phúc trong gia đình
+ Chỉ ra một số yếu tố tác động tới quan niệm về hạnh phúc trong gia đình Việt Nam hiện nay
+ Phân tích nội dung quan niệm về hạnh phúc và một số vấn đề đặt ra trong quan niệm về hạnh phúc của gia đình qua khảo cứu ở huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội
+ Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những quan niệm tích cực và hạn chế những quan niệm tiêu cực về hạnh phúc trong gia đình ở huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội
4 Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu quan niệm về
Trang 19hạnh phúc trong gia đình Việt Nam qua khảo cứu ở huyện Gia Lâm, thành phố
Hà Nội
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi nghiên cứu về nội dung: Quan niệm về hạnh phúc trong gia đình ở huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội Với cách tiếp cận đó, luận văn sẽ tập trung làm rõ quan niệm về hạnh phúc trong gia đình tại huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội (chủ yếu là gia đình hạt nhân gồm có cha mẹ và con cái) ở hai nhóm nghề nghiệp khác nhau (công nhân và viên chức)
+ Phạm vi về không gian: Nghiên cứu ở huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội + Phạm vi thời gian: 5 năm trở lại đây (2015 – 2020)
5 Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận văn: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận
của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về gia đình
- Phương pháp nghiên cứu:
+ Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời sử dụng các phương pháp cụ thể như: logic – lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, điều tra xã hội học… để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu
+ Trên cơ sở lý thuyết đã xây dựng đề tài tiến hành điều tra xã hội học với
60 người đã kết hôn trên 5 năm thuộc hai nhóm nghề nghiệp: viên chức (30 người) và công nhân (30 người) ở huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội về hạnh phúc trong gia đình Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu nhằm làm rõ hơn những quan điểm mà điều tra chưa đủ làm sáng tỏ
6 Đóng góp của đề tài
Những đóng góp mới của đề tài được thể hiện trên một số điểm như sau:
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lí luận về hạnh phúc trong gia đình và những nhân tố tác động tới quan niệm về hạnh phúc trong gia đình Việt Nam hiện nay
- Một số nội dung quan niệm về hạnh phúc trong gia đình, những vấn đề
Trang 20đặt ra và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những quan niệm tích cực và hạn chế những quan niệm tiêu cực về hạnh phúc trong gia đình ở huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội
7 Ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần hệ thống hóa một số vấn đề lí luận về hạnh phúc trong gia đình Việt Nam hiện nay
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy các vấn đề liên quan đến gia đình, hạnh phúc, hạnh phúc trong gia đình
8 Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục luận văn gồm 2 chương, 5 tiết
Trang 21Chương 1 QUAN NIỆM VỀ HẠNH PHÚC VÀ HẠNH PHÚC TRONG GIA ĐÌNH:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN 1.1 Quan niệm về hạnh phúc
1.1.1 Quan niệm về hạnh phúc trong lịch sử
Đồng hành cùng quá trình sống là hành trình tìm kiếm hạnh phúc của con người Từ xưa tới nay, điều kiện kinh tế, môi trường sống xã hội có thay đổi tới đâu chăng nữa thì thứ cuối cùng con người kiếm tìm vẫn là “hạnh phúc” Phạm trù “hạnh phúc” được luận bàn trong rất nhiều tác phẩm ở các lĩnh vực khác nhau từ xưa tới nay
Thời kỳ cổ đại, quan niệm về hạnh phúc của con người được thể hiện rõ nét trong quan điểm của các trường phái triết học và tôn giáo lớn trên thế giới: Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo…
Trong hệ thống học thuyết Nho giáo, phạm trù “hạnh phúc” không được bàn nhiều và bàn với tư cách là một phạm trù độc lập Ở góc nhìn nhất định, với Nho gia hạnh phúc được thể hiện qua 3 chữ: “Phúc”, “Hỷ” và “Lạc” Về cơ bản,
cả ba chứ này đều được hiểu là may mắn, thuận lợi, tốt lành… được mang tới cho con người Tuy nhiên “hạnh phúc” không phải là cái đồng đẳng trong xã hội
mà có sự phân biệt hạnh phúc của người “quân tử” và kẻ “tiểu nhân” Ông nói:
“Quân tử nghĩ đến đức, tiểu nhân nghĩ đến đất” Cũng theo quan điểm của Nho gia, người quân tử chỉ có được hạnh phúc thực sự khi hạnh phúc của họ gắn liền với việc giúp đời Là một học thuyết chính trị - xã hội, nên chúng ta không khó hiểu khi quan niệm Nho gia hoàn toàn vắng bóng “hạnh phúc cá nhân”
Trái lại với quan điểm của Nho gia, Đạo gia (do Lão Tử sáng lập, Trang
Tử phát triển) lại chú trọng và bàn nhiều tới hạnh phúc cá nhân “Hạnh phúc” trong quan điểm của Đạo gia là trạng thái cân bằng âm dương, ở đó con người sống vô vi, nhàn hạ và hòa hợp với tự nhiên Hạnh phúc chỉ có được khi con người sống thanh đạm, biết đủ, biết dừng, không tham lam, không bon chen, không cạnh tranh Quan điểm này ăn sâu vào tư tưởng và trở thành lối sống của
Trang 22một bộ phận trí thức không gặp thời hoặc hoặc đã hoàn thành nghĩa vụ đối với
xã hội Mặc dù, quan điểm của Đạo gia có những nét tiến bộ rõ nét khi bàn về hạnh phúc song những quan điểm đó lại hướng con người tới cuộc sống tiêu cực, xa lánh xã hội
Hai quan niệm về hạnh phúc của Nho gia và Đạo gia, tuy đối lập nhau về
cơ bản, nhưng cũng có những khía cạnh tương đồng, như coi khinh và phản đối lối sống chạy theo lợi ích vật chất tầm thường, ích kỷ của cá nhân, gắn hạnh phúc với đạo đức, phản đối việc mưu cầu hạnh phúc bằng con đường bất chính…nên cả hai quan niệm đều được những người trí thức phương Đông, trong đó có trí thức Việt Nam, vận dụng trong những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống
Cũng tương tự như trong quan niệm của nhiều lý thuyết khác, hạnh phúc theo quan điểm của Phật giáo về cơ bản có nguồn gốc cảm tính, xuất hiện từ cảm giác và từ niềm vui về mặt tinh thần Phật giáo coi sứ mệnh của mình là giúp cho con người tìm thấy hạnh phúc Toàn bộ quan điểm, quan niệm và hành
vi, thái độ kiếm tìm hạnh phúc của con người đều tương ứng với lý thuyết trong
“Tứ diệu đế” của Phật giáo Ngoài lý thuyết trình bày trong tứ diệu đế, để có được hạnh phúc thực sự, Phật giáo còn yêu cầu tín đồ và khuyên nhủ con người thực hiện “ngũ giới” Như vậy, theo quan niệm của Phật giáo hạnh phúc thực sự của con người chỉ có thể đạt được qua thực hành Bát chính đạo và Ngũ giới
Bàn về hạnh phúc, trong lịch sử triết học phương Tây cũng thu hút được
sự quan tâm của nhiều trường phái triết học và các triết gia Cụ thể:
Epicurus: “Hạnh phúc là mục đích tối hậu của đời sống loài người Sự yên bình và hợp lẽ phải là nền tảng của hạnh phúc”
Aristote: “Hạnh phúc là ý nghĩa và mục đích của cuộc đời, là mục tiêu và cũng là giới hạn tận cùng của sự tồn tại người” [9]
Phái Xirenait (Cyrenaics) do Arixtíp (Aristippus, khoảng 430-350 TCN), một môn đồ của Xôcrát, sáng lập, là một thứ chủ nghĩa khoái lạc tầm thường, vị
kỷ, đưa ra một học thuyết mà theo đó, sự thỏa mãn những dục vọng trực tiếp của
Trang 23cá nhân, không cần quan tâm đến người khác, được coi là mục đích tối cao Những khoái cảm xác thịt, theo phái này, còn đáng giá hơn những niềm vui trí tuệ hư ảo và phức tạp Thực tế lịch sử đã cho thấy sai lầm cơ bản trong quan điểm của phái này, vì khi cá nhân con người chạy theo những khoái cảm xác thịt tầm thường thì không thể có được hạnh phúc toàn diện, lâu dài được
Trái với chủ nghĩa khoái lạc vị kỷ, chủ nghĩa khoái lạc Êpiquya, gắn với trường phái triết học do Êpiquya (Epicurus, 341 - 271 TCN) sáng lập, là một thứ chủ nghĩa khoái lạc lý tính Phái Êpiquya cho rằng, khoái lạc chân chính chỉ có thể đạt được bằng lý trí Họ đề cao những phẩm hạnh như tính tự chủ và sự cẩn trọng Khoái lạc lớn nhất là ở cuộc sống bình dị và điều độ, tiêu dao với bè bạn
và cùng đàm luận triết học với họ Họ lập luận rằng, sẽ là không tốt nếu làm điều gì đó để có được khoái cảm nhất thời nhưng lại gây ra hậu quả xấu cho tương lai, chẳng hạn, sự hoang dâm quá độ sẽ có hậu quả bất hạnh về sau
Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các quan điểm của các nhà triết học trong các giai đoạn trước, đạo đức học Mác – Lênin đưa ra quan điểm về phạm trù
hạnh phúc: “Hạnh phúc là trạng thái tâm lý đạo đức biểu hiện sự thỏa mãn
những nhu cầu vật chất và tinh thần, có tính lịch sử cụ thể, là những nghĩa vụ đạo đức được hoàn thành” [8]
Từ quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về hạnh phúc, chúng ta có thể hiểu hạnh phúc với những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, là cảm giác vui sướng, thanh thản, phấn chấn của con người trong cuộc sống khi được thỏa mãn những nhu cầu chân chính cả về vật chất lẫn tinh thần trong những điều kiện lịch sử cụ thể
Thứ hai, là những nghĩa vụ đạo đức được hoàn thành Trong cuộc sống có nhiều mối quan hệ Mỗi quan hệ lại có một nghĩa vụ đạo đức Mỗi khi một nghĩa
vụ đạo đức được hoàn thành con người cảm thấy hạnh phúc
Thứ ba, hạnh phúc gồm cả hai yếu tố khách quan và chủ quan Trong mỗi quan điểm lịch sử cụ thể quan niệm về hạnh phúc có sự thay đổi Tuy nhiên, dù có thay đổi nhưng hạnh phúc cá nhân không tách rời hạnh phúc chung của xã hội
Trang 24Thứ tư, hạnh phúc có nguồn gốc từ lao động và đấu tranh, vì vậy nên hạnh phúc mang tính giai cấp Trong xã hội có đối kháng giai cấp, hạnh phúc của người này là bất hạnh ở người khác
Trên cơ sở phân tích các quan điểm, quan niệm của các nhà triết học và các trường phái triết học về hạnh phúc, tôi chọn quan niệm hạnh phúc của chủ nghĩa Mác – Lênin làm khung lý thuyết nghiên cứu
1.1.2 Quan điểm và cách đo lường, tính toán chỉ số hạnh phúc trên thế giới và Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, quan điểm và các tính toán chỉ số hạnh phúc của một số tổ chức, quốc gia trên thế giới
Hiện nay, bên cạnh việc khảo sát, đo lường các chỉ số: HDI, GDP, GNP… nhiều quốc gia đã tiến hành khảo sát và đo lường chỉ số hạnh phúc của người dân nhằm điều chỉnh các chính sách của chính phủ cho phù hợp và tìm ra những giải pháp mới giúp người dân hài lòng hơn với cuộc sống và ngày càng hạnh phúc hơn Trên cơ sở kế thừa các quan niệm về hạnh phúc trong lịch sử, các nhà khoa học đã tìm phương pháp mới nhằm cụ thể hóa chỉ số hạnh phúc của con người, biến chỉ số hạnh phúc từ một khái niệm “mờ” sang chỉ số hoàn toàn có thể định lượng được Dưới đây, luận văn lược qua một vài quan niệm tiêu biểu
và cách tính toán chỉ số hạnh phúc của các tổ chức quốc tế và một số quốc gia
trên thế giới
* Chỉ số hạnh phúc hành tinh (Happiness Plant Index - HPI)
Thước đo đánh giá về hạnh phúc được nhiều quốc gia trên thế giới tin tưởng là chỉ số HPI Bộ máy lý thuyết định hướng thiết kế chỉ số HPI trong “Báo
cáo chỉ số hạnh phúc hành tinh” (Happiness Plant Index - HPI) được tính toán
bởi Quỹ Kinh tế mới (New Economics Foundation – NEF) thì chỉ số hạnh phúc được đo lường bằng mức độ hài lòng với đời sống của con người, được cụ thể hóa với 3 thành tố cơ bản: mức độ sống, tuổi thọ trung bình và dấu chân sinh thái theo công thức:
HPI = Life Satisfaction x Life Expectancy/Ecological Footprint
Trang 25Ecological Footprint (dấu chân sinh thái) dấu vết của toàn bộ hệ sinh thái xung quanh con người, không chỉ môi trường - Con người tiêu dùng tài nguyên
tự nhiên đến mức nào, có vượt quá mức độ cho phép mà tự nhiên đã “ban” cho con người tại mỗi quốc gia hay không, có làm tổn hại đến hệ sinh thái mà trong
đó con người chỉ là một thực thể sinh học hay không)
Theo công thức này, người ta sẽ tính được chỉ số hạnh phúc của mỗi quốc gia hoặc của mỗi cộng đồng Ý nghĩa của công thức này là: Hạnh phúc của mỗi quốc gia/cộng đồng là số năm trong vốn tuổi thọ mà con người cảm thấy hài lòng (Well-being) với cuộc sống của mình nếu điều này phù hợp với điều kiện tài nguyên tự nhiên được phép tiêu dùng (chỉ số hài lòng với cuộc sống nhân với chỉ số tuổi thọ chia cho chỉ số thực trạng tiêu dùng tài nguyên tự nhiên và mức
độ làm ảnh hưởng đến hệ sinh thái xung quanh) Thang HPI được thiết kế từ 0 -
100 Theo NEF, thang lý tưởng (Reasonable Ideal) trong điều kiện hiện nay là 83,5; trong đó, chỉ số hài lòng với cuộc sống là 8,2; chỉ số tuổi thọ là 82,0 và chỉ
số môi sinh là 1,5
* Báo cáo hạnh phúc thế giới (Word Happiness Report- WHR)
Báo cáo hạnh phúc thế giới (Word Happiness Report- WHR) được công
bố bởi Mạng lưới các giải pháp phát triển bền vững (SDSN) thuộc Liên Hợp Quốc phối hợp với viện nghiên cứu Trái đất cùng sự phối hợp của Trung tâm nghiên cứu hiệu suất kinh tế - CEP Báo cáo hạnh phúc thế giới được công bố lần đầu tiên vào tháng 4 /2012 theo đề nghị của ông Ban Ki Moon – tổng thư kí
Liên Hợp Quốc Tại Hội nghị The UN High Level Meeting on Happiness and
Well- being vào ngày 02/04/2012, trong hội nghị này các quốc gia tham dự đã
Trang 26quyết định chọn ngày 20/03 hàng năm là ngày Quốc tế Hạnh phúc
Theo báo cáo, đại lượng cơ bản sử dụng để đánh giá hạnh phúc của con
người chính là mức độ hài lòng với đời sống được đo bằng thang điểm 10 từ
“cực kì không hài lòng” đến “cực kỳ hài lòng” với 8 tiêu chí cơ bản: GDP/ đầu người tính theo sức mua ngang giá; số năm sống khỏe mạnh so với tuổi thọ trung bình; Hỗ trợ xã hội; Tự do lựa chọn cuộc sống; sự rộng lượng; cảm nhận
về tham nhũng; phản ứng tích cực và phản ứng tiêu cực Cả tám têu chí trên đều
là các biến độc lập được tính toán để đo đạc thái độ chủ quan của người dân ở hơn 150 quốc gia (với hơn 1.000 mẫu ở mỗi quốc gia) và chỉ số hạnh phúc là kết quả tích hợp của các chỉ số đó
* Tính toán chỉ số hạnh phúc của Tổ chức hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD)
Tổ chức hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) gồm 34 nước thành viên –
là một tổ chức có uy tín trong nghiên cứu và liên kết nghiên cứu hạnh phúc trên thế giới cả trên phương diện học thuật và thực hành thực địa Trong “Tài liệu hướng dẫn về đo lường hạnh phúc” (2013) nhằm mục đích thiết lập một hệ thống phương pháp luận thống nhất hướng đến việc chuẩn hóa trong đo lường chỉ số hạnh phúc Trong tài liệu, hạnh phúc được đo lường chủ yếu dưới góc độ chủ quan mà theo OECD nó là phần cơ bản và cốt lõi nhất trong đo lường hạnh phúc OECD khuyến nghị rằng các không thể đánh giá hạnh phúc con người thuần túy theo chỉ số GDP và họ đưa ra chỉ số mới “Chỉ số cuộc sống tốt đẹp hơn” (Your better life Index – BLI) gồm 11 yếu tố thành phần: Nhà ở; thu nhập; việc làm; cộng đồng; giáo dục; môi trường; sự tham gia; sức khỏe; gia đình; sự
an toàn; sự cân bằng công việc – cuộc sống
Chỉ số đo lường không chỉ được nghiên cứu và đánh giá bởi các tổ chức
uy tín trên thế giới, dựa trên những cách thức tính toán chung về chỉ số hạnh phúc và điều kiện hoàn cảnh cụ thể ở mỗi quốc gia mà có những tính toán cho phù hợp điều kiện thực tế Vì vậy, nhiều quốc gia đã tiến hành xây dựng cho mình bộ cung cụ thu thập dữ liệu và đánh giá về hạnh phúc riêng như: vương
Trang 27quốc Bhutan, Hà Lan, Vương quốc Anh, Úc, vương quốc Bỉ, Đức, Canada, Ý
Vương quốc Bhutan: Tổng hạnh phúc quốc gia (GNH- Gross National
Happiness) được đánh giá khá sớm ở quốc gia này (1972) thay cho khái niệm Tổng sản phẩm quốc nội Cách tính GNH khá phức tạp gồm 4 nền tảng căn bản: kinh tế - văn hóa – môi trường và sự quản lý Các câu hỏi để đánh giá 4 nền tảng của hạnh phúc được cụ thể hóa trong 9 lĩnh vực với 33 chỉ báo gồm: Tiêu chuẩn sống (3 chỉ báo: tài sản, nhà ở, thu nhập theo đầu người của hộ gia đình); Đời sống tâm lý (4 chỉ báo: sự hài lòng cuộc sống, cảm xúc tích cực, cảm xúc tiêu cực, tâm linh); sức mạnh cộng đồng (4 tiêu chí: những tặng vật, quan hệ cộng đồng, quan hệ gia đình, sự an toàn); tính đa dạng và sự cởi mở văn hóa (4 tiêu chí: tiếng mẹ đẻ, tham gia văn hóa, những kỹ năng về nghề thủ công, đạo đức);
Sử dụng thời gian (2 tiêu chí: thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi); Quản trị tốt (4 tiêu chí: sự thực hiện của chính phủ, các quyền cơ bản, các dịch vụ, sự tham gia chính trị); Sự đa dạng và biến đổi của môi trường sinh thái (4 tiêu chí: những vấn đề sinh thái, trách nhiệm đối với môi trường, sự thiệt hại về động vật hoang dã, các vấn đề đô thị hóa); Sức khỏe (3 tiêu chí: sức khỏe tinh thần, sức khỏe bản thân, ngày khỏe mạnh, ngày ốm yếu); Giáo dục (4 tiêu chí: biết đọc biết viết, trình độ học vấn, sự hiểu biết, các giá trị)
Tại Hà Lan: Chỉ số hạnh phúc ở Hà Lan gồm các chỉ số đa chiều về chất
lượng cuộc sống nói chung của cá nhân một cách tổng hợp Chỉ số hạnh phúc ở
Hà Lan được công bố bởi Viện nghiên cứu Xã hội Hà Lan từ 1974 nhằm đưa ra cái nhìn toàn cảnh về cuộc sống của người dân Hà Lan và trên cơ sở đó đề xuất các chính sách xã hội Chỉ số hạnh phúc ở quốc gia này được đo lường trên 8 lĩnh vực: nhà ở, y tế, tập luyện thể thao, tham gia các hoạt động xã hội, các hoạy động giải trí văn hóa, sở hữu các vật dụng lâu bền, các kỳ nghỉ và di chuyển Trong mỗi lĩnh vực đo lường, các nhà nghiên cứu sẽ đề xuất các chỉ số liên quan đến các hoạt động thực tiễn của các cá nhân bở họ cho rằng tình hình cuộc sống gắn liền với một tình huống cụ thể với tất cả các khía cạnh vật chất và phi vật chất xét theo khía cạnh chủ quan của chủ thể Ngoài ra, hạnh phúc còn được đo
Trang 28lường ở mức độ hài lòng với cuộc sống nói chung và các khía cạnh trong cuộc sống cũng góp phần vào chất lượng cuộc sống của họ Trên cơ sở thực tế điều tra tại quốc gia này, các nhà nghiên cứu khẳng định không phải khi nào tình hình khách quan và quan niệm chủ quan cũng tỉ lệ thuận với nhau mà nhiều trường hợp chúng chạy song song với nhau Nhờ chỉ số này, các nhà nghiên cứu không chỉ có cái nhìn tổng thể về cuộc sống của người dân Hà Lan mà họ còn có thể dễ dàng nhận ra sự tiến bộ hay lạc hậu trong những chính sách của chính phủ đối với những nhóm xã hội khác nhau và có những điều chỉnh cho phù hợp tình hình thực tế
Tại vương quốc Anh: Các chương trình quốc gia về đo lường hạnh phúc
tại Anh bắt đầu được triển khai từ tháng 11/2010, tại quốc gia này hạnh phúc được biểu thị qua khái niệm “National well- being” và các nhà nghiên cứu cho rằng hạnh phúc của người dân tại Anh luôn bị chi phối bởi các yếu tố: kinh tế,
sự bền vững của môi trường, sự bình đẳng, chất lượng cuộc sống cũng như hạnh phúc cá nhân Hạnh phúc cá nhân miêu tả cách cá nhân đang thực hiện về mặt suy nghĩ và cảm giác về cuộc sống của họ nói chung, dược xác định thông qua các câu hỏi làm thế nào để thỏa mãn các nhu cầu cuộc sống của bạn nói chung Hạnh phúc bao gồm cách chúng ta đang hành động và cách chúng ta cảm nhận
về các chiều cạnh của cuộc sống của chúng ta như sức khỏe, các mối quan hệ, giáo dục và kỹ năng, chúng ta làm cái gì, chúng ta sống ở đâu, vị hôn thê của chúng ta, nền kinh tế, quản lý nhà nước và môi trường
Hạnh phúc cộng đồng bao gồm hạnh phúc cá nhân nhưng đồng thời phản ánh sự phân bố hạnh phúc cá nhân trong cộng đồng cũng như nhân tố địa phương có thể ảnh hưởng tới hạnh phúc như khả năng tiếp cận không gian xanh
và sức mạnh, cơ hội cho sự tham gia của cộng đồng Theo cách tiếp cận này, hạnh phúc quốc gia bao gồm hạnh phúc cá nhân trên cả nước như các nhân tố ở cấp quốc gia như các quyết định về nền kinh tế, môi trường hay quản lý nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp đến hạn phúc cá nhân Hạnh phúc quốc gia cũng liên quan đến mức độ duy trì hạnh phúc hiện tại và trong tương lai giữa các thế
Trang 29hệ Như vậy, hạnh phúc quốc gia không đơn thuần là tình trạng của tất cả hạnh phúc cá nhân
Thứ hai, chỉ số hạnh phúc trong nghiên cứu của một số nhà khoa học
Trên thế giới, các nghiên cứu về hạnh phúc xuất hiện khá sớm, nhiều nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu cảm nhận hạnh phúc của con người dưới nhiều góc độ và trong các mối quan hệ của nó với các yếu tố: kinh tế, tinh thần
và cảm nhận về sự hài lòng…
Năm 2003, Carol Rothwell và Pete Cohen, hai nhà nghiên cứu người Anh,
lần đầu tiên (theo lời tự nhận xét của bà Carol Rothwell) trong đề tài “Công thức
của Hạnh phúc”, đã đưa ra công thức để tính hạnh phúc Dựa trên kết quả khảo
sát xã hội học ở 1000 nghiệm thể là người Anh, công thức được đưa ra dưới dạng [Hạnh phúc = P + (5xE) + (3xH)] Trong đó, P là chỉ số cá tính (Personal Characterisrics) bao gồm quan niệm sống, khả năng thích nghi, và sự bền bỉ dẻo dai trước thử thách E là chỉ số hiện hữu (Existence) phản ánh tình trạng sức khỏe, khả năng tài chính và các mối quan hệ thân hữu H là chỉ số thể hiện nhu cầu cấp cao (Higher Oder) bao gồm lòng tự tôn, niềm mơ ước, hoài bão và cả óc hài hước Dĩ nhiên không nhiều người kỳ vọng ở công thức này, song ở một phạm vi nào đấy, người ta cũng thấy công thức này có giá trị gợi mở nhất định
Từ cách tính chỉ số hạnh phúc, trong nghiên cứu này, tác giả đã chỉ ra các nhân
tố ảnh hưởng tới sự hạnh phúc của con người: mức thu nhập, giáo dục, tình trạng hôn nhân và vấn đề việc làm [3]
Đi trả lời câu hỏi: Tiền bạc có làm nên hạnh phúc? nhà xã hội học Glenn
Firebaugh, đại học Pennsylvania và Laura Tach, đại học Harvard (Mỹ) đã bỏ công nghiên cứu vấn đề và rút ra kết luận: tiền bạc có tạo ra hạnh phúc, tuy nhiên, với một điều kiện là người làm ra tiền bạc phải cảm thấy họ kiếm được nhiều tiền hơn những người quanh họ Cũng cho kết quả tương tự là nghiên cứu của Edward Diener, nhà tâm lý học đại học Illinois (Mỹ) Diener kết luận, sẽ là không đúng nếu nói tiền bạc không liên quan tới hạnh phúc; mối quan hệ giữa chúng rất phức tạp, song tỷ lệ hài lòng với cuộc sống của người giàu thường cao
Trang 30hơn nhiều so với người nghèo Hiện tượng này đúng cho cả những nước giàu và những người nghèo Chuyên gia kinh tế Andrew Oswald của Đại học Warwick (Anh) cũng đồng ý với Edward Diener khi nghiên cứu một nhóm người trúng xổ
số từ 2.000 đến 250.000 USD Kết quả chỉ ra là mức độ hài lòng với cuộc sống của nhóm người này tăng so với hai năm trước khi họ trúng số Và mức độ hài lòng tăng tỷ lệ thuận với mức thưởng: trúng thưởng càng lớn người trúng thưởng càng hài lòng hơn với cuộc sống của mình
Trong nghiên cứu kéo dài 80 năm của các giáo sư trường Đại học Harvard
về hạnh phúc (The study of Adult Development) với 3 nhóm đối tượng, các nhà nghiên cứu khẳng định: "Chăm sóc cơ thể rất quan trọng nhưng vun đắp cho mối quan hệ cũng là một cách tự chăm sóc mình Tôi nghĩ, đó chính là bí mật của hạnh phúc", Robert Waldinger, nhà tâm thần học và giảng viên tại trường Y
Harvard viết trên The Harvard Gazette Đồng thời, nghiên cứu cũng chỉ ra 6 yếu
tố cơ bản giúp con người có cuộc sống hạnh phúc và khỏe mạnh: không sử dụng chất kích thích, số năm đi học (nói tới yếu tố giáo dục), tuổi thơ hạnh phúc, giá trị và vị trí của các mối quan hệ, kỹ năng đối phó với các thất bại, luôn chia sẻ
Qua một số công trình nghiên cứu của các tổ chức uy tín trên thế giới, quốc gia và một số chuyên gia nước ngoài, tác giả nhận thấy có một số điểm chung trong nghiên cứu về hạnh phúc được rút ra:
Một là, hạnh phúc dưới góc độ đời sống cá nhân về cơ bản là sự thỏa mãn
(sự hài lòng) những nhu cầu vật chất và tinh thần của con người trong những điều kiện nhất định
Hai là, hạnh phúc không phải là khái niệm “mờ” không thể nắm bắt mà
hoàn toàn có thể định lượng nó bằng các thang đo khác nhau Sự khác nhau trong các thang đo bị quyết định bởi các yếu tố thực tế của cư dân ở từng quốc gia, khu vực với những nét đặc trưng riêng của cộng đồng
Ba là, hạnh phúc chủ quan là hạt nhân cho bất kỳ khái niệm hạnh phúc
mở rộng nào Hạnh phúc của mỗi chủ thể chịu sự chi phối của nhiều nhóm điều kiện khách quan và chủ quan
Trang 31Thứ ba, quan niệm về hạnh phúc của một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam
Quan điểm của Hồ Chí Minh về hạnh phúc: Trong thư “Gửi các Ủy ban nhân dân các bộ, tỉnh, huyện, và làng” tháng 10 năm 1945, Bác viết: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng không có ý nghĩa gì” Như vậy, Bác hiểu rất rõ độc lập cũng chỉ là phương tiện để thực hiện
tự do, hạnh phúc cho nhân dân Tự do, hạnh phúc cho nhân dân mới là mục đích của nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước
Trên cơ sở nền tảng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, Đảng ta xác định mục tiêu lớn nhất của Đảng và Nhà nước “Độc lập, tự do, hạnh phúc” Trong mục tiêu chung của Đảng và Nhà nước, “hạnh phúc” được xếp ngang hàng với “độc lập, tự do” và đứng ở vị trí trí cuối cùng như một sự khẳng định chắc chắn của Đảng và Nhà nước với toàn dân Việt Nam
“hạnh phúc” là một trong mục tiêu quan trọng của quốc gia, đồng thời cũng là mục tiêu cuối cùng của mọi chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách Nhà nước Song để đảm bảo được quyền “hạnh phúc” của nhân dân toàn Đảng, toàn dân phải có được những điều kiện tiên quyết là sự độc lập, tự quyết của một quốc gia và sự tự do của con người và chỉ có trên cơ sở nền tảng đó Đảng và Nhà nước mới có khả năng mang lại “hạnh phúc” cho người dân
Đề tài cấp Nhà nước "Hạnh phúc của người Việt Nam: Quan niệm, thực
trạng và chỉ số đánh giá" (2018) do tác giả Lê Ngọc Văn chủ trì [58] Đây là đề
tài đầu tiên và toàn diện nhất cho đến thời điểm hiện nay đánh giá về hạnh phúc con người Việt Nam Trên cơ sở nghiên cứu về quan điểm về hạnh phúc của các trường phái triết học, tư tưởng, qua ca dao tục ngữ của người Việt Nam, nhóm tác giả khẳng định hạnh phúc là một phạm trù vừa mang giá trị khách quan vừa mang giá trị chủ quan Trong định nghĩa hạnh phúc, nhóm tác giả theo cách tiếp cận từ lý thuyết về sự hài lòng Sự hài lòng ở đây được hiểu là những trạng thái cảm xúc tích cực, vững chắc với ưu thế vượt trội của những cảm xúc tích cực đối với những cảm xúc tiêu cực được kết tinh thành những trải nghiệm nhận thức và có thể được đánh giá bằng lí trí Hiểu đơn giản thì ở đây hạnh phúc được
Trang 32hiểu là sự đánh giá của một người về mức độ hài lòng của họ về cuộc sống của mình xét trên tổng thể và như vậy hạnh phúc được đề cập ở đây chính là hạnh phúc chủ quan – nội hàm cơ bản của bất kỳ khái niệm hạnh phúc mở rộng nào Trên cơ sở đó, nhóm tác giả phân chia hạnh phúc thành: Hạnh phúc chủ quan (gắn liền với hạnh phúc cá nhân, biểu thị bằng thị bằng thuật ngữ well – being)
và hạnh phúc khách quan (gắn với hạnh phúc của một cộng đồng người nào đó, được biểu thị bằng thuật ngữ Happiess index) đồng thời khẳng định hạnh phúc chủ quan là cơ sở cốt lõi để đánh giá hạnh phúc khách quan
Trên nền lý thuyết, nhóm tác giả đã đề xuất 2 công thức riêng biệt để tính toán về chỉ số hạnh phúc cá nhân và hạnh phúc xã hội Tuy nhiên, dù tính toán chỉ số hạnh phúc chủ quan hay hạnh phúc khách quan thì công thức tính đều được tính toán thông qua 3 chỉ báo trung gian với những câu hỏi định lượng và định tính về sự hài lòng về điều kiện kinh tế - vật chất, môi trường tự nhiên; sự hài lòng về quan hệ gia đình – xã hội; sự hài lòng về bản thân và triển khai cụ thể 3 chỉ báo trung gian thành 33 chỉ báo đo lường về mức độ hạnh phúc (mỗi chỉ báo trung gian được cụ thể bằng 11 chỉ báo nhỏ) với 5 thang điểm từ 0-5 biểu thị mức độ hài lòng (hoàn toàn không hài lòng - 0; chưa hài lòng – 1; tương đối hài lòng – 2; hài lòng – 3; rất hài lòng – 4) Trên cơ sở quan niệm hạnh phúc
cá nhân, nhóm tác giả tiến hành tính toán chỉ số hạnh phúc của một cộng đồng người nào đó thông qua công thức tính:
HI = β1 Ieco + β2.I sr + β3.I per
Trong đó; HI: là chỉ số hạnh phúc của cộng đồng
Ieco: chỉ số hài lòng về kinh tế vật chất
I sr: chỉ số hài lòng về quan hệ gia đình – cộng đồng
I per: chỉ số hài lòng về đời sống cá nhân
Β: bình quân gia quyền đối với từng chỉ số hài lòng
Như đã trình bày, chúng ta thấy rằng chỉ số hạnh phúc của người Việt Nam (HI) được tính toán qua 3 chỉ báo gộp trung gian Ieco, I sr , I per Vậy làm thế nào tính toán và định lượng các chỉ số trung gian này Nhóm tác giả đã tiến
Trang 33hành cụ thể hóa các chỉ báo cụ thể thuộc từng nhóm yếu tố sau:
Nhóm yếu tố đời sống kinh tế - vật chất, môi trường được cụ thể hóa thông qua 11 chỉ báo về ăn, mặc, ở, việc làm, thu nhập, tiện nghi sinh hoạt, tài sản, dịch vụ xã hội, môi trường sống, vệ sinh an toàn thực phẩm…
Nhóm yếu tố các quan hệ gia đình – xã hội được cụ thể hóa qua 11 chỉ báo: quan hệ gia đình, con cái, họ hàng, láng giềng, bạn bè, nơi làm việc, vị thế, địa vị xã hội, an ninh, an toàn xã hội, chính quyền, môi trường xã hội…
Nhóm yếu tố về đời sống cá nhân bao gồm các chỉ báo: sức khỏe, học vấn, năng lực, đời sống tinh thần, tâm linh, thích ứng với cuộc sống của cá nhân
Có thể nói, đây là công thức tính toán đầu tiên, nhưng đã khái quát được một cách toàn diện các lĩnh vực của đời sống cá nhân và xã hội khi đánh giá quan niệm về hạnh phúc của người Việt Nam Công thức tính toán này được đưa
ra trên cơ sở lý thuyết về sự hài lòng, lý thuyết về hiện đại hóa và hậu hiện đại hóa và nguyên tắc lịch sử - cụ thể, vì vậy kết quả nó thu được đảm bảo tính phù hợp và sự tin tưởng
1.2 Quan niệm về hạnh phúc trong gia đình và một số yếu tố tác động đến quan niệm về hạnh phúc trong gia đình
1.2.1 Khái quát về gia đình
Trong lịch sử nghiên cứu về gia đình có rất nhiều khái niệm khác nhau về gia đình Mỗi lĩnh vực khoa học lại có cách nhìn nhận và định nghĩa khác nhau
về gia đình
Trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2010, phần những quy định chung
có ghi rõ: Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan
hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau theo quy định của Luật này [22]
Đối với xã hội học, gia đình thuộc về phạm trù cộng đồng xã hội Vì vậy,
có thể xem xét gia đình như một nhóm xã hội nhỏ, đồng thời như một thiết chế
xã hội mà có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình xã hội hóa con người
Trang 34Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm xã hội nhỏ mà các thành viên của nó gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ con nuôi, bởi tính cộng đồng về sinh hoạt, trách nhiệm đạo đức với nhau nhằm đáp ứng những nhu cầu riêng của mỗi thành viên cũng như để thực hiện tính tất yếu của xã hội về tái sản xuất con người [27]
Trong cuốn “Gia đình học” xuất bản năm 2009, tác giả Đặng Cảnh
Khanh, Lê Thị Quý đã đưa ra định nghĩa gia đình như sau: “Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù liên kết con người lại với nhau nhằm thực hiện việc duy trì nòi giống, chăm sóc và giáo dục con cái Các mối quan hệ gia đình được gọi
là quan hệ họ hàng Đó là những sự liên kết ít nhất cũng là của hai người dựa trên cơ sở huyết thống, hôn nhân và việc nhận con nuôi Những người này có thể sống cùng hoặc khác mái nhà với nhau” [18, tr 54]
Mặc dù, các tác giả, các lĩnh vực khoa học có thể đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về gia đình nhưng cơ bản gia đình có những đặc điểm như sau:
Một là, gia đình là một nhóm người (từ hai người trở lên)
Hai là, gia đình là những người có quan hệ với nhau bởi hôn nhân (quan
hệ giữa vợ - chồng), huyết thống (cha mẹ đẻ - con cái) hoặc quan hệ nuôi dưỡng, giáo dục (cha mẹ - con hoặc cha mẹ nuôi – con nuôi)…
Ba là, gia đình gồm những cá nhân cùng chung sống, có ngân sách chung,
họ gắn bó với nhau bởi quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ Tất cả các quan hệ của họ được Nhà nước và cộng đồng thừa nhận và bảo vệ
Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ làm bộ mặt kinh tế biến đổi nhanh chóng Sự biến đổi này kéo theo hàng loạt những thay đổi trên tất cả các lĩnh vực khác: chính trị, văn hóa, y tế, giáo dục, an ninh – quốc phòng và trong cả gia đình Dưới tác động của kinh tế, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, gia đình Việt Nam đã có nhiều biến đổi lớn: Sự thay đổi cấu trúc, chức năng, các quan hệ trong gia đình Trong bối cảnh đó, tất cả các gia đình nói chung và gia đình của nguời Việt Nam nói riêng buộc phải thực hiện song song hai nhiệm vụ: Một mặt bảo toàn những giá
Trang 35trị truyền thống của gia đình Việt Nam, mặt khác là thay đổi những giá trị đã cũ,
đã lạc hậu bằng những truyền thống mới phù hợp với bối cảnh xã hội mới Như vậy, trong thời đại hiện nay, văn hóa gia đình Việt Nam vừa mang tính kế thừa
và vừa liên tục phát triển Những biến đổi của gia đình Việt Nam trong bối cảnh mới khiến quan điểm, quan niệm của con người về hạnh phúc nói chung và hạnh
phúc trong gia đình nói riêng cũng có những biến đổi nhất định
1.2.2 Quan niệm về hạnh phúc trong gia đình của người Việt Nam hiện nay
Hạnh phúc trong gia đình (family happiness) là khái niệm cụ thể hơn, là một khía cạnh biểu hiện của khái niệm hạnh phúc Tương tự như khái niệm hạnh phúc, khái niệm hạnh phúc trong gia đình cũng gặp nhiều khó khăn trong việc định nghĩa nó, bởi trên thực tế gia đình là một tập hợp cá nhân; tồn tại nhiều hình thái gia đình và cảm nhận hạnh phúc của cá nhân có liên hệ chặt chẽ với hạnh phúc trong gia đình và ngược lại hạnh phúc trong gia đình có những tác động và chi phối nhất định tới hạnh phúc cá nhân Trong một nghiên cứu ở Mỹ
về chất lượng cuộc sống đã phát hiện ra điều này: “hầu hết các tài liệu đều không định nghĩa cụ thể hạnh phúc trong gia đình là gì, nhưng những đặc trưng của nó đã được chỉ ra trong kết quả, chí số, giá trị và ý tưởng”
Trên thực tế nghiên cứu về hạnh phúc trong gia đình, cho đến nay chưa có một nghiên cứu rộng rãi mang tầm quốc tế nào về hạnh phúc trong gia đình Tuy nhiên khi xem xét về hạnh phúc trong gia đình, người ta thường đề cập tới khái niệm cuộc sống tốt trong gia đình (family welfare), thuật ngữ này xuất hiện nhiều trong các nghiên cứu về chính sách đối với gia đình Về mặt học thuật, chúng ta hoàn toàn có thể dịch và hiểu nó là hạnh phúc trong gia đình Thuật ngữ này xuất hiện nhiều trong các nghiên cứu về gia đình vì “rất nhiều khía cạnh trong cuộc sống của con người có tác động đến chất lượng cuộc sống tốt của họ
và gia đình họ” [74, tr 39] Trong một số nghiên cứu khác, các nhà nghiên cứu
đưa ra các quan điểm khác nhau “hạnh phúc của con cái và cha mẹ trong các lĩnh vực tình cảm, kinh tế và xã hội” [68, tr 1]; “hạnh phúc về cả thể chất và
Trang 36tâm lý của (các thành viên trong gia đình) cũng như chất lượng mối quan hệ
giữa cha mẹ, cha mẹ và con cái” [67, tr 5]; “sức khỏe, hạnh phúc và sự thịnh
vượng của một gia đình như một tổng thể cũng của các thành viên trong gia
đình” [63, tr 4]
Như vậy, tổng hợp một số nghiên cứu về hạnh phúc trong gia đình, chúng
ta có thể nhận thấy hạnh phúc trong gia đình mặc dù chưa có khái niệm chung được sử dụng một cách phổ biến và rộng rãi, và có nhiều khái niệm tương đồng: phúc lợi gia đình, hạnh phúc gia đình, song các nghiên cứu đều đã chỉ ra được những dấu hiệu cơ bản nhận diện hạnh phúc trong gia đình và xác định trong các mối quan hệ của gia đình: cha - mẹ; cha mẹ và con cái; và mối quan hệ của cá nhân với gia đình
Ở Việt Nam, các công trình bàn về gia đình khá nhiều song bàn về khía cạnh “hạnh phúc trong gia đình” của người Việt Nam thì chưa thực sự có nhiều công trình nghiên cứu độc lập mà chủ yếu những nghiên cứu được lồng ghép trong những nghiên cứu về “hạnh phúc” và “gia đình”
Trong bài “Bàn về quan niệm hạnh phúc trong gia đình ở Việt Nam”, của tác giả Lê Thi, đăng trên Tạp chí Gia đình và Giới, số 2 – 2012, tác giả cho rằng
hạnh phúc trong gia đình phải được xây dựng trên cơ sở tình cảm gắn bó bền chặt giữa vợ và chồng Biểu hiện đầu tiên đánh dấu cho sự gắn kết của họ chính
là “hôn nhân” theo tác giả đây là dấu hiệu quan trọng đánh dấu sự gắn kết gắn kết giữa hai con người xa lạ trên cơ sở của tình yêu Song để xây dựng gia đình hạnh phúc không chỉ cần tình yêu mà cần sự hội tụ của nhiều điều kiện khác Trước khi đi làm rõ những biểu hiện của gia đình hạnh phúc, tác giả Lê Thi đã tập trung làm rõ sự khác biệt trong quan niệm hạnh phúc gia đình trong truyền thống và xã hội hiện đại Nếu như trong xã hội truyền thống, hạnh phúc trong gia đình là khi: gia đình, vợ chồng hòa thuận, yêu thương lẫn nhau, con cái hiếu thảo, anh chị em yêu thương lẫn nhau, con cái lo phụng dưỡng cha mẹ tuổi già
và thờ cúng tổ tiên, sống có trách nhiệm Những giá trị đó có phần nào đã bị thay đổi trong xã hội hiện đại, khi họ quan niệm hạnh phúc gia đình là: vợ chồng
Trang 37yêu thương, chung thủy, quan tâm, tin tưởng lẫn nhau, các thành viên trong gia đình đặc biệt là vợ chồng cùng chia sẻ các công việc của gia đình từ trách nhiệm với gia đình hai bên, dạy dỗ con cái đến công việc nhà, đó là sự bình đẳng giữa các thành viên trong gia đình Cuối cùng là sự ổn định trong công việc của vợ và chồng Trên cơ sở đó, tác giả tập trung đi nghiên cứu các khía cạnh của hạnh phúc gia đình: vợ chồng sống trọn tình, vẹn nghĩa với nhau; vợ chồng bình đẳng
về quyền và nghĩa vụ trong gia đình; cách ứng xử trong sinh hoạt hàng ngày giữa vợ và chồng Sau khi phân tích các khía cạnh của hạnh phúc gia đình tác giả đề xuất một số giải pháp xây dựng và gìn giữ hạnh phúc trong gia đình về phía ba nhóm đối tượng: nhà nước, gia đình và các tổ chức đoàn thể [36]
Trong một bài viết khác của mình với tựa đề “Giữ gìn và phát huy những
giá trị văn hóa tốt đẹp của nhân dân Việt Nam để xây dựng gia đình bền vững
và hạnh phúc” sau khi đi khái quát vài nét về vị trí, vai trò của gia đình trong xã
hội Việt Nam tác giả Lê Thi đi trình bày về những thay đổi của gia đình Việt trong bối cảnh mới với sự thay đổi của cấu trúc ngành nghề, quy mô kinh tế, xu hướng di dân… cùng với đó là sự thay đổi một cách tất yếu, khách quan theo xu thế của gia đình Việt Nam về 5 chức năng cơ bản: kinh tế, tái sản xuất ra con người, tiêu dùng xã hội, giáo dục và thỏa mãn các nhu cầu tâm lí, tình cảm của các thành viên trong gia đình Tác giả tập trung phần nội dung làm rõ biến đổi 5 chức năng cuả gia đình trên cơ sở làm rõ sự khác biệt về biểu hiện của nó trong
xã hội truyền thống và hiện đại Trên phương diện kinh tế: Đó là sự tham gia trong hoạt động kinh doanh, buôn bán và đứng tên kinh doanh của phụ nữ, trên phương diện tái sản xuất con người gia đình hiện đại chuyển theo hướng giảm
số lượng con và có xu hướng chọn giới tính khiến tỉ lệ tự nhiên của bé trai cao hơn bé gái, còn trên phương diện tâm lý – tình cảm chuyển từ bỏ qua cảm xúc cá nhân vì gia đình chung thì trong xã hội hiện đại bắt đầu đề cao sự tôn trọng, bình đẳng giữa các thành viên và coi trọng con người cá nhân và trên phương diện chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trách nhiệm đối với con cái được trao cho cả hai vợ chồng và nội dung, phương pháp giáo dục có sự thay đổi nhiều so với các
Trang 38nội dung và phương pháp giáo dục truyền thống Trên cơ sở những phân tích, đánh giá về sự khác biệt tác giả đi đến bàn về vai trò của Nhà nước, các tổ chức
xã hội và từ phía chính bản thân gia đình trong việc gìn giữ và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp, còn phù hợp của gia đình truyền thống trong bối
cảnh hiện đại [37]
Đề tài cấp bộ “Đánh giá việc thực hiện các tiêu chí gia đình văn hóa hiện
nay và xây dựng tiêu chí gia đình văn hóa trong giai đoạn mới” (2005) do TS
Lê Trung Trấn làm chủ nhiệm Trong công trình này, nhóm tác giả đã tiến hành điều tra 1600 đối tượng đại diện cho hộ gia đình, các cấp lãnh đạo tại 6 tỉnh thành: Hưng Yên, Sơn La, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Kon Tum và Sóc Trăng Trên cơ sở kết quả điều tra, tác giả đã đề xuất thay thế việc xây dựng gia đình văn hóa bằng việc xây dựng gia đình hạnh phúc Theo tác giả, gia đình hạnh phúc có những đặc trưng cơ bản như sau: Mối quan hệ ấm áp và yêu thương giữa vợ và chồng; lòng hiếu thảo và thành tâm với ông bà, cha mẹ; tính
kỉ luật, nền nếp; mối quan hệ gia đình lành mạnh, ấm áp và hạnh phúc; gia đình lành mạnh về vật chất, tinh thần, tình cảm và xã hội; có thể đáp ứng được các nhu cầu kinh tế; các thành viên có vai trò rõ ràng Một khi xây dựng được các mối quan hệ trong gia đình tốt đẹp, gia đình đó sẽ là gia đình hạnh phúc [47]
Bài viết “Quan niệm về hạnh phúc gia đình thời kỳ Đổi mới” (so sánh
giữa nông thôn và thành thị) của giả Phùng Thị Kim Anh trên Tạp chí Gia đình
và Giới, số 3 -2009 Trong bài viết của mình tác giả khẳng định gia đình là một
thiết chế xã hội với chức năng cơ bản nhất là đảm bảo sự thoả mãn nhu cầu cho các thành viên gia đình, đặc biệt là đem lại hạnh phúc cho mỗi cá nhân Hạnh phúc gia đình là mục tiêu mà mỗi cá nhân luôn luôn hướng đến Trong thời kỳ đổi mới, những biến động của nền kinh tế thị trường đã tạo nên những cái nhìn mới, lối sống mới Cách nhìn mới đó đã làm thay đổi quan niệm về hạnh phúc gia đình như thế nào? Để trả lời cầu hỏi đó, trong bài viết tác giả đi tìm các yếu
tố tạo nên hạnh phúc gia đình, giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp trong gia đình Kết quả phân tích cho thấy, mối quan hệ bình đẳng giữa vợ và chồng là yếu tố
Trang 39quan trọng nhất đảm bảo hạnh phúc gia đình, bất kể gia đình nông thôn hay thành phố Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất các giải pháp xây dựng hạnh phúc gia đình thời kỳ đổi mới [1]
Để có một gia đình hạnh phúc cần có sự chung tay của tất cả các thành viên trong gia đình, đặc biệt là người phụ nữ Như các cụ đã nói “đàn ông xây
nhà, đàn bà xây tổ ấm” Trong bài viết “phụ nữ - người vợ hạt nhân cơ bản của hạnh phúc gia đình” của tác giả Hà Thị Mỹ Hiệp Tác giả một lần nữa khẳng
định mối quan hệ quan trọng nhất góp phần tạo dựng hạnh phúc trong gia đình
là mối quan hệ vợ chồng Mối quan hệ này chỉ thực sự bần chặt khi có sự yêu thương, chia sẻ, tôn trọng lẫn nhau giữa hai bên, đặc biệt từ phía người phụ nữ với những hành động cụ thể: yêu thương, chăm sóc chồng và các con, hi sinh cho hạnh phúc gia đình… [13]
Để xây dựng hạnh phúc trong gia đình, tác giả hoàn toàn đồng ý với ý kiến của tác giả Phạm Thị Kim Anh, mối quan hệ giữa vợ và chồng là nhân tố quyết định Bàn về vấn đề này Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành xã hội học về
“Mức độ hài lòng về đời sống hôn nhân: Khác biệt giữa Nông thôn và thành thị
trong quá trình đô thị hóa hiện nay” của tác giả Đỗ Thị Lan Trong công trình
của mình tác giả đi so sánh sự hài lòng về: người bạn đời, về con cái, về đời sống vật chất, đời sống tinh thần trong gia đình và đi đến kết luận, khu vực thành thị mức độ hài lòng về đời sống hôn nhân cao hơn so với khu vực nông thôn Đi tìm hiểu nguyên nhân dẫn tới sự khác biệt trên, tác giả đi sâu mổ sẻ các yếu tố: trình độ học vấn, sự tác động của nghề nghiệp đến mức độ hài lòng trong hôn nhân, ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa [18]
Bên cạnh những công trình nghiên cứu về hạnh phúc và hạnh phúc trong gia, quan niệm về hạnh phúc trong gia đình người Việt Nam còn được thể hiện trong định nghĩa về gia đình văn hóa và các tiêu chí cụ thể để xây dựng gia đình văn hóa trong bối cảnh mới
Xây dựng gia đình văn hóa cũng là việc phát huy tốt những giá trị đạo đức của gia đình truyền thống từ bao năm nay, đi đôi với việc tiếp thu có nhận thức
Trang 40những phong trào, những xu hướng mới có chất lượng và có ảnh hưởng tích cực đến cộng đồng xã hội
Tiêu chuẩn gia đình văn hóa được thể hiện trên ba nội dung cơ bản:
Thứ nhất là gia đình ấm no, hòa thuận, tiến bộ và hạnh phúc gồm: Gia đình có kinh tế ổn định, hoà thuận có kỷ cương nề nếp, không có người mắc các
tệ nạn xã hội; Thực hiện nếp sống văn minh, giữ gìn thuần phong mỹ tục, không
sử dụng văn hoá phẩm thuộc loại cấm lưu hành; Trẻ em đang độ tuổi đi học đều được đến trường, đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học trở lên; Các thành viên trong gia đình chăm lo rèn luyện sức khoẻ, giữ gìn vệ sinh và phòng bệnh
Thứ hai, thực hiện tốt nghĩa vụ công dân gồm: Các thành viên trong gia đình thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; Giữ gìn an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội, vệ sinh môi trường
và nếp sống văn hoá nơi công cộng; Tham gia bảo vệ, tôn tạo các di tích lịch sử – văn hoá, danh lam thắng cảnh của địa phương
Thứ ba là thực hiện kế hoạch hoá gia đình gồm: Mỗi cặp vợ chồng sinh con không vi phạm chính sách kế hoạch hoá gia đình; Có kế hoạch phát triển kinh tế, làm giàu chính đáng; Có kế hoạch tiêu dùng hợp lý, tiết kiệm
Thứ tư là đoàn kết tương trợ trong cộng đồng dân cư gồm: Đoàn kết với cộng đồng dân cư, tương trợ giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất, khi khó khăn, hoạn nạn; Tham gia hoà giải các mối quan hệ bất đồng trong địa bàn dân cư; Tham gia các hoạt động xã hội từ thiện nhằm xây dựng địa bàn dân cư ổn định, vững mạnh; vận động các gia đình khác cùng tham gia [28]
Qua một số nghiên cứu về hạnh phúc và hạnh phúc đình của nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước, tác giả nhận thấy một số điểm chung then chốt trong các công trình nghiên cứu:
Thứ nhất, hạnh phúc trong gia đình được nghiên cứu dưới góc độ chủ quan là sự hài lòng của chủ thể với các khía cạnh biểu hiện của hạnh phúc như:
sự hài lòng với các điều kiện kinh tế - vật chất, môi trường, sự hài lòng với các quan hệ gia đình – xã hội