(Luận văn thạc sĩ) Hoạt động chứng minh của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ(Luận văn thạc sĩ) Hoạt động chứng minh của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ(Luận văn thạc sĩ) Hoạt động chứng minh của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ(Luận văn thạc sĩ) Hoạt động chứng minh của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ(Luận văn thạc sĩ) Hoạt động chứng minh của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ(Luận văn thạc sĩ) Hoạt động chứng minh của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ(Luận văn thạc sĩ) Hoạt động chứng minh của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ(Luận văn thạc sĩ) Hoạt động chứng minh của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ(Luận văn thạc sĩ) Hoạt động chứng minh của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ(Luận văn thạc sĩ) Hoạt động chứng minh của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ(Luận văn thạc sĩ) Hoạt động chứng minh của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ(Luận văn thạc sĩ) Hoạt động chứng minh của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ(Luận văn thạc sĩ) Hoạt động chứng minh của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ(Luận văn thạc sĩ) Hoạt động chứng minh của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ
Trang 1VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THU PHƯƠNG
HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH PHÚ THỌ
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Trang 2VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THU PHƯƠNG
HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
Trang 3LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi Các số liệu,
kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa công bố trong bất cứ công trình nào khác
Hà Nội, ngày …tháng … năm 2019
Tác giả luận văn
NGUYỄN THỊ THU PHƯƠNG
Trang 4CTKGG Cải tạo không giam giữ
GĐXXST Giai đoạn xét sử sơ thẩm
Trang 5MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH 15 1.1 Khái niệm hoạt động chứng minh của luật sư trong gđxxst 15
1.2 Đặc điểm của hoạt động chứng minh của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự 28 1.3 Các hoạt động chứng minh của luật sư trong gđxxst 30 Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ
2.5 Nguyên nhân, những hạn chế, vướng mắc về hoạt động của chứng minh của
luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm tại tỉnh phú thọ 53
2.6 Một số quy định của Luật sư Quốc Tế……….54
Chương 3 YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 59
3.1 Yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động chứng minh của luật sư trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm 59 3.2.Các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động chứng minh của luật sư 61
3.3 Kết hợp việc tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp luật sư với tăng
cường quản lý nhà nước về luật sư 65 KẾTLUẬN……….70 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 72
Trang 6MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
Như chúng ta đã biết Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định trình
tự, thủ tục giải quyết một vụ án hình sự, trong đó giai đoạn xét xử sơ thẩm có vai trò rất quan trọng trong việc quyết định bị cáo có tội hay không có tội để
áp dùng hình phạt với bị cáo Trong giai đoạn đó, cùng với việc buộc tội của Viện kiểm sát, hoạt động bào chữa của Luật sư cũng được thực hiện
Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, Đảng đã chủ trương thực hiện đồng bộ ba cuộc cải cách: Cải cách tư pháp, cải cách pháp luật, cải cách hành chính Trong đó cải cách tư pháp luôn được Đảng quan tâm chú trọng ngay từ những năm đầu của thế kỷ
XXI, với Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về “Một
số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã đặc biệt quan
tâm đến vai trò của Luật sư và đặt nhiệm vụ cho cơ quan tư pháp trong việc
bảo đảm hoạt động của Luật sư trong tố tụng, Nghị quyết đã chỉ rõ: “… Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên Tòa, đảm bảo tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác… Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên toà…”; Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của
Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 tiếp tục khẳng định:
“… Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên Tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp … Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn Hoàn thiện
cơ chế để luật sư thực hiện tốt tranh tụng tại phiên Toà, đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với luật sư Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý để phát huy chế độ tự quản của luật sư đối với các tổ chức thành viên của mình”
Trang 7Trên tinh thần cải cách tư pháp, trong những năm vừa qua các Cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Phú Thọ đã chủ động tạo điều kiện để Luật sư tham gia bào chữa trong vụ án hình sự từ giai đoạn điều tra; Hoạt động của Luật sư nói chung nhất là các hoạt động chứng minh nói riêng giúp cho người bị tạm giữ, người bị tình nghi (nghi phạm), bị can, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự được bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo qui định của pháp luật Với sự tham gia tích cực của Luật sư trong các giai đoạn tố tụng hình sự đã bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp của thân chủ (bị can, bị hại …) và góp phần trong việc làm rõ sự thật khách quan của vụ án Điều đó giúp cho việc điều tra, truy tố và xét xử được nhanh chóng, chính xác nâng cao hiệu quả công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm; tránh oan sai cho người vô tội, bỏ lọt tội phạm, góp phần giữ vững An ninh chính trị - Trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ Quốc nói chung và an ninh trật tự của tỉnh Phú Thọ nói riêng
Mặc dù BLTTHS đã bổ sung nhiều quyền cho Luật sư nhưng trên thực
tế trong quá trình tham gia giải quyết vụ án hình sự thì vị trí, vai trò và chức năng của Luật sư không phải lúc nào, giai đoạn nào Luật sư cũng được tạo điều kiện tốt nhất để thực hiện công việc của “Người bào chữa” trong tố tụng hình sự Trong giai đoạn xét xử còn nhiều hiện tượng gây khó khăn, chưa tạo điều kiện cho luật sư nghiên cứu hồ sơ, chưa chấp nhận yêu cầu chính đáng của người bào chữa, vì thế ảnh hưởng nhiều đến hoạt động chứng minh từ thu thập đến đánh giá các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ tội cho bị cáo.Trong thời gian qua tuy đã có một số công trình nghiên cứu về hoạt động trong TTHS nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện về hoạt động chứng minh của Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Do vậy việc nghiên cứu để tìm ra những ưu điểm, khuyết
Trang 8điểm, những tồn tại, hạn chế những nguyên nhân và những vướng mắc, khó khăn của Luật sư thực hiện hoạt động chứng minh trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở địa bàn tỉnh Phú Thọ là rất cần thiết Với tất cả những ý
nghĩa đã nêu ở trên, việc chọn đề tài “ Hoạt động chứng minh của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ”
làm Luận văn Thạc sĩ Luật học là cấp thiết và có ý nghĩa cả về lý luận cũng như thực tiễn
2 Tình hình nghiên cứu liên quan đề tài
Trước năm 1988, hoạt động của Luật sư - Người bào chữa trong tố tụng hình sự gần như chưa được quan tâm, nghiên cứu Phải đến khi Pháp lệnh tổ chức Luật sư năm 1987 và Bộ Luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988 có hiệu lực thi hành thì mới có một số rất ít những công trình khoa học hay các bài viết, chuyên đề nghiên cứu của các nhà khoa học đề cập đến vấn đề này
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Luật Luật sư năm 2006 có hiệu lực thi hành, nhất là trong tiến trình cải cách tư pháp, thực tiễn đòi hỏi cần phải giải quyết, thì các vấn đề liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, vai trò, hoạt động của Luật sư - Người bào chữa trong tố tụng hình sự mới được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu một cách toàn diện Những vấn đề cơ bản
về chứng minh, quá trình chứng minh được đề cập đến một số giáo trình tài liệu chuyên ngành như: Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của trường Đại Học Luật, nhà xuất bản công an nhân dân …một số các công trình nghiên cứu về vị trí, chức năng, hoạt động, địa vị pháp lý, vai trò của Luật sư trong tố tụng hình sự nói chung và trong cụ thể từng giai đoạn tố tụng hình sự nói riêng có thể kể đến:
- Đề tài nghiên cứu cấp trường năm 2003 “ Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của trường đại học
Luật do Thạc sĩ Bùi Kiên Điện chủ nhiệm đề tài
Trang 9- Đề tài cấp Bộ năm 2005: “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hành nghề luật sư trong điều kiện mới ở Việt Nam” do đồng chí Nguyễn Văn Thảo - Vụ trưởng Vụ Bổ trợ tư pháp, Bộ Tư
pháp làm chủ nhiệm đề tài
- Luận văn thạc sỹ luật học “ Đánh giá chứng cứ , sử dụng chứng cứ trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự - những vấn đề lý luận thực tiễn” của tác
giả Nguyễn Thị Thúy Hà năm 2008
- Luận văn thạc sỹ luật học “ Hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thu thập chứng cứ” của tác giả Khúc Thị Hoàng Hạnh năm 2010
- Luận án tiến sỹ luật học“Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hành nghề luật sư trong điều kiện mới ở Việt Nam” của tác giả Phan Trung Hoài
quốc gia Hà Nội năm 2015
- Luận văn thạc sỹ luật học: “Người bào chữa, Người bảo vệ quyền lợi cho đương sự là trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng hình sự trên cơ sở thực tiễn tại tỉnh Yên Bái” của tác giả Nguyễn Thu Phương, Khoa luật trường Đại
học quốc gia Hà Nội năm 2015
- Luận văn thạc sỹ luật học: “Vai trò của luật sư - người bào chữa trong các giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay” của
tác giả Nguyễn Văn Phương, Khoa luật trường Đại học quốc gia Hà Nội năm
2014
Trang 10- Luận án Tiến sỹ luật học : Hoạt động bào chữa của Luật sư …” của tác giả Ngô Thị Ngọc Vân , trường Đại học Luật Hà Nội năm 2016
- Luận văn thạc sỹ luật của tác giả Phạm Thế Hùng “Hoạt động của Luật
sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, từ thực tiễn thành phố Hà Nội”, Viện
hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam - Học viện khoa học xã hội năm 2017
Ngoài ra, một số sách chuyên khảo, tạp chí cũng đề cập đến chế định chứng cứ và chứng minh trong tố tụng Việt Nam như sách “ Chế định chứng cứ trong tố tụng hình sự Việt Nam” của Tiến sỹ Trần Quang Thiệp , sách “ Chứng
cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Cừ, sách
“Chứng cứ và chứng minh trong vụ án hình sự” của tác giả Đỗ Văn Đương …
Và một số đề tài được đề cập dưới dạng bài viết, chuyên đề, ý kiến trong một
số công trình nghiên cứu khoa học về TTHS; trong các bình luận khoa học về TTHS; trong một số Luận văn của một số tác giả nghiên cứu các vấn đề liên quan đến nội dung: Các quy định pháp lý và thực tế hoạt động của Luật sư trong TTHS ở Việt Nam nói chung và hoạt động của Luật sư trong giai đoạn khởi tố điều tra hoặc giai đoạn xét xử vụ án Nhưng lại chưa có đề tài hay chuyên đề nào nghiên cứu sâu về “Hoạt động chứng minh của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ”
Vì vậy, bằng đề tài này, tác giả với mong muốn được đề cập đến việc nghiên cứu chi tiết nội dung quy định của Pháp luật, vị trí, vai trò, chức năng của Luật sư trong TTHS ở Việt Nam; khái quát đánh giá những bất cập, khó khăn phát sinh trong quá trình tác nghiệp của Luật sư trong giai đoạn truy tố
Trang 113 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, phân tích quy định của pháp luật và đánh giá thực tiễn sự tham gia của Luật sư vào tố tụng hình sự nói chung và giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng trên địa bàn tỉnh Phú Thọ (trong thời gian 05 năm từ năm 2013 đến năm 2018) luận văn đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động chứng minh của Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, Luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về hoạt động chứng minh của Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự như: Hoạt động chứng minh của Luật sư, đặc điểm của hoạt động chứng minh trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
- Nghiên cứu hoạt động chứng minh của Luật sư theo quy định của pháp luật Việt Nam; có tham khảo với quốc tế
- Đánh giá đúng thực tiễn hoạt động chứng minh của Luật sư trong TTHS ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong thời gian 5 năm (từ 2013 - 2018);
- Đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật TTHS về hoạt động chứng minh của Luật sư Đồng thời, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động chứng minh của Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các qui định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của Luật sư, nhằm khẳng định địa vị pháp lý của Luật sư trong tố
Trang 12tụng hình sự Việt Nam nói chung và giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng
Luận văn nghiên cứu thực tiễn hoạt động chứng minh của Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở các Tòa Án Tỉnh Phú Thọ,
để thấy được luận văn tập trung nghiên cứu vai trò Luật sư với tư cách người bào chữa, có trách nhiệm chứng minh cho sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ tội cho bị cáo Trên cơ sở đó đề ra giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động chứng minh của Luật sư trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự
Hoạt động tư pháp nói chung và công tác tư pháp hình sự nói riêng luôn có những bất cập, hạn chế như: tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp vẫn còn bất hợp lý, chưa có sự phân định chính xác, hợp lý giữa các chức năng cơ bản của tố tụng, từ đó dẫn đến việc quy định vai trò, thẩm quyền cụ thể của từng chủ thể tố tụng và trình tự tiến hành các thủ tục tố tụng chưa phù hợp
Qua các công trình nghiên cứu cho thấy, có những thẩm quyền thuộc chức năng buộc tội nhưng Viện kiểm sát (cơ quan thực hiện chức năng buộc tội) lại không được thực hiện, ngược lại, Tòa án (cơ quan thực hiện chức năng xét xử) lại được giao thực hiện những thẩm quyền thuộc chức năng buộc tội Còn thiếu cơ chế bảo đảm thực hiện quyền của những người tham gia tố tụng, đặc biệt là cơ chế bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo; ý kiến tranh luận, tranh tụng của các Luật sư vẫn chưa thực sự được coi trọng; không ít bản án, quyết định của Tòa án chưa dựa trên kết quả tranh tụng dân chủ tại phiên Tòa, dẫn đến số lượng các bản án bị hủy, sửa án còn chiếm tỷ lệ khá cao
Những vướng mắc, bất cập nêu trên đã ảnh hưởng rất lớn đến kết quả đấu tranh, phòng, chống tội phạm, ảnh hưởng đến việc xây dựng một nền tư
Trang 13pháp dân chủ, công bằng, nghiêm minh, bảo vệ công lý, ảnh hưởng đến quyền bào chữa của bị can, bị cáo và đặc biệt là đã không tạo ra được cơ chế pháp lý hữu hiệu để thúc đẩy các cơ quan tiến hành tố tụng tự hoàn thiện, nâng cao hiệu quả hoạt động của mình trước sự đối trọng, phản biện tích cực từ bên bào chữa
Nhìn từ góc độ lý luận, một tác giả Việt Nam đã quan niệm, trong tố tụng hình sự, chức năng gỡ tội tồn tại song song với chức năng buộc tội như
là nhu cầu tất yếu khách quan Khi chưa xác định ai là người thực hiện tội phạm hoặc chưa bắt giữ người trong trường hợp khẩn cấp thì tố tụng hình sự chưa xuất hiện chức năng bào chữa Khi có người bị bắt và bị áp dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giữ hoặc có người mặc dù không bị bắt và không áp dụng biện pháp ngăn chặn nêu trên nhưng bị nghi là đã thực hiện hành vi phạm tội thì trong tố tụng hình sự đã bắt đầu xuất hiện chức năng buộc tội và chức năng gỡ tội
Buộc tội trong tố tụng hình sự, được quan niệm là hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, nhằm xác định trách nhiệm hình sự đối với người bị buộc tội trên cơ sở các chứng cứ về vụ án hình sự đã được xác định Chính bắt đầu
Trang 14từ thời điểm này, trong tố tụng hình sự xuất hiện sự tranh tụng giữa bên buộc tội và bên bào chữa, đồng thời, quá trình tranh tụng được tiếp tục cho đến khi
tố tụng hình sự kết thúc Tác giả còn đi đến khẳng định: “chức năng bào chữa không chỉ thuộc về bên bào chữa mà còn thuộc về cả bên buộc tội và cơ quan xét xử nữa”
Theo quan niệm của người viết, khi coi chức năng gỡ tội là đối trọng của chức năng buộc tội, một phần xuất phát từ địa vị pháp lý và cách thức sử dụng các biện pháp thực hiện chức năng khác nhau Hơn nữa, chức năng buộc tội được hậu thuẫn bởi các biện pháp cưỡng chế do Nhà nước đặt ra và trước quyền lực cưỡng chế, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân có nguy cơ bị xâm hại Do đó, quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa phải được coi
là điều kiện tất yêu cho việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng một cách công bằng, tạo cơ hội cho người bị buộc tội khả năng tiếp cận với công lý và tố tụng hình sự có được bản chất dân chủ của nó
Vì thế, cần tạo môi trường pháp lý cho việc thực hiện chức năng gỡ tội, thể hiện thông qua việc Nhà nước có biện pháp bảo đảm người bào chữa được thực hiện các kỹ năng chuyên môn của họ mà không bị đe dọa, cản trở, quấy rối hoặc can thiệp không đúng đắn, cũng như người dân có thể tiếp cận một cách bình đẳng và hiệu quả đối với các dịch vụ pháp lý mà người bào chữa cung cấp
Vấn đề làm rõ nội hàm của khái niệm chức năng gỡ tội, cần được đặt trong bối cảnh xác định mô hình tố tụng hình sự của Việt Nam hiện nay như thế nào? Sự phân tích của nhóm tác giả đề tài khoa học nêu trên đã cho thấy những vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng mô hình tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới và ở nước ta Đây là xu hướng tiếp nhận, giao thoa những yếu tố tích cực giữa mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn và mô hình tố tụng hình sự tranh tụng, tiếp tục hoán thiện “mô hình pha trộn" theo hướng
Trang 15thiên về tranh tụng hơn nữa Nhóm tác giả này phản biệt giữa hai khái niệm
“nguyên tắc tranh tụng” và “mô hình tranh tụng” không đồng nhất với nhau
và cần mở rộng tối đa tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm, coi đây là khâu đột phá Tuy nhiên, làm thế nào xác định đúng đắn các tiêu chí xây dựng mô hình
tố tụng và mức độ “pha trộn" kết hợp mô hình tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn, các nguyên tắc cơ bản của mô hình nói trên là một vấn để trọng tâm cần giải quyết khi nghiên cứu xây dựng nội dung Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015
Trong điều kiện Đảng và Nhà nước đang chủ trương xây dựng một nền
tư pháp dân chủ, đề cao việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, nguyên tắc bình đẳng, công bằng, công khai, minh bạch trong kiến thiết hệ thống cơ quan
tư pháp, việc nghiên cứu làm rõ hơn địa vị pháp lý và vai trò của người bào chữa nhằm thực hiện chức năng gỡ tội trong tố tụng hình sự có ý nghĩa lý luận
về cải cách tư pháp
Lý luận là lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác-Lênin, lý luận nhận thức của duy vật lịch sử làm rõ bản chất lý luận, của phép biện chứng duy vật vào quá trình thu thập kiểm tra và đánh giá chứng cứ, đây là cái xuyên suốt nhất về nhận thức qua cặp phạm trù, do đó chúng ta sử dụng trong quá trình chứng minh, thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ như vậy rõ ràng để muốn nhận thức phải có nguyên nhân kết quả phủ định của phủ định Như vậy để khẳng định không có cái gì hoàn hảo, nhưng cũng không có cái gì tiêu
Trang 16cực hoàn toàn, cái quan trọng là chúng ta sử dụng nó vào mục đích của chúng
ta như thế nào, phương pháp biện chứng thông qua các cặp phạm trù cơ bản
để sử dụng chứng minh
Xuất phát từ nguyên lý thế giới thống nhất vật chất luôn luôn vận động
và thay đổi, mọi sự vận động có sự liên hệ phổ biến xác lập nhau, nếu như không có sự thống nhất đó thì không thể chứng minh được
Vì vậy chứng minh trong biện chứng duy vật phải toàn diện, đó là nguyên tắc đó là phương pháp luận chung nhất, chỉ đạo không nghỉ của chủ thể chứng minh, chủ thể chứng minh đặt trong mối quan hệ phải xem xét tất
cả mọi khi các yếu tố bao gồm cả tình tiết sự kiện quan điểm phương pháp luận chứng minh
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phân tích, tổng hợp, lịch sử, so sánh, phương pháp hệ thống hóa, phương pháp logic, thống kê kết hợp với khảo sát thực tế, phương pháp nghiên cứu tài liệu, bản án, hồ sơ vụ án, phương pháp tham khảo ý kiến chuyên gia, phương pháp vụ việc điển hình
6 Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1 Ý nghĩa lý luận:
Luận văn góp phần bổ sung thêm những vấn đề lý luận về sự tham gia của Luật sư trong tố tụng hình sự nói chung, trong giai đoạn xét xử sơ thẩm nói riêng
Về phương diện lý luận, cần quan tâm đặt chức năng gỡ tội trong mối quan hệ với vấn đề bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp, cũng như cố gắng giải quyết những vướng mắc trong tổng thể vận hành chung của
cả hệ thống tư pháp, giữa các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng khác Thực tiễn những năm đổi mới, thực hiện chủ trương cải cách tư pháp vừa qua,
Trang 17có thể thấy rõ sự lúng túng giữa sự đi trước về mặt lý luận khoa học pháp lý
và nhận thức với thực trạng cơ chế điều chỉnh bằng pháp luật và những bất cập đối với sự tham gia của người bào chữa trong các giai đoạn tố tụng hình
sự Điều này dẫn đến bức xúc trong dư luận, có ảnh hưởng đến niềm tin vào tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
Nguyên nhân sâu xa dẫn đến những hạn chế, liên quan đến việc thực hiện chức năng gỡ tội chính là việc xác định địa vị pháp lý của người bào chữa theo quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự và trong các văn bản hướng dẫn thi hành vẫn còn nhiều hạn chế, thể hiện chủ yếu trên các phương diện sau đây:
Thứ nhất, xét về mặt chủ thể thực hiện chức năng gỡ tội do pháp luật
tố tụng xác định người bào chữa chỉ là người tham gia tố tụng và phạm vi hoạt động thuộc lĩnh vực “ Bổ trợ tư pháp”, nên thực chất người bào chữa chỉ được coi là người trợ giúp pháp lý mang tính bị động, ảnh hưởng rất nhiều đến việc hành nghề một cách bình đẳng và độc lập
Thứ hai, về mặt xã hội, do chưa được thừa nhận là một chức danh tư pháp độc lập nên vai trò của người bào chữa nói chung Luật sư nói riêng trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong cải cách tư pháp bị hạn chế
Thứ ba, thực chất quan niệm coi hoạt động của người bào chữa thuộc phạm vi “bổ trợ tư pháp” xuất phát từ thực tiễn là hành nghề của người bào chữa thường gắn chặt với hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử của Tòa án
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn có tác dụng đóng góp một phần việc
bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật về hoạt động chứng minh của Luật sư trong TTHS nói chung và giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng; đồng thời giúp cho cơ quan và người tiến hành tố tụng hình sự cũng như Đoàn luật sư tỉnh Phú Thọ, cá nhân các Luật sư phát huy các kết quả đã
Trang 18đạt được, khắc phục các hạn chế thiếu sót trong TTHS, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Luật sư trong tố tụng hình sự
Ngoài ra, Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho không chỉ các nhà lập pháp mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các Luật sư trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật
Xuất phát từ thực tiễn như vậy, đi đến tận nơi để xác nhận chứng cứ xem có phải là đúng hay không, đòi hỏi phát điển hóa trong chứng minh làm hoàn thiện pháp luật từ nguồn chứng cứ để coi chứng minh có không và có đầy đủ chứng cứ không, có đủ ba thuộc tính chứng minh hay không nếu nó vi phạm quy định của luật tố tụng hình sự về trình tự và tính hợp pháp mặc dù
nó nằm hồ sơ nhưng tính hợp và không hợp pháp được coi là chứng cứ khi nào, và không coi là chứng cứ khi nào
Lời khai nhận tội của người phạm tội, bị can trong giai đoạn xét xử mà không có sự tham gia của người bào chữa hoặc từ chối người bào chữa thì không coi là chứng cứ, trừ trường hợp tranh tụng tại phiên tòa không nhận lời khai, có tự nguyện không bị cưỡng ép bức cung và họ khai đúng sự thật thì đó coi là chứng cứ vì khai lời khai có giám sát cơ sở
Mặc dù ưu tiên nhiều nhưng vì Luật sư chưa đạt được nhiều về số lượng chứng cứ, chứng minh để lời khai được khách quan thì điều tra viên có được phép mời Luật sư vào bản khai cuối cùng tham gia, nếu như vậy thì mang tính khả thi không cao mà lại đi phát điển hóa không thi hành được thì các cơ quan điều tra liên quan tới tố tụng đã hoàn thiện hồ sơ
Nếu lời khai không có Luật sư thì ra tòa lại thành lời khai chưa có sự thuyết phục, bởi trong khi lấy lời khai bị mớm cung hoặc đánh đập tra tấn mặc dù trước đây nhận tội rồi sao có Luật sư thì khai thật và khi có phiên tòa lại thấy khác lời khai nhận tội phù hợp là căn cứ kết tội
Tranh thủ tại phiên tòa phải lấy bằng phương pháp khác, lời khai nhận
Trang 19tội phải khách quan, lời khai nhận tội phải kiểm tra rất cụ thể tại phiên tòa, lấy lời khai để làm chứng để làm căn cứ chứng minh
Các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã cho chúng ta những bài học về chứng cứ, chứng minh Cho nên việc đánh giá chứng cứ, thu thập chứng cứ, kiểm tra chứng cứ xuyên suốt trong quá trình tố tụng hình sự, thậm chí từ tin báo tội phạm, cho đến bản án của tòa có hiệu lực pháp luật nhưng nó còn giai đoạn chứng minh, ngấm ngầm chứng minh, thậm chí bản án xử đúng rồi nhưng vẫn chứng minh con người thực khi bản án đó không còn nguy hiểm cho xã hội để được tha tù, đại xá sớm Nếu lý luận không thực tiễn thì lý luận suông, thực tiễn không lý luận thì lý luận mù quáng, ai cũng phải nói đến
lý luận nhưng không phải ai cũng phải làm
Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu lý luận và thực tiễn về hoạt động chứng minh của Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Phú Thọ, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm phong phú thêm
về trí tuệ, nhận thức, tri thức về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình
sự tại Việt Nam
7 Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hoạt động chứng minh của Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Chương 2: Qui định của pháp luật và thực tiễn hoạt động chứng minh của Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm tại tỉnh Phú Thọ
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động chứng minh của Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Trang 20Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH
CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1 Khái niệm hoạt động chứng minh của luật sư trong GĐXXST
Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng “hoạt động” là “ làm những việc khác nhau với mục đích nhất định trong xã hội” ; “chứng minh ” là “Dùng lý
lẽ suy luận, bằng cứ để chỉ rõ điều gì đó đúng hay không đúng ” Như vậy
theo nghĩa thông thường, hoạt động chứng minh của Luật sư được hiểu là hoạt động trí tuệ, tư duy hay thực tiễn của con người, có mục đích xác định sự tồn tại hay không tồn tại, hoặc là đúng sai của một sự vật, hiện tượng trên cơ
sở của những căn cứ, chứng cứ nhất định
Để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có trách nhiệm áp dụng mọi biện pháp không vi phạm pháp luật để chứng minh sự thật của vụ án Các sự việc xảy ra luôn để lại những “dấu vết” trong thế giới khách quan, được con người và môi trường vật chất phản ánh lại Quá trình chứng minh vụ án hình sự thực chất là quá trình con người nhận thức về sự kiện phạm tội đã xảy ra, thông qua việc thu thập, phân tích, đánh giá những thông tin về vụ án Trong khoa học pháp lý hiện đang tồn tại khá nhiều quan điểm khác nhau xung quanh khái niệm chứng minh tố tụng hình sự
Quan điểm thứ nhất cho rằng : “ Quá trình chứng minh là quá trình nhận thức các sự kiện , các tình tiết vụ án hình sự”{63,tr.330}
Quan điểm thứ hai cho rằng : “ Quá trình chứng minh là quá trình nhận thức các sự kiện, các tình tiết vụ án thông qua các chứng cứ”{5,tr.164}
Trang 21Quan điểm thứ ba cho rằng : “ Chứng minh tội phạm là thu thập , kiểm tra , đánh giá chứng cứ để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội ”{51,tr.161}
Mỗi quan điểm nêu trên, đều có những ưu điểm và nhược điểm nhất định nhưng chưa nêu được đầy đủ các yếu tố của quá trình chứng minh trong TTHS như: chủ thể chứng minh, đối tượng chứng minh, phương tiện chứng minh và cơ sở pháp lý để tiến hành các hoat động chứng minh…
Theo quan điểm của các tác giả giáo trình luật TTHS Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội thì quá trình chứng minh trong TTHS được hiểu
như sau: “ Quá trình chứng minh là quá trình của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và những người có quyền chứng minh dựa trên cơ sở các qui định của pháp luật TTHS,các thông tin tư liệu cần thiết nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án đảm bảo cho việc giải quyết đúng đắn , khách quan vụ án”.{53.tr.183}
Khái niệm trên đã chỉ ra được những đặc điểm thuộc về bản chất của quá trình chứng minh trong TTHS như chủ thể chứng minh, phương tiện chứng minh, thủ tục chứng minh, mục đích chứng minh và nội dung hoạt động của chứng minh
Xét xử vụ án hình sự nói chung, xét xử sơ thẩm nói riêng được coi là
một giai đoạn quan trọng của toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự “ Xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn của tố tụng hình sự trong đó Tòa án có thẩm quyền tiến hành xem xét, giải quyết vụ án, ra bản án, quyết định tố tụng theo qui định của pháp luật”{53.tr.343}
Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự bắt đầu từ khi tòa án nhận hồ sơ cùng với bản cáo trạng ( hoặc quyết định truy tố bị can) do Viện kiểm sát chuyển đến và kết thúc vụ án khi Tòa án ra bản án Tính chất của giai đoạn xét xử sơ thẩm làm cho hoạt động chứng minh trong, giai đoạn này có những
Trang 22điểm khác biệt so với hoạt động chứng minh trong các giai đoạn tố tụng khác Chức năng của Luật sư trong vụ án hình sự là “gỡ tội”, “ buộc tội” chức năng
“gỡ tội” đối lập chức năng buộc tội của Viện kiểm sát, để thực hiện chức năng
gỡ tội cho bị cáo Luật sư phải thực hiện hoạt động chứng minh
Hoạt động chứng minh của Luật sư khác với viện kiểm sát, nếu như viện
kiểm sát đưa ra chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo thì Luật sư
đưa ra chứng cứ, chứng minh bị cáo không có tội hoặc chứng minh với việc
đưa ra các tình tiết có lợi cho bị cáo, nhằm làm giảm tội cho bị cáo…
Do vậy Luật sư muốn thực hiện việc chứng minh cho sự vô tội, giảm
tội… của thân chủ thì phải có quyền thu thập chứng cứ, kiểm tra chứng cứ,
đánh giá chứng cứ nên Luật sư cần nghiên cứu những dấu hiệu đặc trưng của
hoạt động chứng minh, mục đích chứng minh, đối tượng, giới hạn của hoạt
động chứng minh Để có thể hình thành khái niệm đầy đủ, chính xác về hoạt
động chứng minh cần làm rõ những vấn đề sau:
Thứ nhất : Chủ thể chứng minh
Chủ thể chứng minh trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là
kiểm sát viên, thẩm phán, và hội thẩm, người bào chữa Người tham gia tố
tụng khác cũng tham gia vào các hoạt động chứng minh, do các chủ thể chứng
minh tiến hành nhưng họ không không có nghĩa vụ chứng minh Theo quy
định của điều 10 BLTTHS năm 2003 thì “ Cơ quan điều tra , Viện kiểm sát
và Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ
án một cách khách quan , toàn diện và đầy đủ …Trách nhiệm chứng minh tội
phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng Bị can , bị cáo có quyền nhưng
không buộc phải chứng minh là mình vô tội”
Thẩm phán và hội thẩm tiến hành hoạt động chứng minh từ giai đoạn
chuẩn bị xét xử, thông qua việc nghiên cứu hồ sơ, đánh giá các chứng cứ đã
thu thập được trong các giai đoạn trước đó, hoạt động kiểm tra đánh giá
Trang 23chứng cứ là hoạt động độc lập của từng thành viên, hội đồng xét xử thẩm phán và hội thẩm trong hội đồng xét xử độc lập với nhau và độc lập với các chủ thể khác trong việc kiểm tra, đánh giá chứng cứ và đưa ra kết luận về vụ
án
Kiểm sát viên cũng có trách nhiệm chứng minh trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự khi tham gia phiên tòa để thực hiện chứng năng buộc tội và kiểm sát hoạt động xét xử, kiểm sát viên có quyền yêu cầu HĐXX triệu tập thêm người làm chứng và yêu cầu đưa thêm vật chứng vào tài liệu xem xét Thông qua hoạt động xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, kiểm sát viên phải kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ chứng minh cho những tình tiết liên quan đến việc buộc tội được dùng làm căn cứ cho quan điểm luận tội của mình
Luật sư là người tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên tham gia theo TTHS, Luật sư tham gia nghiên cứu hồ sơ, phát hiện sai sót, vi phạm trong quá trình tố tụng, tham gia tranh luận làm sáng tỏ sự thật của vụ án
Thứ hai : Phương tiện chứng minh
Tội phạm là một hiện tượng tồn tại khách quan, trong mối quan hệ tác động qua lại với các sự vật khác Khi các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập
và chứng minh một cách hợp pháp và sử dụng để làm sáng tỏ sự thật của vụ
án thì chúng trở thành chứng cứ trong vụ án hình sự Về bản chất, chứng cứ chính là những thông tin phản ánh hành vi phạm tội, những thông tin này chứa đựng bằng những hình thức khác nhau mà khoa học luật TTHS gọi là
nguồn chứng cứ “ Chứng cứ là phương tiện duy nhất được cơ quan tiến hành
tố tụng sử dụng để chứng minh trong tố tụng hình sự”
+ Chứng cứ có các thuộc tính sau:
Trang 24- Tính khách quan : “ Chứng cứ là những gì có thật ” tồn tại khách quan
không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người Các thông tin, tài liệu,
đồ vật về vụ án đã làm sai lệch không phản ánh đúng hiện thực khách quan thì không phải là chứng cứ, tính khách quan là thuộc tính không thể thiếu của chứng cứ bởi sự thật được sử dụng để thực hiện điều đó phải đảm bảo tính khách quan
- Tính liên quan : Những thông tin, tài liệu, đồ vật dù có thật nhưng
không có liên quan đến vụ án thì không được coi là chứng cứ Tính liên quan của chứng cứ thể hiện ở việc chứng cứ đó trực tiếp hoặc gián tiếp xác định các tình tiết của đối tượng chứng minh Chỉ những thông tin, tài liệu, đồ vật
được “ Cơ quan điều tra, viện kiểm sát và Tòa án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết khác cho việc giải quyết đúng đắn vụ
án ” mới liên quan đến vụ án
- Tính hợp pháp : Tính hợp pháp của chứng cứ, đòi hỏi chứng cứ phải
được thu thập, kiểm tra đánh giá theo trình tự, thủ tục luật định và phải được xác định bằng nguồn tương ứng theo qui định của pháp luật
+ Chứng cứ được xác định bằng những nguồn sau :
- Vật chứng : Là vật thể chứa đựng các thông tin có ý nghĩa đối với việc
giải quyết vụ án, được thu thập theo trình tự, thủ tục do pháp luật TTHS qui định :
- Lời khai, lời trình bày : Là lời trình bày của những người tham gia tố
tụng về những tình tiết có liên quan đến vụ án
- Dữ liệu điện tử : là các phương tiện để ghi âm ghi hình có liên quan
trực tiếp tới vụ án
- Kết luận giám định, định giá tài sản “ là đánh giá cụ thể bằng văn bản của người có trình độ chuyên môn về vấn đề khoa học, kỹ thuật tương ứng
Trang 25liên quan đến vụ án hình sự được cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu” đây là
nguồn chứng cứ quan trọng có giá trị chứng minh cao nhất
- Biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; Trong quá trình gải quyết vụ án hình sự,có rất nhiều hoạt động tố tụng
được tiến hành và khi tiến hành các hoạt động này theo quy định của BLTTHS, các cơ quan tiến hành TTHS đều phải lập biên bản, ngoài ra các cơ quan tố tụng có thể nhận được các tài liệu, đồ vật do cơ quan tổ chức cá nhân cung cấp, tất cả các thông tin được ghi, thể hiện trong các biên bản tố tụng, tài liệu đồ vật đó đều có thể coi được là những chứng cứ nếu thoả mãn đầy đủ các thuộc tính của chứng cứ
- Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác
- Các tài liệu, đồ vật khác
+ Phương tiện chứng minh: trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự không chỉ giới hạn trong những chứng cứ đã thu thập từ những giai đoạn tố tụng trước có trong hồ sơ vụ án, mà còn bao gồm cả những chứng cứ mới thu thập trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa
Tuy nhiên, mỗi giai đoạn tố tụng đều có nhiệm vụ riêng, được quyết định bởi mục đích cụ thể của hoạt động chứng minh trong giai đoạn tố tụng
đó, trong các giai đoạn khởi tố hoạt động chứng minh nhằm xác định có hay không, có dấu hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết
Trang 26định không khởi tố vụ án hình sự; hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra nhằm xác định có tội phạm và bị can hay không, không thể ban hành quyết định điều tra trong giai đoạn truy tố hoạt động chứng minh nhằm xác định tội của bị can, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị can và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án để căn cứ vào đó VKS ra bản cáo trạng truy tố bị can, quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án
Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự hoạt động chứng minh nhằm xác định đầy đủ và toàn diện các tình tiết của vụ án, để đưa ra quyết định giải quyết vụ án hình sự một cách khách quan, toàn diện, đúng pháp luật
+ Những vấn đề cần chứng minh:
Đối tượng chứng minh: Đối tượng chứng minh xác định bằng các dấu
hiệu pháp lý cấu thành tội phạm, tất cả những tình tiết phải được xác định định, đảm bảo cho việc giải quyết đúng đắn, khách quan, toàn diện vụ án hình sự
Giới hạn chứng minh: Giới hạn chứng minh là việc thu thập chứng cứ
vừa đủ để làm căn cứ chứng minh cho việc giải quyết vụ án hình sự theo đúng yêu cầu của pháp luật
Chứng minh bằng hình thức này, chứng minh bằng hình thức khác
trong nội hàm của chứng minh có chứng cứ tuân thủ theo pháp luật
Đối với Luật sư để vụ việc được khách quan thì Luật sư có quyền gặp người mà mình bào chữa, gặp người làm chứng, bị hại, bị can, bị cáo và những người khác có liên quan và biết về vụ án, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án, bảo đảm nguyên tắc trong BLTHHS Đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể cung cấp dữ liệu đồ vật có liên quan đến việc bào chữa cho thân chủ trong vụ án hình sự
Đối với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng theo quy định, nghĩa
vụ và các chế tài đối với người khai báo gian dối là điều rất là quan trọng
Trang 27tránh những trường hợp khai man, giả dối làm ảnh hưởng nhiều đến quá trình điều tra cũng như trong quá trình xét xử vụ án hình sự sơ thẩm
Việc thu thập tài liệu, đồ vật có liên quan của người bào chữa đòi hỏi phải có kĩ năng, nghiệp vụ chuyên sâu, phần nhiều thì người bào chữa vẫn chưa được trang bị kĩ năng đầy đủ, bài bản, vì do không được bình đẳng trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người bị tình nghi phạm tội nên thực tế không hề có cơ chế nhằm hỗ trợ cho người bào chữa thu thập chứng cứ trong một số cá nhân, tổ chức từ chối cung cấp chứng cứ việc giải quyết khiếu nại
Bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 của Liên đoàn Luật sư Việt Nam, đề xuất này cũng nhận được sự ùng hộ của đại diện các cơ quan tiến hành tố tụng Trung ương tại Hội thảo quốc tế về sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 liên quan đến việc quyền bào chữa và quyền hành nghề của Luật sư tổ chức tại Hà Nội vào tháng 3-2012 Như được nêu trong Báo cáo đánh giá thực trạng thi hành Bộ luật tố tụng hình sự, do địa vị pháp lý của người bào chữa chưa tương xứng với chức năng cơ bản trong tố tụng hình
sự, nên trong quá trình tham gia tố tụng, họ không được quyền thu thập chứng
cứ như là một quyển hạn nhằm phục vụ cho việc thực hiện trách nhiệm bào chữa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng của mình Nhiều hoạt động tố tụng thiếu vai trò của người bào chữa, trong nhiều trường hợp, người bào chữa tự mình thu thập chứng cứ, tài liệu từ phía nhân chứng, tổ chức, cá nhân có liên quan nhưng bị từ chối hoặc gây khó khăn
Thực trạng quy định pháp luật về chứng cứ và vai trò trách nhiệm của Luật sư trong việc thu thập chứng cứ là vấn đề cần làm rõ Pháp luật cần có
cơ chế bảo đảm để người bào chữa thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác Trường hợp phát hiện người bào chữa thu thập tài liệu,
Trang 28đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác hoặc tiết lộ bí mật điều tra Cơ quan điều tra, Điều tra viên phải có biện pháp ngăn chặn hành vi vi phạm của người bào chữa, tùy theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm mà có biện pháp xử lý hoặc báo cáo cấp có thẩm quyền để xử lý theo quy định của pháp luật Người bào chữa thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa giao cho Cơ quan điểu tra thì Điều tra viên lập biên bản tiếp nhận và đưa vào hồ sơ vụ án Trường hợp người bào chữa đưa ra yêu cầu, nếu thấy yêu cầu có liên quan đến việc bào chữa thì Điều tra viên lập biên bàn ghi nhận yêu cầu của người bào chữa
Như vậy, quyền thu thập, đưa ra giao nộp tài liệu, đồ vật và tình tiết có liên quan vụ án của Luật sư được thể hiện thông qua việc tham gia vào việc lấy lời khai của người bị tạm giữ, hỏi cung bị can; tham gia vào một số hoạt động điều tra khác như đối chất, nhận dạng, khám xét, thực nghiệm điều tra, khám nghiệm hiện trường; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà minh bào chữa; gặp người bị tạm giữ; gặp bị can bị cáo đang bị tạm giam; đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật; tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa
Tuy nhiên, về mặt nhận thức, chứng cứ là những gì có thật dùng để làm
rõ những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự Chứng cứ được xác định bằng nhiều nguồn khác nhau, được thu thập theo trình tự, thủ tục được Bộ luật tố tụng hình sự quy định Thuộc tính của chứng cứ là phản ánh hiện thực khách quan, lưu giữ những thông tin có giá trị chứng minh tội phạm
và người thực hiện hành vi phạm tội Nhưng không phải tất cả những gì có liên quan đến hành vi phạm tội, do ai thu thập và cung cấp cũng được coi là chứng cứ, mà chứng cứ phải được xác định, thu thập theo quy định của pháp
Trang 29luật Điểm mấu chốt trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định cơ quan
có thẩm quyền thu thập chứng cứ là cơ quan tiến hành tố tụng hình sự gồm Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án Theo quy định này người tham gia tố tụng nói chung, người bào chữa nói riêng, không được xác định là người có thẩm quyền thu thập chứng cứ Họ chỉ có quyền thu thập và đưa ra một trong những nguồn của chứng cứ đó là tài liệu, đồ vật, tình tiết có liên quan đến vụ án
Chứng cứ là một giai đoạn của quá trình chứng minh, trong đó có hoạt động chứng minh của Luật sư, nếu không quy định cho Luật sư thu thập chứng cứ tài liệu thì dễ bị bỏ sót tài liệu chứng cứ để chứng minh, để gỡ tội
Và như thế việc giải quyết vụ án sẽ không khách quan, cho nên việc không thể thiếu trong hoạt động chứng minh của Luật sư là hoạt động thu thập chứng cứ Sự kế thừa của BLHS 2003 thì BLHS năm 2015 đã mở rộng hơn quyền thu thập chứng cứ cho người bào chữa So Điều 64 BLHS năm 2003 và Điều 87 BLHS năm 2015 bổ sung thêm nguồn chứng cứ là: Dữ liệu điện tử, kết luận giám định tài sản, kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc
tế khác
Theo quy định của pháp luật nguồn của chứng cứ là lời khai của người
bị tình nghi và các đương sự khác trong vụ án, nhưng do không được tiếp cận riêng tư với họ trong trại tạm giam trong giai đoạn điều tra, nên sự tham gia của Luật sư hoàn toàn tùy thuộc vào lịch làm việc hoặc sự chấp thuận hay không của Điều tra viên Trong khi đó quy định về quyền gặp mặt người bị tạm giữ, bị can của người bào chữa trong Thông tư số 70/2011/TT-BCA ngày
10 tháng 10 năm 2011 chưa thật sự rõ ràng, gặp nhiều khó khăn trong thực tế Giữa người bào chữa và người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không được quyền trao đổi thông tin, tài liệu, thư từ có tính chất riêng tư; người bị tình nghi phạm tội bị can không được phép tiếp cận với hồ sơ vụ án, tài liệu chứng cứ chống lại mình Việc quy định người bào chữa tham gia hỏi cung chỉ được
Trang 30phép hỏi khi Điều tra viên đồng ý đã hạn chế quyền và vị thế của người bào chữa, hạn chế việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ Ngoài ra, cũng phải tính đến thực tế việc thu thập tài liệu, đồ vật có liên quan của người bào chữa đòi hỏi phải có kỹ năng, nghiệp vụ chuyên sâu, nhưng phần nhiều người bào chữa chưa được trang bị kỹ năng, nghiệp vụ này một cách bài bản, nên khả năng thu thập tài liệu, đồ vật rất hạn chế và ít có giá trị chứng minh trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Do không được bình đẳng trong việc thu thập chứng cứ nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người bị tình nghi phạm tội nên thực tế không có cơ chế hỗ trợ người bào chữa thu thập chứng cứ trong trường hợp một số cá nhân, tổ chức từ chối việc cung cấp chứng cứ Việc giải quyết khiếu nại của người bào chữa về quá trình điều tra, thu thập chứng cứ của các cơ quan tiến hành tố tụng chưa được xem xét, giải quyết thỏa đáng, không bảo đảm thời hạn và trình tự Bộ luật tố tụng hình sự quy định
Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã đưa ra những kiến nghị quan trọng liên quan quyền thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ và yêu cầu hỗ trợ thu thập chứng cứ của người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm Bên cạnh việc
mở rộng phạm vi và thời điểm thu thập chứng cứ, một vấn đề quan trọng là quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa không phụ thuộc vào sự đồng ý của nhân chứng, của tổ chức, cá nhân nắm giữ thông tin có giá trị là chứng cứ, cũng như cần phải được sự hỗ trợ của các cơ quan tiến hành tố tụng nêu gặp cản trở Đồng thời cần quy định trình tự khiếu nại của người bào chữa, khi yêu cầu hỗ trợ cung cấp thu thập chứng cứ không được các cơ quan tiến hành tố tụng đáp ứng khi Luật sư tham gia vào quá trình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Trong Hội thảo quốc tế do Liên đoàn Luật sư Việt Nam tổ chức tại Hà Nội tháng 3-2012, đã có ý kiến để xuất: Để bảo đảm tính khách quan, toàn diện khi giải quyết vụ án hình sự thì việc thu thập chứng cứ phải được quan
Trang 31tâm ở cả hai hướng là buộc tội và gỡ tội Xuất phát từ yêu cầu đó, trong Chương về chứng cứ của BLTTHS cần bổ sung quy định về thẩm quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa Quy định này không làm mất đi vị trí, vai trò của cơ quan, người tiến hành tố tụng; bởi vì, bản chất của chứng cứ là tồn tại khách quan, phản ánh sự kiện phạm tội, có giá trị chứng minh tội phạm Quyền xem xét, đánh giá chứng cứ vẫn thuộc về cơ quan, người tiến hành tố tụng Người bào chữa nên thu thập được chứng cứ theo đúng trình tự, thủ tục
do pháp luật sẽ giúp cơ quan tiến hành tố tụng giảm chi phí và rút ngắn thời gian giải quyết xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Hội thảo đưa ra kiến nghị:
Thứ nhất, bổ sung một số quyền của người bào chữa để thực hiện tốt chức năng tố tụng của mình như: Quyền thu thập chứng cứ, quyền được nhận các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình nhận bào chữa (cáo trạng, quyết định đinh chỉ vụ án hoặc quyết dịnh tạm đình chỉ vụ án đối với bị can ); chất vấn, đối chất người làm chứng, người bị hại và người tham gia tố tụng khác trong các giai đoạn tố tụng
Thứ hai, cần thay đổi quan niệm về chứng cứ và quy định quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa thay vì chỉ giới hạn quyền của họ đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu như pháp luật hiện hành nhằm bảo đảm thực hiện yêu cầu tranh tụng bình đẳng, dân chủ tại phiên tòa Nếu có khó khăn trong việc thu thập chứng cứ thì tùy theo giai đoạn tố tụng, Viện kiểm sát, Tòa án phải là
cơ quan hỗ trợ trong việc thu thập chứng cứ như ra lệnh triệu tập nhân chứng hay yêu cầu các cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ cho Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sư
Về sự hỗ trợ của các cơ quan THTT thu thập chứng cứ để làm căn cứ chứng minh cho luật sư ở giai đoạn xét xử sơ thẩm Nếu bị từ chối cung cấp chứng cứ, người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan tố tụng có thẩm quyền có
Trang 32biện pháp hỗ trợ nhằm bảo đảm cho việc thu thập chứng cứ của Luật sư ở giai đoạn xét xử sơ thẩm Đối với người làm chứng, khi nhận được quyết định của Tòa án triệu tập người làm chứng theo yêu cầu của người bào chữa, họ phải
có mặt và cũng không được quyền từ chối Nếu ngưòi làm chứng từ chối ra Tòa làm chứng mà không có lý do chính đáng thì Tòa án có quyền áp giải họ phải ra Tòa làm chứng
Để thực hiện trách nhiệm của mình, người bào chữa có thể đến nơi giam giữ để thu thập chứng cứ từ phía người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
cơ quan giam giữ phải bào đảm cho những người nói trên tiếp nhận yêu cầu thu thập chứng cứ và ra Tòa làm chứng theo yêu cầu từ phía người bào chữa
Sở dĩ phải đặt vấn để quy định sự hỗ trợ nói trên là vì việc thu thập chứng cứ, đưa ra đồ vật, tài liệu, v.v của người bào chữa về bản chất là một hoạt động không có được sự bảo đảm mang tính cưỡng chế Do đó, sẽ xuất hiện khả năng những người bị buộc tội, các đương sự, người làm chứng, tổ chức hoặc cá nhân từ chối tiếp nhận yêu cầu thu thập chứng cứ của người bào chữa thì người bào chữa cũng không có cách nào để thu thập được chứng cứ
có lợi cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng của mình
Đó chính là cơ sở để quy định người bào chữa có quyền yêu cầu các cơ quan tiến hành tố tụng quyết định hỗ trợ thu thập chứng cứ của Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không chấp nhận yêu cầu ban hành quyết định hỗ trợ thu thập chứng cứ hoặc triệu tập người làm chứng của người bào chữa mà vẫn tiến hành xét xử, người bào chữa có quyền khiếu nại hoặc kiến nghị xem xét lại hành vi nói trên, hoặc kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án quyêt định sơ thẩm Nếu Tòa án cấp phúc thẩm có căn cứ chứng minh lý do Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm, làm ảnh hưởng đến việc xét xử khách quan, công bằng, có thể coi đây là hành vi vi
Trang 33phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng, là căn cứ để hủy bản án sơ thẩm, giao về cho cấp sơ thâm điểu tra xét xử lại và yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm ban hành quyết định hỗ trợ thu thập chứng cứ hoặc lệnh triệu tập nhân chứng ra Tòa
Trong điều kiện duy trì mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn thì quy định cho phép mở rộng khả năng tranh tụng, đối kháng giữa bên buộc tội và gỡ tội,
đề cao vai trò của Tòa án như một trọng tài khách quan, là hoàn toàn phù hợp với chủ trương nêu trong Nghị quyết số 08-NQ/TW và số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị Đảng Cộng Sản Việt Nam khóa IX
Sau khi đã xác định được phạm vi, trình tự và cách thức tiến hành xét hỏi, thẩm tra chứng cứ, bên buộc tội và bên gỡ tội có quyền trình bày về nguồn gốc, tính xác thực và giá trị pháp lý của các chứng cứ do mình đưa ra, trên cơ
sở đó có quyền nhận xét, đánh giá chứng cứ và tranh tụng
Bởi vậy, từ những việc thu thập chứng cứ, kiểm tra chứng cứ và đánh giá chứng cứ là những nội dung cốt lõi chính trong vụ án
Từ những phân tích nêu trên có thể đưa ra khái niệm hoạt động chứng
minh của Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đó là “ tổng hợp các hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ của Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của thân chủ” Như vậy rõ ràng cho thấyhoạt động
chứng minh của Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt động thu thập , kiểm tra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, giao nộp chứng cứ của
Luật sư theo đúng quy định pháp luật để mục đích nhằm bảo vệ quyền lợi tốt
nhất cho thân chủ không vi phạm quy định của pháp luật là rất đúng đắn
1.2 Đặc điểm của hoạt động chứng minh của Luật sư trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự
Giai đoạn xét xử sơ thẩm có thể chia thành hai giai đoạn nhỏ, giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm và giai đoạn mở phiên tòa sơ thẩm, hoạt động chứng
Trang 34minh của Luật sư trong hai giai đoạn này có sự khác nhau với hoạt động chứng minh ở các giai đoạn tố tụng khác
Giai đoạn CBXXST bắt đầu từ ngày Tòa án thụ lý hồ sơ vụ án đến trước ngày mở phiên tòa (trường hợp Tòa án ra một trong các quyết định trả hồ sơ
để điều tra bổ sung, quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án thì giai đoạn này kết thúc khi các quyết định nêu trên được ban hành) Xuất phát từ ý nghĩa của giai đoạn chuẩn bị XXST là để cho các chủ thể tiến hành những công việc cần thiết phục vụ cho việc mở phiên tòa, hoạt động chứng minh của các chủ thể chứng minh ở giai đoạn này mang tính chất sơ bộ, nhằm chuẩn bị cho hoạt động chứng minh chính thức, công khai tại phiên tòa
Phiên tòa hình sự sơ thẩm với sự điều chỉnh của các nguyên tắc xét xử công khai, xét xử tập thể, xét xử trực tiếp, liên tục và bằng lời nói; và với sự tham gia đầy đủ của các chủ thể đại diện cho các chức năng tố tụng đã khiến cho hoạt động chứng minh tại phiên tòa có những điểm khác biệt so với hoạt động chứng minh trong các giai đoạn tố tụng khác Ở các giai đoạn tố tụng trước, hoạt động kiểm tra và đánh giá chứng cứ chủ yếu diễn ra trong tư duy của các chủ thể tiến hành tố tụng mà không có sự tranh luận với sự chứng kiến của bên thứ ba làm trọng tài để đưa ra kết luận như tại phiên tòa, kết quả của hoạt động chứng minh cũng không được công bố công khai rộng rãi Quá trình chứng minh tại phiên tòa là một cuộc điều tra, việc thu thập, kiểm tra đánh giá chứng cứ được tiến hành theo theo trình tự, kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ được tiến hành của các chủ thể chứng minh được sử dụng làm căn cứ cho các nhận định, kết luận hoặc quyết định của họ Phán quyết của HĐXX vừa là sự ghi nhận kết quả hoạt động chứng minh chứng minh của các bên, vừa là văn bản kết thúc toàn bộ quá trình chứng minh Các đặc điểm này cho phép hoạt động chứng minh tại phiên tòa nói riêng và hoạt động chứng
Trang 35minh trong giai đoạn XXST vụ án hình sự nói chung đạt hiệu quả cao nhất trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án
Hoạt động chứng minh của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, khác với hoạt động chứng minh các cơ quan khác đó là khi có chứng
cứ mới thì Luật sư phải kiểm tra chứng cứ và giao nộp cho hội đồng xét xử còn cơ quan điều tra, viện kiểm sát thì giữ chứng cứ để làm căn cứ kết tội
1.3 Các hoạt động chứng minh của luật sư trong GĐXXST
Giai đoạn điều tra là giai đoạn tiền tố tụng, trong giai đoạn này hoạt động
thu thập chứng cứ để xác định tội phạm và nguời phạm tội là hoạt động được
ưu tiên
Luật sư đề xuất bổ sung chứng cứ gửi đến cơ quan điều tra Trong giai đoạn truy tố VKS xác định các chứng cứ của vụ án đã đủ để ra bản cáo trạng, truy tố bị can trước Tòa án hay chưa, nếu thiếu chứng cứ thì trả hồ sơ cho cơ quan điều tra, bổ sung hồ sơ, kiểm tra đánh giá chứng cứ để bổ sung ở giai đoạn xét xử Viện kiểm sát và cơ quan điều tra đã kiểm tra, kiểm sát điều tra lại và kiểm tra mang tính chất kiểm tra Đánh giá chứng cứ đây là giai đoạn quan trọng, giai đoạn này cần phải công khai đa chiều và đánh giá chứng cứ lấy kết quả đánh giá chứng cứ
Khi những người tham gia tố tụng giao nộp chứng cứ thì Tòa án ghi nhận các tài liệu chứng cứ đó, nếu thiếu chứng cứ thì Tòa án sẽ trả hồ sơ để VKS điều tra bổ sung
Luật sư đọc hồ sơ vụ án, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, đồng thời đưa ra chứng cứ mới để xem xét tại phiên tòa và tham gia xét xử tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
Thu thập chứng cứ là ban đầu tất cả các loại chứng cứ cần trong vụ án liên quan quyết định trong vụ án Có thể nói trong giai đoạn này đây là giai đoạn điều tra quan trọng nhất, giai đoạn quyết định của vụ án
Trang 36Trong giai đoạn truy tố thì có cả chủ động và bị động Cần thiết thêm yêu cầu của người này, người khác bổ sung chứng cứ, đây là chủ động mang tính chủ động cá nhân
Tòa án không chủ động, thu thập chứng cứ, khi có yêu cầu viện kiểm sát hoặc có yêu cầu của người khác
Kiểm tra chứng cứ xem xét lại, rà soát và khi làm đã đưa vào củng cố
về kiểm sát và mang lợi ích cá nhân của việc tương ứng
Giai đoạn này Luật sư hay người bào chữa cần phải đọc hồ sơ vụ án, gặp thân chủ thu thập tài liệu để giao nộp cho Tòa án, và chuẩn bị tham gia xét xử phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
- Hoạt động gặp và trao đổi với bị cáo, gặp bị cáo trao đổi xem có ngoại phạm gì không
Quyền gặp mặt của người bào chữa bắt nguồn và liên quan trực tiếp từ quyền hiến định của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo, là cơ sở triển khai hoạt động của người bào chữa trong TTHS Về bản chất, đây là quyền lợi chủ thể tham gia tố tụng và của người bào chữa, nhưng trong quy định của BLTTHS 2003 và trong nhiều trường hợp, đây là quyền lợi bị xâm hại nhiều nhất, đặc biệt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Điểm chung của pháp luật tố tụng đã nhấn mạnh đến quyền gặp, thông tin liên lạc giữa người bào chữa, đồng thời bảo đảm quyền gặp riêng tư giữa người bào chữa với người buộc tội, trên cơ sở quyền gặp mặt, trao đổi thông tin liên lạc giữa người bào chữa và người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo còn giúp cho người bào chữa có thông tin và chứng cứ cần thiết nhằm phục vụ cho việc bào chữa, tạo nền móng chắc chắn cho hoạt động hành nghề của người bào chữa Trong quá trình sửa đổi bổ sung luật TTHS 2003 đã kiến nghị người bào chữa được gặp mặt và thông tin liên lạc với khách hàng của mình một cách riêng tư và độc lập tại khu vực riêng biệt trong nhà tạm giữ,
Trang 37trại giam, trại tạm giam để giúp đỡ pháp lý, để khuyên răn cho họ… Đó cũng
là cách duy trì sự cân bằng cho bên buộc tội và bên bào chữa ngăn ngừa được
sự lạm dụng quyền hạn tố tụng, hạn chế được những hoạt động vi phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng, đó còn là nhu cầu của người tạm giữ, bị can, bị cáo, bản án được sử dụng và bảo đảm quyền bào chữa từ phía những người đã tiến hành tố tụng
Theo khoản 2 điều 58 BLTTHS năm 2003 chỉ quy định một trình tự gặp duy nhất trong giai đoạn điều tra tức là người bào chữa có mặt khi lấy lời khai của người tạm bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và đề nghị cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can Quy định này dẫn đến thực tế việc tham gia trong giai đoạn điều tra của người bào chữa mang tính hình thức, bởi cuộc gặp này hoàn toàn do điều tra viên sắp chủ động lên kế hoạch, việc hỏi người bào chữa chỉ được chấp nhận khi điều tra viên đồng ý, việc báo trước cho người bào chữa thường không bảo đảm kịp thời gian làm việc, hỏi cung do đó mà BLHS năm 2015 đã phân biệt rõ hai trình tự cuộc gặp giữa người bào chữa và người bị bắt, bị tạm giam , bị can, bị cáo
Chứng cứ có gì mâu thuẫn trong hồ sơ không, có phải đó là những căn
cứ có thật không, có được thu thập theo thủ tục trình tự quy định không, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ
án, nhân thân và gia đình có được công nhận và tình tiết giảm nhẹ trong vụ án hay không
- Hoạt động thu thập và giao nộp tài liệu chứng cứ liên quan đến việc bào chữa xem xét
Xem xét gia đình có được chính sách, nộp tiền khắc phục hậu quả
Trang 38Khi thu thập được tài liệu chứng cứ thì giao nộp cho tòa án và lập biên bản giao nộp
- Kiến nghị đề xuất với tòa án xác minh thu thập, bổ sung chứng cứ
Khi người bảo vệ thấy có những điều chưa đúng thì yêu cầu tòa án trưng cầu giám định, xem xét nơi xảy ra sự việc, tội phạm có đúng như trong biên bản điều tra là những tình tiết liên quan tới vụ án đó không
- Đề nghị tòa án triệu tập người làm chứng, người tiến hành tố tụng đến phiên tòa và bảo đảm sự có mặt của họ tại phiên tòa
Bởi có một vài lý do khách quan mà tòa án phải triệu tập những người làm chứng đến để trực tiếp hỏi khi phiên tòa diễn ra
Nếu như sự việc, diễn biến nghiêm trọng thì cần triệu tập điều tra viên
có mặt tại phiên tòa, trực tiếp công khai minh bạch các biên bản xác minh của điều tra viên để làm rõ các vấn đề liên quan đến dấu hiệu bất công, làm sai lệch hồ sơ
- Đưa ra tài liệu, chứng cứ tại phiên tòa
Khi có tài liệu đồ vật mới thì người bào chữa cung cấp ngay tại phiên tòa bởi phiên tòa là lời đánh giá chứng cứ thể hiện tập trung trong giai đoạn xét hỏi và tranh luận
Tính hợp pháp của tài liệu chứng cứ đó có phù hợp hay không
- Hỏi người tham gia tố tụng về những vấn đề liên quan đến việc bào chữa
Người bào chữa nghiêm chỉnh chấp hành nội quy và các quy định liên quan trong quan hệ đến việc bào chữa của mình, cần hiểu rõ phạm vi tiếp tục, trao đổi thẳng thắn và đưa ra quan điểm rõ ràng và người tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng, cần phải giữ tính độc lập và có lợi cho khách hàng của mình
Trang 39- Đề nghị hội đồng xét xử xem xét tại chỗ, xem xét địa điểm xảy ra tội phạm, công bố lời khai của người vắng mặt, công bố vật chứng, kết luận giám định
Trong phiên tòa sau khi thẩm vấn công khai tại phiên tòa nếu có sự việc diễn ra không đúng, có sự chênh lệch hồ sơ, kêu oan của bị cáo, thì cần phải yêu cầu tòa và hội đồng xét xử phải xem xét và có ý kiến công khai ngay tại phiên tòa và phải thực hiện theo quy định pháp luật
- Tranh luận để bảo vệ quan điểm luật sư
Khi tham gia tranh luận tại phiên tòa thì người bào chữa không được suy đoán chủ quan, không gây cản trở cho việc xét xử,
Cần phải có chứng cứ bảo vệ cho khách hàng, giúp giải quyết vụ án một cách khách quan, đưa ra các điểm hợp tình hợp lý để thuyết phục hội đồng xét xử để Luật sư bảo vệ thân chủ được thành công
Kết luận chương 1
Hoạt động chứng minh của Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự là một phần của quá trình chứng minh vụ án hình sự mà Luật sư phải thu thập chứng cứ, kiểm tra chứng cứ, đánh giá chứng cứ theo trình tự thủ tục pháp luật nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án một cách toàn diện và đầy đủ nhất đảm bảo nguyên tắc pháp chế XHCN, nguyên tắc suy đoán vô tội, không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án, nguyên tắc xác định sự thật của bản án, nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bào chữa, đảm bảo cho người bị tạm giam, tạm giữ, bị can, bị cáo, nguyên tắc đảm bảo tính khách quan của những người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng…Trong chương này tác giả đã nêu rõ ra được những vấn đề cần phải chứng minh từ trong một vụ án hình sự sơ thẩm, những tình tiết giảm nhẹ, có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian địa điểm và những tình
Trang 40tiết khác của hành vi phạm tội…những chứng cứ liên quan, thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ, kiểm tra chứng cứ Từ những phân tích nêu trên, có thể thấy quan niệm mới về chế định chứng cứ và xác lập quyền thu thập, kiểm tra, đánh giá theo tinh thần và nội dung các điều luật nêu trên, để việc thu thập chứng cứ được toàn diện hơn, các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 nên quy định cho phép Luật sư được độc lập và chủ động thu thập chứng cứ thông qua việc thu thập vật chứng, lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo Khi đó, chứng cứ do người bào chữa thu thập sẽ toàn diện, hoạt động chứng minh của Luật sư trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự sơ thẩm có giá trị chứng minh cao hơn, thậm chí là “đối trọng’’ với chứng cứ do cơ quan tiến hành tố tụng thu thập trong trường hợp chứng cứ đó được sử dụng làm chứng cứ gỡ tội
Tuy nhiên một số vấn đề cụ thể liên quan đến chứng cứ, nội dung của hoạt động chứng minh vẫn cần được tiếp tục nhiên cứu để nhằm hoàn thiện , nâng cao chất lượng, hiệu quả chứng minh trong tố tụng hình sự nói chung và
ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng