1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Pháp luật giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại tòa án từ thực tiễn tỉnh quảng ninh

82 97 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 82
Dung lượng 525,61 KB

Nội dung

Tình hình nghiên cứu Trước tiên phải kể đến những công trình, bài viết khoa học về giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án hoặc liên quan đến giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án

Trang 1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG CÁ NHÂN TẠI TÒA ÁN TỪ THỰC TIỄN

Trang 2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG CÁ NHÂN TẠI TÒA ÁN TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

Trang 3

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của Giáo viên hướng dẫn Các số liệu trong luận văn là trung thực

và đúng quy định!

Học viên thực hiện Luận văn

Phạm Thị Thu Huyền

Trang 4

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành được Luận văn thạc sỹ, đề tài “Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” tôi

đã nhận được sự giúp đỡ của nhiều cá nhân, tổ chức:

Trước tiên, tôi xin bày tỏ sự kính trọng và biết ơn sâu sắc tới TS Đỗ Ngân Bình, người thầy đã hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình hoàn thành luận văn này Những nhận xét, đánh giá và định hướng của cô thực sự

là bài học vô cùng quý giá đối với tôi

Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy giáo, cô giáo Viện Đại học Mở

Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô Khoa Sau đại học - Viện Đại học Mở Hà Nội, cùng các thầy cô đã giảng dạy, giúp đỡ và truyền đạt kiến thức cho tôi trong suốt thời gian qua

Cuối cùng, để có được số liệu thực tế, chính xác tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới các anh chị cán bộ ngành Tòa án tại tỉnh Quảng Ninh

đã giúp đỡ tôi

Mặc dù bản thân đã có nhiều cố gắng để hoàn thành đề tài một cách hoàn chỉnh nhất, song không thể tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót khi thực hiện luận văn này Kính mong Quý thầy, cô đóng góp ý kiến để luận văn của tôi được hoàn thiện hơn

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Tác giả luận văn

Phạm Thị Thu Huyền

Trang 5

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

TCLĐ: Tranh chấp lao động

TAND: Tòa án nhân dân

ASEAN: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (Association of Southeast

Asian Nations) AFTA: Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN

Trang 6

MỤC LỤC

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG

CÁ NHÂN TẠI TÒA ÁN VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

1.1 Một số vấn đề chung về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân 4

1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của tranh chấp lao động cá nhân 4

1.1.1.1 Khái niệm tranh chấp lao động cá nhân 4

1.1.1.2 Đặc điểm của tranh chấp lao động cá nhân 6 1.1.2 Các phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân 9 1.1.3 Khái niệm, đặc điểm và vai trò của việc giải quyết tranh chấp lao động cá

1.1.3.1 Khái niệm, đặc điểm của giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại

1.1.3.2 Vai trò của giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án 15

1.2 Điều chỉnh bằng pháp luật đối với vấn đề giải quyết tranh chấp lao động cá

1.2.1 Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với vấn đề giải quyết tranh

1.2.2 Những nội dung cơ bản của pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá

1.3 Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật lao động Việt Nam về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án 22

PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG

CÁ NHÂN TẠI TÒA ÁN VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆNTẠI TỈNH QUẢNG

Trang 7

2.1.4.1 Thủ tục giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án cấp sơ

2.1.4.2 Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án cấp phúc thẩm 42 2.1.4.3 Giải quyết vụ án lao động theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, thủ

2.1.5 Thời hiệu yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp lao động cá nhân 46

2.2 Thực tiễn giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án trên địa bàn

3.1 Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp lao

3.2 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp lao

3.3 Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp lao động

cá nhân tại Tòa án trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh 68

Trang 8

LỜI MỞ ĐẦU

1 Lý do chọn đề tài

Hiện nay, cùng với sự phát triển kinh tế- xã hội, quan hệ lao động cũng không ngừng phát triển, tình hình tranh chấp lao động đặc biệt là tranh chấp lao động cá nhân có diễn biến phức tạp và ngày càng gia tăng, ảnh hưởng không nhỏ đến trật tự xã hội cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh Vấn đề đặt ra là làm thế nào để giải quyết tốt các tranh chấp lao động cá nhân nhằm đảm bảo quyền, lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động

Thực tiễn cho thấy tranh chấp lao động xảy ra ngày một nhiều, việc giải quyết tranh chấp lao động, đặc biệt là lao động cá nhân tại Tòa án nói chung, tại Tòa án nhân dân Quảng Ninh nói riêng có nhiều chuyển biến theo chiều hướng tích cực Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vẫn gặp nhiều khó khăn, hạn chế cần được tháo gỡ Những hạn chế đó đã gây những tác động tiêu cực đến quan hệ lao động, đặc biệt là trong cơ chế thị trường hiện nay

Vì những lý do trên, tác giả đã lựa chọn vấn đề “Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” làm đề tài

nghiên cứu luận văn thạc sỹ

2 Tình hình nghiên cứu

Trước tiên phải kể đến những công trình, bài viết khoa học về giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án hoặc liên quan đến giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án đã được công bố như: Giáo trình Luật Lao động Việt Nam của Khoa Luật –Đại học Xã hội và Nhân văn quốc gia, 2000; Giáo trình Luật Lao động Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2010; Thủ tục giải quyết các vụ án lao động theo Bộ luật Tố tụng dân sự của Phạm Công Bảy, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm 2006; Luận văn Tiến sỹ Luật học, Tài phán lao động theo quy định của pháp luật Việt Nam, Lưu Bình Nhưỡng, năm 2002; Luận văn Thạc sỹ luật học, Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án nhân dân, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Vũ Thị Thu Huyền năm 2002; một số bài viết: Những điểm mới về tranh

Trang 9

chấp lao động và giải quyết tranh chấp lao động theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động năm 2006 của Nguyễn Xuân Thu, Tạp chí Luật học ban hành số 07/2007…

Từ những công trình nghiên cứu trên đã cho thấy vấn đề giải quyết tranh chấp lao động cũng như giải quyết tranh chấp lao động cá nhân đã được đề cập, nhưng ít có công trình nghiên cứu thực tiễn được thực hiện tại một địa bàn cụ thể Trong bối cảnh đó, tỉnh Quảng Ninh với tốc độ tăng trưởng kinh tế đang gia tăng và mục tiêu phát triển toàn diện các ngành mũi nhọn, không thể tránh khỏi sự xuất hiện của các vụ tranh chấp lao động cá nhân Do vậy, qua công trình nghiên cứu này, tác giả hy vọng sẽ đóng góp được một phần vào việc nghiên cứu và hoàn thiện vấn đề giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án và phù hợp với yêu cầu phát triển của tỉnh Quảng Ninh nói riêng, của đất nước ta trong thời kỳ hội nhập nói chung

3 Phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án và thực tiễn tại tỉnh Quảng Ninh

Cụ thể là, luận văn tập trung nghiên cứu các quy phạm pháp luật và thực tiễn

áp dụng giải quyết các tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án tại tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn từ năm 2010 đến tháng 5/2017

Luận văn được nghiên cứu dưới góc độ pháp luật lao động, đồng thời có đề cập đến một số quy phạm của Luật Tố tụng Dân sự nhằm hỗ trợ cho việc hoàn thành mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

4 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

Mục đích của đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án, trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án theo quy định của pháp luật Việt Nam Đồng thời tìm hiểu về thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, từ đó chỉ ra những bất cập để đưa ra những kiến

Trang 10

nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp lao động

cá nhân tại Tòa án

Để đạt được mục đích trên, luận văn có 4 nhiệm vụ sau:

- Một là, nghiên cứu những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp lao động

cá nhân tại Tòa án

- Hai là, nghiên cứu thủ tục giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án theo quy định của pháp luật hiện hành

- Ba là, nghiên cứu, đánh giá thực tiễn giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án tại tỉnh Quảng Ninh, chỉ ra những vấn đề còn hạn chế

- Bốn là, đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án, phù hợp với điều kiện tỉnh Quảng Ninh hiện nay

5 Phương pháp nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở quan điểm của Chủ nghĩa Mác –Lê nin, tư tưởng Hồ Chí minh, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và pháp luật Các phương pháp được

sử dụng khi tiếp cận và nghiên cứu các vấn đề hoặc nhóm vấn đề ở tất cả các chương của đề tài cụ thể như: phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu

Trang 11

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG CÁ NHÂN TẠI TÒA ÁN VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG

CÁ NHÂN TẠI TÒA ÁN 1.1 Một số vấn đề chung về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân

1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của tranh chấp lao động cá nhân

1.1.1.1 Khái niệm tranh chấp lao động cá nhân

Vấn đề giải quyết tranh chấp lao động được quy định trong pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới, nhưng tùy theo đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội của từng nước mà khái niệm tranh chấp lao động được hiểu và định nghĩa không hoàn toàn giống nhau Nhìn chung, khái niệm về tranh chấp lao động thường được hiểu theo hai cách cơ bản như sau [18]:

Thứ nhất, hiểu theo nghĩa rộng: Tranh chấp lao động là mọi tranh chấp phát

sinh trong lĩnh vực lao động - việc làm Theo cách hiểu này, tranh chấp lao động là một khái niệm khá rộng và bao trùm Tất cả các mâu thuẫn, xung đột giữa người sử dụng lao động và người lao động liên quan đến quan hệ lao động và việc làm đều được xem là tranh chấp lao động

Thứ hai, hiểu theo nghĩa hẹp: Tranh chấp lao động là những tranh chấp phát

sinh từ quan hệ hợp đồng lao động Theo cách hiểu này, tranh chấp lao động chỉ bó hẹp trong phạm vi những mâu thuẫn, xung đột phát sinh từ quan hệ hợp đồng lao động giữa người sử dụng lao động và người lao động

Trước đây, ngày 08/7/1952 Bộ luật Lao động của chế độ Cộng hòa được ban hành dưới thời vua Bảo Đại chưa sử dụng cụm từ tranh chấp lao động mà dùng khái

niệm “phân tranh lao động” Khái niệm “tranh chấp lao động” được sử dụng chính

thức trong Thông tư liên ngành số 02/TT-LN ngày 02/10/1985 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động và Tổng cục dạy

Trang 12

nghề về việc hướng dẫn thực hiện thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân về một

số tranh chấp lao động Mặc dù vậy Thông tư liên ngành số 02/TT-LN ngày 02/10/1985 cũng chưa định nghĩa thế nào là tranh chấp lao động, mà chỉ nêu ra cụm

từ này tại thông tư Chính vì vậy trong giai đoạn này các nhà nghiên cứu, các chuyên gia trong lĩnh vực này cũng chưa đưa ra quan điểm, chưa định nghĩa thế nào

1990 đây được coi là quy định đầu tiên giải thích khái niệm tranh chấp lao động Tuy nhiên, quy định tại Điều 27 Pháp lệnh hợp đồng lao động năm 1990 vẫn chưa phải là một định nghĩa hoàn chỉnh về tranh chấp lao động

Ngày 23/6/1994, Bộ luật Lao động năm 1994 ra đời thay thế cho Pháp lệnh

về hợp đồng lao động đưa ra định nghĩa về tranh chấp lao động, khoản 1 Điều 157

quy định: “Tranh chấp lao động là những tranh chấp về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương và các điều kiện lao động khác; về việc thực hiện hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể và trong quá trình học nghề” Trong giai đoạn

này, các nhà làm luật dùng phương pháp liệt kê để đưa ra định nghĩa tranh chấp lao động, chính vì dùng phương pháp này nên việc liệt kê chưa được đầy đủ, không bao hàm được hết các tranh chấp được coi là tranh chấp lao động

Qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, đến Bộ luật Lao động sửa đổi, bổ sung năm

2006 đã đưa ra một định nghĩa hoàn thiện hơn về tranh chấp lao động: “Tranh chấp lao động là những tranh chấp về quyền và lợi ích phát sinh trong quan hệ lao động giữa người lao động, tập thể lao động với người sử dụng lao động”.Tới định nghĩa

này đã có sự phân biệt tranh chấp lao động thành tranh chấp lao động cá nhân và tranh chấp lao động tập thể

Trang 13

Để phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong tình hình mới Bộ luật Lao động năm 2012 (có hiệu lực từ ngày 01/5/2013) đã có rất nhiều quy định về quan hệ lao động được thay đổi Tại khoản 7 Điều 3 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định:

“Tranh chấp lao động là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh giữa các bên trong quan hệ lao động” Có thể thấy tại Bộ luật Lao động năm 2012 ghi

nhận chủ thể của tranh chấp lao động được rộng hơn đó là do có sự phát sinh quan

hệ cho thuê lại lao động giữa ba bên: doanh nghiệp cho thuê lại lao động – bên thuê lại lao động – người lao động thuê lại Tại bộ luật này khi định nghĩa về tranh chấp lao động cụm từ “giữa các bên trong quan hệ lao động” đã được thay thế cho cụm từ

“giữa người sử dụng lao động và người lao động” để đảm bảo các quyền và các lợi ích khác của các chủ thể này khi tham gia vào quan hệ lao động

Cụ thể là, tại khoản 7 Điều 3 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định: “Tranh chấp lao động bao gồm tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động và tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể người lao động với người sử dụng lao động” Việc xác định đúng loại tranh chấp nhằm để đánh giá

đúng thực chất của các tranh chấp lao động trên cơ sở đó mà giải quyết chúng có hiệu quả

Từ những phân tích trên đây, có thể thấy tranh chấp lao động cá nhân là những mâu thuẫn, xung đột về quyền, nghĩa vụ, lợi ích giữa cá nhân người lao động với người sử dụng lao động trong quan hệ lao động hoặc trong quan hệ liên quan đến quan hệ lao động được biểu hiện bằng một hình thức pháp lý nhất định

1.1.1.2 Đặc điểm của tranh chấp lao động cá nhân

Tranh chấp lao động cá nhân vừa mang những đặc điểm của một tranh chấp lao động nói chung lại vừa có những đặc điểm khác biệt so với tranh chấp lao động tập thể Những đặc điểm riêng này giúp phân biệt nó với các tranh chấp khác [17]:

Thứ nhất, tranh chấp lao động cá nhân thường phát sinh từ những mâu thuẫn vốn có giữa các bên trong quan hệ lao động

Trang 14

Có thể thấy, trong quan hệ lao động lợi ích của các bên là đối lập nhau, tuy nhiên hai bên lại rất cần đến nhau, phụ thuộc nhau Về mối quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động: Nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện đúng quy định của pháp luật lao động và các cam kết đã thoả thuận với người lao động như: chậm trả lương, không nâng lương hàng năm cho người lao động hoặc nâng với mức quá thấp, thời gian làm thêm giờ của người lao động quá nhiều, việc trả lương làm thêm giờ cho người lao động không đầy đủ, chấm dứt hợp đồng lao động tuỳ tiện không có căn cứ pháp luật, doanh nghiệp áp dụng các biện pháp quản lý “hà khắc”, nhiều doanh nghiệp ký kết thoả ước lao động tập thể chỉ mang tính đối phó

Về phía người lao động, phần lớn xuất thân từ nông thôn chưa được đào tạo cơ bản

và có hệ thống, công tác tuyên truyền, giáo dục chưa được quan tâm nên sự hiểu biết về chính sách, pháp luật, ý thức tổ chức kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp còn hạn chế dẫn đến việc không thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ khi tham gia quan hệ lao động … Tất cả những điều đó vốn đã tồn tại sẵn trong quan hệ lao động Nếu các bên không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, đúng quy định của pháp luật thì việc phát sinh mâu thuẫn dẫn đến tranh chấp lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động tiềm ẩn có thể xảy ra bất cứ lúc nào

Thứ hai, tranh chấp lao động cá nhân là tranh chấp giữa các bên có mối quan hệ lệ thuộc lẫn nhau

Tranh chấp lao động cá nhân thường là tranh chấp giữa một người lao động cụ thể với bên sử dụng lao động Về mặt lợi ích kinh tế, giữa người sử dụng lao động

và người lao động vừa có sự mâu thuẫn, vừa có sự thống nhất phụ thuộc lẫn nhau Ở khía cạnh nhất định, giữa người sử dụng lao động luôn muốn giảm tới mức thấp nhất các khoản chi phí trong đó có vấn đề tiền lương của người lao động để tăng lợi nhuận Tuy nhiên, tiền lương và thu nhập trong quan hệ lao động lại là nguồn sống chủ yếu của người lao động Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là người sử dụng lao động không có sự phụ thuộc vào người lao động Người lao động sử dụng sức lao động của mình để làm việc cho người sử dụng lao động, do đó, người sử dụng lao động cũng có sự phụ thuộc ít nhiều vào nguồn nhân lực về số lượng, chất lượng

Trang 15

Thứ ba, về nội dung tranh chấp lao động cá nhân

Người lao động và người sử dụng lao động tham gia vào quan hệ lao động đồng nghĩa với việc xác lập quyền và nghĩa vụ của họ trong quan hệ đó Khi đó, các bên có mối liên hệ mật thiết với nhau, quyền, lợi ích và nghĩa vụ gắn liền với nhau Một trong các bên không thực hiện đúng, đủ nghĩa vụ của mình đồng nghĩa với việc ảnh hưởng đến lợi ích của đối phương, từ đó dẫn đến tranh chấp giữa các bên Vì vậy, tranh chấp lao động cá nhân thường phát sinh trong trường hợp có sự vi phạm pháp luật Nội dung của tranh chấp lao động cá nhân thường liên quan đến quyền, lợi ích, nghĩa vụ của cá nhân người lao động và thường nảy sinh trên cơ sở hợp đồng lao động

Thứ tư, về tính chất của tranh chấp lao động cá nhân

Quy mô, tổ chức và tính phức tạp của tranh chấp lao động cá nhân thể hiện đặc trưng của loại tranh chấp này, giúp nó phân biệt với tranh chấp lao động tập thể Đặc biệt trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động cá nhân, tổ chức công đoàn không tham gia với tư cách là một bên của tranh chấp hoặc chỉ tham gia với tư cách

là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động Người lao động tham gia tranh chấp đòi hỏi quyền lợi riêng cho cá nhân mình và giữa những cá nhân người lao động thường không có sự liên kết, gắn bó, thống nhất ý chí với nhau Từ đó thấy được tranh chấp lao động cá nhân không mang tính tổ chức và sự ảnh hưởng đến đời sống kinh tế - chính trị - xã hội chỉ ở mức độ nhất định [24]

Thứ năm, trong tranh chấp lao động cá nhân, các bên có xu hướng hợp tác với nhau nhằm cố gắng duy trì quan hệ lao động

Khi thiết lập quan hệ lao động, người sử dụng lao động và người lao động đều mong muốn đem lại lợi ích cho bản thân mình, hai bên hợp tác đem lợi lợi ích cho nhau, việc duyy trì quan hệ này là điều cả hai đều mong muốn Chính vì thế, việc xảy ra mâu thuẫn dẫn đến tranh chấp lao động giữa người sử dụng lao động và người lao động là điều mà các bên không mong muốn Bởi lẽ, khi xảy ra tranh chấp

sẽ ảnh hưởng đến việc làm, công sức, tiền bạc… của người lao động, gây mất thời

Trang 16

gian, ảnh hưởng nguồn nhân lực, thậm chí ảnh hưởng đến lao động sản xuất… của người sử dụng lao động Chính vì vậy, khi tranh chấp xảy ra, các bên có nhu cầu hợp tác với nhau để vụ việc tranh chấp được giải quyết nhanh chóng, hạn chế sự ảnh hưởng tiêu cực cả về vật chất và tinh thần đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của người sử dụng lao động và đời sống của người lao động

Thứ sáu, tranh chấp lao động cá nhân có khả năng chuyển hóa thành tranh chấp lao động tập thể

Khi quyền, lợi ích của cá nhân của người lao động có liên quan hoặc cũng đồng thời là quyền, lợi ích của tập thể lao động nhưng mới chỉ phát sinh thành vụ việc tranh chấp giữa cá nhân người lao động với người sử dụng lao động Qua việc xảy ra tranh chấp và quá trình giải quyết của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, tập thể lao động thấy quyền, lợi ích đó liên quan đến tập thể lao động hoặc quyết định giải quyết của cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tạo tiền lệ phát sinh tranh chấp lao động tập thể Hoặc tranh chấp lao động cá nhân có thể chuyển hóa thành tranh chấp lao động tập thể trong trường hợp mâu thuẫn giữa các bên tranh chấp trở lên căng thẳng; ứng xử của các bên có thể tạo ra sự lan truyền trong tập thể, gây tâm lý bức xúc, dẫn đến phản ứng mang tính tập thể và làm phát sinh tranh chấp tập thể [17]

1.1.2 Các phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân

Phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân rất phong phú, đa dạng Chính vì vậy, pháp luật đã ghi nhận nhiều phương thức giải quyết tranh chấp lao động nhằm giúp người lao động có nhiều sự lựa chọn hơn, giảm được chi phí cho việc giải quyết tranh chấp Đồng thời, việc linh hoạt lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp lao động còn góp phần hạn chế tình trạng mất việc làm của người lao động sau khi xảy ra mâu thuẫn với người sử dụng lao động

Trong hệ thống pháp luật của các quốc gia trên thế giới như Pháp, Mỹ Anh…việc giải quyết tranh chấp lao động từ lâu đã sử dụng những phương thức giải quyết như thương lượng, hòa giải và thông qua Tòa án [16] Mặc dù, mỗi

Trang 17

phương thức có vị trí, vai trò, ưu nhược điểm khác nhau nhưng đều đạt được kết quả nhất định trong giải quyết tranh chấp lao động cá nhân Pháp luật lao động Việt Nam hiện hành quy định việc giải quyết tranh chấp lao động được thực hiện qua các phương thức cơ bản sau đây:

Thứ nhất, giải quyết tranh chấp lao động cá nhân thông qua phương thức thương lượng

Với xu hướng hợp tác với nhau nhằm duy trì quan hệ lao động thì thương lượng

là phương thức đầu tiên các bên nghĩ tới khi xảy ra tranh chấp Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân mà theo đó các bên tự đàm phán với nhau để hàn gắn những mâu thuẫn, bất đồng phát sinh trong quan hệ lao động

Khoản 1 Điều 194 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định một trong các

nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động là tôn trọng, bảo đảm để các bên tự

thương lượng, quyết định trong giải quyết tranh chấp lao động

Bản chất của phương thức này là các bên tranh chấp sẽ cùng nhau xem xét, thảo luận để đạt được sự thống nhất với nhau, đi đến giải quyết tranh chấp dựa trên những phương án, cách giải quyết vấn đề do chính họ lựa chọn.Khi tiến hành thương lượng, các bên có thể trình bày quan điểm của mình, tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tranh chấp và tìm kiếm giải pháp chấm dứt xung đột Tuy nhiên, cũng có thể xảy ra trường hợp các bên không đạt được thỏa thuận nào nhằm giải quyết tranh chấp đã phát sinh mà có thể làm cho chúng trở nên trầm trọng hơn hoặc làm phát sinh nhiều tranh chấp khác

Các bên tự nguyện thi hành phương án giải quyết bất đồng đã lựa chọn Đây vừa là ưu điểm vữa là hạn chế của phương thức giải quyết tranh chấp này Ưu điểm

là ở chỗ các bên tự nguyện và tự mình đạt được thỏa thuận về phương án giải quyết tranh chấp nên cũng dễ dàng tự mình đạt được thỏa thuận về phương án đó Tuy nhiên, việc thực hiện kết quả thương lượng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện, hợp tác và thiện chí của các bên Mặc dù kết quả thương lượng thường được ghi nhận bằng văn bản với tính chất như một thỏa thuận hợp pháp về giải quyết tranh

Trang 18

chấp đã phát sinh nhưng thỏa thuận đó không có giá trị bắt buộc thi hành trong trường hợp một bên không tự nguyện thực hiện những điều khoản đã cam kết trong thỏa thuận Khi đó tính tự nguyện thi hành của phương án giải quyết tranh chấp mà không có sự hỗ trợ của bê thứ ba có quyền lực pháp định sẽ trở thành hạn chế của phương thức giải quyết tranh chấp này

Thứ hai, giải quyết tranh chấp lao động cá nhân thông qua hòa giải

Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân được tiến hành trên cơ sở bàn bạc, thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động,

có sự tham gia của bên thứ ba nhằm tìm ra hướng giải quyết tốt nhất cho những quyền và lợi ích đang tranh chấp trong quan hệ lao động

Hòa giải là một quá trình mà bên thứ ba tạo điều kiện và phối hợp để các bên thương lượng với nhau, bên thứ ba có thể đưa ra những phương án và gợi ý về phương án giải quyết vụ tranh chấp để các bên lựa chọn nhưng không có quyền đưa

ra quyết định Việc hòa giải sẽ giúp các bên tranh chấp hiểu nhau hơn, giảm áp lực, căng thẳng giữa hai bên tranh chấp Quá trình hòa giải là sự chuẩn bị những điều kiện cần thiết để một trong các bên hoặc cả hai bên có thể sớm đưa vụ việc tranh chấp ra trước cơ quan tài phán giải quyết vụ tranh chấp lao động đó trong trường hợp hòa giải không thành hay một trong các bên không thực hiện nghĩa vụ khi hòa giải thành

Khoản 1 Điều 198 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định thẩm quyền tiến hành giải quyết tranh chấp lao động cá nhân của hòa giải viên lao động cấp huyện

như sau: “Hòa giải viên lao động do cơ quan quản lý nhà nước về lao động huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh cử để hòa giải tranh chấp lao động và tranh chấp

về hợp đồng đào tạo nghề”

Phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân này có sự tham gia của hòa giải viên lao động do cơ quan quản lý nhà nước về lao động huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh để hòa giải tranh chấp lao động Tuy nhiên theo quy định pháp luật lao động, có những trường hợp không nhất thiết phải qua cơ chế hòa giải này

Trang 19

Việc giải quyết tranh chấp lao động bằng con đường hoà giải tại cơ sở có ý

nghĩa rất quan trọng Một là, đây là phương pháp giải quyết tranh chấp có thể tạo ra

khả năng duy trì quan hệ lao động sau tranh chấp Thực chất của việc hòa giải tranh chấp lao động là việc hai bên tiếp tục thương lượng, thỏa thuận với nhau với sự giúp

đỡ của hòa giải viên để tìm ra được giải pháp chung, giải quyết được mâu thuẫn, bất đồng Vì vậy, các bên tranh chấp có thể thỏa thuận lựa chọn phương án giải quyết tranh chấp phù hợp với yêu cầu, điều kiện của mình để rồi sau đó lại tiếp tục hợp tác

với nhau sau tranh chấp Hai là, hòa giải tranh chấp lao động tại cơ sở là phương

pháp giải quyết tranh chấp lao động nhanh chóng và tiết kiệm nhất bởi những lý do sau: Thủ tục hòa giải tại hòa giải viên rất nhanh gọn, giúp các bên nhanh chóng giải quyết tranh chấp Mặt khác, khi hòa giải tranh chấp tại cơ sở thì các bên tranh chấp không phải nộp bất kỳ một khoản lệ phí nào cho hòa giải viên

Thứ ba, giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án

Tòa án là một cơ quan nằm trong hệ thống các cơ quan tư pháp, mang quyền lực nhà nước và nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Theo khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 và khoản 1 Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm

2014, thì Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp Nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân là xét xử để giải quyết các tranh chấp nói chung và tranh chấp lao động nói riêng Chính

vì vậy, việc giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án nhân dân phải tuân theo những trình tự, thủ tục hết sức chặt chẽ, phán quyết của Tòa án được đảm bảo thi hành bằng biện pháp cưỡng chế của Nhà nước nếu các bên không tự nguyện thi hành Đây là điểm khác biệt, riêng có mà không có phương pháp giải quyết tranh chấp nào có đc, chính vì thế, cơ quan Tòa án sẽ bảo vệ được quyền và lợi ích bị xâm phạm

Với những tính ưu việt của nó, cơ quan Tòa án sẽ giải quyết triệt để các tranh chấp lao động cá nhân Thông qua các công cụ của mình, cơ quan Tòa án bảo vệ được quyền và lợi ích của các bên trong tranh chấp lao động cá nhân, giúp giải quyết dứt điểm tranh chấp, duy trì trật tự xã hội

Trang 20

Mặc dù có nhiều tính ưu việt, mang tính quyền lực của cơ quan nhà nước, tuy nhiên phương pháp giải quyết tranh chấp lao động này vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như: thời hạn giải quyết vụ tranh chấp thường kéo dài hơn so với các phương thức khác, do phải qua nhiều cấp xét xử, gây tốn kém tiền bạc cho các bên đương

sự, ảnh hưởng đến uy tín của các doanh nghiệp trên thương trường do nguyên tắc xét xử công khai

Theo pháp luật hiện hành, các quy định về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án nhân dân được quy định chủ yếu trong Bộ luật Lao động năm 2012,

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành

1.1.3 Khái niệm, đặc điểm và vai trò của việc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án

1.1.3.1 Khái niệm, đặc điểm của giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án

Giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án là hoạt động giải quyết tranh chấp lao động do Tòa án với tư cách là cơ quan tài phán mang quyền lực nhà nước tiến hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ và phán quyết được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước Phương thức giải quyết tranh chấp lao động này có một số đặc điểm sau:

Thứ nhất, việc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án được thực

hiện bởi Tòa án với tư cách là cơ quan tài phán mang tính quyền lực nhà nước và được tiến hành theo trình tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ

Tranh chấp lao động cá nhân có thể được giải quyết bởi nhiều cơ quan, cá nhân khác nhau như: Hòa giải viên lao động hay cơ quan Tòa án Tuy nhiên, khác với hòa giải viên lao động do cơ quan quản lý Nhà nước về lao động cấp huyện cử

ra để hòa giải tranh chấp lao động cá nhân thì Tòa án nhân dân là cơ quan tư pháp, Tòa án nhân dân mang quyền lực nhà nước và nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để giải quyết các tranh chấp nói chung và tranh chấp lao động nói riêng Tùy từng giai đoạn giải quyết của Tòa án, sẽ có các quy định về trình tự được quy định cụ thể và chặt chẽ Mọi trường hợp không tuân thủ trình tự tố tụng đã được

Trang 21

pháp luật quy định cụ thể đều là vi phạm thủ tục tố tụng và dẫn đến hậu quả bản án hoặc quyết định của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị đến các cấp tòa có thẩm quyền

Thứ hai, việc giải quyết tranh chấp lao động thông qua xét xử tại Tòa án

thường là phương thức giải quyết tranh chấp lao động cuối cùng sau khi các bên tranh chấp lao động đã sử dụng các phương thức giải quyết khác mà không đạt kết quả (trừ một số trường hợp đặc biệt)

Khi một tranh chấp lao động phát sinh, các bên không thể chọn phương án đầu tiên là khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích của mình một cách hiệu quả và triệt để Bởi, theo quy định của Bộ Luật lao động năm 2012 với các tranh chấp lao động cá nhân, các bên chỉ có quyền khởi kiện ra Tòa án sau khi vụ tranh chấp lao động cá nhân đã qua thương lượng, hòa giải không thành hoặc một trong hai bên không thực hiện các thỏa thuận trong biên bản hòa giải thành hoặc hoà giải viên lao động không tiến hành hoà giải trong thời hạn do pháp luật quy định, trừ một số trường hợp do tính chất phức tạp, nghiêm trọng của các tranh chấp lao động cá nhân và để nhanh chóng bảo vệ quyền lợi hợp pháp của chủ thể bị xâm phạm, các bên có thể khởi kiện thẳng ra Tòa án yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động dù chưa qua thủ tục thương lượng, hòa giải (quy định tại khoản 1 Điều 201

Bộ luật Lao động năm 2012; khoản 1 Điều 32 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015) Khi đã áp dụng những phương thức này nhưng không giải quyết được tranh chấp thì tranh chấp lao động mới được Tòa án giải quyết Bởi vậy, giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp lao động cuối cùng

Thứ ba, các phán quyết của tòa án về vụ án tranh chấp lao động cá nhân

được đảm bảo thi hành bằng các biện pháp cưỡng chế nhà nước thông qua cơ quan thi hành án

Mục đích hàng đầu của đương sự khi khởi kiện là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình Chính vì vậy, sự bảo đảm thi hành phán quyết của tòa án bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước được coi là một ưu điểm, tạo ra sự khác biệt

Trang 22

trong cơ chế thi hành phán quyết của cơ quan tài phán này Sở dĩ, phán quyết của Tòa án có tính cưỡng chế bởi Tòa án nhân dân là cơ quan nằm trong hệ thống tư pháp, nhân danh Nhà nước để giải quyết các tranh chấp nói chung và tranh chấp lao động cá nhân nói riêng, thông qua đó bảo vệ quyền lợi, tài sản của cá nhân, công dân, tổ chức… theo quy định của pháp luật Khi đương sự không tự giác thi hành bản án, quyết định của Tòa án, cơ quan thi hành án có quyền tổ chức cưỡng chế buộc đương sự phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo quyết định của Tòa án Với đặc điểm này, hiệu lực thi hành phán quyết của Tòa án sẽ hiệu quả và mang tĩnh cưỡng chế cao nhất

Do đó, các tranh chấp lao động cá nhân khởi kiện tại Tòa án được giải quyết dứt điểm và có khả năng bảo vệ tốt hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên

1.1.3.2 Vai trò của giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án

Khi mâu thuẫn về quyền và lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động đạt đến điểm xảy ra tranh chấp lao động thì lúc đó sẽ tổn hại đến quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động Đặc biệt là khi áp dụng các phương thức giải quyết trước đó cũng không mang lại hiệu quả cho các bên Vì vậy, khi những tranh chấp này được đem ra giải quyết thành công bằng tại Tòa án sẽ có tác dụng tích cực, không chỉ với các bên, mà còn có tác dụng tích cực cho xã hội

Thứ nhất, giải quyết tranh chấp lao động cá nhân giúp giải quyết dứt điểm các

tranh chấp lao động

Khi vụ việc tranh chấp được đưa ra cơ quan Tòa án để giải quyết thì trước

đó, các bên tranh chấp đã dùng các biện pháp khác như thương lượng, hòa giải, tuy nhiên các biện pháp này chưa mang lại hiệu quả như mong muốn, mục đích của các bên chưa đạt được, có thể do hòa giải không thành làm mất thời gian của các bên, ảnh hưởng đến cả hai bên trong quan hệ lao động, hay hòa giải thành nhưng các bên không thực hiện nghĩa như biên bản hòa giải Việc giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án sẽ giải quyết dứt điểm tranh chấp lao động, từ đó góp phần ổn định quan

Trang 23

hệ lao động, bảo vệ quyền và lợi ích của các bên trong tranh chấp, ổn định sản xuất, kinh doanh

Thứ hai, những phán quyết của Tòa án được đảm bảo thi hành bằng biện pháp

cưỡng chế của Nhà nước

Các cơ quan thi hành án dân sự sẽ giúp cho các quyết định, phán quyết của Tòa án được đảm bảo thực hiện, quyền và lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động được đảm bảo thực hiện Việc thực thi được các phán quyết này giúp củng cố niềm tin của các chủ thể vào pháp luật và hoạt động của các cơ quan nhà nước nói chung và cơ quant tư pháp nói riêng

Thứ ba, việc giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án nhân dân do những

cán bộ chuyên môn được đào tạo bài bản, có kiến thức pháp luật, có kinh nghiệm thực tiễn, đảm bảo được tính khách quan, chính xác và đúng quy định

Khi việc giải quyết tranh chấp lao động được đưa ra cơ quan Tòa án thì việc giải quyết các tranh chấp này sẽ do các Thẩm phán và hội thẩm nhân dân tiến hành

Họ là những người hoàn toàn độc lập với các bên tranh chấp, với vụ tranh chấp và với chính các thành viên khác trong hội đồng xét xử Do đó, những phán quyết của

họ mang tính khách quan Bởi, theo quy định của pháp luật về tố tụng khi tiến hành giải quyết các vụ án, người tiến hành tố tụng chỉ tuân theo pháp luật, từ đó ra những phán quyết khách quan, chính xác và đúng pháp luật

1.2 Điều chỉnh bằng pháp luật đối với vấn đề giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án

1.2.1 Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với vấn đề giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án

Trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng Nó là công

cụ không thể thiếu, bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình thường của xã hội nói chung và của nền đạo đức nói riêng Pháp luật không chỉ là một công cụ quản lý nhà nước hữu hiệu, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ý thức đạo

Trang 24

đức, làm lành mạnh hóa đời sống xã hội và góp phần bồi đắp nên những giá trị mới Thực tế xã hội cho thấy, hệ thống pháp luật và việc thi hành pháp luật đã có những tác động rõ rệt đến đời sống xã hội Những quy định trong Hiến pháp, trong các luật

và văn bản dưới luật luôn đề cao tính nhân đạo và nhân văn bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của Nhà nước mà nhân dân là chủ và do nhân dân làm chủ Nói đúng hơn,

đó là hệ thống pháp luật phục vụ cho việc thực thi các lợi ích cơ bản của con người, đặc biệt là lợi ích của người lao động

Điều chỉnh bằng pháp luật chính là việc Nhà nước dùng pháp luật, dựa vào pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội, tác động vào các quan hệ xã hội theo ý chí của Nhà nước Tranh chấp lao động cá nhân là hiện tượng kinh tế - xã hội khách quan trong nền kinh tế thị trường, cần có sự điều chỉnh bằng pháp luật đối với việc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân nói chung, và giải quyết tranh chấp lao động

cá nhân tại Tòa án nhân dân nói riêng, để hạn chế những tác động tiêu cực của nó,

bảo vệ quyền và lợi ích của các bên, lợi ích của xã hội

Thực tế cho thấy, bất cứ quốc gia nào trên thế giới cũng cần có sự điều tiết của Nhà nước bằng pháp luật để giải quyết những vấn đề mà tự thân cơ chế kinh tế của quốc gia không thể giải quyết được Và ở Việt Nam cũng vậy, việc điều chỉnh pháp luật đối với việc giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án nhân dân là yêu cầu mang tính khách quan Khi điều chỉnh vấn đề giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa

án nhân dân, pháp luật bảo vệ và định hướng cho sự phát triển của các quan hệ này theo ý chí chủ quan của Nhà nước, tạo khung pháp lý để hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tranh chấp lao động cá nhân [26]

Việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với vấn đề giải quyết tranh chấp lao động

cá nhân tại Tòa án trước tiên là nhằm mục đích bảo đảm các quyền và lợi ích hợp

pháp của người người lao động và người sử dụng lao động, duy trì được trật tự xã hội, ổn định các quan hệ sản xuất Để đảm bảo được các yếu tố trên, chỉ có sự can thiệt của Nhà nước mới đủ sức mạnh và quyền lực dưới công cụ pháp lý của mình

để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động và người lao

Trang 25

động Việc đảm bảo bằng pháp luật là một trong những điều kiện quan trọng nhất để các quyền con người, quyền công dân được thực hiện

Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động và người lao động trong sự vận động và phát triển của quan hệ lao động Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển, cung cầu lao động bị mất cân đối, người lao động bị đẩy vào thế yếu, việc quy định rõ ràng, cụ thể, đầy đủ, phù hợp với thực tế của pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án rất có ý nghĩa trong việc bảo vệ người lao động, nhất là ở các quốc gia có lực lượng lao động lớn như ở Việt Nam hiện nay

Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án không chỉ bảo

vệ các quyền và lợi ích của người sử dụng lao động và người lao động, mà còn góp phần quan trọng trong việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích của toàn xã hội với lợi ích của riêng lẻ các cá nhân và tổ chức trong xã hội Các quy định về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp, chủ thể tiến hành giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án … tạo điều kiện giải quyết một cách hiệu quả, khách quan các xung đột về quyền, lợi ích giữa các chủ thể trong quan hệ lao động Điều này góp phần hạn chế và ngăn chặn các hành vi có thể gây ảnh hưởng đến lợi ích chung của xã hội như đình công

Tranh chấp lao động cá nhân là sự xung đột kinh tế giữa những người sử dụng lao động và cá nhân người lao động (hoặc nhóm nhỏ người lao động), do đó khi giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án nhân dân phải tập trung giải quyết mâu thuẫn về lợi ích giữa các bên Tuy nhiên, quyền và lợi ích giữa các bên trong quan hệ lao động luôn có mối quan hệ và nằm trong tổng thể các quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội Vì vậy, tranh chấp lao động cá nhân xảy ra không chỉ làm thiệt hại tới lợi ích của các bên trong quan hệ lao động, mà còn có thể ảnh hưởng đến các doanh nghiệp và các ngành kinh tế khác, ảnh hưởng tới sự vận động, phát triển và ổn định chung của nền kinh tế và xã hội của nước ta Pháp luật về giải

Trang 26

quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án nhân dân giúp định hướng hành vi của các bên trong quá trình tranh chấp phù hợp với lợi ích chung của xã hội

Từ những phân tích trên, có thể thấy việc xây dựng pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay là điều tất yếu và cần thiết

1.2.2 Những nội dung cơ bản của pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án

Để đạt được mục tiêu giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án, pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án cần có các nội dung cơ bản sau đây:

Thứ nhất, quy định về nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án

Nội dung của các nguyên tắc này cần được thể hiện rõ qua các quy định cụ thể về cơ quan giải quyết và trình tự giải quyết tranh chấp lao động Việc giải quyết tranh chấp lao động phải tuân theo các nguyên tắc sau, cụ thể:

- Nguyên tắc tôn trọng, bảo đảm để các bên tự thương lượng, quyết định trong giải quyết tranh chấp lao động;

- Nguyên tắc thông qua hòa giải, trọng tài trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích của hai bên tranh chấp, tôn trọng lợi ích chung của xã hội, không trái pháp luật;

- Nguyên tắc giải quyết công khai, khách quan, kịp thời, nhanh chóng, đúng pháp luật;

- Nguyên tắc bảo đảm sự tham gia của đại diện các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động;

- Việc giải quyết tranh chấp lao động trước hết phải được hai bên trực tiếp thương lượng nhằm giải quyết hài hòa lợi ích của hai bên tranh chấp, ổn định sản xuất, kinh doanh, bảo đảm trật tự và an toàn xã hội;

- Việc giải quyết tranh chấp lao động do cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tiến hành sau khi một trong hai bên có đơn

Trang 27

yêu cầu do một trong hai bên từ chối thương lượng, thương lượng nhưng không thành hoặc thương lượng thành nhưng một trong hai bên không thực hiện

Mặt khác, khi giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án còn phải tuân thủ các nguyên tắc của Tố tụng dân sự như:

- Nguyên tắc tôn trọng quyết định và tự định đoạt của các bên;

- Nguyên tắc hòa giải trong xét xử vụ án lao động;

- Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và nghĩa vụ chứng minh;

- Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia;

- Nguyên tắc xét xử tập thể;

- Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật;

- Nguyên tắc xét xử trực tiếp, liên tục và bằng lời nói;

- Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật;

- Nguyên tắc mọi công dân đều có quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trước Tòa án;

- Nguyên tắc đảm bảo quyền tranh tụng trong tố tụng dân sự

Thứ hai, quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân của Tòa án

Việc xác định đúng thẩm quyền giải quyết của Tòa án mang ý nghĩa quan trọng, giúp đảm bảo các tranh chấp lao động được giải quyết đúng pháp luật và hiệu quả, tránh được sự chồng chéo trong việc thực hiện nhiệm vụ giữa Tòa án với các

cơ quan nhà nước, giữa các Tòa án với nhau, góp phần tạo điều kiện cần thiết cho Tòa án giải quyết tranh chấp nhanh chóng, đúng đắn, nâng cao hiệu quả, tiết kiệm thời gian và tiền bạc

Trang 28

Căn cứ trên các quy định của pháp luật, thì thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân được chia thành:

- Thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân của Tòa án theo vụ việc;

- Thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân của Tòa án theo cấp Tòa;

- Thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân của Tòa án theo lãnh thổ;

- Thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án nhân dân theo sự lựa chọn của nguyên đơn

Thứ ba, về đương sự trong vụ án lao động

Ngoài những người tiến hành tố tụng (Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên…), các đương sự tham gia trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động bao gồm các bên tranh chấp là người lao động; người sử dụng lao động và người có quyền và lợi ích liên quan Các chủ thể này được pháp luật quy định rất rõ quyền và nghĩa vụ trong quá trình giải quyết tranh chấp

Thứ tư, về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp lao động cá nhân của Tòa án

Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp lao động cá nhân của Tòa án nhân dân (quá trình giải quyết vụ tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án) được quy định trong pháp luật về tố tụng dân sự Việc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án được thực hiện theo trình tự, thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm và thủ tục đặc biệt xem xét lại Quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

Thứ năm, về thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án

Trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động, một trong các vấn đề quan trọng cũng cần phải chú ý đến đó là vấn đề thời hiệu yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp lao động cá nhân

Trang 29

Việc quy định thời hiệu sẽ góp phần xác định rõ các vụ việc này còn thời hạn giải quyết tại Tòa và vụ việc nào đã hết thời hạn Căn cứ vào đó, Tòa án sẽ quyết định tiếp tục giải quyết vụ án hay ban hành Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án

1.3 Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật lao động Việt Nam về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án

Cùng với sự phát triển của các quan hệ kinh tế - xã hội và quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, pháp luật lao động Việt Nam về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án cũng trải qua những giai đoạn phát triển nhất định:

Giai đoạn 1: Trước năm 1995 (trước khi có Bộ luật Lao động năm 1994)

Trong giai đoạn này Sắc lệnh số 29/SL về việc quy định những sự giao dịch

về việc làm công, giữa các chủ nhân người Việt Nam hay người ngoại quốc và các công nhân Việt nam làm tại các xưởng kỹ nghệ, hầm mỏ, thương điếm và các nhà làm nghề tự do do Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoà ban hành được coi là văn bản đầu tiên, đặt nền móng cho các quy định trong quan hệ lao động Trong giai đoạn này các tranh chấp phát sinh trong quan hệ lao động được coi là những việc khiếu nại trong lao động và được giải quyết bằng thủ tục hành chính, theo cơ chế khiếu nại, tố cáo Trường hợp các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã giải quyết mà đương sự vẫn khiếu nại thì vụ việc sẽ được chuyển cho cơ quan Tòa

án xét xử, thủ tục tố tụng tại Tòa án trong giai đoạn này được thực hiện theo Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989

Giai đoạn 2: Từ năm 1995 đến năm 2004

Ngày 26/3/1994 Bộ luật Lao động được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khóa IX kì họp thứ 5 thông qua, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/1995, Bộ luật quy định Tòa án có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp lao động Tiếp đó ngày 19/4/1996 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động được ban hành và có hiệu lực từ ngày 01/7/1996, quy định thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động tại Tòa án Tuy việc ban hành một văn bản pháp luật riêng biệt điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án nhưng về cấu trúc cũng

Trang 30

như những nội dung cơ bản của thủ tục tố tụng không có sự khác biệt rõ rệt so với thủ tục giải quyết các vụ án dân sự

Giai đoạn 3: Từ năm 2004 đến trước ngày 01/5/2013

Ngày 15/6/2004 Quốc hội khóa XI thông qua Bộ luật Tố tụng dân sự, có hiệu lực từ ngày 01/01/2005 Theo quy định Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án có thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân, gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động theo thủ tục chung quy định tại Bộ luật này

Trải qua quá trình thực hiện, các quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân

và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) cho thấy những đóng góp quan trọng của Tòa án nhân dân đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động trong việc xét xử các vụ án tranh chấp lao động cá nhân Qua đó góp phần ổn định và làm lành mạnh quan hệ lao động trong nền kinh tế thị trường, thúc đẩy sản xuất, ổn định đời sống xã hội, giữ gìn trật

tự quản lý trong lĩnh vực lao động – xã hội Thực tiễn xét xử các vụ án lao động trong giai đoạn này đã đem lại cho Tòa án nhiều kinh nghiệm bổ ích, bổ sung vào lý luận khoa học về xét xử, đồng thời cung cấp những cơ sở thực tiễn cho quá trình hoàn thiện pháp luật lao động nói chung và pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân nói riêng

Giai đoạn 4: Từ ngày 01/5/2013 đến nay

Sau gần 10 năm kể từ khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động năm

1994, ngày 18/6/2012, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 đã thông qua Bộ luật Lao động năm 2012 có hiệu lực thi hành kể

từ ngày 01/5/2013 Cùng với những điểm mới tiến bộ của mình Bộ luật đã có những sửa đổi đáng kể để bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ lao động Việc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân được quy định tại Chương XIV từ Điều 194 đến Điều 202, trong đó về thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân đã được ghi nhận tại Mục 2 Chương XIV (Điều 200 đến Điều 202) Bộ luật Lao

Trang 31

động năm 2012 Bộ luật Lao động năm 2012 có hiệu lực giúp việc giải quyết các tranh chấp lao động cá nhân đạt hiệu quả và tiết kiện thời gian

Ngày 24/11/2014 Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/6/2015 Với sự đổi mới về cơ cấu tổ chức và các thức làm việc, sau hơn 2 năm đi vào cuộc sống Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 đã đem lại nhiều kết quả tích cực trong quá trình áp dụng Việc giải quyết các tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án đã và đang có những thay đổi, giúp bảo

vệ quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ lao động một cách công khai, minh bạch

và hiệu quả hơn

Đặc biệt, ngày 25/11/2015 vừa qua Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015 ra đời với nhiều điểm tiến bộ đã giúp cho việc giải quyết các tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án có thêm những kết quả đáng kể, qua đó đảm bảo được quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ lao động

Trang 32

Chương 2

PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG CÁ NHÂN TẠI TÒA ÁN VÀ THỰC

TIỄN THỰC HIỆNTẠI TỈNH QUẢNG NINH

2.1 Pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án 2.1.1 Nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án

Nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động được hiểu là những tư tưởng chỉ đạo việc giải quyết tranh chấp lao động mà tất cả các chủ thể tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp lao động đều phải tuân thủ, kể cả các bên tranh chấp Khi giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án các bên phải tuân theo nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động được quy định tại Điều 194 Bộ luật Lao động năm 2012, đồng thời phải tuân theo các nguyên tắc về trình tự, thủ tục được quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 [30]

Khi giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án phải tuân theo nguyên tắc chung của giải quyết tranh chấp lao động quy định tại Điều 194 Bộ luật Lao động năm 2012 như sau:

- Nguyên tắc tôn trọng, bảo đảm để các bên tự thương lượng, quyết định trong giải quyết tranh chấp lao động;

- Nguyên tắc thông qua hòa giải, trọng tài trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích của hai bên tranh chấp, tôn trọng lợi ích chung của xã hội, không trái pháp luật;

- Nguyên tắc giải quyết công khai, khách quan, kịp thời, nhanh chóng, đúng pháp luật;

- Nguyên tắc bảo đảm sự tham gia của đại diện các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động;

Trang 33

- Việc giải quyết tranh chấp lao động trước hết phải được hai bên trực tiếp thương lượng nhằm giải quyết hài hòa lợi ích của hai bên tranh chấp, ổn định sản xuất, kinh doanh, bảo đảm trật tự và an toàn xã hội;

- Việc giải quyết tranh chấp lao động do cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tiến hành sau khi một trong hai bên có đơn yêu cầu do một trong hai bên từ chối thương lượng, hoặc thương lượng nhưng không thành hoặc thương lượng thành nhưng một trong hai bên không thực hiện

Một trong những tư tưởng chỉ đạo quan trọng hàng đầu của việc giải quyết tranh chấp lao động là tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp Điều này phù hợp với tính chất của quan hệ lao động - quan hệ được thiết lập trên cơ sở

tự do thỏa thuận của người sử dụng lao động và người lao động

Vì vậy, Điều 194 Bộ luật Lao động quy định: “Tôn trọng, bảo đảm để các bên tự thương lượng, quyết định trong giải quyết tranh chấp lao động (Khoản 1) và

“Việc giải quyết tranh chấp lao động trước hết phải được hai bên trực tiếp thương lượng nhằm giải quyết hài hòa lợi ích của hai bên tranh chấp, ổn định sản xuất, kinh doanh, bảo đảm trật tự và an toàn xã hội” (Khoản 5) Quyền tự định đoạt của

các bên không chỉ được đảm bảo thực hiện trước khi các bên đưa vụ tranh chấp lao động ra cơ quan Tòa án có thẩm quyền giải quyết, mà ngay cả khi đã yêu cầu tổ chức, cơ quan có thẩm quyền giải quyết các bên vẫn có quyền tự quyết định giải quyết vụ tranh chấp của mình

Ví dụ: khi tòa án đã thụ lý vụ việc để giải quyết, người sử dụng lao động và người lao động vẫn có quyền tự thương lượng để giải quyết tranh chấp, nếu thương lượng được thì kết quả này được công nhận và có thể được bảo đảm thi hành

Cùng với nguyên tắc thương lượng, Nhà nước còn đảm bảo quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp bằng cách thực hiện hòa giải, trọng tài trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích của hai bên tranh chấp, tôn trọng lợi ích chung của xã hội, không trái pháp luật Suy cho cùng, kết quả giải quyết tranh chấp lao động bằng hòa giải hoặc bằng trọng tài theo quy định của Bộ luật Lao động chính là kết quả tự

Trang 34

quyết định của hai bên tranh chấp, bởi vì, các bên phải cùng nhau đồng ý với phương án hòa giải của hòa giải viên hay của Hội đồng trọng tài lao động thì mới có thể lập biên bản hòa giải thành, ngược lại nếu các bên không đồng ý thì việc giải quyết tranh chấp lao động của hòa giải viên lao động và Hội đồng trọng tài lao động

sẽ không đạt kết quả Theo quy định của Bộ luật Lao động tranh chấp lao động cá nhân phải thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động trước khi yêu cầu tòa án giải quyết (trừ một số trường hợp đặc biệt)

- Việc giải quyết tranh chấp lao động tại các tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải đảm bảo công khai, minh bạch, khách quan, kịp thời, nhanh chóng và đúng pháp luật

Công khai, minh bạch nói lên cách thức tổ chức giải quyết tranh chấp Tranh chấp lao động phải được giải quyết một cách công khai, ai quan tâm đều có thể tham dự phiên tòa và kết quả giải quyết phải được công bố công khai, không được coi là một loại thông tin bảo mật

Để đảm bảo tính khách quan trong việc giải quyết tranh chấp lao động đòi hỏi tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải thu thập chứng cứ, nghiên cứu hồ sơ và đánh giá chứng cứ một cách khách quan, đứng ở vị trí trung lập, giữ thái độ khách quan, không thiên vị, không định kiến trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động

và căn cứ vào các tình tiết khách quan của vụ việc để xây dựng phương án hòa giải hoặc ra các quyết định giải quyết

Tranh chấp lao động bên cạnh những tác động tích cực, còn có không ít tác động tiêu cực tới người sử dụng lao động, người lao động và xã hội (hoạt động sản xuất kinh doanh của người sử dụng lao động có thế bị ngừng trệ, uy tín và năng lực cạnh tranh trên thị trường có thể bị giảm sút…; việc làm, thu nhập của người lao động có thể bị gián đoạn, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của bản thân và gia đình; sự ổn định của thị trường lao động, của xã hội có thể bị đe dọa) Hơn nữa, trong nhiều trường hợp, sau quá trình giải quyết tranh chấp lao động, quan hệ lao động của các bên vẫn phải tiếp tục duy trì Vì vậy, tranh chấp lao động cần phải

Trang 35

được giải quyết kịp thời, nhanh chóng để phòng ngừa và khăc phục những tác động tiêu cực nói trên

Giải quyết “đúng pháp luật” là yêu cầu tất nhiên của công tác giải quyết tranh chấp lao động Khi tòa án nhân dân ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự hoặc ra quyết định, bản án để giải quyết vụ tranh chấp đều phải dựa trên cơ sở pháp luật và tuân thủ pháp luật Đúng pháp luật là yêu cầu về trách nhiệm của người có thẩm quyền tiến hành giải quyết vụ tranh chấp lao động, đồng thời là mong muốn chính đáng của các bên tranh chấp và của toàn xã hội

Do đó, nguyên tắc đúng pháp luật vừa có tính độc lập, vừa có tính bao quát các vấn đề khác có liên quan Ví dụ, việc giải quyết đúng pháp luật đòi hỏi người có thẩm quyền phải bảo đảm thời gian tiến hành giải quyết; bảo đảm vô tư, khách quan, nhanh chóng, kịp thời…vì đó là những quy định của pháp luật, cần phải được thực hiện nghiêm túc

- Bảo đảm sự tham gia của đại diện các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động Phạm vi của nguyên tắc này không chỉ gói gọn ở việc các bên có quyền thông qua đại diện của mình để tham gia quá trình giải quyết tranh chấp lao động (người đại diện do đương sự ủy quyền hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự), mà quan trọng hơn là sự tham gia của tổ chức đại diện các bên vào quá trình giải quyết tranh chấp này (tổ chức công đoàn đại diện của người lao động và tổ chức đại diện của người sử dụng lao động) Đây là một nguyên tắc đặc thù trong việc giải quyết tranh chấp lao động, khác hẳn với việc giải quyết tranh chấp thương mại hay tranh chấp dân sự Đại diện các bên thường là những người am hiểu pháp luật, nắm được điều kiện, hoàn cảnh, tâm tư, nguyện vọng của các bên vì vậy có thể giúp cơ quan có thẩm quyền đánh giá tranh chấp chính xác hơn, từ đó đưa ra được các phương án giải quyết phù hợp Nguyên tắc này có mục đích quan trọng nhằm góp phần đề cao vai trò, vị trí của Công đoàn với tư cách là người bảo vệ quyền lợi cho người lao động, đồng thời góp phần cân bằng lợi thế về quyền và nghĩa vụ của các bên khi tiến hành giải quyết tranh chấp lao động

Trang 36

- Phù hợp với nguyên tắc tôn trọng và bảo đảm quyền tự định đoạt của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động, theo quy định tại Khoản 6 Điều

194 Bộ luật Lao động, Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động chỉ tiến hành giải quyết tranh chấp sau khi một trong hai bên có đơn yêu cầu do một trong hai bên từ chối thương lượng, thương lượng nhưng không thành hoặc thương lượng thành nhưng một trong hai bên không thực hiện

Bên cạnh đó, khi giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án nhân dân còn phải tuân thủ các nguyên tắc được quy định tại Bộ Luật Tố tụng dân sự năm

2015, cụ thể:

- Nguyên tắc tôn trọng quyết định và tự định đoạt của các bên: được quy

định tại Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, theo đó, đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết Tòa án chỉ thụ lý giải quyết khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm

vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó Trong quá trình giải quyết vụ việc, đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội

- Nguyên tắc hòa giải trong xét xử vụ án lao động: được quy định tại Điều 10

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật Hoạt động hòa giải được tiến hành trước khi xét xử sơ thẩm, tuy vậy, theo các Điều 220, 270 Bộ luật Tố tụng dân sự năm

2015 thì tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, tòa án cũng hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không? Nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì toà án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự Như vậy, việc hòa giải trước khi xét xử sơ thẩm là thủ tục bắt buộc, trừ những việc không hòa giải được hoặc pháp luật quy định không được hòa giải [21]

Trang 37

Việc hòa giải có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó vừa đảm bảo tiết kiệm chi phí cho Nhà nước và công dân, giảm bớt giai đoạn tố tụng kéo dài, vừa giải quyết triệt để các mâu thuẩn giữa các đương sự

- Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và nghĩa vụ chứng minh: Nguyên tắc này

được xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng quyết định và tự định đoạt của đương sự, mặt khác phòng tránh sự lạm dụng quyền lực, xét xử không đúng không khách quan của Tòa án, bởi nếu cho phép Tòa án được tự mình thu thập chứng cứ trong mọi trường hợp sẽ tạo ra cơ chế khép kín trong giải quyết tranh chấp của Tòa từ khâu thu thập chứng cứ đến khâu xét xử Theo đó, Điều 6 Bộ luật Tố tụng dân sự năm

2015 quy định : các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án

và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp, trừ một số trường hợp do pháp luật quy định thì Tòa án thu thập chứng cứ để chứng minh

- Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia:

nguyên tắc này được quy định tại Điều 11 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 “1.Việc xét xử sơ thẩm vụ án dân sự có Hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của Bộ luật này, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn 2 Khi biểu quyết về quyết định giải quyết vụ án dân sự, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán” Việc tham gia của Hội thẩm nhân dân giúp cho Tòa án xét xử không chỉ đúng pháp luật

mà còn phù hợp với nguyện vọng của nhân dân Hội thẩm nhân dân có đời sống chung trong cộng đồng, trong tập thể lao động, nên họ hiểu sâu hơn tâm tư nguyện vọng, nắm bắt được dư luận quần chúng nhân dân Khi được cử hoặc bầu làm Hội thẩm nhân dân, Hội thẩm không tách khỏi hoạt động lao động sản xuất của cơ quan, đơn vị mình Với vốn hiểu biết thực tế, kinh nghiệm trong cuộc sống, sự am hiểu về phong tục tập quán địa phương, Hội thẩm nhân dân sẽ bổ sung cho Thẩm phán những kiến thức xã hội cần thiết trong quá trình xét xử để có được một phán quyết đúng pháp luật, được xã hội đồng tình ủng hộ

- Nguyên tắc xét xử tập thể: Theo quy định tại Điều 14 Bộ luật Tố tụng dân

sự năm 2015 thì Tòa án xét xử tập thể vụ án dân sự và quyết định theo đa số, trừ

Trang 38

trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn Nguyên tắc này được Tòa án thực hiện ở tất

cả các cấp từ sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đều phải do một tập thể tiến hành bằng cách biểu quyết theo đa số

- Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nguyên tắc này quy định tại Điều 12 Bộ luật Tố tụng dân sự năm

2015, Điều luật cũng đồng thời quy định nghiêm cấm việc cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, dưới bất kỳ

hình thức nào

- Nguyên tắc xét xử trực tiếp và bằng lời nói, nguyên tắc này được quy định

tại Điều 225 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, theo đó: Tòa án phải trực tiếp xác định những tình tiết của vụ án bằng cách nghe lời trình bày của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và những người tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức được mời tham dự phiên tòa; hỏi và nghe trả lời câu hỏi; xem xét, kiểm tra tài liệu, chứng cứ đã thu thập được; điều hành và nghe tranh luận giữa các đương sự; nghe Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát Việc xét

xử phải bằng lời nói và được tiến hành tại phòng xử án

- Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật: nguyên tắc này

được ghi nhận tại Điều 8 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 như sau: Trong tố tụng dân sự mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, địa vị xã hội Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân đều bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng trước Tòa án; Tòa án có trách nhiệm bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tố tụng dân sự

- Nguyên tắc mọi công dân đều có quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trước Tòa án được ghi nhận tại Điều 20 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015,

theo đó có thể áp dụng: Tiếng nói, chữ viết dùng trong quá trình giải quyết tranh

Trang 39

chấp lao động tại Tòa án là tiếng Việt Trong tất cả các giai đoạn của quá trình giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án, Tòa án phải cử người phiên dịch cho những người tham gia tố tụng thuộc các dân tộc khác theo yêu cầu của họ Nguyên tắc này thể hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, bảo đảm sự bình đẳng, đoàn kết

và tương trợ giữa các dân tộc Bên cạnh đó, nguyên tắc này còn góp phần bảo đảm việc xét xử tại Tòa án được thuận lợi, đúng pháp luật, chính xác, khách quan [24]

- Nguyên tắc đảm bảo quyền tranh tụng trong tố tụng dân sự: Khoản 1 Điều

24 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của pháp luật Nguyên tắc này đã tạo cơ sở pháp lý cho việc tranh tụng được bảo đảm như:

Thứ nhất, về thời điểm và các giai đoạn tranh tụng của các đương sự được

thực hiện từ khi khởi kiện thụ lý vụ án cho đến khi giải quyết xong vụ án; đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong các giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm

Thứ hai, Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm

2.1.2 Thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân của Tòa án

Thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân của Tòa án là các quy định về chức năng, phạm vi quyền hạn của Tòa án trong giải quyết TCLĐ cá nhân Việc quy định về thẩm quyền giải quyết TCLĐ cá nhân của Tòa án là căn cứ xác định trách nhiệm của Tòa án giải quyết các TCLĐ cá nhân khi có yêu cầu, đồng thời

là cơ sở để xác định nguồn luật được áp dụng để giải quyết vụ việc tranh chấp Mặt khác, việc xác định đúng thẩm quyền giải quyết TCLĐ cá nhân của Tòa án giúp đương sự giải quyết sự việc nhanh chóng, hiệu quả

Trang 40

Thẩm quyền giải quyết TCLĐ cá nhân của Tòa án bao gồm: quy định về thẩm quyền chung (hay thẩm quyền theo vụ việc); thẩm quyền của mỗi cấp Tòa án; thẩm quyền theo lãnh thổ; theo lựa chọn của người khởi kiện và quy định việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền

Thẩm quyền giải quyết TCLĐ cá nhân của Tòa án theo vụ việc

Để một vụ án tranh chấp lao động cá nhân được giải quyết tại Tòa án thì phải

đáp ứng các điều kiện sau: thứ nhất, là tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động; thứ hai, hòa giải viên lao động hòa giải không

thành hoặc một trong hai bên không thực hiện các thỏa thuận trong biên bản hòa giải thành hoặc hết thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật này mà hòa giải viên

lao động không tiến hành hòa giải; thứ ba, một hoặc cả hai bên tranh chấp yêu cầu

Tòa án giải quyết

Tại khoản 1 Điều 201 Bộ luật Lao động năm 2012 cũng như khoản 1 Điều 32

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định một số loại tranh chấp lao động không bắt buộc phải qua thủ tục hòa giải:

“a) Về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc tranh chấp về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động;

b) Về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động;

c) Giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động;

d) Về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, về bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế

đ) Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng”

Điểm đặc biệt của các tranh chấp lao động cá nhân thuộc thẩm quyền chung của Tòa án nhìn chung được giải quyết theo thủ tục tiền tố tụng nhưng không có kết quả thì mới được Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự (trừ một số trường hợp tranh chấp cá nhân nêu trên) Những quy định này phù hợp

Ngày đăng: 25/04/2020, 14:22

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
2. Chính phủ (2013), Nghị định số 46/2013/NĐ-CP ngày 10/5/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về tranh chấp lao động, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghị định số 46/2013/NĐ-CP ngày 10/5/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về tranh chấp lao động
Tác giả: Chính phủ
Năm: 2013
3. Hội đồng nhà nước (1990), Pháp lệnh hợp đồng lao động, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Pháp lệnh hợp đồng lao động
Tác giả: Hội đồng nhà nước
Năm: 1990
4. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Tác giả: Quốc hội
Năm: 2013
6. Quốc hội (2002), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động
Tác giả: Quốc hội
Năm: 2002
7. Quốc hội (2006), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động
Tác giả: Quốc hội
Năm: 2006
8. Quốc hội (2007), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động
Tác giả: Quốc hội
Năm: 2007
9. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014
Tác giả: Quốc hội
Năm: 2014
10. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015
Tác giả: Quốc hội
Năm: 2015
11. Quốc hội (2011), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quốc hội (2011), "Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng Dân sự
Tác giả: Quốc hội
Năm: 2011
13. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội. II. Tài liệu tham khảo Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật Tổ chức Tòa án nhân dân
Tác giả: Quốc hội
Năm: 2014
14. Nguyễn Thị Kim Anh (2014), Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân theo pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sỹ, Đại học Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân theo pháp luật Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Thị Kim Anh
Năm: 2014
15. Phạm Công Bảy (2006), Thủ tục giải quyết các vụ án lao động theo Bộ luật Tố tụng Dân sự, NXB Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thủ tục giải quyết các vụ án lao động theo Bộ luật Tố tụng Dân sự
Tác giả: Phạm Công Bảy
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
Năm: 2006
16. Phạm Công Bảy (2009), Giải quyết tranh chấ lao động tại Tòa án nhân dân – Từ pháp luật đến thực tiễn và một số kiến nghị, Tạp chí luật học số 9/2009 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giải quyết tranh chấ lao động tại Tòa án nhân dân – Từ pháp luật đến thực tiễn và một số kiến nghị
Tác giả: Phạm Công Bảy
Năm: 2009
17. Phạm Công Bảy (2011), Pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học và xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án ở Việt Nam
Tác giả: Phạm Công Bảy
Năm: 2011
18. Hà Bích, So sánh pháp luật Việt Nam và Trung Quốc về giải quyết tranh chấp lao động, Luận văn thạch sỹ Sách, tạp chí
Tiêu đề: So sánh pháp luật Việt Nam và Trung Quốc về giải quyết tranh chấp lao động
19. TS Nguyễn Công Bình (chủ biên), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội – 2012, tr. 58 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân
Nhà XB: NXB Công an nhân dân"
20. TS. Lưu Bình Nhưỡng (chủ biên), Giáo trình Luật Lao động Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Đại học Luật Hà Nội, tr. 497 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Luật Lao động Việt Nam, NXB Công an nhân dân
Nhà XB: NXB Công an nhân dân
22. Ngô Thị Tâm (2012), Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân – một số bất cập và hướng hoàn thiện, Luận văn Thạc sỹ, Đại học Luật Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân – một số bất cập và hướng hoàn thiện
Tác giả: Ngô Thị Tâm
Năm: 2012
23. Luật Dương Gia, Đặc điểm của giải quyết tranh chấp lao động bằng tòa án, https://luatduonggia.vn/dac-diem-cua-giai-quyet-tranh-chap-lao-dong-bang-toa-an , cập nhật ngày 04/10/2015 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đặc điểm của giải quyết tranh chấp lao động bằng tòa án, https://luatduonggia.vn/dac-diem-cua-giai-quyet-tranh-chap-lao-dong-bang-toa-an
24. Bùi Tiến Trung (2014), Pháp luật giải quyết tranh chấp lao động cá nhân từ thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sỹ, Đại học Mở Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Pháp luật giải quyết tranh chấp lao động cá nhân từ thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
Tác giả: Bùi Tiến Trung
Năm: 2014

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w