1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Luận văn thạc sĩ luật học thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn thành phố quảng ngãi, tỉnh quảng ngãi

113 35 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 113
Dung lượng 1,51 MB

Nội dung

Tuy nhiên, trong công cuộc đẩy mạnh cải cách tư pháp, phát huy dân chủ, xuất phát từ vai trò và ý nghĩa quan trọng của công tác hòa giải ở cơ sở đối với đời sống xã hội, từ tình hình tổ

Trang 1

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN THỊ HỒNG PHƯỢNG

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI,

TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP - LUẬT HÀNH CHÍNH

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2017

Trang 2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN THỊ HỒNG PHƯỢNG

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI,

TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP - LUẬT HÀNH CHÍNH

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp - Luật Hành chính

Mã số: 60 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS TS HUỲNH VĂN THỚI

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2017

Trang 3

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết, khảo sát tình hình thực tiễn và

sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS Huỳnh Văn Thới

Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác

Học viên

Trần Thị Hồng Phượng

Trang 4

Xin chân thành cảm ơn PGS.TS Huỳnh Văn Thới đã tận tình hướng

dẫn bản thân tôi nghiên cứu hoàn thành tốt luận văn này

Trong quá trình thực hiện, luận văn sẽ không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót nhất định, rất mong nhận được sự thông cảm và chia sẻ của quý thầy,

cô giáo và người đọc

Xin chân thành cảm ơn!

Học viên Trần Thị Hồng Phượng

Trang 5

MỤC LỤC

TRANG BÌA PHỤ

LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN

PHỤ LỤC

DANH TỪ VIẾT TẮT

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

MỞ ĐẦU 1

Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ 8

1.1 Những vấn đề chung về thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở 8

1.1.1 Khái niệm thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở 8

1.1.2 Nguyên tắc thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở 13

1.1.3 Hình thức thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở 19

1.1.4 Vai trò thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở 21

1.2 Nội dung thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở 23

1.2.1 Tuyên truyền, phổ biến pháp luật 23

1.2.2 Chỉ đạo triển khai thực hiện 24

1.2.3 Xây dựng chương trình, tài liệu 28

1.2.4 Xây dựng, phát triển đội ngũ thực hiện pháp luật hòa giải ở cở sở28 1.2.5 Bảo đảm điều kiện thực hiện 33

1.2.6 Kiểm tra, đánh giá công tác thực hiện 40

1.3 Kinh nghiệm thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở của một số địa phương 41

1.3.1 Thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở tại một số địa phương 41

Trang 6

1.3.2 Kinh nghiệm đúc kết cho công tác thực hiện pháp luật về hòa giải ở

cơ sở trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi 45

Tiểu kết Chương 1 46

Chương 2 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI, TỈNH QUẢNG NGÃI 47

2.1 Ảnh hưởng của đặc điểm tự nhiên, chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội đối với công tác thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi 47

2.1.1 Ảnh hưởng của tự nhiên 47

2.1.2 Ảnh hưởng của chính trị 47

2.1.3 Ảnh hưởng của kinh tế 48

2.1.4 Ảnh hưởng của văn hóa - xã hội 48

2.2 Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi 50

2.2.1 Chỉ đạo, triển khai thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở 69

Tiểu kết Chương 2 81

Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI, TỈNH QUẢNG NGÃI 82

3.1 Phương hướng hoàn thiện công tác thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi 82

3.1.1 Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội về hòa giải, xác định đó là một định chế xã hội phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở 82

3.1.2 Nâng cao năng lực quản lý của cơ quan Tư pháp và đội ngũ cán bộ Tư pháp – Hộ tịch xã đối với công tác hòa giải ở cơ sở 82

Trang 7

3.1.3 Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động hòa giải ở cơ sở; tiếp tục

đảm bảo cơ sở vật chất cần thiết cho hoạt động hòa giải ở cơ sở 83

3.1.4 Tăng cường sự phối hợp giữa chính quyền với các đoàn thể, tổ chức chính trị trong thực hiện hòa giải ở cơ sở 85

3.1.5 Hòa giải ở cơ sở phải phù hợp với pháp luật, đạo đức xã hội 85

3.2 Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi hiện nay 86

3.2.1 Giải pháp trước mắt 86

3.2.2 Giải pháp lâu dài 87

Tiểu kết Chương 3 95

KẾT LUẬN 96 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang 8

HĐND : Hội đồng nhân dân

HĐPHCTPBGDPL : Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật PBGDPL : Phổ biến giáo dục pháp luật

Trang 9

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ TRONG LUẬN VĂN

Biểu đồ 2.1: Thống kê thành phần tổ hòa giải trên địa bàn thành phố

Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi 61

Biểu đồ 2.2: Thống kê hòa giải viên theo trình độ trên địa bàn thành phố

Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi 62

Biểu đồ 2.3: Thống kê vụ việc hòa giải theo lĩnh vực (từ năm 2014 đến

2016) trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi 64

Trang 10

1

MỞ ĐẦU

1 Tính cấp thiết của đề tài luận văn

Trong những năm qua, cùng với sự phát triển kinh tế của nước ta, đời sống của người dân không ngừng được nâng cao, các quan hệ xã hội, các quan hệ kinh tế, dân sự phát sinh không ngừng và ngày càng phong phú, đa dạng, dẫn đến các tranh chấp ngày càng nhiều và phức tạp Góp phần giải quyết hiệu quả các tranh chấp, khiếu kiện của người dân; củng cố tinh thần đoàn kết trong nội bộ nhân dân, phát huy những tình cảm và đạo lý truyền thống tốt đẹp trong gia đình, trong cộng đồng; ngăn ngừa và hạn chế vi phạm pháp luật, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội, công tác hoà giải ở cơ sở

đã trở thành yếu tố quan trọng và không thể thiếu trong đời sống xã hội Hoà giải ở cơ sở không chỉ đơn thuần góp phần hạn chế các tranh chấp dân

sự và phòng ngừa tội phạm, vận động nhân dân sống và làm việc theo pháp luật, củng cố tình làng, nghĩa xóm, tăng cường tình đoàn kết trong cộng đồng dân cư mà còn góp phần quan trọng trong việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy phát triển kinh, tế xã hội Duy trì, phát triển và không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác hoà giải

ở cơ sở cũng chính là góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản

lý nhà nước, quản lý xã hội của Nhà nước, giảm bớt các vụ việc phải giải quyết tại Toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tiết kiệm thời gian

và chi phí cho nhà nước và nhân dân, từ đó góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển

Với ý nghĩa đó, Điều 127 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Ở cơ sở, thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định của pháp luật” Trên cơ sở quy định này của Hiến pháp, ngày 25/12/1998 Ủy ban

Trang 11

2

Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải

ở cơ sở; ngày 18/10/1999 Chính phủ ban hành Nghị định số

160/1999/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở Tuy nhiên, trong công cuộc đẩy mạnh cải cách tư pháp, phát huy dân chủ, xuất phát từ vai trò và ý nghĩa quan trọng của công tác hòa giải ở cơ sở đối với đời sống xã hội, từ tình hình tổ chức, hoạt động hòa giải ở cơ sở trong thời gian qua và thực trạng pháp luật hiện hành về lĩnh vực này, các chuyên gia pháp luật cho rằng, việc ban hành Luật Hòa giải cơ

sở sẽ đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn cuộc sống khi mà các mâu thuẫn

và tranh chấp trong nhân dân ngày càng tăng và rất đa dạng, do đó, cần xây dựng khung pháp lý cao hơn nhằm điều chỉnh hoạt động hòa giải ở cơ sở, tiết kiệm thời gian, kinh phí cho Nhà nước và nhân dân Từ các vấn đề thực tiễn nêu trên, việc ban hành Luật Hòa giải ở cơ sở là hết sức cần thiết Ngày 20/6/2013, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 5 đã thông qua Luật Hòa giải ở cơ sở (Luật), Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2014

Trong những năm qua, các cấp ủy đảng, chính quyền thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi luôn nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác hòa giải ở cơ sở trong việc đảm bảo sự ổn định về chính trị, xã hội, an ninh trật tự ở địa phương Do đó, đã có những biện pháp phù hợp nhằm duy trì, củng cố và phát triển công tác hoà giải, tạo cơ sở pháp lý cho công tác này không ngừng phát triển và tác động tích cực đối với đời sống xã hội Tuy nhiên, từ thực tiễn thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở cho thấy vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế nhất định, công tác hòa giải vẫn chưa phát huy hết vai trò, ý nghĩa của nó, nhiều đơn vị, địa phương còn xem nhẹ công tác này, một số cấp ủy, chính quyền ở địa phương chưa thật sự quan tâm đúng mức đến hoạt động hòa giải ở cơ sở, chưa bố trí kinh phí cho hoạt

Trang 12

3

động hòa giải ở cơ sở; một số địa phương chưa thực hiện hỗ trợ kinh phí cho hòa giải viên theo quy định,…Những hạn chế trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình thực thi pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi

Để góp phần nghiên cứu lý luận, bám sát thực tiễn để tìm ra các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật và các giải pháp tổ chức thực hiện có hiệu quả pháp luật về hòa giải ở cơ sở trong thời gian tới, tác

giả chọn đề tài: “Thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi” làm Luận văn tốt nghiệp Thạc

sĩ Luật Hiến pháp - Luật Hành chính

2 Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Trong những năm gần đây, thực trạng tình hình nghiên cứu về thực hiện pháp luật và hoạt động hòa giải ở cơ sở đã được một số nhà nghiên cứu chú ý đến và đã có một số công trình nghiên cứu, bài viết đề cập tới nội dung này ở nhiều khía cạnh khác nhau, cụ thể có một số công trình nghiên cứu, bài viết có nội dung liên quan đến vấn đề này sau đây:

- Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội, Nguyễn Thị Bích Thủy, Luận

văn Thạc sĩ Luật học, 2015

- Đặc san Tuyên truyền pháp luật số 6/2014, Hội đồng phối hợp phổ

biến, giáo dục pháp luật Trung ương, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,

2014

- Sổ tay Pháp luật về hòa giải ở cơ sở, Nguyễn Thị Tố Nga, NXB

Chính trị quốc gia, Hà nội, 2014

Trang 14

5

tỉnh Quảng Ngãi Trên cơ sở đó, đề xuất những quan điểm chỉ đạo và các giải pháp bảo đảm việc thực hiện pháp luật về hòa giải ở cở sở trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian tới

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ:

- Khái quát một số vấn đề có tính lý luận và thực tiễn về thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở, phân tích và làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm và vai trò của việc thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở

- Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ

sở trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi

- Đề xuất các quan điểm, giải pháp bảo đảm thực hiện có hiệu quả pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian tới

4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là hoạt động thực hiện pháp luật

về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi

Trang 15

Mác-6

về xây dựng nền dân chủ XHCN, về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN nói chung và về lý luận xây dựng pháp luật nói riêng

5.2 Phương pháp nghiên cứu

Đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:

- Phương pháp nghiên cứu văn bản: Được sử dụng để thu thập, phân tích

và khai thác thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm các văn kiện của Đảng, văn bản luật pháp của các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương; các công trình nghiên cứu, các báo cáo, các thống kê của tổ chức và cá nhân liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở

- Phương pháp xử lý thông tin: 1) thông tin định lượng, đề tài đã xử lý số

liệu và trình bày dưới nhiều dạng biểu đồ, đồ thị, giúp nhận dạng quá trình thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở 2) thông tin định tính bổ sung thêm cứ liệu cho thông tin định lượng, làm rõ hơn các ý tưởng mà dữ liệu định lượng chưa phản

ánh được hoặc phản ánh chưa đầy đủ

- Phương pháp đánh giá: dùng để phân tích, đánh giá thực trạng công tác

thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi trong giai đoạn hiện nay, từ đó tìm kiếm cơ sở đề xuất giải pháp thực hiện có hiệu quả pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi

6 Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện và

có hệ thống việc thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi từ khi Luật Hòa giải ở cơ sở được ban hành

Trang 16

7

- Luận văn phân tích, đánh giá một cách khá toàn diện về thực trạng thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở tại địa phương Trên cơ sở đó phát hiện những điểm chưa hợp lý, những tồn tại vướng mắc để đề xuất phương hướng và những giải pháp có tính khả thi nhằm nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của việc thực hiện pháp luật về hòa giải ở cở sở trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi

7 Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết

Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở

Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi

Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện công tác thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi

Trang 17

8

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ THỰC HIỆN

PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ 1.1 Những vấn đề chung về thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở 1.1.1 Khái niệm thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở

Pháp luật về hòa giải ở cơ sở là một bộ phận cấu thành của hệ thống pháp luật nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam Thực hiện pháp luật

về hòa giải ở cơ sở là thực hiện pháp luật về một lĩnh vực trong xã hội, cụ thể là lĩnh vực hòa giải ở cơ sở Để làm sáng tỏ khái niệm thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở, trước hết cần làm rõ những khái niệm có liên quan như: hòa giải, hòa giải ở cơ sở, pháp luật về hòa giải ở cơ sở

Trong lý luận khoa học cũng như trong thực tiễn tùy theo cách tiếp cận khác nhau mà xuất hiện nhiều quan niệm về hòa giải

Theo Từ điển Tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học thì hòa giải là:

“thuyết phục các bên đồng ý chấm dứt xung đột hoặc xích mích một cách

ổn thỏa” [46, tr.430]

Theo Từ điển Luật học thì hòa giải là: Tự chấm dứt việc xích mích, tranh chấp giữa các bên bằng sự thương lượng với nhau hoặc qua sự trung gian của một người khác Hòa giải thành thì giữ gìn được sự đoàn kết giữa các bên, tránh được việc kiện tụng kéo dài, tốn kém và những trường hợp chỉ vì mâu thuẫn nhỏ mà biến thành việc hình sự [44, tr.208] Quan niệm này không phân biệt được phương thức thương lượng tự giải quyết với phương thức hòa giải, vô hình đồng nhất người trung gian với người hòa giải

Trang 18

9

Một số luật gia lại cho rằng hòa giải là chế định pháp luật về hòa giải, coi hòa giải như là một quy định, một trình tự, thủ tục để giải quyết các tranh chấp về dân sự, hôn nhân gia đình, đất đai… Trong khi đó, các nhà hoạt động thực tiễn thì coi hòa giải là hành vi thuyết phục các bên tranh chấp xóa bỏ những mâu thuẫn, bất đồng

Trên thực tế đời sống xã hội, có nhiều loại hình hòa giải với phạm vi điều chỉnh và đối tượng điều chỉnh riêng, cũng như có nội dung, thủ tục tiến hành, chủ thể tham gia và các đặc trưng pháp lý riêng Vì thế, trên cơ

sở những điểm chung giống nhau giữa các loại hình hòa giải, có thể rút ra một định nghĩa tổng quát về hòa giải như sau:

Hòa giải là hình thức giải quyết tranh chấp mà trong đó có sự tham gia của bên thứ ba độc lập do hai bên cùng chấp nhận hay chỉ định làm vai trò trung gian để hỗ trợ các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp nhằm tìm kiếm những giải pháp thích hợp cho việc giải quyết xung đột và chấm dứt các tranh chấp, bất hòa

Hình thức hòa giải trong cộng đồng dân cư đã có từ lâu ở Việt Nam, trước khi Pháp lệnh về Tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở (ngày 25/12/1998) được ban hành, và cũng được gọi là “hòa giải ở cơ sở”

Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2014) tiếp tục kế thừa và phát triển khái niệm hòa giải ở cơ

sở Tại Khoản 1 Điều 2 Luật Hòa giải ở cơ sở quy định: “Hòa giải ở cơ sở

là việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật theo quy định của Luât này” [28]

Trang 19

10

Pháp luật về hòa giải ở cơ sở là những quy định của pháp luật dùng

để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình hoạt động hòa giải ở cơ

sở

Pháp luật về hòa giải ở cơ sở được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tổng thể các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thầm quyền ban hành có chứa đựng các quy phạm pháp luật về hòa giải ở cơ sở,

từ văn bản cao nhất là Hiến pháp cho đến các văn bản dưới luật khác

Điều 127 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Ở cơ sở thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định của pháp luật” [25, tr.72] Để

cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, ngày 25/12/1998 Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh Tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở; ngày 18/10/1999 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 160/1999/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải cơ sở Ngoài ra còn có các văn bản khác như: Quyết định số 06/2008/QĐ-BTP ngày 26/5/2008 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành biểu mẫu thống kê về tổ chức và hoạt động của Tổ hòa giải ở cơ sở; Chương trình phối hợp số 1285/CTPH-BTP-BTTUBTƯMTTQVN ngày 24/4/2009 giữa Bộ Tư pháp và Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về tăng cường thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở; Chỉ thị số 03/CT-BTP ngày 27/6/2011 về tăng cường công tác hòa giải ở cơ sở…

Cùng với Hiến pháp 2013, Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 và những văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành của Bộ Tư pháp và các cơ quan hữu quan, các văn bản của UBND các cấp ban hành đã tạo nên một hệ thống đồng bộ các văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở

Trang 20

11

Như vậy, có thể định nghĩa pháp luật về hòa giải ở cơ sở như sau:

Pháp luật về hòa giải ở cơ sở là tổng thể các quy phạm pháp luật thể chế hoá đường lối chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân, do cơ quan Nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực hòa giải ở cơ sở

Thực hiện pháp luật là sự nối tiếp xây dựng pháp luật, gồm toàn bộ các hoạt động nhằm đưa các quy phạm pháp luật vào đời sống xã hội và sinh hoạt của công dân Về bản chất, thực hiện pháp luật là quá trình hiện thực hóa pháp luật, làm bộc lộ và phát huy những giá trị tiềm năng của pháp luật trong thực tế Trong thực hiện pháp luật, những hoạt động có tính chủ động như sử dụng pháp luật, áp dụng pháp luật đòi hỏi phải có một cơ chế tổ chức và nguồn lực lớn về con người lẫn vật chất mới có thể bảo đảm thực hiện tốt

Hiện nay có nhiều cách định nghĩa khác nhau về thực hiện pháp luật Theo tài liệu học tập và nghiên cứu môn Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Khoa Nhà nước và Pháp luật thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh nay là Viện Nhà nước - Pháp luật thuộc Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh thì thực hiện pháp luật được hiểu là: “quá trình hoạt động có mục đích làm cho những qui định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thực

tế của các chủ thể pháp luật” [18, tr.270]

Theo giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật của trường Đại học Luật Hà Nội: “Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật” [18, tr.463]

Trang 21

12

Theo giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Học viện Hành chính Quốc gia: Thực hiện pháp luật là hoạt động, là quá trình làm cho những quy tắc của pháp luật trở thành hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật

Các định nghĩa trên đều có quan niệm tương đối đồng nhất về nội dung cơ bản đó là: thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm thực hiện những yêu cầu của pháp luật, thực hiện pháp luật là hoạt động thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật làm cho những quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống Tuy nhiên, cũng có sự khác nhau trong các định nghĩa trên Có định nghĩa nêu thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động, các định nghĩa khác lại chỉ nêu thực hiện pháp luật là hiện tượng, quá trình Tóm lại, thực hiện pháp luật được thống nhất hiểu chung

là quá trình hoạt động có mục đích làm cho các qui định của pháp luật trở thành những hoạt động thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật và được thực hiện trong thực tế cuộc sống

Pháp luật về hòa giải ở cơ sở muốn đi vào thực tiễn đời sống xã hội cần phải biến những quy định, những yêu cầu trong quy phạm pháp luật về hòa giải ở cơ sở thành những hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật Từ đó, có thể đưa ra định nghĩa về thực hiện pháp luật hòa giải ở

cơ sở như sau:

Thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở là quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy phạm pháp luật về hòa giải ở cơ sở đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật nhằm góp phần giải quyết vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân; củng cố, phát huy những tình cảm và đạo lý truyền thống tốt đẹp trong gia đình và cộng đồng dân cư; phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp

Trang 22

13

luật; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; giảm bớt một phần gánh nặng cho tòa án và các cơ quan hành chính nhà nước, góp phần tạo sự ổn định để phát triển kinh tế - xã hội

1.1.2 Nguyên tắc thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở

- Nguyên tắc tôn trọng sự tự nguyện của các bên, không bắt buộc, áp đặt các bên trong hòa giải ở cơ sở:

Hòa giải ở cơ sở là quá trình giải quyết tranh chấp giữa các bên trong

đó có sự tham gia của bên thứ ba - hòa giải viên giữ vai trò làm trung gian, trung lập Với vai trò trung gian ấy, hòa giải viên có nhiệm vụ thuyết phục, giúp các bên tranh chấp tìm được tiếng nói chung để tự dàn xếp mâu thuẫn một cách ổn thỏa Vì lẽ đó, trước hết hòa giải viên phải tôn trọng sự tự nguyện của các bên, tôn trọng ý chí của họ Hòa giải viên chỉ đóng vai trò

là người trung gian hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên giải quyết tranh chấp bằng con đường hòa giải chứ không áp đặt, bắt buộc các bên phải tiến hành hòa giải Nếu các bên không chấp nhận việc hòa giải thì hòa giải viên không thể dùng ý chí chủ quan của mình mà bắt buộc họ phải tiến hành hòa giải Kể cả trường hợp hòa giải thành, nếu việc thực hiện thỏa thuận giữa các bên có khó khăn thì hòa giải viên động viên, thuyết phục các bên thực hiện thỏa thuận; kịp thời thông báo cho tổ trưởng tổ hòa giải

để báo cáo Trưởng ban công tác mặt trận những vấn đề phát sinh trong quá trình theo dõi, đôn đốc thực hiện Trưởng ban công tác mặt trận chủ trì, phối hợp với trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố, gia đình, dòng họ, người có

uy tín vận động, thuyết phục mà không áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành những thỏa thuận của họ Vì vậy, mọi tác động đến tự do ý chí của các bên như cưỡng ép, làm cho một trong hai bên bị lừa dối hay nhầm lẫn đều không thể hiện đầy đủ ý chí tự nguyện của các bên

Trang 23

sự thành công của hòa giải

Để đạt được sự thành công đó, người hòa giải viên phải hiểu, nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước Trước hết, cần nắm vững các văn bản pháp luật có liên quan mật thiết với công tác hòa giải ở cơ sở như pháp luật dân sự (quan hệ tài sản, quan hệ hợp đồng dân sự, nghĩa vụ dân sự, thừa kế ); pháp luật hôn nhân và gia đình (quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng, quan hệ cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; ly hôn ); pháp luật đất đai; pháp luật hành chính, pháp luật hình sự

Bên cạnh việc nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, hòa giải viên cần nắm vững các phong tục, tập quán tốt đẹp của địa phương để động viên, khuyên nhủ các bên dàn xếp mâu thuẫn, tranh chấp nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu

Trang 24

15

số Tuy nhiên việc vận dụng các phong tục tập quán, câu ca dao, tục ngữ phải có sự chọn lọc cho phù hợp, tránh giáo lý, hủ tục lạc hậu Ví dụ, ở Tây Nguyên, hòa giải viên có thể kết hợp một số quy định tiến bộ trong luật tục Êđê để hòa gải Cụ thể trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, luật tục Êđê coi trọng việc “vợ chồng kết hôn ăn ở bền vững, không bỏ nhau” hoặc luật tục nhấn mạnh trách nhiệm của con cái với cha mẹ, không có cử chỉ bất kính, vâng lời cha mẹ không bỏ nhà đi lang thang, có trách nhiệm chăm sóc cha mẹ, ông bà Nếu vi phạm quy định của luật tục thì có thể bị mất quyền thừa kế tài sản đây là một số quy định tiến bộ của luật tục mà hòa giải viên có thể khai thác và vận dụng hợp lý vào từng vụ việc cụ thể để giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp nhằm củng cố giữ gìn hạnh phúc trong mỗi gia đình, dòng họ

Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 đã bổ sung điểm mới quan trọng vào nguyên tắc này Đó là “phát huy tinh thần đoàn kết tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ và cộng đồng dân cư; quan tâm đến quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật

và người cao tuổi” Bởi vì, người Việt Nam vốn sống trọng tình, quan tâm, đùm bọc, kính trên, nhường dưới, tình cảm gia đình, dòng họ, xóm giềng luôn là thiêng liêng và gần gũi, nếu hòa giải viên biết phát huy, khơi gợi những tình cảm này sẽ giúp cho việc hòa giải đạt kết quả mong muốn

- Nguyên tắc khách quan, công bằng, kịp thời, có lý, có tình; giữ bí mật thông tin đời tư của các bên:

Khi mâu thuân, tranh chấp xảy ra, mỗi bên đều có lý riêng, tự cho mình là đúng, không thấy điều sai trái của mình gây ra cho người khác hoặc cố tình bảo vệ quyền lợi của mình một cách bất hợp pháp Vì vậy, khi thực hiện hòa giải, hòa giải viên phải bảo đảm nguyên tắc khách quan,

Trang 25

16

công minh để giải quyết tranh chấp một cách công bằng, bình đẳng, quan tâm đến lợi ích của các bên tranh chấp Là người trung, hòa giải viên không được thiên vị, không định kiến hay nể nang bên này mà cần phải lắng nghe các bên tranh chấp, đồng thời tôn trọng sự thật khách quan, công bằng, đề cao lẽ phải, tìm ra cách giải thích, phân tích cho mỗi bên hiểu rõ đúng, sai,

không xuê xoa “dĩ hòa vi quý” cho xong việc Hơn nữa, có khách quan,

công bằng thì hòa giải viên mới tạo được lòng tin của các bên, để họ lắng nghe, tiếp thu ý kiến phân tích, giải thích của mình, từ đó có nhận thức và

tự nguyện điều chỉnh hành vi cho phù hợp với quy định của pháp luật, đạo đức xã hội và phong tục tập quán

Hoạt động hòa giải ở cơ sở đòi hỏi phải tuân thủ nguyên tắc có lý, có tình, nghĩa là hòa giải phải dựa trên cơ sở pháp luật và đạo đức xã hội Trước hết cần đề cao yếu tố tình cảm, dựa vào đạo đức xã hội để phân tích, khuyên nhủ các bên ứng xử phù hợp với chuẩn mực đạo đức: như con cái phải có hiếu với cha mẹ; anh chị em phải biết thương yêu, đùm bọc lẫn nhau “như thể tay chân”, “chị ngã em nâng”, “máu chảy ruột mềm”, “môi

hở răng lạnh”; vợ chồng sống với nhau phải có tình, có nghĩa : “đạo vợ, nghĩa chồng”, “gái có công chồng chẳng phụ”, tất cả vì con cái; xóm giềng thì “tối lửa tắt đèn có nhau”, “vắng anh em xa mua láng giềng gần” và

“thương người như thể thương thân” Cùng với việc giải thích, thuyết phục các bên ứng xử phù hợp với các quy tắc đạo đức xã hội, hòa giải viên phải dựa vào pháp luật để phân tích, tư vấn pháp luật, đưa ra những lời khuyên

và hướng dẫn các bên thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật nhằm giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nhân dân, củng cố

và pháp huy những tình cảm, đạo lý truyền thống tốt đẹp trong gia đình và cộng đồng, phòng ngừa và hạn chế vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư

Trang 26

17

Để thực hiện hòa giải thành, hòa giải viên phải tìm hiểu rõ ngọn ngành của vụ việc: nguyên nhân phát sinh, diễn biến của vụ việc, thái độ của các bên Trong số các thông tin cần thiết đó, đôi khi có những thông tin liên quan đến bí mật đời tư của các bên tranh chấp Khi được các bên tranh chấp tin tưởng, thổ lộ thông tin thầm kín về đời tư của mình cho hòa giải viên thì hòa giải viên cần tôn trọng và không được phép tiết lộ những thông tin này Ở đây, cũng cần phân biệt giữa bí mật thông tin đời tư cá nhân và những thông tin mà các bên tranh chấp che dấu về hành vi vi phạm pháp luật của mình

- Nguyên tắc tôn trọng ý chí, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng:

Việc hòa giải phải tuân thủ nguyên tắc tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, không xâm phạm lợi ích của Nhà nước và lợi ích công cộng, nghĩa là việc hòa giải không chỉ nhằm giải quyết tranh chấp, bảo vệ, khôi phục quyền và lợi ích của các bên mà còn phải bảo đảm lợi ích chung của xã hội, của nhà nước và của người khác Trong mọi trường hợp, hòa giải viên không chỉ giúp các bên giải quyết tranh chấp mà còn góp phần giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật của công dân Khi hướng dẫn các bên thỏa thuận giải quyết tranh chấp không được trái với quy định của pháp luật và không lợi dụng hòa giải để làm thiệt hại đến lợi ích của người thứ

ba, của nhà nước và lợi ích công cộng

Đối với hòa giải ở cơ sở, các xung đột thường là các tranh chấp, xích mích liên quan đến đời sống hàng ngày trong các lĩnh vực như sử dụng lối

đi chung, sử dụng điện nước sinh hoạt, đổ rác thải làm mất vệ sinh môi trường xung quanh trong cộng đồng dân cư thường liên quan đến nhiều

Trang 27

18

người khác ngoài các bên tranh chấp, hòa giải viên không thể vì mục đích đạt được hòa giải thành của các bên tranh chấp mà làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của bất kỳ người nào khác

Như vậy, có thể thấy rằng, trong quá trình hòa giải, bên cạnh việc giúp các bên tranh chấp giải quyết tranh chấp, hòa giải viên đã góp phần nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật của người dân Hay nói cách khác, hoạt động hòa giải ở cơ sở chính là một hình thức phổ biến giáo dục pháp luật hiệu quả nhằm từng bước nâng cao nhận thức pháp luật và giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật trong cộng đồng

Đây là điểm mới của Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 so với Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở năm 1998 Thực tiễn ở nơi này, nơi khác còn xảy ra tình trạng bất bình đẳng giới, còn ảnh hưởng bởi

tư tưởng phong kiến “trọng nam khinh nữ” gây nhiều khó khăn cho công tác hòa giải ở cơ sở Xác định vị trí và tầm quan trọng của việc bảo đảm lồng ghép bình đẳng giới trong xây dựng và thực thi pháp luật, nhất là đạo luật có nhiều mối liên quan trực tiếp đến người dân như Luật Hòa giải ở cơ

sở, điều này thể hiện như sau:

Đó là bình đẳng giới trong quy định đối với hòa giải viên, tổ trưởng

tổ hòa giải Về tiêu chuẩn, phương thức bầu hòa giải viên, quyền và nghĩa

vụ của hòa giải viên, tổ hòa giải, tổ trưởng tổ hòa giải đều không phân biệt

nam, nữ Bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức của tổ hòa giải “Mỗi tổ hòa giải có từ 03 hòa giải viên trở lên, trong đó có hòa giải viên nữ”[28]

Bình đẳng giới còn được thể hiện trong các quy định về yêu cầu hòa giải, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quá trình hòa giải, biên bản hòa giải, thực hiện các thỏa thuận hòa giải, theo dõi, đôn đốc thực hiện kết quả hòa giải thành đối với các bên là như nhau không phân biệt nam, nữ

Trang 28

19

1.1.3 Hình thức thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở

Các qui phạm pháp luật rất phong phú, đồng thời chúng cũng xác định quyền, nghĩa vụ thực hiện đối với các chủ thể khác nhau, vì thế hình thức thực hiện chúng cũng rất đa dạng Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, theo Tài liệu học tập và nghiên cứu môn học Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật (Tập 1) của Viện Nhà nước và pháp luật thuộc Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Khoa Luật của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật của trường Đại học Luật Hà Nội đều cho rằng có bốn hình thức thực hiện pháp luật nhằm mục đích chuyển tải các qui phạm pháp luật vào cuộc sống thực tiễn,

đó là:

- Tuân theo pháp luật về hòa giải ở cơ sở là một hình thức thực hiện

pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà pháp luật ngăn cấm Ví dụ: trong quá trình tiến hành hòa giải, mặc dù các bên tranh chấp vẫn có mâu thuẫn cao nhưng các bên kiềm chế không thực hiện những hành động quá khích xúc phạm danh dự, nhân phẩm hoặc tính mạng, sức khỏe của nhau, vẫn tuân theo sự điều hành của

tổ hòa giải, đây chính là việc các bên kiềm chế không thực hiện những hành vi mà pháp luật ngăn cấm, tức là đã tuân thủ các quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở

- Thi hành (chấp hành) pháp luật về hòa giải ở cơ sở là một hình

thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực Những qui phạm pháp luật bắt buộc (những quy định nghĩa vụ phải thực hiện, những hành vi tích cực nhất định) được thực hiện ở hình thức này Ví dụ: khi phát hiện có mâu thuẫn

Trang 29

20

tranh chấp trong cộng đồng dân cư, tổ viên tổ hòa giải có trách nhiệm tiến hành hòa giải theo nguyên tắc phù hợp giữa đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước với truyền thống đạo đức xã hội, phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân Nếu hòa giải viên không chịu tiến hành hòa giải hay hòa giải trái quy định pháp luật thì đó là hành vi không thi hành pháp luật về hòa giải ở cơ sở

- Sử dụng pháp luật về hòa giải ở cơ sở là một hình thức thực hiện

pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình (thực hiện những hành vi mà pháp luật cho phép) Hình thức này khác với hình thức tuân thủ pháp luật và thi hành pháp luật ở chỗ chủ thể có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền được pháp luật cho phép theo ý chí của mình, chứ không bị ép buộc phải thực hiện Ví dụ: các bên trong tranh chấp được khuyến khích giải quyết mâu thuẫn bằng hòa giải Hòa giải dựa trên

sự tự nguyện của các bên, không bắt buộc, áp đặt các bên tranh chấp phải tiến hành hòa giải Do đó, khi có mâu thuẫn xảy ra các bên có thể nhờ tổ hòa giải ở cơ sở giải quyết hoặc khởi kiện thẳng vụ việc lên tòa án mà không cần thông qua hòa giải ở cơ sở Việc lựa chọn giải quyết như thế nào

là quyền của các bên

- Áp dụng pháp luật về hòa giải ở cơ sở là một hình thức thực hiện

pháp luật, trong đó Nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện các những quy định của pháp luật, hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể Trong trường hợp này các chủ thể thực hiện pháp luật thực hiện các qui định của pháp luật có sự can thiệp của Nhà nước Ví dụ: việc thành lập tổ hòa giải, quản lý công tác hòa giải ở cơ sở,

Trang 30

sự khác biệt với các hình thức tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật Sự khác biệt này thể hiện ở chỗ, nếu như tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật là những hình thức mà mọi chủ thể thực hiện pháp luật đều có thể thực hiện thì áp dụng pháp luật là hình thức luôn luôn có sự tham gia của Nhà nước, thông qua các cơ quan nhà nước hoặc những người có thẩm quyền Có thể nói, giữa các hình thức thực hiện pháp luật luôn có sự đan xen, bao chứa và gắn bó chặt chẽ với nhau, chúng không tách rời biệt lập với nhau mà các chủ thể thông thường phải đồng thời thực hiện các quy định pháp luật dưới nhiều hình thức khác nhau, bởi không thực hiện quy định pháp luật này sẽ không thể thực hiện được các quy định pháp luật khác Do vậy, việc xây dựng được một hệ thống pháp luật hoàn thiện, có chất lượng đã khó, nhưng để thực hiện pháp luật chính xác, nghiêm minh và có hiệu quả cao còn khó hơn gấp nhiều lần

1.1.4 Vai trò thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở

Thứ nhất, hòa giải góp phần giải quyết ngay, kịp thời, có hiệu quả các vi phạm, xích mích, tranh chấp trong nhân dân, tiết kiệm thời gian, chi

phí, công sức của nhân dân cũng như của Nhà nước

Thực tiễn cho thấy, thông qua hòa giải ở cơ sở, một số lượng lớn các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật nhỏ đã được giải quyết kịp thời, nhanh chóng, giảm bớt khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện của người dân Mỗi năm, ở cơ sở hòa giải thành bao nhiêu vụ việc tức là giảm được bấy nhiêu

Trang 31

22

vụ việc mà các cơ quan có thẩm quyền phải giải quyết Ngay cả khi hòa giải không thành,Tòa án, các cơ quan có thẩm quyền cũng có điều kiện nắm vững nội dung tranh chấp, tâm tư, nguyện vọng của đương sự để xác định đường lối giải quyết đúng đắn, ra phán quyết thấu tình đạt lý

Thứ hai, hòa giải góp phần khôi phục, duy trì, củng cố sự đoàn kết trong nội bộ nhân dân, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội

Hòa giải là một biện pháp giải quyết tranh chấp mà mỗi bên đều chấp nhận nhượng bộ một phần quyền lợi của mình để đạt được sự thỏa thuận Mặt khác, hòa giải thành là dựa trên sự tự nguyện của các bên, không do ai

áp đặt, cưỡng ép nên các bên sẽ tự giác thực hiện cam kết của mình Tranh chấp, mâu thuẫn phát sinh nếu được giải quyết bằng con đường hòa giải thì kết quả hòa giải thường mang tính bền vững Một khi đã xây dựng, củng cố được khối đoàn kết trong nội bộ nhân dân, ổn định trật tự xã hội thì việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ khác ở địa phương sẽ có nhiều thuận lợi

Thứ ba, hòa giải góp phần nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân

Khi hòa giải, các hòa giải viên đều phải vận dụng các quy định pháp luật để giải thích, hướng dẫn, thuyết phục các bên tranh chấp, giúp họ hiểu được quyền và nghĩa vụ của mình để từ đó có xử sự phù hợp với quy định của pháp luật Trong nhiều trường hợp, tranh chấp phát sinh do các bên không hiểu pháp luật, nên lầm tưởng rằng quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm hoặc cho rằng hành vi của mình là đúng pháp luật Nếu các bên được giải thích pháp luật một cách cặn kẽ, tranh chấp có thể sẽ được giải quyết dứt điểm và nhanh chóng Thông qua hòa giải, ý thức chấp hành pháp luật của người dân sẽ nâng cao Là một hình thức tuyên truyền pháp luật mang lại hiệu quả cao để đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật

Trang 32

Thứ năm, hòa giải góp phần duy trì và phát huy đạo lý truyền thống tốt đẹp, thuần phong mỹ tục của dân tộc, thực hiện cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư

Khi tiến hành hòa giải, hòa giải viên không chỉ dựa trên các quy định của pháp luật, mà còn phải dựa vào những chuẩn mực đạo đức, văn hóa ứng xử, truyền thống để tác động tới các bên tranh chấp Và như vậy, hòa giải ở cơ sở đã làm cho các giá trị truyền thống được bảo tồn và phát huy

Thứ sáu, hòa giải nhằm bảo vệ, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của các cá nhân tại cộng đồng

Khi mâu thuẫn, tranh chấp xảy ra xâm phạm đến quyền, lợi ích của

cá nhân và hòa giải là hình thức để các bên tự nhận thấy sự phải, trái, đúng, sai trong hành vi của cá nhân, từ đó có xử sự phù hợp với pháp luật và đạo đức

1.2 Nội dung thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở

1.2.1 Tuyên truyền, phổ biến pháp luật

Trang 33

24

Ngày 04/11/2013, Bộ tư pháp ban hành Quyết định 2611/QĐ-BTP về ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Luật Hòa giải ở cơ sở, trong đó đã quy định các nội dung về tổ chức hội nghị tập huấn, quán triệt nội dung cơ bản của Luật Hòa giải ở cơ sở, các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành đối với các cán bộ, công chức tư pháp; báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh, cấp huyện; tuyên truyền viên pháp luật và hòa giải viên Biên soạn, phát hành các tài liệu phổ biến, giới thiệu Luật Hòa giải ở cơ sở

Trên cơ sở tài liệu do Bộ Tư pháp biên soạn, Sở Tư pháp tham mưu cho Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức biên soạn tài liệu phổ biến Luật phù hợp với các đối tượng tại địa phương

Tổ chức thực hiện các chuyên mục, chương trình, tin, bài phổ biến Luật, các văn bản hướng dẫn thi hành và tình hình tổ chức thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên các phương tiện thông tin đại chúng Ngoài các hình thức, biện pháp nêu trên, các cơ quan, đơn vị, địa phương tổ chức thực hiện các hình thức, biện pháp khác để phổ biến, quán triệt Luật Hòa giải ở cơ sở phù hợp với điều kiện thực tiễn của cơ quan, đơn vị, địa phương mình

1.2.2 Chỉ đạo triển khai thực hiện

Luật Hòa giải ở cơ sở đã thể hiện sự phân cấp rõ ràng giữa Trung ương và địa phương, cơ chế phối hợp thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước giữa các ngành và các cấp trong công tác hòa giải ở cơ sở nhằm bảo đảm thống nhất trong việc quản lý nhà nước về công tác hòa giải ở cơ sở; phát huy thế mạnh của địa phương trong công tác hòa giải trên cơ sở điều kiện

cụ thể của địa phương

Nội dung Luật bổ sung quy định trách nhiệm cụ thể của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Ủy ban nhân dân huyện, quận,

Trang 34

25

thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện) trong phạm

vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm

Ngoài những nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân các cấp quy định tại Điều 29 Luật Hòa giải ở cơ sở nêu trên, Nghị định số 15/2014/NĐ-CP ngày 27/02/2014 của Chính phủ quy định thêm một số trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp trong quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước đối với công tác này Cụ thể như sau:

- Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm:

+ Chủ trì, phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh) hướng dẫn, tổ chức thực hiện văn bản pháp luật về hòa giải ở cơ sở trong phạm vi địa phương;

+ Biên soạn, hỗ trợ tài liệu phục vụ công tác hòa giải ở cơ sở; tổ chức tập huấn, bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ thực hiện công tác quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở cho cấp huyện; hướng dẫn cấp huyện tổ chức tập huấn, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức pháp luật, kỹ năng, nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở cho hòa giải viên theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp;

+ Tổng hợp, trình dự toán kinh phí hỗ trợ cho công tác hòa giải ở cơ

sở tại địa phương để Hội đồng nhân dân cùng cấp xem xét, quyết định;

+ Chủ trì, phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh

tổ chức kiểm tra, sơ kết, tổng kết và khen thưởng về hòa giải ở cơ sở theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng; tiếp nhận, tổ chức thực hiện, khen thưởng tổ chức, cá nhân đóng góp, hỗ trợ cho công tác hòa giải

ở cơ sở của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; xem xét, quyết định khen thưởng tổ chức, cá nhân tham gia, đóng góp, hỗ trợ cho công tác hòa

Trang 35

26

giải ở cơ sở của quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trên cơ sở đề nghị của Ủy ban nhân dân cấp huyện; định kỳ sáu tháng, hằng năm và đột xuất khi có yêu cầu thực hiện thống kê, báo cáo Hội đồng nhân dân cùng cấp và Bộ Tư pháp kết quả thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở

- Ủy ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có trách nhiệm :

+ Chủ trì, phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi là Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp huyện) hướng dẫn, tổ chức thực hiện văn bản pháp luật

về hòa giải ở cơ sở trong phạm vi địa phương; hướng dẫn lồng ghép thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở vào xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của thôn, làng, bản, ấp, cụm dân cư; cung cấp tài liệu, thông tin miễn phí về chính sách, pháp luật liên quan cho tổ chức, cá nhân quy định tại khoản 1 Điều 3 của Nghị định số 15/2014/NĐ-CP;

+ Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ thực hiện công tác quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở cho cấp xã; tổ chức tập huấn, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức pháp luật, kỹ năng, nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở cho hòa giải viên theo hướng dẫn của Sở Tư pháp;

+ Tổng hợp, trình dự toán kinh phí hỗ trợ cho công tác hòa giải ở cơ

sở tại địa phương để Hội đồng nhân dân hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, quyết định;

+ Chủ trì, phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp huyện tổ chức kiểm tra, sơ kết, tổng kết và khen thưởng về hòa giải ở cơ sở theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng; tiếp nhận, tổ chức thực hiện, khen thưởng hoặc đề nghị Ủy ban nhân dân cấp tỉnh khen thưởng tổ chức, cá nhân tham gia, đóng góp, hỗ trợ cho công tác hòa giải ở

Trang 36

27

cơ sở của quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh khi cần thiết; xem xét, quyết định khen thưởng tổ chức, cá nhân tham gia, đóng góp, hỗ trợ cho công tác hòa giải của xã, phường, thị trấn trên cơ sở đề nghị của Ủy ban nhân dân cấp xã; định kỳ sáu tháng, hằng năm và đột xuất khi có yêu cầu thực hiện thống kê, báo cáo Hội đồng nhân dân cùng cấp, Sở Tư pháp kết quả thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở

- Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm:

+ Chủ trì, phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã) hướng dẫn, tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về hòa giải ở cơ sở; lồng ghép thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở trong xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của thôn, làng, bản, ấp, cụm dân cư; hỗ trợ tài liệu, phổ biến pháp luật phục vụ hoạt động hòa giải ở cơ sở cho cá nhân quy định tại Điều 2 của Nghị định này;

+ Phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã hướng dẫn Ban công tác Mặt trận phối hợp với trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố thành lập, kiện toàn tổ hòa giải và công nhận, cho thôi tổ trưởng tổ hòa giải, hòa giải viên;

+ Xây dựng dự toán kinh phí hỗ trợ cho hoạt động hòa giải trình Hội đồng nhân dân cùng cấp hoặc cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định; thực hiện hỗ trợ kinh phí cho hoạt động hòa giải tại xã, phường, thị trấn;

+ Chủ trì, phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã tổ chức kiểm tra, sơ kết, tổng kết và khen thưởng về hòa giải ở cơ sở theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng; tiếp nhận, tổ chức thực hiện, khen thưởng hoặc đề nghị Ủy ban nhân dân cấp huyện khen thưởng tổ chức, cá nhân tham gia, đóng góp, hỗ trợ cho công tác hòa giải ở cơ sở của

Trang 37

28

xã, phường, thị trấn khi cần thiết; định kỳ sáu tháng, hằng năm và đột xuất khi có yêu cầu thực hiện thống kê, báo cáo Hội đồng nhân dân cùng cấp, Phòng Tư pháp kết quả thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở

1.2.3 Xây dựng chương trình, tài liệu

Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật Bộ Tư pháp đã xây dựng chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở, chịu trách nhiệm biên soạn tài liệu mẫu; tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ cho đối tượng thực hiện công tác quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở cấp tỉnh, bao gồm: đại diện các Sở Tư pháp; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận cấp tỉnh Tổ chức biên soạn tài liệu và tổ chức bồi dưỡng nghiệp

vụ thực hiện công tác quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở, nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở

Sở Tư pháp tổ chức và hướng dẫn cơ quan tư pháp cấp dưới tổ chức biên soạn, phát hành tài liệu phù hợp với các đối tượng tại địa phương; bồi dưỡng nghiệp vụ thực hiện công tác quản lý nhà nước, nghiệp vụ hòa giải ở

cơ sở tại địa phương theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp

Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận phối hợp với Bộ Tư pháp xây dựng tài liệu, tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ cho đối tượng thực hiện công tác quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở cấp tỉnh; chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức cấp dưới của mình phối hợp với cơ quan Tư pháp cùng cấp trong việc biên soạn tài liệu, tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ thực hiện quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở, nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở tại địa phương

1.2.4 Xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ quản lý thực hiện hòa giải ở cở sở

Trang 38

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm chỉ đạo Sở Nội vụ, Sở Tư pháp, Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã củng cố, kiện toàn cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu quản lý công tác hòa giải ở địa phương; rà soát, củng cố, kiện toàn tổ hòa giải, đội ngũ hòa giải viên; tổ chức thực hiện có hiệu quả hoạt động hòa giải theo quy định của Luật Hòa giải ở cơ sở

Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận phối hợp chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức cấp dưới của mình phối hợp với cơ quan Tư pháp cùng cấp trong việc củng cố, kiện toàn tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động hòa giải ở cơ sở; khuyến khích các thành viên, hội viên tham gia tích cực vào hoạt động hòa giải ở cơ sở

- Về hòa giải viên (Điều 7, Điều 8, Điều 9, Điều 10):

Hòa giải viên là những người trực tiếp thực hiện hoạt động hòa giải

và là trung tâm của hoạt động này So với Pháp lệnh, các quy định về tiêu chuẩn hòa giải viên; quyền, nghĩa vụ của hòa giải viên; thủ tục bầu, công nhận hòa giải viên và các trường hợp thôi làm hòa giải viên trong Luật có nhiều điểm mới được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều kiện hiện nay

- Về tiêu chuẩn hòa giải viên:

Thực tiễn đã khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của hòa giải viên trong đời sống cộng đồng Việc quy định tiêu chuẩn hòa giải viên trong Luật nhằm đòi hỏi hòa giải viên phải có đủ điều kiện đáp ứng với hoạt

Trang 39

30

động hòa giải trong tình hình mới, đồng thời, qua đó xác định rõ trách nhiệm của cơ quan Nhà nước trong việc nâng cao năng lực cho hòa giải viên Trên cơ sở kế thừa các quy định của Pháp lệnh Hòa giải về tiêu chuẩn hòa giải viên, Luật quy định người được bầu làm hòa giải viên phải là công dân Việt Nam thường trú tại cơ sở, tự nguyện tham gia hoạt động hòa giải

và có các tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức, uy tín trong cộng đồng dân cư, khả năng thuyết phục, vận động nhân dân, có hiểu biết pháp luật

Các tiêu chuẩn quy định trong Luật về cơ bản đã thể hiện chủ trương thu hút, khuyến khích cá nhân tự nguyện tham gia hoạt động hòa giải ở cơ

sở, mong muốn xây dựng đội ngũ hòa giải viên có chất lượng, uy tín, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ, cũng như tạo sự linh hoạt trong quá trình bầu, lựa chọn hòa giải viên So với Pháp lệnh hòa giải, Luật quy định các tiêu chuẩn cơ bản của hòa giải viên, bỏ một số tiêu chuẩn không còn phù hợp

- Về bầu, công nhận hòa giải viên:

Thực tiễn tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở cho thấy việc bầu hòa giải viên là phù hợp Luật đã kế thừa các quy định về bầu hòa giải viên trong Pháp lệnh Hòa giải và sửa đổi, bổ sung một số quy định nhằm đề cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp, thể hiện rõ hơn bản chất của hòa giải ở cơ sở là hoạt động xuất phát từ nhu cầu của nhân dân, do nhân dân thực hiện

Việc chủ trì, tổ chức thực hiện bầu hòa giải viên do Trưởng ban công tác Mặt trận tiến hành cùng với sự phối hợp của trưởng thôn, tổ trưởng dân phố Luật quy định cụ thể hình thức tổ chức bầu hòa giải viên thông qua việc tổ chức cuộc họp đại diện các hộ gia đình hoặc phát phiếu lấy ý kiến các hộ gia đình trong thôn, tổ dân phố; người được bầu làm hòa giải viên phải được trên 50% đại diện hộ gia đình trong thôn, tổ dân phố đồng ý

Trang 40

31

Sau khi tổ chức việc bầu hòa giải viên kết thúc, Trưởng ban công tác Mặt trận lập danh sách người được đề nghị công nhận là hòa giải viên gửi Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã để ra quyết định công nhận hòa giải viên

Quyết định công nhận hòa giải viên được gửi cho Ban thường trực

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã, Trưởng ban công tác Mặt trận, trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố, hòa giải viên và thông báo công khai ở thôn, tổ dân phố

- Về quyền và nghĩa vụ của hòa giải viên:

Luật Hòa giải ở cơ sở đã bổ sung một số quyền và nghĩa vụ của hòa giải viên, trong đó có quyền được bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp

vụ, kỹ năng hòa giải ở cơ sở; được hưởng thù lao khi thực hiện vụ, việc hòa giải; được khen thưởng; được hỗ trợ, tạo điều kiện để khắc phục hậu quả nếu gặp tai nạn hoặc rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải… cũng như một số nghĩa vụ cho phù hợp với tình hình mới, khắc phục hạn chế, bất cập của đội ngũ hòa giải viên hiện nay

Với quan điểm không hành chính hóa trong tổ chức cũng như hoạt động hòa giải ở cơ sở, Luật Hòa giải ở cơ sở đã bỏ quy định về nhiệm kỳ của hòa giải viên, thay vào đó là quy định về thời điểm để kiện toàn tổ chức hòa giải ở cơ sở theo hướng hằng năm rà soát, đánh giá về tổ chức và hoạt động của tổ hòa giải

- Thôi làm hòa giải viên:

Kế thừa quy định của Nghị định số 160/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày 18 tháng 10 năm 1999, Luật Hòa giải ở cơ sở quy định cụ thể các trường hợp thôi làm hòa giải viên như theo nguyện vọng của hòa giải viên, không còn đáp ứng một trong các tiêu chuẩn quy định tại Điều 7 của Luật này, vi phạm nguyên tắc tổ chức, hoạt động hòa giải ở cơ sở theo quy định

Ngày đăng: 28/06/2020, 11:26

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w