Hiện nay, Đảng, Nhà nước ta đang quyết liệt xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức. Vậy kinh tế tri thức là gì, xây dựng kinh tế tri thức tại Việt Nam như thế nào và các điều kiện phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam là gì… là những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. Trong tiểu luận này, đề tài tập trung nghiên cứu các điều kiện kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay.
1. MỞ ĐẦU Kinh tế tri thức xuất hiện như một thời đại kinh tế mới, với một ngun lý sáng tạo của cải hồn tồn khác với các thời đại kinh tế nơng nghiệp hoặc cơng nghiệp. Đó là nền kinh tế dựa trên sự dẫn dắt của nguồn lực trí tuệ và khả năng kết nối sâu, rộng trên khơng gian tồn cầu. Điều đó khiến cho tồn cầu hóa trở thành một q trình khó đảo ngược, diễn tiến nhanh, sâu rộng và vận hành trên cơ sở của chính nó một nền kinh tế tri thức, mang bản chất tồn cầu. Trong bối cảnh đó, một nước đang phát triển như Việt Nam, dù có điểm xuất phát thấp, cũng phải tham gia vào q trình của kinh tế tri thức trên cơ sở xem xét lại các khía cạnh khác nhau của tư duy phát triển, để tiến bước theo u cầu của thời đại, tăng cường năng lực hội nhập thực sự vào nền kinh tế thế giới. Hiện nay, Đảng, Nhà nước ta đang quyết liệt xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức. Vậy kinh tế tri thức là gì, xây dựng kinh tế tri thức tại Việt Nam như thế nào và các điều kiện phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam là gì… là những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. Trong tiểu luận này, đề tài tập trung nghiên cứu các điều kiện kinh tế tri thức Việt Nam hiện nay. 2. NỘI DUNG 2.1. Khái niệm kinh tế tri thức Từ những năm 80 của thế kỷ XX trở lại đây, sự phát triển của khoa học và cơng nghệ đã tác động mạnh mẽ và đã làm cho nền kinh tế thế giới đang biến đổi sâu sắc, tồn diện, chuyển từ kinh tế cơng nghiệp sang kinh tế tri thức. Đây là một bước ngoặt có ý nghĩa lịch sử trọng đại đối với q trình phát triển của nhân loại Khái niệm “kinh tế tri thức” được nhắc đến với các cách diễn đạt khác nhau, nhưng quan điểm thơng thường cho rằng nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó tri thức trở thành yếu tố quyết định. Theo định nghĩa của World Bank, kinh tế tri thức là: “Nền kinh tế dựa vào tri thức như động lực chính cho sự tăng trưởng kinh tế”. Kinh tế tri thức là biểu hiện hay xu hướng của nền kinh tế hiện đại, trong đó tri thức, lao động chất xám được phát huy khả năng sinh lợi của nó và mang lại hiệu quả kinh tế lớn lao trong tất cả các ngành kinh tế: cơng nghiệp, nơng lâm ngư nghiệp và dịch vụ, phục vụ cho phát triển kinh tế Kinh tế tri thức cũng được hiểu là nền kinh tế chủ yếu dựa trên cơ sở tri thức, khoa học; dựa trên việc tạo ra và sử dụng tri thức, phản ánh sự phát triển của lực lượng sản xuất trình độ cao. Hoặc cũng được hiểu là một loại mơi trường kinh tế kỹ thuật, văn hóa xã hội mới, có những đặc tính phù hợp và tạo thuận lợi nhất cho việc học hỏi, đổi mới và sáng tạo. Trong mơi trường đó, tri thức sẽ tất yếu trở thành nhân tố sản xuất quan trọng nhất, đóng góp vào phát triển kinh tế xã hội Trong nền kinh tế tri thức, việc tạo ra và sử dụng tri thức chiếm ưu thế trong q trình tạo ra của cải vật chất. Đó khơng chỉ đơn giản là sự thúc đẩy vượt qua các giới hạn của tri thức, mà còn là sử dụng hiệu quả tất cả các dạng tri thức trong các hoạt động của nền kinh tế Nền kinh tế tri thức cần dựa trên những hoạt động có hàm lượng tri thức cao, từ đó thúc đẩy các tiến bộ về khoa học và cơng nghệ, vì vậy những tri thức hiện hữu cũng trở nên lỗi thời nhanh chóng. Đặc điểm chính của một nền kinh tế tri thức là tăng trưởng phụ thuộc vào năng lực trí thức của con người nhiều hơn là các yếu tố đầu vào vật chất hay tài ngun thiên nhiên Có thể hiểu nền kinh tế tri thức là nền kinh tế sử dụng tri thức như là động lực chính của tăng trưởng kinh tế, trong đó tri thức được hấp thu, tạo ra, phổ biến và sử dụng hiệu quả để thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên, nền kinh tế tri thức khơng nhất thiết phải xoay quanh cơng nghệ cao và cơng nghệ thơng tin. Ví dụ, việc áp dụng những kỹ thuật mới trong canh tác nơng nghiệp có thể nâng cao sản lượng đáng kể, hay việc sử dụng những dịch vụ logistic hiện đại có thể cho phép những ngành nghề thủ cơng truyền thống mở rộng thị trường tiêu thụ hơn so với trước đây Tóm lại, có thể định nghĩa rằng tri thức là nguồn lực chính của nền kinh tế tri thức so với các nguồn lực vật chất khác. Nó cũng quan trọng như đất đai và lao động trong nền kinh tế nơng nghiệp, hay tài ngun thiên nhiên và máy móc trong nền kinh tế cơng nghiệp, thậm chí còn quan trọng hơn do tính khơng ngừng đổi mới và sáng tạo của nó nhằm tăng năng suất lao động và đóng góp mạnh mẽ vào q trình tăng trưởng và chất lượng của q trình này 2.2. Đặc trưng của nền kinh tế tri thức Kinh tế tri thức có những nét khác so với các nền kinh tế trước đó. Những đặc điểm này còn đang định hình và tiếp tục phát hiện. Tuy vậy, có thể nêu lên những đặc trưng cơ bản có tính xun suốt Thứ nhất, kinh tế tri thức là nền kinh tế được hình thành, phát triển trên cơ sở các ngành sản xuất và dịch vụ sử dụng cơng nghệ cao và sáng tạo cơng nghệ trở thành loại hình sản xuất tiêu biểu nhất Trong sản xuất, kinh tế tri thức lấy các ngành cơng nghệ cao làm nền tảng. Những ngành cơng nghệ cao như cơng nghệ thơng tin, cơng nghệ sinh học, cơng nghệ nano,… chúng đang hội tụ với nhau tạo thành nền tảng cho một hệ thống cơng nghệ mới của thế kỷ XXI cơng nghệ của nền kinh tế tri thức. Hệ thống cơng nghệ mới này đang làm biến đổi sâu sắc q trình sản xuất, cách thức sản xuất kinh doanh, phương thức tổ chức quản lý Và như vậy, nó chi phối tồn bộ q trình vận động, phát triển của nền kinh tế quốc dân. Điều này hồn tồn phù hợp với quan điểm của các nhà kinh tế học cho rằng, chỉ khi nào có được các ngành cơng nghệ cao mà giá trị do tri thức mới mang lại chiếm 2/3 tổng giá trị sản phẩm là ngành kinh tế tri thức và khi nào nền kinh tế bao gồm chủ yếu các ngành kinh tế tri thức thì gọi là nền kinh tế tri thức Trong hệ thống cơng nghệ mới thì cơng nghệ thơng tin có ý nghĩa quyết định. Mọi lĩnh vực hoạt động trong xã hội hiện đại đều có tác động và in dấu ấn của cơng nghệ thơng tin. Sự phát triển của cơng nghệ thơng tin (siêu xa lộ thơng tin, Internet,…) giúp cho thơng tin và tri thức phát huy được những mặt mạnh của nó. Với tốc độ truyền tải thơng tin nhanh chóng đã làm cho nhịp điệu cuộc sống, sản xuất kinh doanh sơi động hẳn lên, thế giới dường như đang thu hẹp lại, vòng đời của kỹ thuật và sản phẩm càng rút ngắn Cơng nghệ thơng tin là điểm tựa, xương sống của nền kinh tế quốc dân, nên các ngành kinh tế phải dựa vào đó để đổi mới và phát triển. Vì vậy, hoạt động sáng tạo trở thành hoạt động đặc trưng của nền sản xuất tương lai và “sáng tạo cái mới” được coi là nhân tố nội tại, là linh hồn của nền kinh tế tri thức. Hoạt động sáng tạo chủ yếu là sáng tạo cơng nghệ mới, sản phẩm mới, phương thức quản lý mới,… trong đó sáng tạo cơng nghệ mới là loại hình sản xuất tiêu biểu nhất Thứ hai, vốn quý nhất trong nền kinh tế tri thức là tri thức, tri thức khoa học công nghệ cùng với lao động kỹ năng cao là lực lượng sản xuất thứ nhất, là lợi thế để phát triển. Học tập là nhu cầu thường xuyên đối với mọi người và phát huy nhân tố con người trở thành nhiệm vụ trung tâm của xã hội Nội dung của cuộc cách mạng cơng nghiệp trước đây, máy móc thay thế lao động cơ bắp của con người, còn ngày nay máy tính giúp con người trong lao động trí óc, nhân lên gấp bội sức mạnh trí tuệ, sức sáng tạo của con người. Tri thức vừa được sử dụng để quản lý, điều khiển, tham gia vào q trình sản xuất, vừa trực tiếp là thành tố trong sản phẩm như ngun liệu sản xuất. Tri thức để xử lý tri thức, làm ra tri thức,… Tri thức đang trở thành nguồn lực cơ bản nhất, quan trọng hơn cả vốn, tài nguyên và sức lao động, “Tri thức là nhân tố trực tiếp của chức năng sản xuất” dự báo của Mác đã trở thành hiện thực Trong nền kinh tế tri thức, hoạt động chủ yếu nhất là tạo ra tri thức, quảng bá tri thức, sử dụng tri thức, biến tri thức thành giá trị. Lực lượng sản xuất xã hội loài người từ dựa vào tài ngun thiên nhiên đang chuyển dần sang dựa chủ yếu vào năng lực trí tuệ của con người Có thể khẳng định, nền kinh tế tri thức hình thành và phát triển là nhờ năng lực sáng tạo của con người, năng lực tạo ra tri thức mới và tận dụng tri thức mới. Sáng tạo và đổi mới là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội, là nguồn gốc của kinh tế tri thức ngày nay Khơng giống như các nguồn lực khác bị mất đi khi sử dụng, tri thức và thơng tin càng sử dụng càng được hồn thiện, giá trị của nó cáng nhân lên. Đặc điểm nổi bật của tri thức trong thời đại ngày nay là tốc độ gia tăng nhanh chóng, khả năng lan truyền rộng rãi buộc mọi người đều học tập để phát triển trí sáng tạo, chủ động theo kịp sự đổi mới và có khả năng thúc đẩy sự đổi mới. Do đó, một nền kinh tế tri thức đòi hỏi phải đầu tư mạnh vào sự phát triển tri thức mới nhằm duy trì và tăng cường vai trò dẫn dắt của tri thức Yếu tố cốt lõi của nền kinh tế là tri thức lại gắn với con người, do con người tạo ra, còn tố chất của con người lại liên quan trực tiếp đến hoạt động giáo dục, cho nên hệ thống giáo dục phải đảm bảo cho mọi người được học tập, chú trọng phát triển tài năng của con người thơng qua đổi mới hệ thống giáo dục. Giáo dục phải biến tri thức thành kỹ năng, tri thức thành trí lực, dân trí thành nhân lực. Giáo dục phải đặt con người vào vị trí trung tâm Thứ ba, kinh tế tri thức là nền kinh tế có cấu trúc mạng tồn cầu Nền kinh tế thế giới đang được cấu trúc thành một mạng lưới tồn cầu Về bản chất, hệ thống mạng được cấu trúc “ngang” khác cơ bản với nền kinh tế trước đây vận động theo cấu trúc “dọc”. Mạng lưới tồn cầu của nền kinh tế tri thức được kiến tạo bởi: + Các “chất liệu” phát triển cơ bản khác trước như: máy tính, mạng viễn thơng, Internet, các vật liệu mới,… + Hệ thống phân cơng lao động quốc tế tồn cầu thay cho hệ thống phân cơng lao động quốc tế quốc gia. Nó vận động theo qui tắc sản xuất, thương mại và tài chính mới trong khơng gian tồn cầu hóa + Q trình phi tập trung hóa cấu trúc kinh tế xã hội. Q trình đơ thị hóa diễn ra theo những xu hướng mới. Các đơ thị khổng lồ khơng còn là sự lựa chọn chủ yếu: Khái niệm văn phòng, chỗ làm việc, thị trường… đang thay đổi mạnh mẽ khi cơng việc chủ yếu của nhân loại là sản xuất tri thức, được tiến hành trong mơi trường tự động hóa cao trên cơ sở mạng thơng tin với cơng cụ chính là máy tính nối mạng + Sự thay đổi cơ cấu quyền lực trong nền kinh tế. Quan hệ lệ thuộc cai trị của nền kinh tế trước đây được thay bằng quan hệ tham dự bình đẳng. Lực lượng nào sở hữu nhiều tri thức và nhân tài sẽ quyết định vận mệnh của mỗi dân tộc Thứ tư, nền kinh tế tri thức có tốc độ phát triển cực kỳ cao Đặc điểm quan trọng nhất của kinh tế tri thức là tốc độ biến đổi cực kỳ cao. Nó thể hiện ở tốc độ sản sinh tri thức, sự thay đổi về giá cả, tốc độ ứng dụng các phát minh khoa học cơng nghệ vào thực tiễn và hệ quả đi liền là tốc độ biến đổi của đời sống trên mọi phương diện Tốc độ sản sinh tri thức ngày càng nhanh, thời gian cần thiết để tăng gấp đơi lượng tri thức của nhân loại càng rút ngắn. Các nhà khoa học đã nhận định: Tri thức của lồi người thế kỷ XIX cứ 50 năm thì tăng gấp đơi, sang đầu thế kỷ XX cứ 30 năm tăng gấp đơi, vào giữa thế kỷ XX cứ 10 năm tăng gấp đơi, đến những năm 1970 cứ 5 năm tăng gấp đơi và đến những năm 1980 3 năm tăng gấp đơi. Có thể nói, càng lùi vào q khứ thì qng thời gian nhân đơi tri thức càng lớn, đo bằng thế kỷ, thiên niên kỷ Tốc độ biến đổi giá cả của các sản phẩm càng mới càng nhanh. Một tri thức hơm nay có giá trị hàng tỷ USD, ngày mai có thể vơ giá trị. Dường như có một quy luật: các sản phẩm càng hiện đại thì tốc độ biến đổi giá càng cao Nếu phải cần đến 60 năm để cước vận tải biển và phí cảng biển giảm đi một nửa, thì cũng trong thời gian ấy, cước hàng khơng giảm đi 6 lần và giá dịch vụ điện thoại giảm 82 lần. Kinh ngạc hơn chỉ trong vòng 30 năm, từ năm 1960 đến năm 1990, giá máy tính đã giảm đi 125 lần. Vì vậy, trong thời đại ngày nay việc tiếp cận và trao đổi tri thức ở phạm vi tồn cầu có ý nghĩa sống còn, cạnh tranh trong kinh tế tri thức trước hết là cạnh tranh về tốc độ, về tư Tốc độ áp dụng và phổ biến các thành tựu khoa học kỹ thuật và cơng nghệ ngày càng cao. Nếu dịch vụ điện thoại cần 74 năm để đạt con số 50 triệu th bao, thì chỉ 30 năm số người sử dụng radio đã đạt con số 50 triệu, máy tính cá nhân chỉ cần đến 16 năm, tivi cần 13 năm và mạng thơng tin tồn cầu chỉ cần có 4 năm Đặc điểm tốc độ biến đổi nhanh chóng trên nhiều phương diện của nền kinh tế này nói lên rằng, khả năng bắt kịp các nước đi trước cũng lớn như khả năng tụt hậu xa hơn. Mức độ hiện thực hóa mỗi một khả năng tùy thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng trước hết là tính hợp lý của mơ hình và chiến lược “đi tắt” được lựa chọn cũng như quyết tâm theo đuổi nó Thứ năm, nền kinh tế tri thức là nền kinh tế lấy tồn cầu làm thị trường và là nền kinh tế phát triển bền vững Nền kinh tế thị trường lấy thị trường tồn cầu làm hướng hoạt động chính. Tri thức, thơng tin khơng có biên giới làm cho nền kinh tế thị trường mang tính tồn cầu. Cơng nghệ thơng tin làm cho hợp tác kinh tế, văn hóa mang tính tồn cầu, đồng thời cạnh tranh gay gắt trên cả bình diện trong nước lẫn quốc tế Tư tưởng chỉ đạo của phát minh kỹ thuật truyền thống là đơn nhất, tận dụng hết khả năng khai thác tài ngun thiên nhiên để giành lấy lợi nhuận cao nhất, ít quan tâm đến mơi trường sinh thái và lợi ích xã hội; phát triển trên cơ sở tài ngun thiên nhiên vơ tận và dung lượng mơi trường khơng bao giờ cạn kiệt. Còn tư tưởng chỉ đạo của kỹ thuật cao, cơng nghệ mới là lợi dụng một cách khoa học, hợp lý, có hiệu quả nguồn tài ngun hiện có, đồng thời khám phá nguồn tài ngun mới để thay thế tài ngun thiên nhiên đã cạn kiệt. Do đó, mục tiêu của kinh tế thị trường là phát triển bền vững, thúc đẩy sự hài hòa giữa con người với tự nhiên 2.3. Giải pháp phát triển kinh tế tri thức của Việt Nam Đại hội VIII đã khẳng định “Đến năm 2020 về cơ bản nước ta trở thành một nước “cơng nghiệp theo hướng hiện đại” và đến Đại hội X, Đảng ta đã cụ thể hóa thêm: “Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức”. Do đó, chiến lược phát triển nước ta là dựa vào tri thức và thơng tin. Nền kinh tế nước ta phải phát triển theo mơ hình hai tốc độ: chuyển nền kinh tế nơng nghiệp sang kinh tế cơng nghiệp và kinh tế cơng nghiệp sang kinh tế tri thức. Hai nhiệm vụ ấy phải thực hiện đồng thời, lồng ghép, đan xen, hỗ trợ cho nhau. Điều đó có nghĩa là đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn; nâng cao năng lực sản xuất các ngành cơng nghiệp và dịch vụ cơ bản; đồng thời nhanh chóng phát triển các ngành dựa vào tri thức và cơng nghệ cao, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành kinh tế dựa vào tri thức Một là, đổi mới cơ chế, chính sách và luật pháp phù hợp với sự phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN; tạo lập mơi trường thuận lợi để phát huy các nguồn lực của xã hội cho đầu tư phát triển Nhà nước tơn trọng u cầu khách quan của nền kinh tế thị trường, nhanh chóng xây dựng các yếu tố của nền kinh tế thị trường hiện đại; thực hiện quản lý Nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp. Tách biệt rõ chức năng quản lý Nhà nước và chức năng quản lý kinh doanh của doanh nghiệp nhằm phát huy tính tự chủ, sáng tạo của các doanh nghiệp Nhà nước chăm lo đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, điều tiết sự phát triển của nền kinh tế nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường; phát huy dân chủ, bảo đảm các chủ thể sản xuất kinh doanh hoạt động bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, cơng khai, minh bạch và có trật tự kỷ cương Khơng có ý tưởng mới, các cơng nghệ thành sản phẩm sẽ khơng có tri thức khoa học cơng nghệ và do đó khơng có tri thức mới. Cho nên, Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp ln ln tự đổi mới, tạo mơi trường thuận lợi để thúc đẩy sự ra đời của các doanh nghiệp tri thức, các ngành kinh tế dựa vào tri thức Hai là, đổi mới mạnh mẽ, tồn diện hệ thống giao dục đào tạo và phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao Tăng đầu tư để phát triển giáo dục, đổi mới tồn diện hệ thống giáo dục đào tạo từ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục, cơ chế quản lý. Giáo dục phải hướng tới xây dựng những thế hệ người Việt Nam có lý tưởng, bản lĩnh, sức khỏe, năng lực, có khả năng sáng tạ và làm chủ tri thức mới. Đây là giải pháp quyết định nhất Chuyển mơ hình giáo dục hiện nay sang mơ hình giáo dục mở, bằng nhiều phương thức, để tạo nhiều khả năng, cơ hội khác nhau cho người học Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập với ý nghĩa “một nền giáo dục cho mọi người và do mọi người” Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo, tiếp cận chuẩn đào tạo tiên tiến của thế giới phù hợp với u cầu phát triển của Việt Nam. Xây dựng một số trường đại học đạt trình độ quốc tế Điều chỉnh cơ cấu đào tạo để tạo ra nguồn nhân lực đồng bộ, chú trọng nhân lực khoa học cơng nghệ có trình độ cao; đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, cơng nhân lành nghề, đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp,… Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài, sử dụng bố trí hợp lý nguồn nhân lực được đào tạo Ba là, phát triển và ứng dụng rộng rãi những thành tựu khoa học cơng nghệ tiên tiến, nhất là cơng nghệ thơng tin Xây dựng một nền khoa học cơng nghệ nội sinh đủ sức tiếp thu và làm chủ cơng nghệ nhập khẩu, tiến tới cải biến, sáng tạo và xuất khẩu cơng nghệ Có chính sách ưu tiên phát triển công nghệ cao, công nghệ sạch. Tập trung phát triển mạnh công nghệ thông tin và truyền thông, công nghệ sinh học, vật liệu mới… Xây dựng và phát triển các trung tâm nghiên cứu, ứng dụng công nghệ cao Tăng đầu tư, thúc đẩy hội nhập quốc tế trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và cơng nghệ phù hợp với cơ chế thị trường. Xây dựng và phát triển thị trường khoa học cơng nghệ Ứng dụng phổ biến cơng nghệ thơng tin trong các lĩnh vực kinh tế xã hội. Xác định cơng nghệ thơng tin là ngành kinh tế có vị trí quan trọng hàng đầu, là mũi nhọn của chiến lược cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Muốn vậy, phải nhanh chóng hình thành mạng thơng tin quốc gia, phát triển thương mại điện tử, thúc đẩy tin học hóc trong tất cả các ngành. Đâu tư mạnh hơn nữa đào tạo nhân lực cho cơng nghệ thơng tin Kinh tế tri thức là thực tế khách quan, những đặc trưng cơ bản của nó đang được bộc lộ rõ ở các nước phát triển. Điều này vừa tạo cho nước ta vận hội lớn, vừa đặt ra những u cầu, thách thức mới cần phải vượt qua. Việc nghiên cứu, đánh giá đúng đắn những tác động thuận nghịch mà xu hướng này mang lại để chủ động tìm kiếm “mơ hình phát triển”, xây dựng lộ trình phù hợp là vấn đề có ý nghĩa quyết định. Kinh nghiệm thực tế từ các nước phát triển và đang phát triển cho thấy cần phải tạo ra một nền kinh tế thị trường phát triển, một hệ thống giáo dục và đào tạo tốt để tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao và một hệ thống đổi mới quốc gia năng động, xây dựng một nền khoa học cơng nghệ nội sinh, trong đó cơng nghệ thơng tin phát triển cao độ. Đây là những điều kiện cơ bản nhất cho sự hình thành và phát triển kinh tế tri thức 2.4. Điều kiện phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam Phát triển kinh tế tri thức ở nước ta gắn với cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là một q trình phát triển khơng phải một sớm một chiều, mà phải trải qua thời gian lâu dài. Để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam bền vững cần làm rõ các điều kiện cho sự phát triển kinh tế tri thức như sau: Thứ nhất, bảo đảm ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế tri thức + Ổn định về chính trị là độ bền vững và tính tồn vẹn của một chế độ chính trị hiện hành. Một xã hội ổn định là một xã hội trong đó người dân hài lòng với đảng cầm quyền và hệ thống quản lý của các cấp chính quyền nhà nước. Ổn định về chính trị có vai trò đảm bảo điều kiện cho các lĩnh vực khác phát triển, làm cho q trình tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trở nên sâu sắc và ý nghĩa Ổn định chính trị được thể hiện tính nhất qn, tính đồng bộ và ổn định lâu dài của đường lối, phải có tầm nhìn dài hạn, phải xây dựng cơ sở khoa học cho việc hoạch định và triển khai đường lối, chính sách cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đạt hiệu quả cao với tốc độ nhanh, tức là phải có chiến lược đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Phải ổn định luật pháp, chính sách, nhất là luật pháp, chính sách kinh tế (luật kinh tế, chính sách phát triển cơng nghiệp, nơng nghiệp và phát triển các ngành dịch vụ, sách tài chính, sách tiền tệ, phát triển ngoại thương, an tồn thực phẩm, mơi trường, chính sách đất đai, tài chính cơng, ngân hàng, ngoại hối ) Để ổn định về chính trị, cần phải tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước và thực sự phát huy quyền làm chủ của mọi tầng lớp nhân dân + Ổn định về kinh tế là sự ổn định về mơi trường sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế. Nó được thể hiện ở sự ổn định kinh tế vĩ mơ, trong đó trước hết là sự ổn định thị trường, ổn định tài chính, tiền tệ, giá cả, việc làm, thu nhập. Điều kiện để duy trì sự ổn định này là Nhà nước phải duy trì được cân bằng tổng cung tổng cầu, phải kiểm sốt được lạm phát, xây dựng và bảo vệ mơi trường cạnh tranh lành mạnh + Ổn định về xã hội là sự cân bằng xã hội, trong đó mọi người hợp lại với nhau cùng hướng đến một xã hội an tồn, đồng thuận và phát triển. Nó đòi hỏi sự hợp tác giữa các thành viên tập trung vào việc làm thế nào để tất cả các bộ phận trong xã hội hợp tác với nhau Sự ổn định về xã hội khi đã được duy trì thường xun, lâu bền là nhân tố quan trọng kích thích tiến bộ xã hội. Ổn định về xã hội là một điều kiện tiên quyết cho sự ổn định về chính trị và phát triển kinh tế, xã hội nói chung, cho thực hiện các mục tiêu chiến lược và kế hoạch phát triển của Đảng và Nhà nước nói riêng. Chỉ có ổn định xã hội, thì người dân, các doanh nghiệp mới n tâm đầu tư sản xuất kinh doanh và mới thu hút được các chủ doanh nghiệp nước ngồi vào ta hợp tác đầu tư. Mọi sự bất ổn về xã hội đều dẫn đến triệt tiêu động lực phát triển Bởi vậy, phải coi việc tạo sự đồng thuận, duy trì, giữ vững sự ổn định về xã hội là điều kiện tiên quyết để đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở nước ta. Điều kiện tối cần thiết để giữ vững ổn định về xã hội là Đảng và Nhà nước phải coi trọng dân chủ trong đó quyền và lợi ích cơ bản của tuyệt đại đa số tầng lớp nhân dân được bảo vệ Bảo đảm ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội, xét về thực chất, đó là bảo đảm sự ổn định về mơi trường đầu tư. Một nền kinh tế khơng thể phát triển được nếu mơi trường đầu tư ở tình trạng bất ổn. Chỉ có sự ổn định về chính trị, kinh tế và xã hội, thì mới khuyến khích được tính tích cực của người dân phát huy các nguồn lực, đặc biệt là nguồn tài ngun trí lực vào tìm 10 kiếm dự án và đầu tư vì sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Đại hội XI của Đảng u cầu: “Phải đặc biệt coi trọng giữ vững ổn định chính trị xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và tồn vẹn lãnh thổ để bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững”1 Thứ hai, đổi mới cơ chế tổ chức, quản lý khoa học, hiệu quả góp phần vận hành xã hội Trước hết và căn bản nhất là phải đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý (thể chế, chính sách, luật pháp, bộ máy). Nói theo thuật ngữ thơng tin, đây chính là phần mềm hệ thống để vận hành xã hội. Người Việt Nam thường được coi là thơng minh, nhưng đó mới chỉ là thơng minh cá nhân, chưa phải thơng minh cộng đồng. Ta cũng thường nói dân tộc ta có tiềm năng trí tuệ lớn, nhưng từ lâu chúng ta cứ tự hào mãi về cái tiềm năng ấy mà đất nước vẫn cứ lạc hậu, Việt Nam vẫn thuộc những nước nghèo nhất thế giới, GDP bình qn của Việt Nam mới bằng 1/14 Malaysia, 1/30 Hàn Quốc, tại sao như vậy? Tại sao cái tiềm năng ấy chưa được phát huy, điều gì ngăn trở giải phóng cái tiềm năng ấy? Giải đáp nghịch lý này chỉ có một cách trả lời: vì cơ chế quản lý chưa thuận, vì trí tuệ cộng đồng chưa cao, vì cái phần mềm hệ thống còn nhiều trục trặc, vì trí tuệ và tài năng đang bị vướng mắc bởi một cơ chế tự thân mâu thuẫn, thiếu nhất qn. Do đó vấn đề cốt tử là nên tập trung trí tuệ cải cách quản lý, xây dựng một mơi trường kinh tế xã hội lành mạnh và thống đãng, tự nó khuyến khích mọi sáng kiến chủ động, tự nó phát huy mọi tài năng sáng tạo, đồng thời tự nó hạn chế, loại trừ những yếu tố và xu hướng tiêu cực Trong cơ chế quản lý thì bộ phận lạc hậu cần cải cách nhất là quản lý tài chính, tiền tệ và quản lý hành chính. Tài chính tiền tệ là lĩnh vực nhạy cảm nhất trong kinh tế thời nay, còn hành chính là bộ máy trực tiếp hàng ngày với người dân. Riêng đối với chúng ta, có hai căn bệnh kinh niên trầm trọng, mà nếu khơng khắc phục được thì có bàn tới kinh tế tri thức cũng vơ ích: + Tham nhũng. Chuyện này q cũ, q nhàm, nếu cứ tiếp tục cách chống tham nhũng như chúng ta đã làm từ hàng chục năm nay thì có lẽ mười năm nữa tình hình cũng chẳng sáng sủa gì hơn. Cần phải thay đổi cách nhìn, 1 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, Hà Nội, tr.99 11 đi sâu vào những ngun nhân gì đưa đẩy cả một xã hội vốn rất tốt đến chỗ một bộ phận tham nhũng, dối trá xuất hiện ở mọi ngành, mọi nơi. Trong y tế có thời chúng ta đã đề ra một khẩu hiệu cực kỳ sáng suốt: Phòng bệnh hơn chữa bệnh. Khẩu hiệu ấy cũng đúng cho mọi lĩnh vực. Chống tham nhũng tất nhiên phải trừng trị và trừng trị nghiêm, song điều quan trọng hơn là phải phòng tham nhũng, và muốn vậy phải có phương thức quản lý tài chính và chế độ phân phối thu nhập hợp lý. Trong khi tiền lương khơng đủ sống thì chống tham nhũng thế nào đây? Do đó, nếu khơng khẩn trương cải cách quản lý tài chính tiền tệ như các nước văn minh thì mọi cải cách khác đều khó + Quan liêu, lãng phí. Chuyện này cũng q cũ và cũng như tham nhũng, đây hậu không thể tránh của cách quản lý tài chính tiền tệ luộm thuộm, và chế độ lương phi lý, khiến cho các cơ quan hành chính, thay vì phục vụ dân, đã vi phạm quyền làm chủ của dân. Do đó phải coi cải cách hành chính là việc cấp bách để có thể thực hiện thuận lợi các cuộc cải cách khác. Vấn đề chỉ ở chỗ cải cách như thế nào cho có hiệu quả vì sau mấy năm thực hiện, dư luận chung cho rằng chính cơng tác này cũng chưa làm tốt: chưa ổn, tiêu tốn nhiều tiền của, cơng sức, thì giờ, mà kết quả chẳng được mấy Thứ ba, nâng cao sức cạnh tranh các lĩnh vực cơng nghiệp thấp và vừa của nơng, cơng nghiệp truyền thống Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế trong điều kiện tồn cầu hóa và kinh tế tri thức phải bắt đầu từ việc nâng cao sức cạnh tranh các lĩnh vực cơng nghiệp thấp và vừa của nơng, cơng nghiệp truyền thống. Tình trạng hiện nay, trong các lĩnh vực này, năng suất lao động q thấp, khơng đủ sức cạnh tranh với các nước vì làm ăn kém thơng minh, thể hiện ở sự thiếu tính tốn hiệu quả, khơng có tư duy so sánh (mía đường, ximăng là thí dụ). Ta băn khoăn cân nhắc giữa tư nhân hay Nhà nước, tập thể hay cá nhân, mà khơng thấy điều quan trọng hơn là phân phối của cải làm ra sao cho cơng bằng để kích thích được kinh tế phát triển lành mạnh Thứ tư, xây dựng kết cấu hạ tầng thích hợp Phát triển kinh tế tri thức hiển nhiên đòi hỏi phải xây dựng kết cấu hạ tầng thích hợp. Tuy nhiên, đi đơi với kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật sờ mó được, và hơn nữa có tiền là xây dựng được, phải hết sức chú trọng kết cấu hạ tầng tâm lý xã hội, trước hết là giáo dục và khoa học, là những thứ mà chỉ có tiền thơi cũng chưa đủ để xây dựng tốt 12 Chúng ta đã bàn nhiều về giáo dục, đã có Nghị quyết trung ương, đã có luật Giáo dục, chẳng còn thiếu thứ gì, mà vẫn ì ạch, tại sao? Muốn tiến nhanh và vững trong thời đại kinh tế tri thức, ưu tiên hàng đầu phải đặt vào việc chấn hưng, cải cách, hiện đại hóa giáo dục, và hơn nữa, phải nhanh chóng tiến tới phổ cập đại học. Phổ cập đại học sẽ giải quyết được nạn thất học, nhu cầu học tập chính đáng của nhân dân, sẽ có điều kiện tốt hơn để phát hiện và bồi dưỡng tài năng trẻ, mở rộng các cánh cửa vào kinh tế tri thức, đồng thời là biện pháp gián tiếp giải quyết nhiều vấn đề bức xúc: phát triển dân chủ, hạn chế và chống tội phạm, tạo cơng ăn việc làm ổn định 3. KẾT LUẬN Trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay, việc phát triển kinh tế tri thức để tăng khả năng cạnh tranh, nâng cao sức mạnh của nền kinh tế Việt Nam là một vấn đề hết sức quan trọng. Việt Nam tuy là một nước đang phát triển nhưng nền kinh tế tăng trưởng vẫn còn chậm, thiếu bền vững và sự chắc chắn. Nhiệm vụ quan trọng của chúng ta là vừa thực hiện việc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, lại vừa kết hợp với xây dựng, phát triển nền kinh tế tri thức. Với chủ trương đúng đắn, sáng tạo như vậy, việc lựa chọn một mơ hình kinh tế tri thức phù hợp với điều kiện, tình hình đất nước là điều rất quan trọng. Xuất phát từ thực tế đất nước cùng với tư duy linh hoạt, sáng tạo, Đảng ta đã chủ trương lựa chọn phát triển kinh tế tri thức ở nước ta trên sở kết hợp hai mơ hình: tự xây dựng và kế thừa đồng thời kế thừa có chọn lọc và vận dụng những thành tựu phát triển kinh tế tri thức trên thế giới Hơn bao giờ hết, việc xác định, xác lập các điều kiện và triển khai đồng bộ các giải pháp cho sự phát triển kinh tế tri thức bền vững nước ta vơ cùng quan trọng, đòi hỏi phải huy động sức mạnh của tồn Đồn và tồn dân ta 13 ... nền khoa học cơng nghệ nội sinh, trong đó cơng nghệ thơng tin phát tri n cao độ. Đây là những điều kiện cơ bản nhất cho sự hình thành và phát tri n kinh tế tri thức 2.4. Điều kiện phát tri n kinh tế tri thức ở Việt Nam Phát tri n kinh tế tri thức ... hóa đất nước, là một q trình phát tri n khơng phải một sớm một chiều, mà phải trải qua thời gian lâu dài. Để phát tri n kinh tế tri thức ở Việt Nam bền vững cần làm rõ các điều kiện cho sự phát tri n kinh tế tri thức như sau: ... chọn lọc và vận dụng những thành tựu phát tri n kinh tế tri thức trên thế giới Hơn bao giờ hết, việc xác định, xác lập các điều kiện và tri n khai đồng bộ các giải pháp cho sự phát tri n kinh tế tri thức bền vững