Sự di chuyển chất xám từ khu vực công sang khu vực tưđối với quá trình phát triển kinh tế
Trang 1KHOA KINH TẾ ĐẠI HỌC QUÓC GIA
ĐỀ TÀI
SỰ DI CHUYỂN CHẤT XÁM TỪ KHU VỰC CÔNG SANG KHU VỰC
TƯĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Trang 2MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do hình thành đề tài .
Mục tiêu nghiên cứu
Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
CỞ SỞ LÝ LUẬN VỀ DI CHUYỂN CHẤT XÁM TỪ KHU VỰC CÔNG SANG KHU VỰC TƯ
Khái niệm khu vực công-khu vực tư- tiêu chí phân biệt hai khu vực
Khu vực công
Khu vực tư
Tiêu chí phân biệt khu vực công và khu vực tư
Khái niệm về nguồn nhân lực-nguồn nhân lực chất xám
Nguồn nhân lực trong nền kinh tế tri thức
Một số định nghĩa khác nhau về nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực chất xám
Nguồn nhân lực chất xám trong khu vực công
Các lý thuyết về di chuyển nguồn nhân lực
Nguyên nhân của việc di chuyển nguồn nhân lực
Mô hình lý thuyết về di chuyển nguồn lực
3.2.1Mô hình của Lewis
3.2.2Mô hình Haris-Todaro
3.2.3Lý thuyết “Mới” về di dân
Một số lí thuyết về quản lí nguồn nhân lực
2
Trang 33.3.1Thuyết cấp bậc nhu cầu của Maslow
3.3.2Thuyết vê sự công bằng
3.3.3Thuyết hai nhân tố của Herzberg
3.3.4Mô hình động cơ thúc đẩy của Porter và Lawler
Vấn đề di chuyển chất xám từ khu vực công sang khu vực tư
Kinh nghiệm của một số nước trong việc giải quyết tình trạng chảy máu chất xám từ khu vực công sang khu vực tư
ẢNH HƯỞNG CỦA KHU VỰC CÔNG VÀ TƯ ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - HIỆN TƯỢNG DI CHUYỂN CHẤT XÁM TỪ KHU VỰC CÔNG SANG KHU VỰC TƯ HIỆN NAY VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Khái quát về tăng trưởng và quá trình phát triền kinh tế
Tăng trưởng và phát triển kinh tế
1.1.1Tăng trưởng kinh tế
1.1.2Phát triển kinh tế
1.1.3Quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển kinh tế
Các chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng và phát triển kinh tế
1.2.1Các chỉ tiêu đo lường tăng trưởng kinh tế
1.2.2Các chỉ tiêu phản ánh phát triển kinh tế
Ảnh hưởng của khu vực công và khu vực tư đối với quá trình phát triển kinh tế
Trang 42.2.1Vai trò của khu vực tư
Giải pháp cho hiện tượng di chuyển chất xám từ công sang tư
Một số biện pháp hạn chế sự di chuyển chất xám từ khu vực công sang khu vực tư đang được áp dụng hiện nay tại Việt Nam
KẾT LUẬN
4
Trang 5A PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do hình thành đề tài:
Trong thời đại hiện nay, khi mà hầu hết các nước trên thế giới đang hướng đến một nền kinh tế năng động và phát triển, nền kinh tế đa thành phần đang là một ưu thế Ở nền kinh tế đa thành phần đó luôn tồn tại hai khu vực: “khu vực kinh tế Nhà nước”( khu vực công) và khu vực kinh tế Tư nhân( khu vực tư) Trong đó, kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ lực và kinh tế tư nhân là động lực phát triển của nền kinh tế Hai khu vực kinh tế này chính là hai nhân tố chính đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế, cũng như chiếm một tỉ trọng rất cao trong GDP và trong việc giải quyết công ăn việc làm cho những người trong độ tuổi lao động của các nước
Và bao giờ cũng vậy, để phát triển kinh tế thì không thể không nói đến yếu tố “nguồn lao động” Rõ ràng, đây là một yếu tố có ảnh hưởng rất lớn Nếu nguồn lao động có chất lượng cao thì quá trình phát triển kinh tế cũng sẽ thuận lợi và dễ dàng hơn Tuy nhiên, một thực tế đang trở thành vấn nạn hiện nay đó chính là sự di chuyển của các nguồn lao động, đặc biệt là nguồn lao động có chất lượng ( lực lượng tri thức) và chúng ta thường hay nghe với cái tên đó là “hiện tượng chảy máu chất xám” Có hai luồng di chuyển lao động chính đó là: trên quốc tế và trong nước Ở phạm vi quốc tế, đó chính là sự di chuyển của những nguồn lao động có tri thức từ các nước kém phát triển hơn đến các nước phát triển hơn Ở phạm vi trong nước, đó chính là sự di chuyển của lực lượng lao động từ khu vực này sang khu vực khác, hay từ ngành này sang ngành khác… Nổi bật nhất vẫn là sự di chuyển của các nguồn lực lao động từ khu vực công ( khu vực kinh tế nhà nước) sang khu vực tư ( khu vực kinh tế tư nhân) hoặc ngược lại.
Ở các nước đang phát triển hiện nay, khi mà quá trình tư nhân hóa (privatization) đang được tiến hành mạnh mẽ thì rõ ràng cầu lao động ở khu vực tư sẽ tăng lên một cách đáng kể Vì thế, việc số lượng công nhân viên chức chuyển việc làm từ khu vực nhà nước sang khu vực tư nhân đang tăng lên dù đã được đề cập trong nhiều năm qua nhưng chưa lúc nào vấn đề này lại gây sự chú ý lớn trong xã hội như bây giờ Trước đây ở các nước thì
Trang 6có việc làm trong Chính phủ, Nhà nước được coi như là một đặc quyền Song ngày nay, lực lượng lao động, trí thức lại có xu hướng chuyển sang làm việc cho các doanh nghiệp tư nhân nhất là các sinh viên mới ra trường Thực tế gần đây cho thấy, tại Việt Nam, đặt biệt là ở khu vực phía Nam, số lượng cán bộ, công nhân viên chức di chuyển sang khu vưc tư nhân đang tăng mạnh Đây chính là hiện tượng “ chất xám chảy từ khu vực công sang khu vực tư” mà hiện nay cũng đang trở thành thách thức lớn đối với các nước khác trên thế giới, nhất là các nước đang phát triển như Indonesia, Malaysia Và do đó, thuật ngữ “di chuyển chất xám” đang dần trở nên phổ biến.
Theo giáo sư tiến sĩ Phạm Xuân Hằng thành viên của Hội đồng lý luận Trung ương ,vấn đề trên là một hệ quả tự nhiên của sự phát triển Tất cả chúng ta bao gồm cán bộ công nhân viên chức đều muốn có một cuộc sống tốt đẹp hơn, được phát triển, đóng góp nhiều cho xã hội, vì vậy ở đây không có gì là sai khi họ rời khỏi nhà nước để tạo điều kiện sống tốt hơn cho mình (Nguồn: Vietnam News) Nhưng nếu việc làm này ngày càng phổ biến, đội ngũ cán bộ công chức hoạt động trong Nhà nước có nguy cơ bị thiếu hụt hay không đảm bào chất lượng thì nó sẽ trở thành một vấn đề lớn cần được quan tâm một cách nghiêm túc Vì vậy chúng ta phải tự hỏi: tại sao họ lại chuyển từ khu vực công sang khu vực tư ? Những yếu tố nào đã tác động đến họ? Đặc biệt, hiện tượng này có những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực như thế nào đối với quá trình phát triển kinh tế của các nước đang tồn tài vấn nạn này? Để từ đó xem xét xem có giải pháp và chính sách nào để có thể hạn chế hiện tượng này? Để có câu trả lời, nhóm đã tìm hiểu, nghiên cứu thực hiện đề tài:
“ Sự di chuyển chất xám từ khu vực công sang khu vực tư ở các nước đối với quá trình phát triển kinh tế”
2 Mục tiêu nghiên cứu:
• Phân biệt giữa khu vưc công và khu vực tư trong nền kinh tế
• Xác định vai trò của khu vực công và khu vực tư đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
• Xác định thực trạng di chuyển chất xám từ khu vực công sang khu vực tư.
6
Trang 7• Xác định những yếu tố tác động đến việc di chuyển chất xám từ khu vực công sang khu vực tư.
• Ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của quá trình di chuyển chất xám từ khu vực công sang tư đối với quá trình phát triển kinh tế
• Đưa ra gợi ý về giải pháp cho việc di chuyển chất xám từ khu vực công sang khu vực tư.
3 Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Trong đề tài này, nhóm chúng tôi sẽ đi từ nghiên cứu tổng quát lý thuyết nói chung, sau đó đưa ra một vài dẫn chứng cụ thể trên thế giới hiện nay Và cuối cùng, nhóm sẽ phân tích thực trạng tình hình đang diễn ra tại Việt Nam chúng ta hiện nay, tác động của khu vực công, khu vực tư và sự di chuyển chất xám từ khu vực công sang khu vực tư đối với quá trình phát triển kinh tế của nước ta.
4 Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Hiện nay, xu hướng toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới Vì vậy, việc hiểu rõ vai trò của từng khu vực kinh tế trong cơ cấu kinh tế đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của một quốc gia là một điều quan trọng để từ đó có những hướng đi đúng, giúp đưa ra những chính sách, giải pháp hoạch định cho nền kinh tế Bên cạnh đó, hiện tượng “chảy máu chất xám” từ khu vực công sang khu vực tư đang trở thành một vấn đề nổi trội ở một số nước, đặc biệt là các nước đang phát triển trong đó có cả Việt Nam chúng ta Có rất nhiều ý kiến tranh cãi xoay quanh vấn đề này Có người cho rằng đây là xu thế tất yếu khi kinh tế phát triển và thúc đẩy nền kinh tế đi lên nhưng ngược lại, cũng có người cho rằng quá trình này có nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình phát triển kinh tế đất nước nói chung Vậy thực chất hiện tượng này tác động như thế nào đến quá trình phát triển kinh tế Nó có những ảnh hưởnng tích cực và tiêu cực cụ thể như thế nào? Trên cơ sở đó, nhóm nghiên cứu đề tài đã tìm kiếm những tư liệu về vấn đề trên để phân tích, hiểu sâu hơn về khu vực công, khu vực tư cũng như tình trạng “chảy máu chất xám” từ công sang
Trang 8tư để từ đó đưa ra một số nhận xét cụ thể Cũng qua đó, đưa ra một số giải pháp cho hiện tượng “chảy máu chất xám” này.
B CỞ SỞ LÝ LUẬN VỀ DI CHUYỂN CHẤT XÁM TỪ KHU VỰC CÔNG SANG KHU VỰC TƯ
1.Khái niệm khu vực công-khu vực tư- tiêu chí phân biệt hai khu vực:1.1 Khu vực công :
Khu vực công được xem là một khái niệm quan trọng trong các học thuyết kinh chính trị Xét ở góc độ kinh tế thì khu vực công là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế thi trường Nó bao gồm các bộ phận sản xuất và phân phối được tài trợ bởi các cơ quan nhà nước Xét ở góc độ chính trị thì khái niệm “công” thường liên quan đến các hoạt động hoặc các đặc điểm của nhà nước nói chung, đặc biệt là chính phủ Xét theo nghĩa này thì khu vực công bao gồm chính quyền trung ương, chính quyền địa phương, và các doanh nghiệp công hay còn gọi là các doanh nghiệp nhà nước.
tế-Tóm lại có thể nói khu vực công là tổng thể các tổ chức kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng thuộc sở hữu nhà nước do nhà nước đầu tư, cấp phát tài chính toàn bộ hay bộ phận quan trọng nhất, do nhà nước trực tiếp quản lý, tổ chức nhằm tạo ra những sản phẩm vật chất tinh thần, những dịch vụ công cộng phục vụ đời sống nhân dân và lợi ích toàn xã hội
Tại sao trong thị trường hiện nay, nơi mà khu vực tư nhân ngày càng trở nên lớn mạnh thì khu vực công vẫn còn tồn tại và chiếm một vị trí rất quan trọng trong đời sống xã hội đăc biệt là trong lĩnh vực kinh tế…?Như chúng ta đã biết bất kỳ một nền kinh tế nào cũng có những “khuyết tật” nhất định của nó Chỉ có nhà nước thông qua “khu vực công” mới có thể bù đắp, sửa chữa những khuyết tật của thị trường hoặc thực thi những chính sách làm giảm nhẹ những tác động tiêu cực do thị trường gây ra.
1.2 Khu vực tư
8
Trang 9Khu vực tư nhân bao gồm tất cả các nhà cung cấp, các công ty, dịch vụ đã tồn tại ở bên ngoài khu vực công Hiện nay, kinh tế tư nhân (KTTN) theo nhận thức chung được hiểu là một nhóm các thành phần kinh tế, bao gồm cơ sở sản xuất, hộ nông dân cá thể và tiểu chủ, hộ sản xuất kinh doanh dịch vụ, thương mại ở thành thị; doanh nghiệp tư nhân KTTN dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, là bộ phận hợp thành hữu cơ quan trọng của nền kinh tế của các quốc gia và ngày càng tỏ rõ sự năng động cũng như tính hiệu quả của nó trong nền kinh tế thị trường Mặc dù cả hai khu vực công và tư nhân thực thể tìm cách cải thiện, phát triển nền kinh tế tuy nhiên mục tiêu của những người trong khu vực tư nhân có thể khác với những người trong khu vực công Ba hình thức tham gia của khu vực tư nhân tồn tại đó là: cho lợi nhuận, không phải cho lợi nhuận và doanh nghiệp xã hội Một số ví dụ về các thực thể khu vực kinh tế tư nhân chính thức và không chính thức là: Các tổ chức cung cấp dịch vụ, các tổng công ty, các cá nhân cung cấp dịch vụ, các hiệp hội chuyên nghiệp, bên cạnh đó còn có quốc gia và các tổ chức phi chính phủ quốc tế và một số tổ chức từ thiện…
Trong nền kinh tế của một quốc gia, bên cạnh khu vực kinh tế công thì khu vực kinh tế tư nhân là một thành phần không thể thiếu được Nó, cùng với khu vực kinh tế công, sẽ là hai cánh tay đắt lực, hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình đưa nền kinh tế của một đất nước đi lên Tất nhiên trong quá trình đó, khu vực kinh tế tư nhân không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định, nhất là khi mà ở hầu hết các nước hiện nay, quá trình phát triển đa dạng các thành phần kinh tế ngày càng được mở rộng thì tất yếu nó sẽ gây ra một số trở ngại nhất định nếu như nền kinh tế không được kiểm soát một cách chặt chẽ Tuy nhiên, không thể vì thế mà chúng ta phủ nhận vai trò không kém phần quan trọng của khu vực kinh tế này.
1.3 Tiêu chí phân biệt khu vực công và khu vực tư:
Có 3 tiêu chí phân biệt giữa hai khu vực công và khu vực tư:
• Chế độ sở hữu công (tiêu chí chính)
• Nguồn vốn chính của nhà nước
• Chế độ quản lý của nhà nước: ở đây, nhà nước quản lý theo chế độ trực tiếp quản lý, hoặc chế độ công quản, giao thầu, cho tư nhân tham gia quản lý.
Trang 10Khu vực công bao gồm : các doanh nghiệp công hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và dịch vụ ,hay doanh nghiệp công tư hợp doanh với người nước ngoài…các tổ chức tài chính tín dụng công đặc biệt là ngân sách nhà nước và các ngân hàng nhà nước; các tài nguyên đất nước kể cả các khoáng sản trong lòng đất ; các kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ,các cơ sở văn hoá-xã hội công, hệ thống về tổ chức các hoạt động của bộ máy nhà nước.
2.Khái niệm về nguồn nhân lực-nguồn nhân lực chất xám:2.1 Nguồn nhân lực trong nền kinh tế tri thức:
Nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công trong việc phát triển kinh tế- xã hội của quốc gia Do vậy việc phát triển nguồn nhân lực là mối quan tâm của hầu hết các quốc gia.
Trên thực tế thuật ngữ nguồn nhân lực (human resources) xuất hiện vào những năm 80 của TK XX Trước đây, nhân viên được coi như là một lực lượng thừa hành, phụ thuộc và làm sao phải khai thác tối đa của họ với chi phí tối thiểu thì từ những năm 80 đến nay, phương thức quản lí nguồn nhân lực ngày càng mang tính chất mềm dẻo hơn, linh hoạt hơn và tạo điều kiện tốt hơn để người lao động có thể phát huy ở mức cao nhất các khả năng vốn có của họ thông qua sự tích lũy tự nhiên trong quá trình lao động phát triển.
Từ đó chúng ta thấy rằng, sự xuất hiện của thuật ngữ “nguồn nhân lực” chính là một trong những biểu hiện cụ thể nhất cho sự vượt trội của phương thức quản lí mới đối với phương thức quản lí cũ trong việc sử dụng nguồn lực con người.
2.2Một số định nghĩa khác nhau về nguồn nhân lực:
Cho đến nay vẫn còn tồn tại khá nhiều các ý kiến khác nhau xoay quanh vấn đề định nghĩa “nguồn nhân lực”:
Theo Nicholas Henry trong “Public administration and Public affairs” thì “nguồn
nhân lực” là “nguồn lực con người của những tổ chức (với quy mô, loại hình, chức năng
khác nhau) có khả năng và tiềm năng tham gia vào quá trình phát triển của tổ chức cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc qia, khu vực và thế giới” Như vậy, với định
10
Trang 11nghĩa này thì nguồn nhân lực xuất phát từ quan niệm coi nguồn nhân lực là nguồn lực được găn kết với các yếu tố cả về vật chất lẫn tinh thần tạo nên năng lực, sức mạnh để phục vục chung cho cả tổ chức.
Trong Báo cáo của liên hợp quốc đánh giá về quá trình toàn cầu hóa đối với nguồn
nhân lực thì đưa ra định nghĩa “nguồn nhân lực là trình độ lành nghề, kiến thức và năng lực có thực tế cùng với những năng lực mà tồn tại dưới dạng tiêm năng của con người”
Trong quan điểm này thì hướng tiếp cận về vấn đề nguồn nhân lực chủ yếu đề cập đến chất lượng nguồn nhân lực.
Đối với George T.Milkovich và John W.Boudreau trong “Human Resources management” thì cho rằng “nguồn nhân lực là tổng thể các yếu tố bên trong và bên ngoài
của mỗi cá nhân bảo đảm nguồn sáng tạo cùng các nội dung khác cho sự thành công, đạt được mục tiêu của tổ chức” Khái niệm này thể hiện quan điểm cần phải đòi hỏi sự kết hợp
yếu tố bên trong và bên trong và bên ngoài của mỗi cá nhân.
Như vậy tùy theo giác độ tiếp cận nghiên cứu mà mỗi người có sự nhận định khác nhau Tuy nhiên, điểm chung nhất về vấn đề nguồn nhân lực là:
• Số lượng nguồn nhân lực:
Việc phát triển nguồn nhân lực là vấn đề quan tâm hàng đầu của bất kỳ tổ chức hay quốc gia nào.Việc phát triển này dựa trên hai yếu tố :yếu tố bên trong (nhu cầu thực tế của công việc đòi hỏi sự gia tăng số lượng lao động) và yếu tố bên ngoài(sự gia tăng về dân số,vấn đề di dân…)
• Chất lượng nguồn nhân lực:
Là sự kết hợp các yếu tố như trí tuệ ,trình độ,kĩ năng, sức khỏe ,đạo đức… của người lao động.
• Cơ cấu nhân lực:
Được thể hiện thông qua nhiều phương diện khác nhau như: cơ cấu về trình độ đào tạo ,giới tính ,độ tuổi….
Trang 12Nói tóm lại, nguồn nhân lực được hiểu là sự tổng hợp các yếu tố về số lượng, chất lượng và cơ cấu phát triển lao động của mỗi tổ chức, khu vực, địa phương khu vực hay trên thế giới.
2.3Nguồn nhân lực chất xám:
Đây là định nghĩa nói về nguồn nhân lực có tri thức đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao Nhưng để hiểu rõ hơn về khái niệm này, trước hết chúng ta cần tìm hiểu “chất xám” là gì?
“Chất xám” được hiểu theo nghĩa đen là các mô thần kinh, gồm chủ yếu các thân tế
bào thần kinh và các phần liên kết, màu xám nhạt, có trong lõi của tủy sống, trong nhiều phần của não đặc biệt ở vỏ não Trong đời sống kinh tế xã hội hiện nay, chất xám còn được dùng theo nghĩa bóng, chỉ sự phát triển của trí tuệ, trình độ khoa học và kĩ thuật kết tinh trong mọi lĩnh vực hoạt động khoa học, giáo dục, văn hóa xã hội, sản xuất kinh doanh …
Vì thế, nói đến “nguồn nhân lực chất xám” là nói đến nguồn lao động được đào tạo tốt,
có trình độ kĩ thuật cao Trong đó chất lượng nguồn nhân lực được biểu hiện ở các mặt đặc trưng hay tính chất riêng của mỗi người lao động thông qua tay nghề, trình độ, tuổi tác, sức khỏe , khả năng tiếp thu, truyền đạt và thích nghi với môi trường, điều kiện, hoàn cảnh sống…
2.4 Nguồn nhân lực chất xám trong khu vực công:
Đội ngũ nguồn nhân lực chất xám luôn đóng vai trò chính và là trung tâm cho mọi sự phát triển, góp phần làm tăng trưởng trong nền kinh tế quốc gia.
Đối với khu vực công thì nguồn chất xám là các cán bộ công chức có trình độ cao, họ có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của đất nước Tuy không trực tiếp sản xuất ra sản phẩm cho xã hội nhưng họ có vai trò tổ chức các lao động khác trong xã hội Rõ ràng, khi bộ phận công chức này làm tốt nhiệm vụ của mình, thì các khu vực khác trong nền kinh tế cũng sẽ hoạt động tốt và dễ dàng hơn và ngược lại, khi nhiệm vụ của họ không được hoàn thành tốt thì sự hoạt động của các khu vực khác cũng sẽ bị ách tắt Chỉ lấy một ví dụ điển hình: một công ty cần giải quyết đơn giao hàng lớn và phải thông qua bộ phận hải
12
Trang 13quan, nếu như không được giải quyết kịp thời thì rõ ràng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh công ty này Từ đó, chúng ta cũng phần nào thấy được tầm quan trọng của lực lượng lao động chất xám ở bộ phận kinh tế nhà nước Thiếu đi bộ phận này thì hậu quả của nó đối với các khu vực kinh tế khác rõ ràng cũng không nhỏ.
3 Các lý thuyết về di chuyển nguồn nhân lực:3.1 Nguyên nhân của việc di chuyển nguồn nhân lực:
Chảy máu chất xám là một hiện tượng xảy ra thường xuyên ở các quốc gia, các vùng, lãnh thổ à thậm chí là tồn tại trong chính cả nội bộ của một quốc gia Nó là một qui luật hiển nhiên phải có của người lao động khi mà họ không được đáp ứng yêu cầu về các vấn đề như lương bổng, sức khoẻ, ưu đãi, bảo hiểm y tế, các dịch vụ an sinh xã hội, hưu trí Và ở rất nhiều trường hợp cũng như công việc hiện nay, người lao động chưa được doanh nghiệp đáp ứng và quan tâm nhiều đến các vấn đề trên Đó là động lực thúc đẩy sự ra đi của người lao động tìm đến một doanh nghiệp hoàn thiện hơn, ở đó có thể đáp ứng đầy đủ cho họ về những nhu cầu mà họ cần.
Ta có những nguyên nhân chính thúc đẩy sự di chuyển nguồn nhân lực từ nơi này đến nơi khác như sau:
• Môi trường làm việc: ở đâu môi trường làm việc tốt, thoải mái, giá trị lao động cao,
phù hợp với năng lực và trình độ của mình thì ở đó thu hút lực lượng lao động tới.• Nhân tố việc làm: nơi nào kiếm được việc làm dễ dàng thì chắc chắn lực lượng lao
động sẽ tập trung cao hơn
• Khả năng phát triển trong tương lai: nơi nào đảm bảo cho mọi người có khả năng
thăng tiến dễ dàng hơn, thuận lợi cho cuộc sống trong tương lai thì chắc chắn sẽ có luồng di chuyển nhân lực đến đây
• Thu nhập: nơi nào có mức lương và thu nhập cao, đảm bảo cho cuộc sống thì lao
động tập trung cao
• Điều kiên tự nhiên: là những nơi có điều kiện khí hậu thuận lợi, nguồn nước, cơ sở
hạ tầng, giao thông đi lại thuận tiện…
Trang 14• Phong tục tập quán-sự quản lý của địa phương: nơi nào có sự quản lý dễ dãi,
phong tục tập quán thân thiện với khách từ nơi khác đến cũng là một trong những yếu tố thu hút dòng di chuyển nhân lực đến đây nhiều.
• Nguyên nhân chủ quan xuất phát từ hai phía: doanh nghiệp và người lao động.
Doanh nghiệp: doanh nghiệp nào có môi trường làm việc thoải mái, thân thiện,
được sự quan tâm, chú ý nhiều từ cấp trên thì chắc chắn cũng sẽ thu hút một lượng lao động đến đây.
Người lao động: có một số các lý do cá nhân, gia đình, sở thích nên di chuyển
Mô hình hai khu vực của Lewis cho thấy, mức chênh lệch tiền lương thực tế là nguyên nhân dẫn đến sự dịch chuyển lao động giữa hai khu vưc và nhu cầu thu hút lao động lao động của khu vưc công nghiệp là theo khả năng tích lũy vốn của khu vực này.
3.2.2Mô hình Haris-Todaro:
Đây là mô hình đầu tiên giải thích tại sao tình trạng thất nghiệp lại tồn tại ở các nước đang phát triển và tại sao người dân từ nông thôn vẫn chuyển tới thành thị dù thất nghiệp ở thành thị vẫn cao Giả định chính của mô hình là dân di cư tiềm năng là những người là những người ra quyết định hợp lẽ và phản ứng theo những động cơ kinh tế Họ
14
Trang 15quyết định di cư do sự khác biêt về tiền lương giữa nông thôn và thành thị Khả năng tìm được việc làm ở thành thị cũng liên quan trực tiếp đến tỷ lệ việc làm ở thành thị Như vậy, vấn đề di cư ra thành thị có thể mang lại lợi ích cá nhân cho người nhập cư Nếu mức thu nhập của họ lớn hơn thu nhập thực tế ở nông thôn thì họ vẫn di cư dù cho ở thành thị đang tồn tại tỷ lệ thất nghiệp cao Xác suất tìm được việc ở thành thị tỷ lệ nghịch với tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị Lý thuyết di dân của Harris- Todaro còn cho rằng khi chênh lệch giữa hai khu vực này tương đối lớn thì tỷ lệ di dân sẽ vượt quá tốc độ tăng trưởng việc làm ở thành thị.
3.2.3Lý thuyết “Mới” về di dân:
Katz và Start (1986) giải thích quá trình di dân như là một phương thức để giảm thiểu rủi ro Tại các nước đang phát triển có sự chênh lệch lớn ở nông thôn so với thành thị, đặc biệt là thị trường vốn, do đó người dân muốn di cư ra thành thị để giảm thiểu những rủi ro do sự yếu kém của nông thôn mang lại.
Hai ông đưa ra khái niệm “sự thua thiệt tương đối” để phân tích hiện tượng di dân ở các nước đang phát triển Một người có động cơ mạnh mẽ khi di cư từ nơi này sang nơi khác sẽ nhận thấy sự thua thiệt tương đối giảm xuống và mức độ hài lòng về nơi ở mới tăng lên Động cơ sẽ không lớn nếu sự hài lòng và thua thiệt tăng lên hay giảm xuống cùng mức Di dân cũng là một cách đa dạng hóa rủi ro Khi mức thu nhập ở các vùng là khác nhau, một gia đình có thể giảm tổng rủi ro bằng cách gửi một thành viên đến một nơi khác.
3.3 Một số lí thuyết về quản lí nguồn nhân lực: 3.3.1Thuyết cấp bậc nhu cầu của Maslow:
Ở nhiều nước trên thế giới thì những biến đổi về kinh tế- chính trị- xã hội cũng như khoa học công nghệ…đã có sự tác động rất lớn đến sự nhận thức của công chức cũng như phương thức, nội dung quản lí nguồn nhân lực Bên cạnh đó hệ thống các khái niệm về giá trị cũng có nhiều thay đổi, nhu cầu cá nhân tăng lên và các yếu tố lao động ngày càng nhiều và đa dạng hơn, mối liên kết của những con người trong cơ quan, trong hệ thống công vụ cũng ngày càng trở nên phức tạp hơn Từ đó mà yếu tố con người, vai trò cá nhân
Trang 16cũng cần được quan tâm nghiên cứu một cách đúng mức hơn Bởi lẽ, công chức không chỉ đơn thuần là một chủ thể thực thi công vụ mà còn đóng nhiều vai trò khác nhau trong các hoạt động kinh tế -chính trị - xã hội, trong việc bảo đảm các quyền và nghĩa vụ công dân, phải thực hiện trách nhiệm thành viên trong từng gia đình, cộng đồng, và cũng là khách hàng, đối tượng thụ hưởng các dịch vụ công.
Mỗi cá nhân trong cơ quan tổ chức, thì lại có những quan điểm, nhận thức nhu cầu, nguyện vọng, động cơ cũng như năng lực cư xử khác nhau Vì thế, mỗi cá nhân cần được phát huy sở trường của mình, khả năng tiềm tàng, tính sáng tạo nhằm phục vụ cho lợi ích chung, lợi ích của tập thể.
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này, nổi bật nhất là thuyết về phân cấp nhu cầu của Abraham Maslow Maslow cho rằng hành vi của con người bắt nguồn từ nhu cầu và những nhu cầu của con người được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên từ thấp tới cao Theo tầm quan trọng, cấp bậc nhu cầu được sắp xếp thành năm bậc sau:
• Những nhu cầu cơ bản(nhu cầu sinh học): là những nhu cầu đẩm bảo cho con người
tồn tại như: ăn, uống, tồn tại và phát triển nòi giống và các nhu cầu khác.
• Những nhu cầu về an ninh hay an toàn: là các nhu cầu như ăn, ở, sinh sống, an toàn,
không bị đe dọa, an ninh…
• Những nhu cầu xã hội(nhu cầu liên kết và chấp nhận): là các nhu cầu về tình yêu,
bạn bè, xã hội…
• Những nhu cầu được tôn trọng: là các nhu cầu về tự trọng, tôn trọng người khác và
được người khác tôn trọng lại.
• Những nhu cầu tự thể hiện hay tự thân vận động: là các nhu cầu như chân, thiện
,mỹ ,tự chủ ,sáng tạo ,hài hước…
Maslow đã chia nhu cầu thành hai cấp bậc: cấp cao và cấp thấp.Nhua cầu cấp thấp là nhu cầu sinh học và nhu cầu an ninh / an toàn Nhu cầu cấp cao là bao gồm nhu cầu xã hội, tôn trọng, và tự thể hiện
16
Trang 17Sự khác biệt giữa hai loại này là các nhu cầu cấp thấp được thỏa mãn chủ yếu từ bên ngoài trong khi đó các nhu cầu cấp cao lại được thỏa mãn chủ yếu từ nội tại của con người Đồng thời Maslow cũng cho rằng làm thỏa mãn các nhu cầu ở cấp thấp là dễ làm hơn so với việc thỏa mãn những nhu cầu ở cấp cao vì nhu cầu ở cấp thấp là nhu cầu có giới hạn và có thể được thỏa mãn từ bên ngoài Ông còn cho rằng đầu tiên các nhu cầu ở cấp thấp hoạt động, nó đòi hỏi được thỏa mãn và như vậy nó là động lực thúc đẩy con người – nó là nhân tố động cơ Khi các nhu cầu này được thỏa mãn thì nó không còn là yếu tố động cơ nữa ,lúc đó các nhu cầu ở cấp co hơn sẽ xuất hiện Thuyết cấp bậc nhu cầu của Maslow được đánh dấu một ý nghĩa quan trọng đối với các nhà quản trị, thì điều quan trọng là bạn phải hiểu được người lao động của bạn đang ở cấp độ nhu cầu nào Từ sự hiểu biết đó cho phép bạn đưa ra các giải pháp phù hợp cho việc thỏa mãn nhu cầu của người lao động
Chúng ta có thể cụ thể hóa lý thuyết này thông qua mô hình sau:
3.3.2Thuyết về sự công bằng:
Thuyết về sự công bằng nhấn mạnh: Người lao động trong tổ chức mong muốn được đối xử một cách công bằng, họ có xu hướng so sánh những đóng góp và phần thưởng của họ với những người khác Khi so sánh đánh giá có thể có 3 trường hợp xảy ra:
Trang 18Nếu người lao động cho rằng họ được đối xử không tốt, phần thưởng là không xứng đáng với công sức họ đã bỏ ra thì họ sẽ bất mãn và từ đó họ sẽ làm việc không hết khả năng và thậm chí có thể họ sẽ bỏ việc.
Nếu người lao động tin rằng họ được đối xử đúng, phần thưởng và đãi ngộ là tương xứng với công sức họ đã bỏ ra thì họ sẽ duy trì với năng suất như cũ.
Nếu người lao động nhận thức rằng phần thưởng và đãi ngộ là cao hơn so với điều mà họ mong muốn, họ sẽ làm việc tích cực hơn, chăm chỉ hơn Song trong trường hợp này, họ có xu hướng giảm giá trị của phần thưởng.
Điều khó khăn là người lao động thường có xu hướng đánh giá cao cống hiến của mình và đánh giá cao phần thưởng mà người khác nhận được Khi đối mặt với sự không công bằng, người lao động thường có xu hướng chấp nhận, chịu đựng Song nếu họ phải đối mặt với sự không công bằng trong lâu dài thì họ sẽ bất mãn, phản ứng và thậm chí họ sẽ bỏ việc Cần phải hiểu rằng sẽ có sự công bằng tuyệt đối Công bằng ở đây không phải người lao động nhận được bao nhiêu mà là công bằng nhận thức Thuyết về sự công bằng đòi hỏi các nhà lãnh đạo các nhà quản phải quan tâm tới nhân tố chi phối tới nhận thức của người lao động về sự công bằng.
3.3.3Thuyết hai nhân tố của Herzberg:
Lý thuyết thang nhu cầu của Maslow đã được Herzberg tiếp cận và xây dựng lý thuyết hai yếu tố Herzberg đã phát triển thuyết động viên của ông ta bằng cách đề nghị các chuyên gia làm trong các xí nghiệp công nghiệp liệt kê các nhân tố làm họ thỏa mãn và các nhân tố làm cho họ được động viên cao độ Đồng thời cũng yêu cầu họ liệt kê các nhân tố mà họ không được động viên và bất mãn Phát hiện của Herzberg đã tạo ra một sự ngạc nhiên vì nó làm đảo lộn nhận thức thông thường của chúng ta Herzberg cho rằng có một số nhân tố liên quan tới sự thõa mãn đối với công tác, còn được gọi là nhân tố động viên, và các nhân tố này là khác biệt với các nhân tố liên quan tới sự bất mãn – còn được gọi là nhân tố duy trì hay nhân tố lưỡng tính Đối với các nhân tố động viên nếu giải quyết tốt sẽ tạo ra sự thỏa mãn và từ đó sẽ động viên người lao động làm việc tích cực và chăm chỉ hơn Nhưng nếu giải quyết không tốt thì tạo ra tình trạng không thỏa mãn chứ chưa chắc đã
18
Trang 19bất mãn Trong khi đó đối với nhân tố duy trì, nếu giải quyết không tốt sẽ tạo ra sự bất mãn, nhưng nếu giải quyết tốt thì tạo ra tình trạng không bất mãn chứ chưa chắc là thỏa mãn.
Mô hình được cụ thể hóa như sau:
Hình: So sánh sự phân cấp nhu cầu của Maslow và thuyết hai yếu tố của Herzberg
NHU CẦU TỰ THÂN VẬN ĐỘNG
NHU CẦU VỀ SỰ TÔN TRỌNG
NHU CẦU LIÊN KẾT & CHẤP NHẬN
NHU CẦU AN NINH /AN TOÀN
Công việc thử thách Thành tích
Trách nhiệm
Trưởng thành trong công việc
Sự tiến bộ Địa vị
Lý thuyết thang nhu
cầu của MASLOWLý thuyết hai yếu tố của HERZBERG
Trang 20Thuyết của Herzberg có ý nghĩa rất quan trọng đối với các nhà quản trị trên các phương diện sau:
• Những nhân tố làm thỏa mãn người lao động là khác với các nhân tố tạo ra sự bất mãn Vì vậy, bạn không thể mong đợi sự thỏa mãn của người lao động bằng cách đơn giửn là xóa bỏ các nguyên nhân gây ra sự bất mãn.
• Việc động viên nhân viên đòi hỏi phải giải quyết thỏa đáng, đồng thời cả hai nhóm nhân tố duy trì và động viên ,không thể chú trọng một nhóm nào cả.
3.3.4Mô hình động cơ thúc đẩy của Porter và Lawler:
Mô hình này cho chúng ta thấy rằng toàn bộ sự cố gắng hay sức mạnh của động cơ thúc đẩy tùy thuộc vào giá trị của phần thưởng và xác suất hay khả năng nhận được phần thưởng đó Tiếp đó kết quả thực hiện nhiệm vụ được xác định ở động cơ thúc đẩy, khả năng làm việc của con người và sự tiếp nhận nhiêm vụ cần thiết Sự thực hiện tốt nhiệm vụ sẽ dẫn đến phân thưởng nội tại và phần thưởng bên ngoài(điều kiện làm việc, địa vị) Những phần thưởng này cùng với phần thưởng hợp lý theo nhận thức sẽ dẫn đến sự thỏa mãn Như vậy sự thỏa mãn hay sự hài lòng chính là kết quả tổng hợp của nhiều phần thưởng.
Gíá trị các phần thưởng
Phần thưởng hợp lý theo nhận thứcPhần thưởng
nội tạiKhả năng thực
hiện nhiệm vụ
Kết quả thực hiện nhiệm vụNhận thức về
nhiệm vụ cần thiếtPhần thưởng bên ngoài
Khả năng được nhận thưởng
Động cơ thúc
Sự thỏa mãn
Trang 214.Vấn đề di chuyển chất xám từ khu vực công sang khu vực tư:
Trong xã hội phân tầng mở, sự di động xã hội thường xuyên diễn ra mà một trong số đó là di động theo hướng từ nơi có thu nhập thấp sang nơi có thu nhập cao.Và trong quá trình đó có một hiện tượng đang tồn tại đó là di chuyển của những người lao động có trình độ, có tay nghề cao từ nơi này sang nơi khác (từ doanh nghiệp này, vùng này, nước này sang doanh nghiệp khác, vùng khác, nước khác) thường được gọi là “chảy máu chất xám” Ở hầu hết mọi nơi trên thế giới, hiện tượng “chảy máu chất xám” (từ nước này sang nước khác) là một hiện tượng được nhiều người, trong chính quyền cũng như ngoài xã hội, đặc biệt quan tâm Ngay các quốc gia tiền tiến Tây Âu và Canada thỉnh thoảng cũng bộc lộ nhiều lo lắng về chất xám của họ di cư sang Mỹ Và chính ở Mỹ, trong vài năm gần đây, do hậu quả những luật lệ cấm đoán một số đề tài nghiên cứu sinh y học tại nước này, cũng bị thất thoát nhiều khoa học gia sang Anh Tuy nhiên, đó chỉ là một phần của sự di chuyển chất xám hiện nay, là sự di chuyển chất xám trên phạm vi quốc tế, từ quốc gia này sang quốc gia khác Bên cạnh đó, trong phạm vi nội bộ của một quốc gia vẫn còn tồn tại một số hình thức di chuyển chất xám rất phổ biến như di chuyển từ ngành này sang ngành khác, từ khu vực này sang khu vực khác… mà trong đó có một hiện tượng nổi bật hơn cả ở một số nước đang trong quá trình thực hiện đổi mới kinh tế hiện nay đó chính là sự di chuyển chất xám từ khu vực công sang khu vực tư.
Tình trạng những nhân viên có năng lực và trình độ cao thường “nhảy” sang những nơi có lương cao hơn, chế độ đãi ngộ tốt hơn hiện nay không chỉ xảy ra ở những ngành, lĩnh vực thiếu nhân lực như ngân hàng, chứng khoán, điện lực mà đang trở thành “vấn nạn”, làm đau đầu hầu hết các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước Đây là một hiện tượng bình thường và ngày càng xảy ra thường xuyên hơn trong thị trường lao động Nền kinh tế càng phát triển, hiện tượng này càng phổ biến và thực ra là một điều kiện không thể thiếu của sự phát triển lành mạnh “Chảy máu chất xám” làm các doanh nghiệp đang phải trả giá rất cao để thực hiện các giải pháp thu hút nhân tài, khiến giá của thị trường lao động tăng đột biến Hiện tượng này tất yếu sẽ xảy ra đối với các doanh nghiệp không đủ bản lĩnh và chiến lược để giữ những nhân tài của mình Đội ngũ lao động
Trang 22tri thức là những người có tính năng động rất cao Họ làm gì, ở đâu, làm thế nào, phần lớn là do quyết định của họ Người sử dụng lao động cần họ hơn là ngược lại.
Đối với nhiều người hiện nay thì cái gọi là “chảy máu chất xám” không là một vấn đề cần quan ngại, chẳng phải chỉ vì lý luận của những người cho nó “xấu” là sai, nhưng còn vì một số lý do tích cực khác.
Một là, trên bình diện kinh tế khách quan, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện
nay, thì những luồng chảy chất xám chỉ là một cục diện của những giao lưu kinh tế thế giới: các “đầu vào” (inputs) luôn có khuynh hướng “chảy” từ những công nghiệp, những địa phương có thu hoạch thấp đến những công nghiệp, những địa phương có thu hoạch cao Theo kinh tế học tân cổ điển thuần tuý, những dòng chảy này càng thông thoáng thì tài nguyên nhân loại càng được phân bố hợp lý, đưa vào những sử dụng có hiệu năng tương đối cao nhất Nói cách khác, sự di cư chất xám chỉ là hậu quả của quy luật kinh tế, không có gì đáng quan ngại, cần ngăn trở.
Hai là, nhìn từ quan điểm người sở hữu chất xám thì sự di cư từ một quốc gia kém
phát triển, thậm chí có thể đang trong bom đạn chiến tranh, đến một quốc gia tiền tiến, an bình, có mức sống cao, rõ ràng là tăng phúc lợi cho bản thân và gia đình họ, và qua kiều hối, đóng góp cho quốc gia gốc Sự di cư đó là một phần của tự do, dân chủ, quyền căn bản của con người Và bên cạnh đó, tất nhiên sự di chuyển chất xám từ khu vực công sang khu vực tư cũng là một điểu hết sức hiển nhiên và cũng thể hiện sự tự do, dân chủ, quyền căn bản của con người.
Song, cũng chính lý thuyết này, nếu đi sâu hơn, sẽ nêu ra hai dè dặt Thứ nhất, khi
toàn bộ cơ cấu kinh tế còn nhiều “méo mó” (distortions) − chẳng hạn khi còn những công nghiệp độc quyền − thì sự hoàn thiện hơn ở một mảnh nhỏ thị trường (ví dụ như lao động) không phải bao giờ cũng tăng mức độ hoàn mỹ của toàn bộ kinh tế Đó là định lý “cái tốt bật nhì" (second-best theorem) nổi tiếng trong kinh tế học hiện đại
Thứ hai, lao động nhiều chất xám là một thứ lao động đặc biệt, không giống những
lao động tầm tầm khác, bởi vì nó gây những lợi ích ngoại vi, không phản ảnh hết trong thu
22
Trang 23nhập của cá thể lao động chất xám ấy Thế nên sự di chuyển của nó theo những tín hiệu lợi hại nhìn từ cá thể sẽ không chắc ăn khớp với những lợi hại cộng đồng Nói lý thuyết hơn thì hiện tượng này thuộc phạm trù lý thuyết về ngoại ứng (externalities) Theo lý thuyết này (mà người khai sáng là Ronald Coase, Nobel 1991) thì sự sản xuất hoặc tiêu dùng một sản phẩm hay dịch vụ có thể ảnh hưởng đến những người chung quanh (tốt hoặc xấu) ngoài tác dụng (lợi hoặc hại) cho chính người mua hoặc bán những sản phẩm hay dịch vụ đó Nói cách khác, có sự chênh lệch giữa lợi ích (hoặc phí tổn) cá thể và lợi ích (hoặc
phí tổn) cộng đồng Và đối với những loại sản phẩm và dịch vụ có ngoại ứng như thế thì
cơ cấu thị truờng thuần tuý sẽ không đem đến sự phân bố tối ưu.
Thứ ba, nhìn từ quan điểm cá nhân, mỗi người đều cư xử hợp lý khi phản ứng theo
những tín hiệu thị trường: dời đến nơi nào, làm công việc gì, cũng là để tối đa hóa thu nhập vật chất và tinh thần của người ấy Tuy nhiên, để giải bài toán “tối ưu hoá” đó cho thật đúng, người quyết định cần ý thức rằng hành động của mình có thể (dù rất gián tiếp và vô tình) tăng thêm những chênh lệch bất công giữa các quốc gia, cũng như giữa các tầng lớp xã hội trong một quốc gia, nhất là sự phân hoá giàu nghèo trong nội bộ của một quốc gia.
Để giải thích điều này, nên thử hỏi tại sao có sự chênh lệch quá lớn về lương bổng giữa người làm việc cho các công ty thuộc khu vực công và các công ty thuộc khu vực tư, giữa những người chọn công ty tư nhân với cán bộ, công chức Theo lý thuyết kinh tế tân cổ điển, lương lao động (nói rộng hơn là tiền bù trả cho mọi loại đầu vào) là tuỳ thuộc vào hai yếu tố chính: (1) năng xuất biên tế lao động (marginal labor productivity) và (2) giá trị thu nhập biên tế (marginal revenue) Yếu tố thứ nhất giải thích một phần sự chênh lệch lương bổng là phản ảnh khả năng cao của những người làm việc cho các công ty ngoại quốc hay các công ty tư nhân: ngoại ngữ họ thành thạo hơn, khả năng vi tính của họ tốt hơn, phong cách giao tiếp của họ năng động hơn, v.v…Song yếu tố thứ hai nhắc ta nhớ rằng một phần sự chênh lệch lương bổng là hậu quả của thế lực thị trường của các công ty ngoại quốc cũng như của các công ty tư nhân Như vậy, phải chăng khi nhận được đồng lương cao hơn ở các công ty tư nhân, người sở hữu chất xám đang vô tình đóng góp phần nào vào sự bốc lột bất công trong xã hội trong nước Như vậy, rõ ràng khi tình trạng di
Trang 24chuyển chất xám từ khu vực công sang khu vực tư diễn ra quá nhiều và ồ ạt không kiểm soát được thì chắc chắn sẽ gây ra nhiều bất cập không nhỏ chứ không đơn thuần như nhiều người vẫn nghĩ và trên thực tế vấn đề này cần phải được xem xét một cách kỹ lưỡng.
5 Kinh nghiệm của một số nước trong việc giải quyết tình trạng chảy máu chất xám từ khu vực công sang khu vực tư:
5.1Nhật bản
Trong số các nước công nghiệp phát triển hiện nay, Nhật bản là nước có mức tăng năng suất cao xét cả từ khía cạnh các con số tính toán tuyệt đối lẫn từ phía so sánh với GDP Trong số những yếu tố quan trọng nhất làm nên thành tựu này, người ta thường nhấn mạnh tỷ lệ toàn dụng lao động cao, cả khi so sánh với các nước phát triển ở Châu Âu Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự thành công này Trong đó phải kể đến hàng loạt các chính sách, biện pháp đã được Chính phủ và các doanh nghiệp ở nhật bản áp dụng một cách nhất quán trong nhiều năm qua như: sự tham gia chủ động của khu vực kinh tế tư nhân vào việc phát triển nguồn lực, sử dụng có hiệu quả các công cụ khuyến khích lao động…
Một đặc điểm đáng chú ý: Nhật bản thực hiện chế độ tuyển dụng lao động suốt đời và chế độ trả công theo thâm niên công tác.Tuy nhiên điều khác biệt của chế độ tuyển dụng suốt đời ở Nhật bản so với ở một số nước khác ( thí dụ: ở Trung Quốc và Việt Nam trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung) là ở chỗ các công ty Nhật Bản đã thành công trong việc xây dựng và duy trì lòng trung thành tuyệt đối của công nhân đối với công ty nơi mình lam việc.
Bài học rất đáng chú ý khác của Nhật Bản là việc phát huy vai trò của các tổ chức công đoàn trong việc hợp tác với giới chủ và Chính phủ để giải quyết các vấn đề nảy sinh trên thị trường lao động Khác với các tổ chức công đoàn ở một số nước phương Tây, Tổ chức công đoàn của Nhật Bản thường được thành lập trong phạm vi một doanh nghiệp Đặc biệt hơn nữa, công đoàn của người lao động Nhật Bản không có thái độ đối đầu với giới chủ Ngược lại công đoàn và giới chủ thường có thái độ hợp tác Ngoài ra, các công
24
Trang 25đoàn còn có nhiều đóng góp trong việc giới thiệu, hướng dẫn áp dụng cộng nghệ, trang thiết bị mới
5.2 Thuỵ Điển:
Đặc điểm cơ bản của thị trường lao động ở đây là: có sự bảo trợ cao từ phía Nhà Nước Thuỵ điển có bộ máy quản lí thị trường lao động được thiết lập từ trên xuống dưới có 1 hệ thống các cơ quan quản lí thị trường từ cấp trung ương đến địa phương.
Bài học đáng chú ý khác có thể rút ra những kinh nghiệm của Thuỵ điển là việc nước này đã rất chú trọng việc đa dạng hoá chính sách thị trường lao động : từ chính sách khơi dậy tiềm năng và các nỗ lực cá nhân của người lao động như chính sách đào tạo và đào tạo lại kỹ năng, chính sách hỗ trợ khởi sự doanh nghiệp, đến các chính sách hỗ trợ đối với chủ sử dụng lao động để họ tạo ra nhiều việc làm cho người lao động như chính sách trợ cấp chi phí lương…
5.3 Niu Di lân:
Có sự giảm bớt điều tiết từ phía Nhà nước và tự do hoá đối với thị trường lao động: từ đầu thập kỷ 1990, cùng với việc sửa đổi Luật về hợp đồng lao động, Niu Di lân đã di chuyển từ việc thoả thuận hợp đồng lao động ở cấp doanh nghiệp sang chế độ thoả thuận trực tiếp giữa người lao động và người sử dung lao động Điều này cho phếp hai bên ký kết hợp đồng lao động tính đến các đặc thù và nguyện vọng của mỗi bên, người lao động có nhiều sự lựa chọn hơn…
5.4 Trung Quốc:
Một vấn đề nan giải là: sự mất cân bằng về cung và cầu lao đông Thêm vào đó hiện có khoảng từ 6 đến 9 triệu lao động dôi dư từ các doanh nghiệp nhà nước có nhu cầu về việc làm Lao động thiếu việc làm ở nông thôn vào khoảng 150 triệu người.
Đầu thập kỷ 1980, Trung Quốc thực hiện một số cải cách: đầu tiên là cải cách chế độ hưu trí (bảo hiểm hưu trí do nhà nước, doanh nghiệp, cá nhân cùng chịu trách nhiệm đống góp,
Trang 26hiện nay người lao động ở hầu hết các khu vực, kể cả khu vực ngoài quốc doanh đều có quyền tham gia hệ thống bảo hiểm này Để huy động nguồn tài chính cho các hoạt động bảo hiểmvà duy trì hệ thống an sinh xã hội, trước đây nhà nước và doanh nghiệp chịu trách nhiệm đống góp chính, ngày nay, người lao động cũng phái đóng góp nếu muốn được hướng các phúc lợi.
TRIỂN KINH TẾ- HIỆN TƯỢNG DI CHUYỂN CHẤT XÁM TỪ KHU VỰC CÔNG SANG KHU VỰC TƯ HIỆN NAY VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ
26
Trang 271 Khái quát về quá trình phát triền kinh tế:1.1 Tăng trưởng và phát triển kinh tế:
1.1.1Tăng trưởng kinh tế:a Khái niệm:
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng tổng sản phẩm xã hội (tính toàn bộ hay tính bình quân đầu người) trong một thời gian nhất định Trong đó, sản lượng bình quân đầu người lại phụ thuộc vào quy mô sản lượng và dân số của quốc gia Nếu sản lượng tăng nhưng quy mô dân số tăng nhanh hơn sẽ dẫn đến sản lượng bình quân giảm Do đó, bản chất của tăng trưởng kinh tế là phải đảm bảo sự gia tăng cả quy mô sản lượng và sản lượng bình quân đầu người Sản lượng bình quân đầu người còn phản ánh thu nhập trung bình của dân cư một quốc gia Cho nên, gia tăng sản lượng bình quân trên đầu người sẽ tạo tác động cải thiện mức sống dân cư.
Tăng trưởng kinh tế là sự mở rộng sản lượng bởi một sự gia tăng các hoạt động kinh tế sử dụng các công nghệ sản xuất hiện có.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng giá trị sản lượng hàng hóa và dịch vụ của một nước trong một thời điểm nào đó trong điều kiện có công ăn việc làm đầy đủ.
Như vậy, bản chất của tăng trưởng kinh tế là phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế Ngày nay yêu cầu tăng trưởng kinh tế được gắn liền với tính bền vững hay sự gia tăng liên tục, có hiệu quả của chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người Hơn thế nữa, quá trình ấy phải được tạo nên bởi nhân tố đóng vai trò quyết định là khoa học, công nghệ và vốn, nhân lực trong điều kiện cơ cấu kinh tế hợp lý.
b Các đặc điểm của tăng trưởng kinh tế hiện đại:
• Tốc độ tăng nhanh về năng suất.
• Tốc độ tăng nhanh về thu nhập đầu người và dân số.
• Tốc độ chuyển đổi cơ cấu nhanh.
Trang 28• Tốc độ chuyển đổi nhanh về hệ tư tưởng và xã hội.
• Sự vươn ra thế giới về mặt kinh tế.
• Sự lan tràn có giới hạn của tăng trưởng kinh tế.
1.1.2Phát triển kinh tế
Phát triển là nâng cao phúc lợi của nhân dân Nâng cao tiêu chuẩn sống và bình đẵng về cơ hội phát triển là tất cả những thành phần cơ bản của phát triển kinh tế Bảo đảm các quyền chính trị và công dân là mục tiêu phát triển rộng hơn ( Báo cáo NHTG, 1992)
“Phát triển là quá trình một xã hội đạt đến thỏa mãn các nhu cấu mà xã hội ấy cho là cơ bản.” (Gerad Grilet)
“Phát triển kinh tế là một quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời gian nhất định Trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô sản lượng và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế xã hội” (M.Gillis)
Hiện nay, mọi quốc gia đều phấn đấu vì mục tiêu phát triển và trải qua thời gian, khái niệm về phát triển cũng đã được thống nhất Phát triển kinh tế được hiểu là quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế Phát triển kinh tế được xem như là quá trình biến đổi cả về lượng và về chất, nó là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện của hai vấn đề kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia Theo cách hiểu như vậy phát triển phải là một quá trình lâu dài và do các nhân tố nội tại của nền kinh tế quyết định, Nội dung của phát triển kinh tế được khái quát qua ba tiêu thức: Một là sự gia tăng tổng mức thu nhập của nền kinh tế và mức gia tăng thu nhập bình quân đầu người Đây là tiêu thức thể hiện quá trình biến đổi về lượng của nền kinh tế, là điều kiện cần để nâng cao mức sống vật chất của một quốc gia và thực hiện các mục tiêu khác của phát triển Hai là sự biến đổi theo đúng xu thế của cơ cấu kinh tế Đây là tiêu thức thể hiện sự biến đổi về chất của một nền kinh tế hay một quốc gia Để phân biệt các giai đoạn phát triển kinh tế hay so sánh trình độ phát triển kinh tế giữa các nước với nhau, người ta thường dựa vào dấu hiệu về dạng cơ cấu ngành kinh tế mà quốc gia đạt được Ba là, sự biến đổi ngày càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội Mục
28
Trang 29tiêu cuối cùng của sự phát triển kinh tế của một quốc gia không phải là sự tăng trưởng hay chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mà là việc xóa bỏ nghèo đói, suy dinh dưỡng, sự tăng lên của tuổi thọ bình quân, khả năng tiếp cận đến các dịch vụ y tế, nước sạch, trình độ dân trí, giáo dục của quảng đại quần chúng nhân dân Hoàn thiện các tiêu chí trên là sự biến đổi về chất xã hội của quá trình phát triển.
1.1.3Quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển kinh tế:
Nói đến tăng trưởng kinh tế người ta thường liên tưởng đến việc gia tăng về số lượng các chỉ tiêu kinh tế Chẳng hạn như các chỉ tiêu về GDP, GNP, cán cân thương mại, sản lượng sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, Còn đề cập đến vấn đề phát triển kinh tế, ngoài các chỉ tiêu về số lượng người ta còn quan tâm đến các chỉ tiêu về chất lượng như: công bằng xã hội, khoảng cách giàu nghèo, trình độ dân trí, dịch vụ công ích, Tăng trưởng kinh tế chưa chắc đã là phát triển kinh tế Ngược lại phát triển kinh tế là đã bao hàm cả tăng trưởng kinh tế Tăng trưởng kinh tế là ngoại diện Còn phát triển kinh tế là nội hàm.
Phát triển kinh tế là một quá trình hoàn thiện về mọi mặt của nền kinh tế bao gồm kinh tế, xã hội, môi trường, thể chế trong một thời gian nhất định nhằm đảm bảo rằng GDP cao hơn đồng nghĩa với mức độ hạnh phúc hơn.Chỉ khi tăng trưởng kinh tế tích lũy được đến một lượng nhất định sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất khi đó người ta xem như là phát triển kinh tế.
Điều này tuân theo quy luật vận động của sự phát triển.tăng trưởng và phát triển luôn đi song song với nhau hoặc cũng có thể nói chúng phụ thuộc vào nhau nhờ có tăng trưởng mà mới phát triển hoặc nhờ phát triển mới tăng trưởng dễ dàng Nhưng cả hai cái đều đề cập chung đến vấn đề kinh tế đang bùng nổ, lớn mạnh Có thể nói tăng trưởng cũng là phát triển.
Tuy nhiên, tăng trưởng và phát triển luôn đi song song với nhau Hoặc cũng có thể nói chúng phụ thuộc vào nhau Nhờ có tăng trưởng mà mới phát triển hoặc nhờ phát triển
Trang 30mới tăng trưởng dễ dàng Nhưng cả hai cái đều đề cập chung đến vấn đề kinh tế đang bùng nổ, lớn mạnh Có thể nói tăng trưởng cũng là phát triển.
Ở Việt Nam, chúng ta đang trong quá trình tích lũy về lượng, nên chưa thấy nói nhiều đến từ "phát triển kinh tế" mà thường chỉ nói đến "tăng trưởng kinh tế" mà thôi.
1.2 Các chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng và phát triển kinh tế:1.2.1Các chỉ tiêu đo lường tăng trưởng kinh tế:
a Các chỉ tiêu thống kê:
• Quy mô của một nền kinh tế thể hiện bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc
tổng sản phẩm quốc gia (GNP), hoặc tổng sản phẩm bình quân đầu người hoặc
thu nhập bình quân đầu người (Per Capita Income, PCI).
• Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Products, GDP) hay tổng sản sản
phẩm trong nước là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được sản xuất, tạo ra trong phạm vi một nền kinh tế trong một thời gian nhất định (thường là một năm tài chính).
• Tổng sản phẩm quốc gia (Gross National Products, GNP) là giá trị tính
bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được tạo ra bởi công dân một nước trong một thời gian nhất định (thường là một năm) Tổng sản phẩm quốc dân bằng tổng sản phẩm quốc nội cộng với thu nhập ròng.
• Tổng sản phẩm bình quân đầu người là tổng sản phẩm quốc nội chia cho
dân số Tổng thu nhập bình quân đầu người là tổng sản phẩm quốc gia chia cho dân số.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của GDP hoặc GNP hoặc thu nhập bình quân đầu người trong một thời gian nhất định Tăng trưởng kinh tế thể hiện sự thay đổi về lượng của nền kinh tế Tuy vậy ở một số quốc gia, mức độ bất bình đẳng kinh tế tương đối cao nên
30
Trang 31mặc dù thu nhập bình quân đầu người cao nhưng nhiều người dân vẫn sống trong tình trạng nghèo khổ.
y =(−1)×100%/
c Công thức đo lường tăng trưởng kinh tế
Để đo lường tăng trưởng kinh tế có thể dùng mức tăng trưởng tuyệt đối, tốc độ tăng trưởng kinh tế hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong một giai đoạn.Mức tăng trưởng tuyệt đối là mức chênh lệch quy mô kinh tế giữa hai kỳ cần so sánh.Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy mô kinh tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế kỳ trước Tốc độ tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %.
Biểu diễn bằng toán học, sẽ có công thức:
= − ×100%
y = dY/Y × 100(%),
Trang 321.2.2Các chỉ tiêu phản ánh phát triển kinh tế:
a Nhóm chỉ tiêu phản ánh tăng trưởng kinh tế
• Quy mô sản lượng quốc gia : GDP, GNP
• Thu nhập bình quân đầu người ( PCI)
• Tốc độ tăng trưởng về sản lượng, thu nhập bình quân đầu người.
b Nhóm chỉ tiêu phản ánh những sự thay đổi cơ cấu kinh tế
• Chỉ số cơ cấu ngành: Thể hiện cả mặt định tính và định lượng Mặt định
lượng chính là quy mô và tỷ trọng chiếm về GDP, lao động, vốn của mỗi ngành trong tổng thể kinh tế quốc dân Mặt định tính thể hiện vị trí và tầm quan trọng của mỗi ngành trong hệ thống kinh tế quốc dân Các nước đang phát triển có xuất phát điểm thấp, nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp, tỷ trọng nông nghiệp của các nước này chiếm từ 20% đến 30% GDP Trong khi đó ở các nước đang phát triển, tỷ trọng thu nhập từ nông nghiệp chỉ chiếm từ 1%-7%.
32
Trang 33• Chỉ tiêu cơ cấu nông thôn thành thị: Sự phát triển kinh tế được thể hiện ở
cơ cấu vùng kinh tế theo góc độ thành thị và nông thôn Ở các nước đang phát triển, kinh tế nông thôn chiếm tỷ trọng rất cao Theo số liệu của WB, vào cuối thập niên 90 của thế kỉ trước, 45 nước có mức thu nhập thấp, tỉ trọng dân số nông thôn chiếm 72%, còn 63 nước có mức thu nhập tiếp theo, con số này là 65% Trong khi đó, các nước phát triển có hiện tượng đối ngược lại, 80% dân số sống ở khu vực thành thị.
Một xu hướng khá phổ biến ở các nước đang phát triển là luôn có một dong di cư từ nông thôn ra thành thị Đó là kết quả của cả lực đẩy ra khỏi khu vực nông thôn bởi sự nghèo khổ cũng như sự thiếu thốn đất đai ngày càng nhiều và cả lực hút từ sự hấp dẫn của khu vực thành thị Dòng di dân ngày càng lớn đã tạo ra áp lực rất mạnh đối với Chính phủ các nước đang phát triển Mặt khác việc thực hiện các chính sách công nghiệp hóa nông thôn, đô thị hoá, phát triển hệ thống công nghiệp, dịch vụ nông thôn làm cho tỉ trọng kinh tế thành thị ở các nước đang phát triển ngày càng tăng lên, tốc độ dân số thành thị cao hơn so với tốc độ tăng trưởng dân số chung và đó chính là xu thế hợp lý cho quá trình phát triển.
• Chỉ số cơ cấu ngoại thương: Các nước đang phát triển thường xuất khẩu
sản phẩm thô như: nguyên liệu, nông sản, thực phẩm hay các sản phẩm thuộc các ngành dệt, may, công nghiệp nhẹ còn các nước phát triển thường xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm đã qua chế biến, các hàng hóa vốn hay những hàng hóa lâu bền Cơ sở lý giải cho xu hướng này chính là lý thuyết về lợi thế so sánh Theo đó, các nước sẽ chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu các hàng hóa mà nước đó có lợi thế tương đối về chi phí sản xuất các mặt hàng đó Các nước đang phát triển trong khi xuất khẩu sản phẩm thô với giá trị thấp nhưng lại phải nhập khẩu một số lượng lớn cả hàng hóa và nguyên liệu đầu vào, hàng hóa vốn cũng như hàng hóa tiêu dùng cuối cùng Kết quả là ở các nước này luôn phải chấp nhận tình trạng thâm hụt thương mại quốc tế Tuy vậy, theo xu hướng phát triển của mỗi nước, nền kinh tế có xu hướng
Trang 34mở ngày càng đa dạng, mức độ thâm hụt thương mại quốc tế ngày càng giảm đi theo xu thế giảm dần tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa thô, hàng hóa có dung lượng lao động cao và tăng dần các hàng hóa có giá trị kinh tế lớn.
c Nhóm chỉ tiêu phản ánh tiến bộ về mặt xã hội.
Một số chỉ tiêu phản ánh nhu cầu cơ bản của con người.
• Tuổi thọ: tuổi thọ của dân cư phản ánh kết quả cuối cùng của tiến bộ xã hội như
môi trường sống, chăm sóc sức khỏe, thu nhập, điều kiện lao động tác động đến đời sống dân cư Để phản ánh tuổi thọ dân cư, các chỉ tiêu được áp dụng: tuổi thọ trung bình của dân cư và chỉ số tuổi thọ Gắn với quá trình phát triển kinh tế, các chỉ tiêu trên phải được cải thiện theo thời gian
Chỉ số tuổi thọ:
Trong đó:
Lf: tuổi thọ trung bình của quốc gia được đánh giá
Lm: Tuổi thọ trung bình của quốc gia được xếp hạng thấp nhất trên thế giới.LM: Tuổi thọ trung bình của quốc gia được xếp hạng cao nhất trên thế giới.
• Giáo dục: Phản ánh trình độ giáo dục và dân trí của một quốc gia, các chỉ tiêu
được sử dụng: Tỷ lệ người lớn biết chữ ( Tỉ lệ dân số 15t trở lên biết chữ), tỉ lệ dân số đi học phổ thông đúng độ tuổi (tỉ lệ dân số 6-17t đi học phổ thông), chỉ số giáo dục.
Chỉ số giáo dục:
Pe: tỉ lệ người lớn biết chữ.
32PePaEI = +
Trang 35Pa: tỉ lệ dân số đi học phổ thông đúng độ tuổi.
• Thu nhập: Nhu cầu mức sống vật chất thể hiện ở nhu cầu hấp thụ lượng calori
tối thiểu bình quân trên một ngày của mỗi người (2100-2300 calori) đảm bảo khả năng sống và làm việc bình thường Để đảm bảo nhu cầu này, con người cần một khoảng thu nhập nhất định để chi tiêu cho lương thực, thực phẩm Do đó, để phản ánh mức thu nhập trên, các chỉ tiêu được sử dụng: Tổng sản phẩm quốc dân tính trên đầu người và chỉ số thu nhập.
Chỉ số thu nhập
Y: GNP/người của quốc gia được đánh giá
Ymin: GNP/người của quốc gia được xếp hạng thấp nhất trên thế giới Ymax: GNP/người của quốc gia được xếp hạng cao nhất trên thế giới.
• Chỉ số phát triển con người: Chỉ tiêu này phản ánh toàn diện mức hưởng thụ
của dân cư đối với ảnh hưởng của tăng trưởng và phát triển kinh tế về cả 3 khía cạnh : Thu nhập, sức khỏe, giáo dục.
Tiêu chuẩn đánh giá:
Theo tổ chức phát triển nhân lực của Liên hiệp quốc, trình độ HDI của thế giới được chia làm 3 nhóm:
- Nhóm quốc gia có HDI thấp : HDI < 0.5
- Nhóm quốc gia có HDI trung bình :0.5≤ HDI ≤0.8
- Nhóm quốc gia có HDI cao : HDI > 0.8
d Nhóm chỉ tiêu phản ánh bảo vệ môi trường:
Các chỉ tiêu được sử dụng bao gồm:
HDI = ++
Trang 36- Mức độ ô nhiễm môi trường ≤ tiêu chuẩn quy định
- Lượng sử dụng tài nguyên≤ lượng khôi phục, chế tạo.
2.Ảnh hưởng của khu vực công và khu vực tư đối với quá trình phát triển kinh tế:
2.1Khu vực công:
2.1.1Vai trò của khu vực công:
Với khái niệm đã được giải thích rõ ràng ở phần cơ sở lý luận phía trên, chúng ta biết được “khu vực công” chính là thuật ngữ chỉ chung cho khu vực “kinh tế nhà nước” Từ xưa đến nay, nền kinh tế nhà nước-kinh tế công luôn là một thành phần kinh tế vô cùng quan trọng ở bất cứ một quốc gia nào Nó tạo ra một lượng lớn của cải vật chất phục vụ cho xã hội đặc biệt là các sản phẩm mang tính chất công cộng và dịch vụ như đường sá, cơ sở hạ tầng, các công trình giao thông công cộng, giáo dục, y tế… mà ở các thành phần kinh tế khác không hoặc rất hiếm khi tham gia vào quá trình sản xuất hay tạo ra Đó là một bộ phận kinh tế mà tùy theo mỗi quốc gia khác nhau, nó sẽ chiểm một tỉ trọng khác nhau Tuy nhiên, có một thực tế cho thấy rằng, ở hầu hết các nước, tỉ trọng đóng góp của khu vực công là tương đối cao Theo thống kê thì khoảng 12% các hoạt động kinh tế của các nước phát triển ở phương Tây là thuộc khu vực công Trước đây, ở các nước xã hội chủ nghĩa, khu vực công là thành phần kinh tế chiếm tỉ trọng lớn nhất trong khi ở các nước có nền kinh tế hỗn hợp như Pháp, Ấn Độ, Indonesia, Brazil thì thành phần kinh tế này chiếm hơn ¼ Trong khi đó ở 24 nước công nghiệp hóa OECD thì thành phần này chiếm ít hơn 1/6(tính tới tháng 12-1995).
Rõ ràng, không phải vô cớ mà khu vực công lại là một thành phần kinh tế vô cùng quan trọng và không thể thiếu được trong nền kinh tế của bất kỳ một nước nào Chỉ cần lấy
36