1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Các loại hình làng xã trong lịch sử Việt Nam

14 1,3K 8

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Các loại hình làng xã trong lịch sử Việt Nam
Trường học Trường Đại Học Quốc Gia Hà Nội
Thể loại bài tiểu luận
Định dạng
Số trang 14
Dung lượng 39,56 KB

Nội dung

Làng xã Việt Nam là hình ảnh vô cùng quen thuộc mà ở bất kì vùng nông thôn nào ta cũng có thể bắt gặp. Một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc là biểu hiện cao nhất của tinh thần độc lập tự chủ, biểu hiện tiềm năng sáng tạo vô hạn của dân tộc. Bản sắc văn hóa Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, tinh hoa mà dù cho trải qua bao thăng trầm của lịch sử nó vẫn được lưu giữ, bảo tồn: Lòng nhân ái, lòng yêu nước, ý thức dân tộc,… Những giá trị đó được kế thừa qua bao thế hệ làm nên bản sắc riêng của văn hóa Việt Nam mà trong đó không thể phủ nhận vai trò của làng xã gã góp phần bồi dưỡng những giá trị văn hóa này. Từ xưa đến nay, làng xã vẫn đóng vai trò quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống. Làng có vị trí đặc biệt với lịch sử dân tộc nói chung và đối với mỗi người dân Việt Nam nói riêng. Làng phonh phú, đa dạng với nhiều loại hình và hình tức khác nhau. Chính vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu về các loại hình làng xã Việt Nam là một đề tài có sức hấp dẫn đối với các nhà nghiên cứu. Sau đây, chúng ta sẽ đi tìm hiểu về đề tài: “ Các loại hình làng xã trong lịch sử Việt Nam” Bố cục bài: Chương 1: Quá trình hình thành và phát triển của các làng xã ở Việt Nam. Chương 2 : Các loại hình làng xã trong lịch sử Việt nam. Chương 3: Tư tưởng, văn hóa làng xã và kết cấu kinh tế của làng xã Việt Chương 4: Làng xã Việt trong thời kì hiện nay.

Trang 1

Lời mở đầu

Làng xã Việt Nam là hình ảnh vô cùng quen thuộc mà ở bất kì vùng nông thôn nào ta cũng có thể bắt gặp Một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc là biểu hiện cao nhất của tinh thần độc lập tự chủ, biểu hiện tiềm năng sáng tạo vô hạn của dân tộc Bản sắc văn hóa Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, tinh hoa mà dù cho trải qua bao thăng trầm của lịch sử nó vẫn được lưu giữ, bảo tồn: Lòng nhân ái, lòng yêu nước, ý thức dân tộc,… Những giá trị đó được kế thừa qua bao thế hệ làm nên bản sắc riêng của văn hóa Việt Nam mà trong đó không thể phủ nhận vai trò của làng xã gã góp phần bồi dưỡng những giá trị văn hóa này Từ xưa đến nay, làng xã vẫn đóng vai trò quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống Làng có vị trí đặc biệt với lịch sử dân tộc nói chung và đối với mỗi người dân Việt Nam nói riêng Làng phonh phú, đa dạng với nhiều loại hình và hình tức khác nhau Chính vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu về các loại hình làng xã Việt Nam là một đề tài có sức hấp dẫn đối với các nhà nghiên cứu Sau

đây, chúng ta sẽ đi tìm hiểu về đề tài: “ Các loại hình làng xã trong lịch sử Việt Nam”

Bố cục bài:

Chương 1: Quá trình hình thành và phát triển của các làng xã ở Việt Nam Chương 2 : Các loại hình làng xã trong lịch sử Việt nam.

Chương 3: Tư tưởng, văn hóa làng xã và kết cấu kinh tế của làng xã Việt Chương 4: Làng xã Việt trong thời kì hiện nay.

Trang 2

NỘI DUNG CHƯƠNG 1: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC

LOẠI HÌNH LÀNG XÃ Ở VIỆT NAM

1 Khái niệm

Làng hay Ngôi làng là một khu định cư của một cộng đồng người, nó lớn hơn xóm, ấp nhưng nhỏ hơn một thị trấn, với dân số khác nhau, từ một vài trăm đến một vài ngàn Những ngôi làng thường nằm ở nông thôn, song cũng có những có ngôi làng thành thị Làng thường là một điểm tụ cư cố định, với những ngôi nhà cố định, tuy nhiên cũng có những ngôi làng xuất hiện tạm thời rồi nhanh chóng tan rã Một ngôi làng điển hình thường khá nhỏ, có thể có từ 5 đến

30 gia đình Các ngôi nhà được xây dựng gần nhau để hợp tác và bảo vệ, khu đất xung quanh khu nhà được sử dụng để trồng trọt và chăn nuôi Các làng chài truyền thống sinh sống dựa trên nghề đánh bắt thủ công và nằm gần các khu vực đánh cá

Xã hiện nay là tên gọi chung các đơn vị hành chính thuộc cấp thấp nhất ở khu vực nông thôn, ngoại thành, ngoại thị của Việt Nam Thuật ngữ đơn vị hành chính cấp xã đôi khi được dùng để chỉ toàn bộ cấp đơn vị hành chính thấp nhất của Việt Nam, nghĩa là bao gồm cả xã, phường và thị trấn Phân cấp hành chính này có xuất xứ Trung Quốc và đã xuất hiện ở Việt Nam từ thời Bắc thuộc Tại Trung Quốc thời xưa, xã được chia theo diện tích, sáu lý vuông là một xã, hoặc theo hộ khẩu, hai mươi lăm nhà là một xã

Mối quan hệ giữa làng và xã: Thông thường một “xã” bao gồm một hoặc nhiều “làng”, làng là đơn vị cấu thành của xã, đôi lúc mỗi xã chỉ có một làng

(xã ngang bằng với làng).Trường hợp một xã gồm nhiều thôn, thì thôn là phân thể hành chính của xã nhưng không có tư cách pháp nhân Trường hợp xã tương đương với thôn thì thôn mang tính chất độc lập và nó cũng có tư cách pháp nhân

là đơn vị hành chính địa phương, cơ sở của nhà nước trung ương Trong trường

hợp thôn có tư cách pháp nhân giống như xã thì người ta gọi ghép là xã thôn.

Trang 3

Do có nhiều xã chỉ gồm có một làng duy nhất nên người ta gọi chung là làng xã.

Do làng là một tập hợp bao gồm nhiều xóm nên người ta gọi là làng xóm.

2 Quá trình hình thành và phát triển

Khi con người nguyên thủy sống du canh du cư thì xóm làng không thể ra đời Khi nghề nông xuất hiện cùng với sự phát triển của nghề trồng lúa nước, thì xóm làng mới được xúc tiến hình thành và phát triển Con người tiến từ vùng

thượng du về đông bằng để làm nông nghiệp, chuyển từ quan hệ huyết thống sang quan hệ láng giềng - địa vực Họ dần biết hợp tác trong công tác

khai phá đất đai, đào kênh mương tưới nước, đắp đê chống lũ…, những công việc không thể thực hiện bởi một người hay một gia đình Sự cố kết ấy đã tạo ra đơn vị tụ cư nhỏ đó là Xóm, xóm phát triển rộng ra hình thành nên làng, làng xóm buổi đầu của người Việt là các kẻ chạ, chiềng… với quan hệ láng giềng -địa vực và chế độ sở hữu công cộng về ruộng đất (tức là các Công xã nông thôn)

Các kẻ chạ có cơ sở kinh tế là các Công xã nông thôn Trong các công xã nông thôn phần lớn ruộng đất thuộc sở hữu công của làng xã, người nông dân công xã cày cấy trên ruộng đất công của làng xã, sau đó trích một phần hoa lợi nộp lên trên cho nhà nước và bộ máy điều hành của làng xã Do đó người nông dân Việt Nam có sự cố kết rất chặt chẽ, có tinh thần tự trị, tự quản rất cao, trở thành một pháo đài xanh, núp sau lũy tre làng chống lại sự đồng hóa của phong kiến phương Bắc sau hơn ngàn năm đô hộ Bởi lẽ sau hơn ngàn năm đô hộ, chính quyền phương Bắc chưa bao giờ đặt được ách cai trị và nắm được các cơ

sở kinh tế của làng xã (các công xã nông thôn), các kẻ chạ vẫn là bầu trời riêng của người Việt

Tên gọi “Xã” được nhà Đường du nhập vào Việt Nam, danh từ “Làng” trong tiếng Việt đã thay thế cho các từ Kẻ, Chạ… thời xưa cũ Như vậy, xã là danh từ ngoại nhập và nó chỉ thực sự được sử dụng để chỉ đơn vị hành chính cấp cơ sở của nhà nước từ thời họ Khúc (thế kỉ X) trở đi

Trong lịch sử phát triển, làng xã Việt Nam đã qua 3 lần biến đổi lớn: lần thứ nhất vào thế kỉ XV, do chính sách “quân điền” của Lê Thánh Tông,

Trang 4

nhằm chia ruộng đất cho nông dân cày cấy, đã phá vỡ sự tồn tại của ruộng đất công làng xã Lần thứ hai vào thời Pháp thuộc, do chủ trương “cải lương hương chính” của thực dân Pháp đã làm thống nhất bộ máy quản lý làng xã Lần thứ ba vào nửa sau thế kỉ XX, do chủ trương xây dựng hợp tác xã nông nghiệp, đã làm hiện đại hóa làng xã cổ truyền, mặt trái đã làm mất đi những

di sản văn hóa (vật thể và phi vật thể) cổ truyền của làng xã vốn được xây dựng từ hàng ngàn năm qua

Diện mạo của làng xã được quy định bởi các thiết chế được hình thành từ bên trong làng xã Đó là các thành tố tạo nên diện mạo( Cổng làng, cây đa đầu làng, bến nước, giếng làng, đình làng (ra đời từ thế kỉ XV), hương lộ (đường làng), lũy tre làng, xóm, ngõ, nhà ở, chùa làng, nghè, đền, miếu, chợ làng, cổng phụ( cổng sau), cánh đồng làng) Đây là những thành tố tạo nên làng xã Việt Nam cổ truyền, trong một làng khó có thể hội đủ các yếu tố trên, có chăng chỉ là

sự hiện diện của một số thành tố cơ bản như hương lộ, xóm ngõ, nhà ở, đình làng, đền miếu và một số yếu tố khác mà thôi

3 Tên gọi làng xã

Các loại làng xã không những được hình thành theo những con đường khác nhau qua các thời kì lịch sử

- Thời thuộc Đường: Chính quyền đô hộ biến được một số ít làng xã Việt

thành làng xã phụ thuộc vào chúng Ở bộ phần làng xã này, nhà Đường gọi là

Hương hay Xã.

- Thời Đại Việt: Để xây dựng nhà nước độc lập, tự chủ, thoát khỏi ảnh

hưởng của chính quyền dô hộ Khúc Hạo tiến hành nhiều cải cách đất nước Ông

bỏ tên gọi Hương, đổi thành giáp.

- Từ thời Lý- Trần trở về sau: đơn vị hành chính cấp cơ sở là xã Có 3 loại xã

tùy theo quy mô và số hộ (đại xã, trung xã, tiểu xã) gọi là xã lớn, xã vừa và xã nhỏ

Trang 5

CHƯƠNG 2: CÁC LOẠI HÌNH LÀNG XÃ TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM

1 Các loại hình làng xã

Sự phát triển của kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp , đánh cá trong lịch sử nước ta ngày càng tăng tiến đã đưa đến sự ra đời của nhiều loại hình làng xã khác nhau

- Làng Việt Cổ: Sự phát triển của làng xã người Việt trong lịch sử không

dẫn đến sự phá vỡ hoàn toàn của các làng xã “ nguyên thủy” để thành lập một cơ

sở xã hội mới Làng Việt Cổ ( Công xã nông thôn) là những đơn vị cư trú của người Việt Cổ, ra đời từ ngày đầu dựng nước , tiếp tục tồn tại ở nhiều thế kỉ sau Vào buổi đầu Công Nguyên theo kết quả thống kê của nhà Hán thì ở nước ta có gần một triệu người với trên 14 vạn hộ dân, chuwsg tỏ số lượng loại làng Việt cổ không ít Càng làng xã cổ này vẫn chứa đựng những tàn dư nguyên thủy đượ ra đời từ sự giải thể của các công xã nguyên thủy

- Các loại hình làng xã khác: Bên cạnh làng Việt Cổ, còn có nhiều làng xã khác được thành lập trong xã hội có giai cấp , theo những con đờng khác nhau:

+ Làng xã được thành lập trên cơ sở nhân dân đứng ra tổ chức khai hoang: Làng xã này được thành lập dưới thời Lý Trần và ngày càng có nhiều từ thế kỉ

XV trở về sau Tên gọi cuẩ các làng xã này khá đa dạng, có khi mang tên một dòng họ chủ trì việc khai hoang, lập làng như làng Nguyễn, Đàn Xá, Đõ Động,

…hoặc mang những mỹ tự

+ Làng xã nguyên là điền trang hay thái ấp của quý tộc, quan lại phong kiến như các làng: Mỗ Trạch, Minh Luận, An Nội, Dương Xá,…

+ Làng nguyên là đồn điền của nhà nước như: Làng Quán La, Nhật Tảo + Làng xã được nhà nước chủ trì việc khai phá đất hoang, chiêu tập nông dân không có ruộng đất, cung cấp kinh phí cho họ để khẩn hoang thành lập làng

ấp Loại làng xã này được ra đời kha nhiều ở thế kỉ XIX

+ Làng xã được thành lập trên cơ sở tập hợp những người có cùng một công việc: làng gỗ Đồng Kỵ, làng tranh Đông Hồ, làng gốm Phù Lãng,…

+ Làng xã được thành lập trên cơ sở những người có cùng tôn giáo, cùng

hệ tư tưởng, tín ngưỡng

Trang 6

2 Phân loại hệ thống làng xã

Làng Việt đã trải qua một quá trình tồn tại và phát triển lâu dài theo sự mở mang bờ cõi của đất nước và những biến động của tự nhiên và xã hội Người ta

có thể phân loại các loại hình làng xã sau:

- Theo thời gian hình thành: Làng cổ hay làng truyền thống, làng mới hay

làng hiện đại…

Về lịch sử thay đổi của làng xã, có người cho rằng đã có ba lần biến cách: Thế kỷ XV khi chế độ quân điền được thực hiện Cuối thế kỷ XIX khi thực dân Pháp đặt ách thống trị trên đất nước ta Cách mạng tháng Tám 1945 và cải cách ruộng đất đã làm thay đổi hẳn cơ chế làng xã, tác động mạnh vào tổ chức cổ truyền này

Có một số ý kiến lại nêu rõ cần phân biệt làng Bắc Bộ, làng Trung Bộ và làng Nam Bộ Sự phân biệt như vậy dựa vào hoàn cảnh lịch sử và hoàn cảnh địa

lý điều này là cần thiết và phù hợp với thực tế xã hội nước ta: Vùng đồng bằng Bắc Bộ là nơi đã hình thành những điểm dân cư đầu tiên của người Việt Từ Quảng Nam – Đà Nẵng trở vào thì làng Việt hình thành muộn hơn, và muộn hơn nữa là làng xã ở Nam Bộ (do tiến trình khai khẩn và khai chiếm, mở rộng lãnh thổ) Thời gian hình thành sớm muộn khác nhau đã để lại những dấu ấn không nhỏ trong làng xã người Việt của các vùng, tạo ra những yếu tố theo GS Trần Quốc Vượng là “khu biệt văn hóa” trong tổng thể “không gian văn hóa và thời gian văn hóa Việt Nam… một Việt Nam thống nhất trong đa dạng”

- Theo vùng địa lý: Thượng, Hạ, Đông, Đoài Làng miền núi (thường gọi

là bản, mường, plây, buôn); làng trung du, làng đồng bằng (làng, ấp, phum, sóc)

Những người sống trên một khu vực mặc dù thuộc các dòng họ khác nhau cũng hợp lại thành một làng Dân làng sống bình đẳng với nhau, tôn trọng người lớn tuổi Đặc biệt có quan hệ láng giềng gắn bó (Bán anh em xa mua láng giềng gần) Dân làng còn có sự hỗ trợ lẫn nhau trong sản xuất mùa vụ, làm đổi công cho nhau Dân làng có tính dân chủ Tuy vậy, vẫn có khuyết điểm là dựa dẫm, ỷ lại, chờ đợi

Trang 7

- Theo nghề nghiệp:

Làng nông nghiêp, làng chài (vạn), làng thủ công như làng đúc đồng (Đại Bái), làng dệt lụa (Nghi Tàm), làng gốm (Bát Tràng) Quảng Bình có các làng nghề thủ công như làng dệt chiếu An Xá, làng gốm Mĩ Cương, làng đan lát Thọ Đơn Những người cùng làm một nghề (không kể trồng lúa) về sau gọi là phường Những phường này sẽ là mầm mống của thành thị

Hà Nội ngày xưa có 36 phố phường, mỗi phố phường nguyên là một làng nghề Ngày nay vẫn còn giữ tên gọi cũ: phố Hàng Bún, Hàng Bông, Hàng Đào, Hàng Cá

- Theo phương thức thành lập: Được phản ánh qua tên gọi: Xá Làng

thành lập dựa trên hình thức di dân khai canh; đồn điền nông nghiệp chuyển thành trại; điền trang gọi là trấn…

- Theo tôn giáo: Làng thuần lương, làng công giáo toàn tòng

- Theo đặc điểm văn hóa: chia ra làm làng văn và làng võ

Làng văn: còn được gọi là làng văn vật, ngày nay chúng ta gọi là làng văn hóa Đó là những làng có truyền thống học chữ Nho, nhiều người đỗ đạt cùng sinh hoạt văn hóa của các gia đình Nho học tạo ra nét văn hóa riêng cho các làng văn”

Làng võ: là những làng có truyền thống thượng võ, dân làng hầu hết mọi người đều biết võ nghệ, trong làng thường có lò võ Ở Bình Định có 3 làng võ nổi tiếng là An Thái, An Vinh và Thuận Truyền

Trang 8

CHƯƠNG 3: TƯ TƯỞNG LÀNG XÃ, KẾT CẤU KINH TẾ, ĐẶC TRƯNG

VĂN HÓA LÀNG XÃ VIỆT

1 Tư tưởng làng xã

Tư tưởng làng xã là sự phản ánh đời sống sản xuất, sinh hoạt vật chất và tinh thần của cộng đồng cư dân cùng sinh sống trong một phạm vi hành chính làng xã, nên nội dung phản ánh của tư tưởng làng xã chính là các hoạt động vật chất và tinh thần của làng xã Hay nói cách khác, nội dung tư tưởng làng xã bao gồm sự phản ánh mọi mặt về lối sống, phương thức sống, tôn giáo tín ngưỡng, đời sống văn hóa, chính trị, xã hội, gia đình của cộng đồng cư dân trong một làng xã nhất định Những nội dung chủ yếu của tư tưởng làng xã thể hiện qua hương ước bao gồm: tư tưởng gia trưởng, tư tưởng cố kết cộng đồng, tư tưởng trọng tình, trọng đức, tư tưởng trọng danh, trọng xỉ, tư tưởng trọng kinh nghiệm,

tư tưởng trọng tổ tiên, thần thánh và các thế lực vô hình, siêu nhiên

Tư tưởng gia trưởng đề cao tuyệt đối vai trò lãnh đạo của người nam trong gia đình và ngoài xã hội Theo đó, người nam có quyền quyết định tất cả mọi việc đối nội, đối ngoại, dù việc lớn hay việc nhỏ Đồng thời, người nam cũng là người phải chịu mọi trách nhiệm, nghĩa vụ đối với xã hội Tư tưởng gia trưởng có nguồn gốc từ chế độ phụ hệ và được củng cố bằng hệ thống lý luận Nho giáo Khi ảnh hưởng tới làng xã Việt, tư tưởng gia trưởng trong làng xã chủ yếu nhấn mạnh tới vai trò chủ gia đình, quyền lực của người nam trong gia đình, nghĩa vụ xã dân của họ trong làng xã và nghĩa vụ thần dân đối với triều đình

Tư tưởng cố kết cộng đồng của người Việt được hình thành và củng cố theo các liên kết xã hội và các quan hệ huyết thống Tư tưởng củng cố tính cộng đồng bằng quan hệ họ tộc, bằng niềm tự hào về một nguồn gốc chung, một truyền thống chung, bằng hy vọng sẽ bất tử trong truyền đời con cháu hay đi vào gia hệ tổ tiên sau khi chết là một tư tưởng làng xã nổi bật của Việt Nam

Tư tưởng yên phận, coi thường thương nghiệp, co mình sau lũy tre làng

đã in sâu vào nhận thức của người Việt khiến cho thủ công và thương nghiệp kém phát triển Với họ, được coi là một thành viên của làng, được hưởng một

Trang 9

chút ruộng công, được là dân đinh, được vào phe vào giáp, có một vị trí nơi đình trung tham dự việc làng là điều quan trọng nhất Tư tưởng yên phận ăn sâu vào tâm thức cư dân làng xã Việt Nam khiến làng xã Việt Nam khó chấp nhận những cái mới và không có khả năng tự biến đổi trước sự biến đổi của hoàn cảnh xã hội

Tư tưởng đề cao kinh nghiệm của làng xã Việt Nam xuất phát từ nền kinh

tế nông nghiệp nhỏ, lạc hậu, dựa vào kinh nghiệm Vì vậy, người càng nhiều tuổi càng nhiều kinh nghiệm và càng được coi trọng Tư tưởng trọng xỉ (tuổi tác), trọng người già là một tư tưởng phổ biến trong tư tưởng làng xã

Tư tưởng cục bộ địa phương cũng rất điển hình trong tư tưởng làng xã Việt Nam do các làng xã duy trì chế độ tự quản mang tính hình thức công xã, do mối quan hệ giữa làng xã với chính quyền trung ương và do mối quan hệ tương đối biệt lập giữa các làng với nhau

Trong các nội dung trên của tư tưởng làng xã, tư tưởng gia trưởng là một nội dung phổ biến nhất, có ảnh hưởng lâu dài và căn cốt nhất, mang tính chi phối tới nhiều nội dung tư tưởng khác trong tư tưởng làng xã Đây cũng là tư tưởng có ảnh hưởng sâu sắc, rộng lớn và lâu dài nhất trong tư tưởng làng xã với

cả những ưu điểm và hạn chế về mặt xã hội, nhất là đối với quá trình phát triển hiện nay

2 Kết cấu kinh tế của làng xã

Nền kinh tế xã hội nông nghiệp truyền thống là nền kinh tế trọng nông và

tự cung, tự cấp Đây là một trong những đặc trưng nổi bật nhất của nền kinh tế xã hội nông nghiệp truyền thống Hầu như ở các làng đều có các hoạt động sản xuất tương tự giống nhau, bao gồm các hoạt động nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, buôn bán nhỏ và khai thác sản vật tự nhiên để tự sản xuất những sản phẩm cho nhu cầu tiêu dùng cơ bản nhất của dân cư trong làng Trong cấu trúc kinh tế ấy, nông nghiệp là hoạt động căn bản nhất và luôn được xem là “nghề gốc” của đa

số các hộ dân cư Hoạt động nông nghiệp bao trùm và chi phối đến tất cả các hoạt động kinh tế khác Trong đó, sản xuất lương thực, mà đặc biệt là sản xuất lúa gạo đã phát triển từ rất sớm và trở thành ngành sản xuất chính, là nền tảng

Trang 10

cho các hoạt động kinh tế khác Điều này được quy định trước hết bởi các điều kiện tự nhiên của sản xuất và tập quán, nhu cầu sử dụng lúa gạo làm lương thực

đã có từ lâu đời của dân cư, cả ở đồng bằng lẫn miền núi Do đó, sản xuất lúa gạo và lương thực đã trở thành phương thức sản xuất và sinh sống vừa có ý nghĩa sinh tồn vừa có ý nghĩa truyền thống của hầu hết các làng xã trong suốt chiều dài lịch sử Bên cạnh sản xuất lúa gạo, dân cư các làng còn trồng các loại cây hoa màu, cây ăn quả và rau đậu thực phẩm, đồng thời với chăn nuôi gia súc, gia cầm, thả cá, đánh bắt thủy hải sản, khai thác sản vật tự nhiên…

Bên cạnh sản xuất nông nghiệp là cơ bản, thì trong nền kinh tế các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và thương nghiệp cũng xuất hiện từ rất sớm, gắn liền với hoạt động nông nghiệp và hỗ trợ, bổ sung cho nông nghiệp Việc giao lưu, trao đổi hàng hóa và hoạt động thương nghiệp cũng ngày càng mở rộng

3 Đặc trưng văn hóa làng xã

Đặc điểm nổi bật của văn hóa làng xã Việt Nam là tính cộng đồng, cộng cảm và tính tự trị tự quản Tính cộng đồng cộng cảm là đặc tính của cư dân nông nghiệp và là nền tảng cho làng xã ổn định, phát triển hàng nghìn năm

Người dân Việt từ khi sinh ra, lớn lên, trưởng thành và đến khi trở về bên kia thế giới đều được ký thác vào cộng đồng làng xã Các thành viên làng xã cùng nhau khai khẩn, chung sống trên một vùng đất thân quen, vùng có cây đa, bến nước, sân đình là niềm tự hào và nỗi nhớ thương mỗi khi nghĩ tới Người dân có tin thần tương thân tương ái, đoàn kết gắn bó, lá lành đùm lá rách để cùng nhau vượt qua những khó khăn trong cuộc sống Mỗi thành viên đều có trách nhiệm với các thành viên khác trong cộng đồng làng xã, họ có nghĩa vụ và trách nhiệm với nhau trong bất cứ hoàn cảnh nào Mỗi khi vụ mùa đến, hoặc khi làm nhà, sinh con, ốm đau, hoặc khi có người đỗ đạt, lên lão, làm quan… đều thấy sự hiện diện của bà con trong họ, ngoài làng Tục lệ khao vọng dân làng mỗi khi một thành viên nào đó thành đạt trên bước đường đời là một nét sinh hoạt văn hóa đẹp để khuyến khích, biểu dương nhân tài, đồng thời cũng nhắc nhở, động viên con cháu trong làng cố gắng phấn đấu vươn lên Tuy nhiên, trong cuộc sống làng xã, tính cộng đồng, cộng cảm cũng bộc lộ một số hạn chế như

Ngày đăng: 11/07/2019, 17:50

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w