1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Một số phương pháp rèn kỹ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 6 trường THCS nga thanh

23 125 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 23
Dung lượng 5,18 MB

Nội dung

Ở cấp tiểu học học sinh đã được làm quen vớibài văn miêu tả ở lớp 2 và được cơ bản hoàn thiện kỹ năng viết ở lớp 5, nhưnghầu như các em mới chỉ quen với những bài văn mẫu được học thuộc

Trang 1

I MỞ ĐẦU

1 Lý do chọn đề tài.

Ngữ văn là môn học đặc biệt với 3 phân môn: Văn bản, Tiếng Việt, Tậplàm văn; môn học làm nền tảng, giúp con người hiểu biết được mọi phươngdiện của các lĩnh vực từ trong cuộc sống đời thường cho đến các hiện tượng thếgiới tự nhiên khác Môn Ngữ văn có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc thựchiện mục tiêu chung của trường THCS, góp phần hình thành những con người

có ý thức tự tu dưỡng, biết thương yêu, quý trọng gia đình, bè bạn, có lòng yêunước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới những tư tưởng, tình cảm cao đẹpnhư lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cáixấu, cái ác

Thế nhưng trong thực tế xã hội hiện nay thì Ngữ văn là một trong nhữngmôn học mà đa số học sinh không thích học vì nhiều lý do: kiến thức nhiều, viếtnhiều, đọc nhiều lại quá dài, thiếu thực tế Đặc biệt trong phân môn Tập làmvăn, kiểu bài văn miêu tả ở lớp 6 Ở cấp tiểu học học sinh đã được làm quen vớibài văn miêu tả ở lớp 2 và được cơ bản hoàn thiện kỹ năng viết ở lớp 5, nhưnghầu như các em mới chỉ quen với những bài văn mẫu được học thuộc lòng Vì lẽthế, lên trung học cơ sở lượng kiến thức nhiều hơn, đòi hỏi yêu cầu cao hơn nênhọc sinh còn lúng túng chưa có phương pháp học đúng, thực tế hiện nay cónhiều học sinh khi tiến hành bài viết văn miêu tả còn thiếu các kỹ năng cơ bản,chưa nắm rõ phương pháp, cách hiểu mơ màng, lối nói, lối viết tùy tiện nghĩ gìviết đấy dẫn đến bài văn không có hồn, khô cứng, bức tranh miêu tả quá trầntrụi, thiếu sức hấp dẫn, thuyết phục Chính vì thế là giáo viên đang trực tiếp dạyNgữ văn lớp 6, tôi luôn suy nghĩ, trăn trở là làm thế nào để giúp các em có cáchcảm thụ văn tốt, viết đúng bài văn miêu tả, nên đã mạnh dạn đổi mới một sốthao tác nhỏ trong cách nghĩ, cách làm văn miêu tả của học sinh, giúp các emyêu văn, yêu những cảnh vật xung quanh cuộc sống đời thường như: dòng sông,cánh đồng, con đò, mái đình bước đầu có tính tự lập, có tư duy sáng tạo, cónăng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mĩ trong nghệ thuật, trước hết trong vănhọc; có năng lực thực hành và năng lực sử dụng tiếng Việt như công cụ để tưduy và giao tiếp, giúp các em sống tốt hơn, đẹp hơn

Với lý do trên, tôi mạnh dạn đưa ra sáng kiến: Một số phương pháp rèn kỹ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 6 ở trương THCS Nga Thanh.

2 Mục đích nghiên cứu.

Tôi tiến hành sáng kiến này với các mục đích cơ bản sau:

Thứ nhất: Giúp học sinh nhận thức đúng đắn về vị trí quan trọng của mônNgữ văn, yêu quí bộ môn, chăm chỉ tích cực học môn học Cùng với những mônhọc khác, môn Ngữ văn sẽ là hành trang giúp các em khám phá những chân trờimới, nguồn tri thức mới, thế giới xung quanh

Thứ hai: Giúp học sinh nắm được một số vấn đề chung về văn miêu tả

Trang 2

Thứ ba: Giúp học sinh rèn luyện kĩ năng bài văn miêu tả: quan sát, tưởngtượng so sánh, nhận xét đánh giá, ngôn từ, tình cảm để học sinh viết tốt bài vănmiêu tả.

Thứ tư: Cung cấp cho các em vốn tri thức phong phú về các vấn đề liênquan để các em nâng cao nhận thức và kĩ năng sống, sống tốt hơn, đẹp hơn, từngbước hoàn thiện nhân cách của mình Đặc biệt giúp các em thấy được vị trí, tầmquan trọng, giá trị của văn miêu tả trong kể chuyện, trong thuyết minh, trongbiểu cảm và trong nghị luận mà các em sẽ tiếp tục học ở các lớp 7,8,9

Thứ năm: Hình thành và phát triển trí tưởng tượng, óc quan sát và khả năngnhận xét, đánh giá của con người Và những trang miêu tả sẽ luôn làm cho tâmhồn và trí tuệ của người học thêm phong phú, giúp cho học sinh có thể cảm nhậnvăn học và cuộc sống một cách tinh tế hơn, sâu sắc hơn

3 Đối tượng nghiên cứu.

Đối tượng áp dụng sáng kiến là học sinh hai lớp 6A, 6B trường THCS NgaThanh

Thực hiện dạy lý thuyết vào những tiết học chính và tích cực thực hành vàonhững buổi học bồi dưỡng

4 Phương pháp nghiên cứu

Để đạt được mục đích và thực hiện những nhiệm vụ mà sáng kiến kinhnghiệm đặt ra, tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:

Tổ chức dạy học thực tế ở lớp 6A, 6B.

Tổ chức, khảo sát để so sánh kết quả.

Đọc, nghiên cứu tài liệu tham khảo

Tổng hợp, phân tích để đúc rút thành kinh nghiệm.

II NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

1 Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.

Văn miêu tả đã được đưa vào chương trình tiểu hoc, các em đã bắt đầulàm quen với văn miêu tả, phù hợp với đặc điểm tâm lí tuổi thơ (ưa quan sát,thích nhận xét, sự nhận xét thiên về cảm tính ), góp phần nuôi dưỡng mối quan

hệ, sự quan tâm của các em với thế giới xung quanh, trong đó quan trọng nhất làvới thiên nhiên, góp phần giáo dục tình cảm thẩm mĩ, lòng yêu cái đẹp, góp

phần phát triển ngôn ngữ ở trò Chương trình Ngữ văn lớp 6, các em bắt đầu làm

văn miêu tả từ học kì II với số tiết Tập làm văn miêu tả 16 tiết Mục tiêu là trang

bị kiến thức và rèn luyện kĩ năng làm văn, góp phần cùng với các môn học kháclàm giàu vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hìnhthành nhân cách cho học sinh, như vậy so với chương trình Tiểu học mà các em

đã làm quen, văn miêu tả ở chương trình lớp 6 có nhiều những khái niệm trừutượng, đòi hỏi các em phải có cách viết già dặn hơn, sinh động hơn và đặc biệttrong văn miêu tả phải có hình ảnh sống động, thuyết phục lòng người Để viếtđược bài văn miêu tả hay như vậy nhất thiết người viết phải có năng lực rất quan

trọng đó là năng lực quan sát, tưởng tượng so sánh, nhận xét đánh giá, ngôn từ, tình cảm để học sinh viết tốt bài văn miêu tả Xu-khôm-lin-xki nhà giáo dục Xô

Trang 3

Viết cho rằng việc học sinh tiếp xúc với thiên nhiên, việc dạy các em miêu tảcảnh vật nghe thấy, nhìn thấy là con đường có hiệu quả nhất để giáo dục các

em và phát triển ngôn ngữ Ông phê phán cách tổ chức học tập tách học sinh vớithế giới xung quanh Ông biểu dương cách dạy để học sinh hòa mình vào thiên

nhiên, miêu tả thiên nhiên “ Hết tiết dạy này đến tiết dạy khác, tôi dắt trẻ đi vào nguồn bất tận và vĩnh cửu của tri thức là thiên nhiên, vào vườn cây, vào rừng, ra bờ sông và cánh đồng Cùng đi với trẻ, tôi bắt đầu dạy các em dùng ngôn ngữ để diễn đạt những sắc thái tinh tế của hiện tượng và sự vật” Cũng có

nghĩa là nhà giáo dục Xô Viết đang cung cấp cho học sinh của mình kỹ năngquan sát sự vật hiện tượng để từ đấy các em mới liên tưởng, so sánh thú vị Đócũng là những cơ sở vô cùng quý giá để chúng ta thực hiện dạy học văn mộtcách nhẹ nhàng, đi vào tâm hồn trẻ một cách tự nhiên, đạt hiệu quả cao

“ Văn miêu tả là một trong những kiểu văn bản rất quen thuộc và phổ biến trong cuộc sống cũng như trong sáng tạo văn chương Đây là loại văn bản

có tác dụng rất lớn trong việc tái hiện đời sống, hình thành và phát triển trí tưởng tượng, óc quan sát và khả năng nhận xét, đánh gia của con người Với đặc trưng của mình, những trang miêu tả làm cho tâm hồn con người và trí tuệ người đọc thêm phong phú, giúp cho ta có thể cảm nhận văn học và cuộc sống một cách tinh tế, sâu sắc hơn” (Đỗ Ngọc Thống, Phạm Minh Diệu - Văn miêu tả

trong nhà trường phổ thông, nhà xuất bản Giáo dục, 2003) Cần hiểu rõ: Vănmiêu tả là loại văn nhằm giúp người đọc hình dung ra được những đặc điểm tínhchất nổi bật của một sự vật, sự việc, con người, phong cảnh nhằm làm chonhững cái đó như hiện lên trước mắt người đọc Qua văn miêu tả, người đọckhông chỉ cảm nhận được vẻ bề ngoài, màu sắc, hình dáng, kích thước, trạngthái Còn hiểu rõ hơn bản chất bên trong của đối tượng Như vậy để miêu tả vàviết tốt bài văn, đoạn văn miêu tả, người viết phải nắm được các kỹ năng cơ bảncốt lõi của của văn miêu tả: quan sát, so sánh, tưởng tượng, nhận xét đánh giá

2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

2.1 Thực trạng.

Về học sinh:

Học sinh chưa nắm được bản chất của bài văn miêu tả, đặc biệt chưanắm rõ đặc điểm, kỹ năng nên quan sát còn đại khái, lướt qua nên không tìmđược ý, ý nghèo nàn, bài văn không có sáng tạo, không biết ghi chép những ý

mà mình quan sát được một cách rõ ràng

Chưa biết sắp xếp ý theo một trình tự hợp lý Từ đó hạn chế tới việc nói

và viết Sự hướng dẫn của sách dành cho học sinh chưa thật cụ thể, dễ hiểu

Học sinh thiếu sự liên tưởng tưởng tượng, ít cảm xúc về đối tượng miêu

tả Không quan sát theo đúng yêu cầu Vốn ngôn ngữ còn quá ít ỏi

Bên cạnh đó các em đã quá quen với việc thực hành viết văn dạng vănbản mẫu và tái tạo văn bản tương tự mẫu ở cấp Tiểu học Cho nên việc sáng tạomột văn bản nghệ thuật đối với các em học sinh lớp 6 là việc làm vô cùng khókhăn và không có hứng thú Hơn nữa sự say mê đọc tư liệu văn học của các emhọc sinh hầu như là không có bởi những thông tin hiện đại: hoạt hình, truyện

Trang 4

tranh, đặc biệt là những dịch vụ In-tơ-nét tràn lan cuốn hút trẻ Điều đó đươngnhiên làm nghèo nàn vốn ngôn từ nghệ thuật quý giá của văn học trong mỗi họcsinh Bên cạnh đó, hiện nay việc học môn Ngữ văn ở trường phổ thông là mộtvấn đề được coi là bức xúc Vì do tác động của xã hội mang lại cho học sinh nênhọc sinh chỉ lao vào học một số môn như: Toán, Lý, Hoá, Ngoại ngữ mà khôngchú trọng học môn Ngữ văn, vì các em nghĩ rằng: “có học tốt môn Văn cũngkhông phục vụ gì cho mình khi chọn nghề cho tương lai” nên hầu như tất cả họcsinh đều chưa tập trung vào học môn này mà có học chỉ là đối phó để thi tốtnghiệp mà thôi Chính vì thế mà việc học môn Ngữ văn trong trường THCS nóiriêng và các cấp học phổ thông nói chung đang gặp khó khăn về chất lượng.Chưa nói rằng trong môn Ngữ văn thì phân môn Tập làm văn là khó nhất so vớiphân môn Văn và Tiếng Việt Chính vì vậy mà nhiều em ngại viết hoặc không

có khả năng viết Vì thế để tạo lập văn bản, trong đó có văn bản miêu tả cần làmthế nào để tạo hứng thú học tập cho học sinh khi quan sát, tìm ý cho bài vănmiêu tả?

Về giáo viên :

Hiểu được vấn đề đó, là một giáo viên dạy Văn, tôi luôn trăn trở làm saogiúp học sinh chuyển hướng suy nghĩ của mình để có sự hứng thú trong họcVăn, để giúp các em hiểu được học Văn là hướng con người tới cái chân, thiện,

mĩ, hướng tới cái đẹp của cuộc sống

Đa số giáo viên đều yêu nghề, có trách nhiệm với công việc, tận tụy vớicông tác giảng dạy, chăm lo quan tâm đến học sinh và trong quá trình giảng dạyphân môn tập làm văn Nhưng hiện nay giáo viên còn gặp không ít khó khăntrong việc dạy học sinh làm văn hay, chủ yếu là chú trọng việc học sinh làm bàinhư thế nào cho đúng, hoặc cung cấp bài văn mẫu cho học sinh Chưa tập chohọc sinh thói quen quan sát, thói quen khai thác đối tượng, cách cung cấp vốn từcâu còn rời rạc, chưa hệ thống được phương pháp cơ bản trong việc bồi dưỡngcảm xúc, tâm hồn để các em thật sự thả hồn trong khi chinh phục sự vật xungquanh ta

Đặc biệt khi chấm bài cho học sinh lớp 6 phát hiện các em còn mắc lỗi khiviết bài văn miêu tả, học sinh chưa xác định đúng bản chất, các kỹ năng cần có

để viết văn, chưa xác định được trọng tâm đề bài, có những em thường liệt kê,

kể lể dài dòng, diễn đạt vụng về, lủng củng Nhiều em chưa biết dừng lại để tả kĩmột vài chi tiết cụ thể nổi bật Thậm chí còn xảy ra tình trạng bịa đặt trong bàilàm khiến hình ảnh miêu tả thiếu chân thực và hết sức vô lí, chẳng hạn như: Tả

buổi trưa mùa hè trên quê hương em mà cánh đồng lúa đang thì con gái, hay hoa cúc nở vàng ruộm báo hiệu hè sang hoặc đêm cuối tháng cả bầu trời vằng vặc ánh trăng, chi chít muôn ngàn sao lấp lánh”(“Đêm cuối tháng” thì làm gì

có trăng?) Thực trạng học sinh còn nhiều suy nghĩ sai lạc như vậy, đã làm cho

tiết Tập làm văn trở thành một gánh nặng, một thách thức đối với giáo viênTHCS

Sau đấy tôi đã tiến hành khảo sát qua một số tiết tự học tập làm văn và cụthể qua các tiết bài Tập làm văn, các bài kiểm tra khác nhau Kết quả cho thấy

Trang 5

khả năng sử dụng các kỹ năng quan sát, so sánh, tưởng tượng, nhận xét của học

sinh còn yếu Nhìn chung học sinh lớp 6 chưa nắm được đúng bản chất của các

kỹ năng: quan sát, tưởng tượng, so sánh và nhận xét và từ chỗ còn hiểu lơ mơdẫn đến cách dùng từ ngữ, hình ảnh, đặt câu, dựng đoạn còn, đơn điệu, rậpkhuôn, không có cảm xúc Hơn thế nữa còn có một số ít học sinh ngại viết văn

Để đối phó với việc học sinh làm bài kém, để đối phó với chất lượng khikiểm tra thi cử, nhiều giáo viên cho học sinh thuộc một bài văn mẫu để khi các

em gặp một bài tương tự thì cứ thế chép ra Vì vậy dẫn đến cả thầy và trò nhiềukhi lệ thuộc quá nhiều vào những bài văn có sẵn

Thực trạng trên đã ảnh hưởng không tốt tới chất lượng giờ dạy, không gâyđược hứng thú học tập cho học sinh Trước khi tiến hành áp dụng sáng kiến này,tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng bài Tập làm văn với học sinh lớp 6, kết quảnhư sau:

2.2 Kết quả của thực trạng

Lớp Tổng số bài

Đạt yêu cầu

(Số bài điểm trên 5)

Chưa đạt yêu cầu

(Số bài điểm dưới 5)

3 Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

3.1 Các bước rèn luyện kỹ năng viết văn miêu tả cho học sinh:

Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu rõ bản chất của các kỹ năng: quan sát, tưởng tượng, so sánh, nhận xét trong văn miêu tả.

Hướng dẫn học sinh cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh như thế nào cho có hiệuquả trong đoạn văn miêu tả

Tổ chức cho học sinh làm một số bài tập luyện kỹ năng: quan sát, tưởng tượng, so sánh, nhận xét.

Trang 6

Tổ chức cho học sinh viết một số đoạn văn (bài văn miêu tả) hoàn chỉnh cóchủ đề.

đó ta phải quan sát: “Quan sát chính là thao tác nhìn, nghe, ngửi, sờ, cầm bằng các giác quan: tai, mắt, mũi, da” Từ đó, tôi giúp các em phải nhận biết

được quan sát một đối tượng nào đó bằng giác quan của chúng ta Cần nhìn rõmàu sắc, hình dáng, kích thước, khoảng cách sự vận động…nghe rõ âm thanh,ngửi thấy các mùi vị và có thể nếm vị Sau khi quan sát bên ngoài các em sẽnhìn thấy sự việc bằng suy tưởng phán đoán bên trong Tôi còn chú ý hướng các

em vào trọng tâm của cảnh để giúp các em hiểu rõ thế nào là trọng điểm quansát, cần xác định rõ với từng cảnh nên quan sát như thế nào để tìm ra đặc trưngcủa cảnh

Tiếp xúc đối tượng - > định mục đích - > chọn vị trí -> huy động giác quan

và trí tuệ quan sát bao quát - > tập trung vào trọng điểm - > lựa chọn và ghi nhớ tư liệu Đó cũng là quy trình quan sát bắt buộc mà người miêu tả phải tuân thủ theo để đạt hiệu quả cao.

Giáo viên cần nhấn mạnh cho học sinh hiểu: Kỹ năng quan sát là kỹ năng

quan trọng nhất Bởi vì muốn miêu tả được, trước hết người ta phải biết quansát, rồi từ đó nhận xét, liên tưởng, tưởng tượng, ví von, so sánh để làm nổi bậtlên những đặc điểm tiêu biểu của sự vật

Cần lưu ý rằng: Người GV phải là người thật tinh tế trong quá trình quansát thì mới định hướng cho HS quan sát một cách tinh tế, tỉ mỉ của sự vật Ta có

thể nói “Thế giới xung quanh ta luôn luôn mới mẻ, chỉ có điêù ta có nhìn thấy cái mới đó hay không?”.

Miêu tả là vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi bật của cảnh, của người đểgiúp người nghe, người đọc hình dung được các đối tượng ấy, tức là lấy câu văn

để biểu hiện các đặc tính, bản chất của sự vật, giúp người đọc như được chứngkiến tận mắt sự vật miêu tả Nên khi dạy văn miêu tả, tôi hướng dẫn học sinhquan sát và miêu tả theo các trình tự hợp lý như sau:

*Tả theo trình tự không gian:

Quan sát toàn bộ trước rồi đến quan sát từng bộ phận, tả từ xa đến gần, từngoài vào trong, từ trái qua phải,… (hoặc ngược lại)

Ví dụ: Trong văn bản“ Sông nước Cà Mau”- Ngữ văn 6 tập II, nhà văn

Đoàn Giỏi miêu tả toàn cảnh Cà Mau theo trình tự từ xa đến gần:

Trang 7

“Càng đổ gần về hướng mũi Cà Mau thì sông ngòi, kênh rạch càng bủa giăng chi chít như mạng nhện Trên thì trời xanh dưới thì nước xanh, chung quanh mình cũng chỉ toàn một sắc xanh cây lá Tiếng rì rào bất tận của những khu rừng xanh bốn mùa, cùng tiếng sóng rì rào từ biển Đông và vịnh Thái Lan ngày đêm không ngớt vọng về trong hơi gió muối - thứ âm thanh đơn điệu triền miên ấy ru ngủ thính giác, càng làm mòn mỏi và đuối dần đi tác dụng phân biệt của thị giác con người trước cái quang cảnh chỉ lặng lẽ một màu xanh đơn điệu”.

*Tả theo trình tự thời gian

Ví dụ : “Biển đẹp”- Vũ Tú Nam

“Buổi sớm nắng sáng Những cánh buồm nâu trên biển được nắng chiếu vào hồng rực lên như đàn bướm múa lượn giữa trời xanh Lại đến một buổi chiều gió mùa đông bắc vừa dừng Biển lặng, đỏ, đầy như mâm bánh đúc, loáng thoáng những con thuyền như những hạt lạc ai đem rắc lên trên Rồi một ngày mưa rào Mưa dăng dăng bốn phía Có quãng nắng xuyên xuống biển óng ánh

đủ màu: xanh lá mạ, tím phớt, hồng xanh biếc… Có quãng thâm sì, nặng trịch Những cánh buồm ra khỏi cơn mưa, ướt đẫm, thẫm lại, khỏe nhẹ bồi hồi, như ngực áo bác nông dân cày xong ruộng về bị ướt”

* Tả theo trình tự tâm lí:

Khi quan sát cần thấy những đặc điểm riêng, nổi bật nhất, thu hút và gâycảm xúc mạnh nhất đến bản thân thì quan sát trước, tả trước, các bộ phận khác tảsau Khi miêu tả đồ vật, loài vật, tả người nên vận dụng trình tự này nhưng chỉnên tả những điểm đặc trưng nhất, không cần phải tả đầy đủ chi tiết như nhaucủa đối tượng

Ví dụ : Nhà văn Đoàn Giỏi miêu tả chợ Năm Căn theo mạch cảm xúc riêng

của mình, qua đó thể hiện niềm tự hào của tác giả về vùng đất trù phú, giàu cónơi tận cùng phía Nam Tổ quốc:

“Nhưng Năm Căn còn có cái bề thế của một trấn “anh chị rừng xanh” đứng kiêu hãnh phô phang sự trù phú của nó trên vùng đất cuối cùng của Tổ quốc Những bến vận hà nhộn nhịp dọc dài theo sông; những lò than hầm gỗ đước sản xuất loại than củi nổi tiếng nhất của miền Nam; những ngôi nhà bè ban đêm ánh đèn măng-sông chiếu rực trên mặt nước như những khu phố nổi,

và nơi đây người ta có thể cập thuyền lại, bước sang gọi một món xào, món nấu Trung Quốc hoặc một đĩa thịt rừng nướng ướp kiểu địa phương kèm theo vài cút rượu, ngoài ra còn có thể mua từ cây kim cuộn chỉ, những vật dụng cần thiết, một bộ quần áo may sẵn hay một món nữ trang đắt giá chẳng hạn, mà không cần phải bước ra khỏi thuyền Những người con gái Hoa kiều bán hàng xởi lởi, những người Chà Châu Giang bán vải, những bà cụ già người Miên bán rượu, với đủ các giọng nói líu lô, đủ kiểu ăn vận sặc sỡ, đã điểm tô cho Năm Căn một màu sắc độc đáo, hơn tất cả các xóm chợ vùng rừng Cà Mau”

Ngoài các trình tự miêu tả trên, giáo viên cần hướng dẫn và rèn luyện chohọc sinh kĩ năng sử dụng các giác quan (thính giác, thị giác, xúc giác, vị giác,…)

để quan sát, cảm nhận sự vật, hiện tượng miêu tả

Trang 8

Kỹ năng liên tưởng tưởng tượng:

Có thể khẳng định rằng, nếu không có kỹ năng tưởng tượng thì bài vănmiêu tả không thể hay được, dù là văn tả thực Nếu chỉ quan sát và ghi chép vàobài làm đúng y nguyên những điều mà quan sát thấy thì bức tranh được miêu tảtrong bài văn sẽ quá trần trụi, thiếu sức hấp dẫn Vì vậy cần tưởng tượng và sángtạo thêm để bổ sung những hình ảnh phù hợp, làm cho bức tranh miêu tả trở nên

phong phú và sinh động hơn Như vậy tưởng tượng chính là hình dung ra cái thế giới chưa có (không có)” Trong văn miêu tả, nhờ có tưởng tượng mà tất cả

các hình ảnh, màu sắc âm thanh đều có thể tái hiện được trước mắt trong điềukiện chúng không nhất thiết phải xuất hiện tất cả những chi tiết đặc trưng của sựvật Trong thực tế, không phải lúc nào cũng bộc lộ một cách tập trung, nhưngnhờ có tưởng tượng mà sự vật mới được hiện nguyên hình với tất cả những nétđặc trưng của nó cuối cùng nhờ có tưởng tượng mà con người có thể sáng tạonên những hình ảnh lung linh, rực rỡ của sự vật Liên tưởng tượng tưởng tượng

sẽ giúp văn miêu tả khơi gợi được trí tưởng tượng, kích thích được óc sáng tạocủa người đọc, khiến người đọc không khỏi không ngẫm nghĩ, ngỡ ngàng trước

“ Cái hồn của sự vật”

Ví dụ: Không có trí tưởng tượng, chắc chắn nhà văn Tô Hoài không thể

xây dựng được bức tranh phong phú về thế giới loài vật như trong tác phẩm “Dếmèn phiêu lưu kí”

Nguyễn Tuân với Cô Tô, thực sự ông phải có một sự liên tưởng tưởng

tượng thật độc đáo Khi nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả vùng biển Cô Tô: đảophía đông bắc Tổ quốc Việt Nam vô cùng tươi đẹp, giàu có, hùng vĩ vào mộtngày đầu sau trận bão lớn Thì kỳ thú đầu tiên mà nhà văn bắt gặp ở Cô Tô là

hình ảnh mặt trời lúc bình minh: "Mặt trời nhú lên dần dần, rồi cho kỳ hết Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn".

Vế thứ nhất của phép so sánh là hình ảnh mặt trời, còn vế kia là một danh

từ chỉ khái niệm vô hình trừu tượng "Quả trứng thiên nhiên" Nếu quả trứng là

sự vật cụ thể thì "quả trứng thiên nhiên" lại là không có thật mà chỉ được định

hình qua trí tưởng tượng phong phú của nhà văn Nguyễn Tuân

Kỹ năng so sánh:

So sánh là hệ quả của quá trình liên tưởng, tưởng tượng khi quan sát mộtđối tượng nào đó, hình ảnh của đối tượng ấy (từ màu sắc đến hình dáng, từ kíchthước đến trạng thái) thường gợi cho người quan sát nghĩ tới những hình ảnhkhác có cùng một nét tương đồng và chính sự liên tưởng, so sánh này làm chotrang văn miêu tả hay hơn và đối tượng miêu tả hiện rõ hơn, đẹp hơn, hấp dẫn

hơn So sánh chính là dùng cái đã biết để làm rõ, nổi bật cái chưa biết Vì vậy,

tôi đã hướng dẫn cho các em một số cách so sánh như sau:

Có thể so sánh người với người: “Với ngương mặt phúc hậu và mái tóc bạc

trắng, trông bà hệt như bà tiên trong truyện cổ tích”; “Nhìn nó chăm chỉ làmviệc giúp bà, ai cũng tấm tắc: hệt như cô Tấm trong chuyện cổ tích xưa”…

Trang 9

Có thể so sánh người với các con vật (hình dáng, tính cách): “Lão ta quá

ranh mãnh, xảo quyệt, y như một con cáo già”; “Trông anh ta như một con gấu”;

“cậu ấy nhanh như một con sóc”…

Có thể so sánh người với cây cối: “Cô bé cứ như một cây lúa non, lặng lẽ

lớn lên từ bùn đất”…

Có thể so sánh người với các hiện tượng thiên nhiên: “Giọng lão ta lúc nào

cũng gầm vang như sấm”, “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào”…

Có thể so sánh vật với vật, cảnh với cảnh: “cây gạo như treo rung rinh hàng

ngàn nồi cơm gạo mới”( Vũ Tú Nam); “Vầng trăng non giữa bầu trời đầy saohệt như một cái liềm vàng ai bỏ quên giữa cánh đồng lúa chín” (Theo Vích – toHuy gô); “ Măng trồi lên nhọn hoắt như một mũi gai khổng lồ xuyên qua đất lũy

mà trỗi dậy” (Ngô Văn Phú)…

Có thể so sánh vật với con người: “Cây bàng già sừng sững, uy nghi như

một người lính gác canh giữ cho khu vườn được bình yên”

Tuy nhiên khi sử dụng kĩ năng so sánh, học sinh cần lưu ý là phải biết sángtạo, biết tìm điểm mới, điểm riêng Không nên lặp đi lặp lại những hình ảnh sosánh đã quá cũ, quá sáo mòn theo kiểu: “Miệng cười tươi như hoa”; “Những hạtsương long lanh như những hạt ngọc đính trên cành hoa hồng”; “Cánh đồng lúachín trông như tấm thảm vàng trải rộng đến chân trời”; “Vầng trăng tròn vànhvạnh như chiếc đĩa bạc treo lơ lửng trên bầu trời đêm thăm thẳm lấp lánh muôn

Ví dụ: Thái độ ngạc nhiên, thích thú của nhà văn Vũ Tú Nam khi so sánh

và miêu tả hình ảnh những trái mướp lớn nhanh như thổi: Rồi quả thi nhau chòi

ra, bằng ngón tay, bằng con chuột Rồi bằng con cá chuối to

Ví dụ : Trong văn bản “Cô Tô” SGK ngữ văn 6, nhà văn Nguyễn Tuân khi

miêu tả vẻ đẹp trong sáng, tràn đầy sức sống toàn cảnh Cô Tô một ngày sau bão,

đã thể hiện được cảm nhận riêng của mình về một vùng đất ông từng qua:

“Ngày thứ năm trên đảo Cô Tô là một ngày trong trẻo, sáng sủa Từ khi có vịnh Bắc Bộ và từ khi quần đảo Cô Tô mang lấy dấu hiệu sự sống con người thì, sau mỗi lần dông bão, bao giờ bầu trời Cô Tô cũng trong sáng như vậy Cây trên núi đảo lại thêm xanh mượt, nước biển lại lam biếc đặm đà hơn hết cả mọi khi, và cát lại vàng giòn hơn nữa Và nếu cá có vắng tăm biệt tích trong ngày động bão thì nay lưới càng thêm nặng mẻ cá giã đôi Chúng tôi leo dốc lên đồn

Cô Tô hỏi thăm sức khỏe anh em bộ binh và hải quân cùng đóng sát nhau trong

Trang 10

cái đồn khố xanh cũ ấy Trèo lên nóc đồn, nhìn ra bao la Thái Bình Dương bốn phương tám hướng ,quay gót 180 độ mà ngắm cả toàn cảnh Cô Tô Nhìn rõ cả

Tô Bắc, Tô Trung, Tô Nam, mà càng thấy yêu mến hòn đảo như bất cứ người chài nào đã từng đẻ ra và lớn lên theo mùa sóng ở đây”.

3.2.2 Hướng dẫn học sinh cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh trong văn miêu tả.

Ngoài nắm kỹ bản chất các kỹ năng trên, người viết cần phải lựa chọn từngữ, hình ảnh thật chính xác, gợi hình ảnh cũng là yêu cầu quan trọng, đòi hỏiphải đặt ra một cách nghiêm túc Muốn thế, người viết văn miêu tả phải có mộtvốn từ phong phú tất nhiên có vốn từ phong phú chưa hẳn đã là thành công màđiều quan trọng là người viết bài phải có sự lựa chọn tinh tường, sao cho trongmột hệ thống các từ đồng nghĩa, gần nghĩa, có thể lấy ra được một vài từ phùhợp nhất, chính xác nhất Điều cần lưu ý là phải luôn có thói quen tìm từ gợihình biểu cảm với đối tượng với văn cảnh Muốn làm nổi bật đối tượng hình ảnh

của đối tượng thì phải chú ý tới hệ thống từ tượng hình (Từ màu sắc, hình dáng, trạng thái) Muốn làm nổi bật không khí của cảnh thì dùng hệ thống của từ

tượng thanh (mô phỏng tiếng động) Đoạn văn, bài văn miêu tả thiếu đi các yếu

tố tạo hình, gợi cảm thì chắc chắn sẽ không thể hay Nhưng cũng cần ý thứcđược rằng, nếu dùng từ ngữ, hình ảnh tuỳ tiện, hoặc khuôn sáo, bắt chước mộtcách lộ liễu thì cách miêu tả cũng không có sức thuyết phục

Ví dụ: Tả cảnh sóng biển có nhiều từ ngữ gợi hình, gợi thanh: cuồn cuộn,

nhấp nhô, lăn tăn, rì rào, lô nhô, rì rầm Nhưng không phải là cứ miêu tả sóng

thì có thể dùng được tất cả các từ ấy Tả sóng biển lúc trời dông thì phải dùng từ

“cuồn cuộn”, tả tiếng sóng biển vỗ vào bờ đá thì phải dùng từ ì oạp,

Tả cây cối có nhiều từ ngữ chỉ màu xanh khác nhau: xanh non, xanh rì, xanh lá mạ nhưng khi đi vào thực tế thì mỗi loại cây sẽ có một loại xanh riêng: cây rau cải trong vườn hay cây lúa đang thì con gái thì phải là xanh mơn mởn, xanh rờn; cây trong rừng rậm rạp thì phải là xanh rì, xanh tốt

Tả âm thanh tiếng mưa rào: mưa trên mái tôn thì rào rào, mưa trên nứa thì đồm độp, mưa trên lá chuối thì bùng bùng

Hay tả dáng đi của con người cũng đa dạng: tập đi thì lẫm chẫm, cụ già thì lom khom; cô gái thanh tú thì yểu điệu, thướt tha.

Bên cạnh việc lựa chọn từ ngữ, vấn đề tạo hình ảnh trong văn miêu tả cũngkhông kém phần quan trọng Có thể thấy rõ câu văn miêu tả giàu hình ảnh baonhiêu thì sức gợi cảm của nó sẽ lớn bấy nhiêu Việc tạo hình ảnh cho câu vănmiêu tả có thể thực hiện bằng nhiều cách: hoặc là từ ngữ tượng hình, tượngthanh, hoặc bằng nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, nhân hoá

Tuy nhiên khi sử dụng nghệ thuật bên trong bài văn miêu tả, học sinh cầnlưu ý những nghệ thuật ấy chỉ thực sự có tác dụng nếu được dùng đúng lúc,đúng chỗ, hợp văn cảnh

3.2.3 Bài tập luyện các kỹ năng : quan sát, tưởng tượng, so sánh, nhận xét trong văn miêu tả.

Bài tập 1: Cho đoạn văn sau:

Trang 11

“ Buổi sáng, đất rừng thật là yên tĩnh(1) Trời không có gió, nhưng không khí vẫn mát lạnh(2) Cái lành lạnh của hơi nước, sông ngòi, mương rạch, của đất ẩm và dưỡng khí thảo mộc thở ra từ bình minh(3) Ánh sáng trong vắt, hơi gợn một chút óng ánh trên những đầu hoa tràm rung rung, khiến ta nhìn cái gì cũng có cảm giác như là nó bao qua một lớp thủy tinh”(4).

a Đoạn văn trên tả cảnh gì? Dựa vào những dấu hiệu nào mà em khẳngđịnh như vậy?

b Đoạn văn có bốn câu: Chỉ ra câu nào thể hiện rõ cách tưởng tượng, sosánh khi tả cảnh? Câu nào bộc lộ rõ nhận xét của người viết?

c Viết một đến hai câu nói rõ cảm xúc của em khi đọc đoạn văn này?

* Giáo viên yêu cầu học sinh đọc kỹ đoạn văn và ba câu hỏi yêu cầu sau đónêu rõ mục đích yêu cầu của bài tập

+ Mục đích: Rèn khả năng phát hiện.

+ Yêu cầu:

- Phát hiện nội dung tả ( tả cảnh hay tả người) Câu chủ đề của đoạn

- Nhận biết dấu hiệu của đoạn văn

- Đọc kỹ và chỉ rõ các kỹ năng: tưởng tượng, so sánh, nhận xét trong mỗicâu văn

- Viết câu văn hoàn chỉnh về cảm xúc của bản thân khi đọc đoạn văn

* Giáo viên tổ chức hướng dẫn học sinh làm bài tập đúng với yêu cầu

Gợi ý:

a - Đoạn văn tả cảnh rừng tràm Câu chủ đề ( câu 1)

- Hình thức: Đoạn văn bắt đầu từ chỗ viết hoa, lùi vào một chữ, kết thúcbằng dấu chấm câu

- Nội dung: Diễn đạt một nội dung trọn vẹn : Cảnh rừng tràm vào buổisáng

b Câu 4: thể hiện rõ sự tưởng tượng, so sánh trong tả cảnh

- Tưởng tượng: ánh sáng trong vắt, hơi gợn chút óng ánh

- So sánh: nhìn cái gì cũng có cảm giác như là bao qua một lớp thủy tinh

- Câu1,2,3 bộc lộ rõ nhận xét của người viết về cảnh.

c Cảm xúc: Không gian thật yên tĩnh, không khí thật trong lành, mát mẻ;

thiên nhiên thật đáng yêu và gần gũi như sự sống

Bài tập 2: Hãy chọn lựa các từ sau: ngang, khệnh khạng, vun vút, chậm

chạp, rung rinh, bệ vệ, đùa giỡn và điền vào những chỗ trống trong đoạn văn.

Sau khi điền từ, đọc lại đoạn văn, cho biết: đoạn văn tả cảnh gì, ở đâu? Ngườiviết có những tưởng tượng, so sánh, nhận xét hay ở chỗ nào?

“ Một con sao biển đỏ thắm đang (1) bò Những con tôm hùm mang bộ râu dài (2) bước trên các hòn đá Một con cua đang bò (3) Chỗ nào cũng thấy bao nhiêu vật lạ Đây là hoa loa kèn mở rộng cánh, ( 4) dưới nước.Đàn tôm con lao ( 5 ) như ruồi Bác rùa biển ( 6 ) ,có hai con cá xanh như đôi bướm ( 7 ) phía trên mai.”

* Mục đích:

- Phát hiện và sử dụng từ ngữ, hình ảnh trong đoạn

Ngày đăng: 08/08/2019, 14:12

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w