Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống
1
/ 41 trang
THÔNG TIN TÀI LIỆU
Thông tin cơ bản
Định dạng
Số trang
41
Dung lượng
80,54 KB
Nội dung
TìnhhìnhpháttriểnvàmởcửahộinhậpcủaBưuđiệnViệtNamtronglĩnhvựcdịchvụViễnthôngtrongthờigianqua Trước khi đi vào xây dựng một chiến lược tổng thể cho quá trình mởcửavàhộinhậpcủadịchvụViễnthôngViệt Nam, trong chương này sẽ giúp chúng ta tìm hiểu tìnhhìnhpháttriểnvàmởcửahộinhậpcủaBưuđiệnViệtNamtronglĩnhvựcdịchvụViễnthôngtrongthờigian vừa qua. Để từ đó có một cái nhìn tổng thể về các vấn đề như quản lý Nhà nước, môi trường pháp lý, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp . có liên quan đến dịchvụViễn thông. Chương này bao gồm 5 ván đề chính sau: I Vị trí và vai trò củaViễnthông II Tìnhhìnhpháttriển cơ sở hạ tầng ViễnthôngViệtNamtrongthờigianqua III Tổ chức quản lý và môi trường pháp lý IV Các cam kết tự do hoá dịchvụViễnthôngcủaViệtNam với các tổ chức kinh tế quốc tế vàtrong hiệp định thương mại Việt Mỹ V Đánh giá chung I - Vị trí và vai trò củaViễnthôngBưuđiện nói chung vàViễnthông nói riêng là một ngành thuộc kết cấu hạ tầng cơ sở, sản xuất kinh doanh dịchvụ không thiếu được của nền kinh tế quốc dân, là công cụ đắc lực cho việc quản lý, điều hành Nhà nước, đảm bảo an ninh quốc gia, góp phần nâng cao đời sống văn hoá xã hộicủa nhân dân. Ngành Viễnthông có vai trò tác động mạnh mẽ đến quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất và cơ cấu kinh tế xã hội, thúc đẩy công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Thông tin Viễnthông còn là tiền đề cần thiết cho sự pháttriển văn hoá xã hội (thông tin phục vụ khoa học, y tế, an ninh, giáo dục .). Hiệu quảcủaViễnthông mang lại cho nền kinh tế không phải chỉ đánh giá tỷ trọng vật chất đóng góp cho nền kinh tế quốc dân mà được đánh giá trên tác dụng đòn bẩy của nó. Trong mọi hoạt động của nền kinh tế, từ công tác quản lý vĩ mô đến vi mô, từ việc điều hành quản lý Nhà nước đến việc sản xuất ở các đơn vị dù nhỏ nhất đều phải sử dụng công cụ thông tin liên lạc. Có thể nói thông tin Viễnthông là huyết mạch của một nền kinh tế. Trong một chừng mực nhất định, ngành Bưuđiện nói chung vàViễnthông nói riêng cần phải đi trước một bước, làm tiền đề để thúc đẩy sự pháttriểncủa các ngành kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. 1 Ngày nay, với xu hướng hội tụ công nghệ Viễnthông - tin học - phát thanh - truyền hình, Viễnthông càng có vị trí quan trọngtrong nền kinh tế quốc dân. Là chiếc cầu nối, một mắt xích quan trọng liên kết các ngành với nhau cùng hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Nhưng đồng thờiViễnthông ngày càng được xem là một ngành kinh tế riêng biệt . Các quốc gia có nền kinh tế pháttriển có khuynh hướng coi và có chính sách đối xử với ngành Viễnthông như các ngành kinh tế khác. Vai trò củaViễnthông được thể hiện trên các khía cạnh sau: Một là, Thông tin Viễnthông tạo ra những điều kiện cần thiết cho tất cả các hoạt động kinh tế xã hội, có chức năng phục vụ tất cả các ngành kinh tế quốc dân, thoả mãn nhu cầu về truyền đưa tin tức của xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, chức năng truyền tin càng quan trọng, các cơ sở sản xuất kinh doanh muốn nắm được nhu cầu của thị trường chính xác, nhanh chóng để quyết định phương án kinh doanh đúng đắn và hợp lý đều dựa vào mạng lưới thông tin. Thông tin chính xác, kịp thời luôn được coi là một trong những yếu tố hết sức quan trọng đảm bảo cho sự thành công trong môi trường cạnh tranh quốc tế mà trong đó thông tin Viễnthông đóng vai trò hàng đầu vì sự nhanh chóng, chính xác và tiết kiệm thời gian. Mặt khác, thông tin Viễnthông còn có ý nghĩa lớn cho việc tiết kiệm chi phí sản xuất cho từng doanh nghiệp vì sẽ giảm được đáng kể chi phi đi lại, giao dịchtrong hoạt động sản xuất, mua bán sản phẩm. Hai là, vì là ngành sản xuất vật chất đặc biệt, sản phẩm của ngành Viễnthông không phải là vật thể cụ thể, mà chỉ là hiệu quảcủa việc truyền đưa tin tức, được kết tinhtrong sản phẩm của các ngành kinh tế vàdịchvụ khác. Do vậy sự đóng góp củaViễnthông không chỉ đơn thuần ở phần doanh thu hoặc nộp ngân sách nhiều hay ít, điều quan trọng là tạo điều kiện cho các ngành kinh tế nâng cao năng suất lao động, tạo ra nhiều sản phẩm xã hội, tăng thu nhập quốc dân, tăng tổng sản phẩm xã hội. Theo báo cáo của Liên minh Viễnthông quốc tế (ITU), hàng năm, các dịchvụViễnthông đóp góp ít nhất 1,5% trong GDP của mỗi nước. Đầu tư vào lĩnhvựcViễnthông 1 USD sẽ sinh ra 3 USD trong các lĩnhvực kinh tế khác. Thế giới và khu vực đã có những nền kinh tế "cất cánh" là từ Viễn thông, đi lên từ Viễn thông. ở những nước phát triển, nền kinh tế tượng trưng còn lớn gấp nhiều lần so với nền kinh tế thực của nước họ, đó là họ biết cách kinh doanh và có một hệ thốngthông tin Viễnthông hiện đại. Ba là, đối với người dân thông tin Viễnthông là chiếc cầu nối trao đổi tin tức và giao lưu tình cảm không thể thiếu được. Bằng các phương tiện thông tin Viễnthông (Điện thoại, điện báo, Faximle, Internet, thư điện tử .) là công cụ giao lưu tình cảm cho nhân dân. Trong một xã hội, nhìn vào mức độ sử dụng dịchvụViễnthông hàng ngày của người dân mà có thể nhận biết được trình độ phát triển, văn minh của xã hội 2 đó. ở nhiều quốc gia, mức độ pháttriển hệ thốngthông tin Viễnthông được coi là một trong những chỉ tiêu phản ánh mức sống, trình độ pháttriểncủa quốc gia đó. Bốn là, thông tin là công cụ để Nhà nước quản lý, điều hành mọi hoạt động của đất nước. Trong đó thông tin Viễnthông là công cụ chỉ đạo, lãnh đạo của các cấp chính quyền do tính chất truyền đưa tin tức kịp thờicủa nó. Thông tin nhanh nhạy, chính xác và kịp thời là một yếu tố hết sức quan trọng để đảm bảo thắng lợi trong chiến tranh cũng như lĩnhvực an ninh quốc phòng. Ngoài ra thông tin khẩn cấp, kịp thời về thiên tai, địch hoạ, phòng chống dịch bệnh, bảo vệ mùa màng là những yếu tố không thể thiếu được trong hoạt động bình thường của một xã hội. Năm là, ngày nay khi mà đời sống kinh tế xã hội đang được quốc tế hoá thì vai trò củathông tin Viễnthông càng quan trọng. Mở rộng mạng lưới thông tin Viễn thông, bao gồm Viễnthôngthông tin trong nước và quốc tế là điều kiện để giúp các quốc gia mở rộng quan hệ, hợp tác với nước ngoài, thu hút vốn đầu tư từ các hãng, các công ty và tổ chức quốc tế để pháttriển đất nước. Đối với các công ty nước ngoài khi đầu tư, đặt quan hệ làm ăn với các nước đang pháttriển thì vấn đề quan tâm trước tiên của họ là kết cấu hạ tầng của nền kinh tế, trong đó có giao thông, điện, thông tin liên lạc, coi đó là những điều kiện tối thiểu cho những quyết định làm ăn lâu dài. Sáu là, đối với các quốc gia đang phát triển, pháttriển mạng lưới Viễnthông sẽ có điều kiện tiếp xúc với kỹ thuật mới, học tập, làm quen với những phương thức kinh doanh mới, những kinh nghiệm và thành tựu của nhân loại trên các mặt, tận dụng được lợi thế của nước đi sau để pháttriển kinh tế. Những thông tin về biến động giá cả, cung cầu trên thế giới, về chuyển giao công nghệ . sẽ giúp cho các nhà doanh nghiệp đề ra được chiến lược kinh doanh có hiệu quả trên thương trường quốc tế. Viễnthôngmở ra sẽ tạo điều kiện đưa nền kinh tế hoà nhập, tiếp cận với nền kinh tế thế giới. Với ý nghĩa ấy, thông tin Viễnthông phải đi trước một bước, là "cầu nối" thúc đẩy sự pháttriển kinh tế - xã hộicủa đất nước,. Tóm lại, khi đánh giá vai trò cũng như đánh giá hiệu quả kinh doanh củadịchvụViễnthông không thể lấy tiêu chuẩn lợi nhuận làm mục tiêu mà tính xã hộicủa nó cũng vô cùng quan trọng. Phải đánh giá một cách toàn diện, phải tính đến hiệu quảcủa các ngành kinh tế do kết quả phục vụcủaViễnthông mang lại. II - Tìnhhìnhpháttriển cơ sở hạ tầng ViễnthôngViệtNamtrongthờigianquaTìnhhìnhpháttriểncủaViễnthôngViệtNam là một chặng đường pháttriển dài gắn liền với sự pháttriểncủa đất nước trong suốt hơn 50 năm qua. Nhưng nói chung, sự pháttriểncủaViễnthôngViệtNam được chia làm hai giai đoạn chính sau: 3 1. TìnhhìnhpháttriểncủaViễnthôngViệtNam trước đổi mới (trước năm 1986). Vào cuối những năm 70, do nhiều nguyên nhân nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Những tác động bất lợi củatìnhhình thế giới, hậu quảcủa chiến tranh còn nhiều, đất nước còn bị bao vây cấm vận, thêm vào đó, trongquá trình thực hiện những biện pháp cải cách đã phạm nhiều sai lầm nên khủng hoảng kinh tế - xã hội tiếp tục diễn ra rất gay gắt. Trongtìnhhình kinh tế - xã hội đất nước như vậy ViễnthôngViệtNam còn ở trongtình trạng quá lạc hậu, yếu kém, cả về cơ sở vật chất - kỹ thuật, lẫn phương thức kinh doanh, cả trình độ quản lý lẫn con người. 1.1 Về cơ cấu mạng Viễnthông chưa hình thành mạng quốc gia thống nhất. Mạng đang khai thác củaBưuđiện gồm các mạng nội hạt có kết cấu đa trạm ở hai thành phố lớn (Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh), có kết cấu đơn trạm ở các tỉnh lỵ, thị trấn. Cơ cấu mạng nông thôn chưa hình thành, các cấp trung tâm mạng đường dài chưa xác định, kích thước mạng đồng trục bé, ít vu hồi, độ dự phòng thấp, trên thực tế chưa đóng vai trò của mạng đường trục. Bên cạnh mạng lưới đang hoạt động của ngành Bưu điện, còn tồn tại nhiều mạng riêng của các Bộ, các Ngành (Bộ Nội vụ, Quân đội, Đường sắt .), các mạng này chiếm một phần cơ sở vật chất khá lớn củaViễn thông. Trong điều kiện chưa hình thành mạng quốc gia thống nhất, việc liên kết các mạng này trong một tổng thể, nhằm phát huy cao khả năng của chúng để tiết kiệm nguồn đầu tư cho Nhà nước tuy được đề cập đến, nhưng chưa có những quyết định và giải pháp triệt để. Thông tin với quốc tế chủ yếu qua phương thức sóng ngắn, tuy đến năm 1980 có bổ sung hệ thống vệ tinh Intersputnic. Đến năm 1985 mật độ điện thoại củaViệtNam rất thấp mới đạt 0,2 máy/100 dân so với châu Phi năm 1989 là 1,5 máy/100 dân. Nếu so sánh với các nước pháttriển công nghiệp thì con số này lại càng quá nhỏ bé. 1.2. Về tình trạng trang thiết bị: Về trang thiết bị chuyên dùng thuộc lĩnhvựcViễnthông nước ta gồm rất nhiều chủng loại, thuộc nhiều thế hệ và sản xuất từ nhiều nước khác nhau. Tất cả những thiết bị này đều thuộc thế hệ cũ. Số máy lẻ trong toàn quốc có khoảng 110000 máy. Trong số này có 55% đã nối tự động, số còn lại được nối với tổng đài nhân công. 4 Hệ thống dây trần phải đóng vai trò của mạng trục Bắc Nam. Trang thiết bị chắp vá, thiếu đồng bộ và lạc hậu. ở các tỉnh lỵ chủ yếu sử dụng tổng đài nhân công, còn ở 2 thành phố lớn (Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh) thì vẫn sử dụng thiết bị tổng đài và mạng cáp treo đã có hàng chục năm, thận chí trên 50 năm. Điều đó dẫn đến thông tin liên lạc ngay trong một tỉnh đã gặp khó khăn, thông tin liên tỉnh còn rất hạn chế về khối lượng, không tự động liên lạc quốc tế được. Năm 1986 có gần 20 ngàn cuộc đàm thoại quốc tế bị huỷ bỏ. Dịchvụ Telex trongnăm 1986 tuy có hoạt động nhưng còn rất nhỏ bé so với nhu cầu. Điện báo trong nước giảm mạnh, nhiều khi còn gửi theo thư. 2. TìnhhìnhpháttriểncủaViễnthôngViệtNam từ năm 1986 đến nay. Năm 1986, được đánh dấu bởi Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam, kinh tế ViệtNam bước sang một giai đoạn mới đó là giai đoạn đổi mới. Tiếp đến là Đại hội lần thứ VII của Đảng cùng các Nghị quyết của Trung ương, công cuộc đổi mới được triển khai mạnh mẽ trên khắp cả nước với môhình kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó đã làm cho ViễnthôngViệtNam gặp phải những khó khăn và thách thức lớn. Sự bất cập và yếu kém củaViễnthôngViệtNam trước đây nay càng trở nên bất cập hơn so với yêu cầu của công cuộc đổi mới, bộc lộ các mặt yếu kém, cả về khả năng phục vụ lẫn khai thác kinh doanh. Nhưng bên cạnh đó chính công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã tạo ra những thời cơ thuận lợi cho ViễnthôngViệt Nam. BưuđiệnViệtNam nói chung cũng như Viễnthông nói riêng đã nhận thức rõ vị trí trong nền kinh tế quốc dân, là một ngành thuộc kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Nếu Viễnthôngpháttriển nhanh và tốt sẽ tạo điều kiện cho cách ngành khác phát triển. Từ đó, ViễnthôngViệtNam tìm mọi cách đổi mới công nghệ trang thiết bị, đi thẳng vào công nghệ hiện đại theo hướng số hoá, tự động hoá và đa dịchvụ để đáp ứng kịp thời các nhu cầu pháttriển về thông tin liên lạc củathời kỳ đổi mới. Chỉ trong một thờigian ngắn ViễnthôngViệtNam đã được thay đổi căn bản từ mạng analog lạc hậu sang mạng kỹ thuật số hiện đại, cập nhật được kỹ thuật, công nghệ hiện đại của thế giới. Đảm bảo thông tin tự động trong nước và quốc tế, đóng góp tích cực cho sự nghiệp đổi mới vàpháttriển kinh tế xã hộicủa đất nước, giữ vững an ninh quốc phòng, phục vụ dân sinh và nâng cao dân trí. Có thể thấy được những thành tự củaViễnthôngViệtNam trên các mặt sau: 2.1. Mạng Viễnthông quốc tế 5 Bắt đầu từ năm 1987, mạng Viễnthông quốc tế đã tiến thẳng vào kỹ thuật hiện đại cả về kỹ thuật truyền dẫn cũng như chuyển mạch. Công nghệ kỹ thuật Digital được lựa chọn đầu tư phát triển. Hàng loạt công trình được xây dựng và đưa vào sử dụng, đáp ứng được nhu cầu cấp bách củaViễnthông quốc tế trong giai đoạn đổi mới. Năm 1987, công trình đài mặt đất thông tin vệ tinh Vista thuộc hệ Internet tại thành phố Hồ Chí Minh hoàn thành đưa vào sử dụng với tổng dung lượng 12 kênh gồm 8 kênh thông tin dịchvụ Sydney (Australia) và 4 kênh nghiệp vụ. Đến năm 1988, trạm vista được mở rộng, nâng cấp thành trạm tiêu chuẩn F2. Tháng 1 năm 1989, đài mặt đất thông tin vệ tinh Vista Hà Nội hoàn thành đưa vào sử dụng. Công trình hợp tác với hãng OTC - Australia, dung lượng 12 kênh gồm 8 kênh thông tin dịch vụ, 4 kênh nghiệp vụ. Và cũng trongnăm đó, đài mặt đất thông tin tiêu chuẩn 4 - thành phố Hồ Chí Minh (SAG - 1A) thuộc hệ thống Intesat được khánh thành và đưa vào khai thác. Năm 1990, tiếp theo thành phố Hồ Chí Minh là thành phố Hà Nội, đài mặt đất thông tin vệ tình tiêu chuẩn A (HAN - 1A) thuộc hệ thống Intersat được lắp đạt và đi vào khai thác. Nếu như trước đây để quay các cuộc gọi quốc tế thì người tiêu dùng phải túc trực hàng giờ để nhân viênBưuđiện đấu nối, nhưng đến ngày 13 - 12 - 1991 đã khánh thành và đưa vào hoạt động tổng đài liên lạc quốc tế (AXF - 103) đầu tiên củaViệtNam tại thành phố Hồ Chí Minh. Từ nay ViệtNam có thể quay số tự động quốc tế đi các nước trên thế giới. Và đến năm 1992, hai tổng đài quốc tế nữa được xây dựng và lắp đặt tại thành phố Hà Nội và thành phố Đà Nẵng. Ngày 17 -3 – 1994, hợp đồng xây dựng tuyến cáp quang biển quốc tế Thái Lan - ViệtNam - Hồng Kông (T - V - H) được chính thức ký kết tại Hồng Kông. Công trình có tổng chi phí là 151 triệu USD, trong đó phần đóng góp củaBưuđiệnViệtNam là 28,3%. Công trình được khánh thành vào đầu năm 1996, như vậy từ nay mạng Viễnthông quốc tế ViệtNam sẽ có thêm trên 7000 kênh liên lạc quốc tế. Để Mạng viễnthống quốc tế tiếp tục được đầu tư đón đầu về công nghệ và nâng cao dung lượng phục vụ cho các thông tin, trong tương lai ViễnthôngViệtNam đã tiếp tục xây dựng tuyến cáp biển SEA - MEA - WE3, CSC. Cho đến nay mạng Viễnthông quốc tế được xây dựng hiện đại, liên lạc ra ngoài bằng các phương thức qua vệ tinhvà cáp quang biển. Gồm 7 trạm vệ tinh mặt đất thuộc cả hai hệ Inter Sputnet và Iutelsat và các tổng đài quốc tế hiện đại AXE - 103 đặt tại 3 thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hà Nội và thành phố Đà Nẵng đã cung cấp các dịchvụ gọi tự động quốc tế về điện thoại, Fax, truyền số liệu . phục vụ cho yêu cầu pháttriển kinh tế, Văn hoá, phục vụ yêu cầu của tất cả các ngành, các tổ chức kinh tế, mọi thành phần 6 kinh tế và nhu cầu cần giao tiếp của nhân dân. Đến hết năm 1998, ViệtNam đã mở được 5013 kênh quốc tế trong đó kênh cáp biển chiếm 60% (3023 kênh). Bảng 1: Số lượng kênh quốc tế giai đoạn 1995 - 1998. Năm 1995 1996 1997 1998 Số lượng kênh 3402 4285 4838 5013 Trong đó Kênh cáp biển 430 1802 2837 3023 Kênh vệ tinh 2972 2283 2001 1990 (Nguồn: Báo cáo hàng nămcủa Tổng công ty Bưu chính ViễnthôngViệt Nam). Tính đến cuối năm 1998 ViễnthôngViệtNam đã hoà mạng trực tiếp với 36 quốc gia trên thế giới vàquá giang đi tất cả các quốc gia còn lại trên thế giới. ViệtNam còn là thành viêncủa 7 tổ chức Viễnthông quốc tế. Giờ đây, trên đất nước Việt Nam, ở bất kỳ một địa điểm nào có điện thoại đều có thể liên lạc quađiện thoại tự động với người nước ngoài một cách dễ dàng nhanh chóng. Lưu lượng thông tin quốc tế từ năm 1990 đến nay hàng năm đều tăng lên, năm sau gấp đôi năm trước. Biểu đồ 1: Sản lượng điện thoại quốc tế cả đi và đến - (1991 - 1998) (Nguồn: Báo cáo hàng nămcủa Tổng công ty Bưu Chính - Viễn thông). 2.2. Mạng Viễnthôngtrong nước. 7 0 50 100 150 200 250 300 350 400 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 Trieu phut 19,9 38,83 64,42 136,5 210 273 346,2 387,4 Bao gồm các hệ thống chuyển mạch, các tuyến truyền dẫn đường trục, liên tỉnh, nội tỉnh được xây dựng hiện đại, vững chắc, rộng rãi và đều khắp bằng cả ba phương thức hiện đại: Cáp quang, vi ba số vàqua vệ tinh. 2.2.1. Trên tuyến đường trục Bắc - Nam. Tuyến cáp quang tốc độ 34 Mb/s (480 kênh) dài 1830 km được khởi công đầu năm 1992. Sau hơn một năm nỗ lực phấn đấu vượt nhiều khó khăn về vốn, vật tư kỹ thuật và các điều kiện thi công khác đã hoàn thành đưa vào sử dụng phát huy hiệu quả vốn đầu tư, phục vụ kịp thời nhu cầu về thông tin liên lạc trên tuyến trục Bắc - Nam. Khi xây dựng do bị cấm vận kỹ thuật cao của Mỹ nên có dung lượng nhỏ 34 Mb/s. Đến năm 1995 tuyến cáp quang này được nâng cấp từ công nghệ PDH - 34 Mb/s lên công nghệ SDH - 2,5 Gb/s tương đương 30000 kênh liên lạc tiêu chuẩn. Tuyến cáp quang trên đường dây 500 KV được đầu tư lắp đặt với thiết bị hiện đại. Hệ thống sợi cáp quang SDH 2,5GB/s Hà Nội - thành phố Hồ Chí Minh gồm 4 mạc vòng truyền dẫn liên tỉnh, có 36 trạm trải dài trên 3700 km. Đây là tuyến cáp quang gồm những thiết bị đồng bộ, có dung lượng truyền dẫn đến 30000 kênh thoại, với công nghệ tiên tiến và là tuyến thông tin quang công nghệ SDH 2,5Gb/s dài nhất hiện nay trong khu vực Đông Nam á. Ngoài hai tuyến cáp quang kể trên thì mạng lưới Viễnthông Bắc - Nam còn có tuyến vi ba số băng rộng 140 Mb/s có dung lượng 1920 kênh điện thoại được đưa vào khai thác cuối năm 1993, nối liền các tỉnh phía Bắc với miền Trung, Tây Nguyên và các tỉnhNam Bộ. Vàtrong hai năm 1997 và 1998, tuyến vi ba số này đã được nâng cấp, mở rộng dung lượng từ (1 + 1) lên (2 + 1). Các kênh lên lạc qua vệ tinh được thôngqua các đài mặt đất thông tin vệ tinh Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh. Đến hết năm 1997 đã hoà mạng 169 tổng đài (trong đó có 5 tổng đài cấp I, 13 tổng đài cấp II, 51 tổng đài cấp III), mở rộng các tổng đài hiện có với tổng dung lượng lắp đặt mới là 770000 số, đưa số tổng đài trên toàn mạng là 1528 với tổng dung lượng lắp đặt 2221272 số. Tóm lại, các tuyến liên lạc đường trục trên đã và sẽ góp phần đáng kể chất lượng thông tin trên tuyến lạc Bắc - Nam, các tuyến có lưu lượng thông tin lớn nhất toàn quốc. 2.2.2. Các tuyến liên lạc liên tinh. Được toả ra từ ba trung tâm Viễnthông lớn của toàn quốc là Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh bằng các tuyến cáp quang hoặc bằng các tuyến vi ba số có dung lượng 16 - 34 - 140 Mb/s. Trước đây khi pháttriển do nguồn vốn hạn hẹp, nhu 8 cầu phục vụ lại cần ngay cho nên ở một số tuyến liên tỉnh có sử dụng vi ba dung lượng nhỏ 2 - 16 Mb/s, nay các tuyến này đã và đang được thay bằng tuyến vi ba băng rộng 140 Mb/s và các thiết bị băng hẹp trên hiện được đưa xuống mạng huyện, xã để pháttriển các tuyến liên lạc cấp II và cấp III. Trên các tuyến thông tin của các vùng địa bàn kinh tế trọng điểm có lưu lượng lớn như: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, thành phố Hồ Chí Minh - Biên Hoà - Vũng Tàu ., ngoài các tuyến vi ba số còn đang được trang bị thêm song song bằng các tuyến cáp quang 622 Mb/s công nghệ đồng bộ sô SDH, góp phần phục vụ đắc lực cho việc pháttriển kinh tế xã hộicủa các vùng trọng điểm kinh tế đầy năng động này. Hệ thống chuyển mạch quá giang liên tỉnh trước đây được trang bị 2 tổng đài TANDEMTDX - 10 của Hàn Quốc tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, năm 1995 đã được trang bị bổ sung thêm hai tổng đài trung chuyển - TOLL AXE - 10 của Thuỵ Điển có trang bị tín hiệu 7 làm nhiệm vụ lưu thoát lưu lượng liên tỉnh cho khu vựcvà các tuyến trục, chuẩn bị cho việc xây dựng xa lộ thông tin và đưa các dịchvụ băng rộng vào phục vụ. Đến cuối năm 1998, 61/61 tỉnh, thành phố, 100% số huyện đã được trang bị tổng đài điện tử số, 500/500 huyện được trang bị truyền dẫn số, được kết nối lại với nhau, liên lạc với nhau một cách tự động. 2.3. Các dịchvụViễnthông được cung cấp: Cho đến trước năm 1990 dịchvụ cung cấp cho khách hàng chỉ là các dịchvụ truyền thống như: Điện thoại, điện báo, Telex chất lượng thấp, đấu nối chậm, khách hàng phải tốn nhiều thờigian chờ đợi . Đến nay nhờ việc đưa vào trên mạng lưới các thiết bị chuyển mạch, truyền dẫn điện tử kỹ thuật số, nhiều dịchvụ mới đã được cung cấp cho xã hội: Truyền số liệu, điện thoại thấy hình, hội nghị truyền hình, thông tin di động, vô tuyến nhắn tin. đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng cả về số lượng lẫn chất lượng cho khách hàng thể hiện ở các dịchvụ chủ yếu sau: 2.3.1 Điện thoại gọi số Là những cuộc gọi mà điện thoại viên quay số trực tiếp đến thuê bao cần gặp ở mạng nội hạt, đường dài trong nước và quốc tế. Cuộc gọi được kết nối thôngqua thiết bị mạng lưới kỹ thuật Viễn thông. Điện thoại gọi số ngày càng được mở rộng trong cả nước, đến hết năm 1998 dịchvụđiện thoại số đã được cung cấp đén 75,7% số xã trong cả nước, trong đó có 90% số xã đồng bằng, 61% số xã vùng trung du, 32% số xã miền núi; 65/69 số xã huyện đảo, 50% số xã trọng điểm đường biên, 21/21 cửa khẩu quốc gia, 20/38 cửa khẩu địa phương đã được trang bị liên lạc thoại. Có được kết quả như 9 vậy một phần do số lượng điện thoại trongthờigianqua tăng rất nhanh. Nếu như năm 1989, cả nước mới có 113417 máy điện thoại, mật độ điện thoại trên 100 dân mới đạt 0,1 máy, thì năm 1993 đã tăng lên là 268000 máy, mật độ điện thoại được nâng lên là 0,37 máy/100 dân và đến năm 1994 là 470000, mật độ điện thoại là 0,65 máy/100 dân. Tính đến cuối năm 1995, con số đó đã tăng lên là 766400 máy mật độ điện thoại là 1,06 máy/100 dân. Đến hết năm 1998 ViệtNam có gần 1,8 triệu máy điện thoại cố định tăng gấp 20 lần so với khi mới bắt đầu mởcửa (năm 1987 mới chỉ có khoảng gần 90000 máy). Đạt mật độ điện thoại bình quân là 2,45 máy/100 dân. ViệtNam là nước thứ 34 trên thế giới có tổng số thuê bao đạt trên 1,5 triệu máy. Bảng 2: Số máy điện thoại từ năm 1991 - 1998 Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 Tổng số máy 52500 170000 268000 470000 766400 118600 1 587000 1799640 Số máy tăng lên 19000 117500 118000 202000 366400 419600 401000 212640 (Nguồn: Số liệu báo cáo hàng nămcủa Tổng công ty Bưu chính - ViễnthôngViệtNam ). Bảng 3: Số xã có máy điện thoại giai đoạn 1991 - 1998. Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 Số xã có máy điện thoại 780 1018 1603 3914 5566 5765 6470 (Nguồn: Số liệu báo cáo hàng nămcủa Tổng công ty Bưu chính - Viễn thông). 2.3.2. Điện thoại di động: Máy điện thoại di động là một máy thu phát vô tuyến điện loại nhỏ, gọn nhẹ có thể bỏ túi áo, xách tay, để trên ô tô. Dịchvụthông tin di động là dịchvụthông tin vô tuyến (không dây) rất tiện lợi cho khách hàng sử dụng. Khách hàng vẫn thông tin liên lạc bình thường với máy điện thoại cố định, với máy điện thoại di động trong nước hoặc quốc tế trong khi đi lại ở bất cứ nơi nào trong phạm vi phủ sóng của hệ thốngphát vô tuyến điện. Hiện nay, Bưuđiện đang triển khai mạng dịchvụthông tin di động kỹ thuật số với công nghệ tiên tiến của thế giới (GSM) mức độ bảo mật cao với hai mạng khai thác là MobilFone và ViNaFone. Sau gần 3 năm đưa vào khai thác và phục vụdịchvụthông tin di động đã phủ sóng ở trung tâm 61/61 tỉnh thành và các huyện lỵ, đô thị quan trọng với 411 trạm BTS, tổng dung lượng là 266500 số với hiệu suất sử dụng đạt gần 80% với 208600 thuê bao trong cả hai mạng. 10 [...]... tiếp vào hệ thống tổng đài điện tử củaBưuđiện để liên lạc với các thiết bị Fax thôngqua mạng lưới Viễnthông 2.3.8 Các loại dịchvụ khác Ngoài loại dịchvụ chủ yếu kể trên thì hiện tại ViễnthôngViệtNam còn cung cấp nhiều loại dịchvụViễnthông khác như dịchvụđiện thoại thấy hình, hội nghị truyền hình, truyền số liệu, chuyển tiền điện tử, dịchvụđiện thoại HCD (Home country Direct), điện thoại... dịchvụViễnthông là do Nhà nước độc quyền và thực hiện độc quyền công ty, chỉ có doanh nghiệp Nhà nước là Tổng công ty Bưu chính - ViễnthôngViệtNam hoạt động tronglĩnhvực này Trongthờigian này, Tổng công ty Bưu chính - ViễnthôngViệtNam đã đảm nhiệm tốt việc phục vụ các nhiệm vụ chính trị, thực hiện tốt giai đoạn I tăng tốc pháttriểnBưu Chính -Viễn thôngViệtNam Tới năm 1995, căn cứ vào... thôngTrong hai vòng đàm phán vừa qua, mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng quan điểm củaViệtNam về tự do hoá dịchvụViễnthông với các nước thành viên WTO có liên quan tới ViệtNam còn có nhiều bất đồng ý kiến Các nước thành viên WTO đặc biệt là Hoa Kỳ đã gây áp lực yêu cầu ViệtNam phải mởcửa thị trường dịchvụViễnthông ngay Tuy nhiên xét về tình hìnhpháttriển Viễn thông hiện nay củaViệtNam thì... cấp dịchvụViễnthôngcủaViệtNam dưới hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh 3.2 Kế hoạch hành động giai đoạn 1998 - 2000 + Ban hành luật Bưu chính - Viễnthông + Tiếp tục pháttriểnvà hiện đại hoá cơ sở hạ tầng Viễnthông nhằm phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước + Pháttriển nhiều loại hìnhdịchvụ mới, đặc biệt là các dịchvụ giá tại gia tăng + Tham gia tích cực vào các hoạt động Viễn. .. Viễnthông cơ bản vàdịchvụViễnthông giá trị gia tăng đều liên quan đến 4 hình thức cung cấp: (1) Cung cấp qua biên giới (2) Tiêu thụ nước ngoài (3) Hiện diện thương mại (4) Hiện diệncủa các thể nhân 35 Cam kết II: Dự thảo cam kết về dịchvụViễnthôngtrong Hiệp định thương mại Việt Mỹ Các dịchvụViễnthông + Các dịchvụViễnthông trị giá gia tăng: - Dịchvụ thư điện tử - Dịchvụ thư thoại - Dịch. .. các cơ quan có thẩm quyền củaViệtNam phê duyệt -mạch kênh ViệtNamthôngqua hợp động hợp tác kinh doanh với đối tác Việt - Dịchvụđiện báo Nam được phép kinh doanh dịchvụViễnthông - Dịchvụđiện tử Sau 5 năm kể từ ngày hiệp định có hiệu lực, các công ty cung cấp dịchvụ Hoa kỳ có thể được xem xét để thành lập liên doanh với - Dịchvụ fax đối tác ViệtNam được phép kinh doanh dịchvụViễn thông. .. hoà nhập một cách đầy đủ vào các tổ chức kinh tế quốc tế trên thế giới cũng như khu vực thì ViệtNam phải thực hiện rất nhiều nghĩa vụ khác nhau trong đó có nghĩa vụ tự do hoá dịchvụViễnthôngTrongthờigian qua, Tổng cục Bưuđiện cùng với các bộ ngành có liên quan đã đàm phán và đưa ra các cam kết về tự do hoá dịchvụViễnthôngtrong các tổ chức APEC, ASEAN, WIO vàtrong Hiệp định thương mại Việt. .. 1 Trong quan hệ với WTO Hiện tại ViệtNam vẫn chưa trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới - WTO Nhưng trongthờigian vừa qua để phục vụ cho việc đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam, Tổng cục Bưuđiện đã tham gia đầy đủ các cuộc đàm phán và trả lời các câu hỏicủa các nước thành viên WTO liên quan đến việc công khai hoá thể lệ và chính sách củaViệtNam trong lĩnhvựcViễn thông. .. Văn hoá thông tin; Phương Namcủa trung tâm hội chợ triển lãm Việt Nam; Công ty Pacrim; FPT Vnn của VDC (Công ty điện toán và truyền số liệu); Thông tấn xã Việt Nam; Tổng cục Bưu điện; Trung tâm thông tin Bưuđiện thuộc Tổng công ty Bưu chính ViễnthôngViệtNam Các nhà cung cấp nội dung thông tin trên Internet được mở nhiều Website trong nước và giới thiệu ra nước ngoài 1.2.2 Về cơ chế quản lý và hiệu... cạnh tranh tronglĩnhvực này + Tham gia và thâm nhập một cách tích cực vào thị trường thông tin ASEAN và khu vực 4 Trong hiệp định thương mại Việt - Mỹ Hiện tại đã kết thúc phiên đàm phán thứ 6 về Hiệp định thương mại Việt Mỹ Trong 6 phiên đàm phán vừa qua, Tổng cục Bưuđiện cùng với Bộ thương mại xây dựng các phương án đàm phán về dịchvụViễnthông liên quan mởcửa thị trường ViễnthôngViệtNam cho . Tình hình phát triển và mở cửa hội nhập của Bưu điện Việt Nam trong lĩnh vực dịch vụ Viễn thông trong thời gian qua Trước khi đi vào xây dựng. trình mở cửa và hội nhập của dịch vụ Viễn thông Việt Nam, trong chương này sẽ giúp chúng ta tìm hiểu tình hình phát triển và mở cửa hội nhập của Bưu điện Việt
Bảng 1
Số lượng kênh quốc tế giai đoạn 1995 - 1998 (Trang 7)
bảng 7
Tổng số vốn đầu tư qua hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (Trang 27)
Hình th
ức cung cấp: <1> Cung cấp qua biên giới; <2> Tiêu thụ ở nước ngoài; <3> Hiện diện thương mại; <4> Hiện diện của các thế nhân (Trang 33)