1. Trang chủ
  2. » Giáo án - Bài giảng

CHUYÊN đề VẬN DỤNG LINH HOẠT CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC Ở BỘ MÔN CONG NGHỆ 8

18 237 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 18
Dung lượng 0,91 MB

Nội dung

Tạo cho học sinh hứng thú với môn học và nâng cao chất lượng môn Công nghệ 8, phục vụ tốt hơn cho cuộc sống tương lai của học sinh. Nâng cao hiệu quả trong quá trình dạy môn công nghệ là một vấn đề luôn được sự quan tâm của nhiều giáo viên khi giảng dạy môn công nghệ ở lớp 8, đây là một vấn đề đã được sự quan tâm nghiên cứu từ lâu nhưng thực tế hiệu quả giảng dạy môn này vẫn chưa cao vì vậy tôi đã tiếp tục nghiên cứu đề tài: “Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học ở bộ môn công nghệ 8”.

Trang 1

PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO SÔNG LÔ

TRƯỜNG THCS TỨ YÊN

= = = = = = = = = = = = =

VẬN DỤNG LINH HOẠT CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC Ở BỘ MÔN CONG NGHỆ 8

Tác giả: Nguyễn Thị Hà

Chức vụ: Giáo viên

Đơn vị : Trường THCS Tứ Yên

Báo cáo chuyên đề :

Trang 2

Tứ Yên, tháng 11 năm 2018

A ĐẶT VẤN ĐỀ

I Lí do chọn đề tài

1 Cơ sở lí luận

Công nghiệp là ngành kinh tế hết sức quan trọng trong ngành kinh tế quốc dân, nó cung cấp các vật liệu, máy móc, thiết bị, đồ dùng, chế tạo các nguồn năng lượng,…cho các ngành sản xuất dịch vụ và nhu cầu tiêu dùng của toàn xã hội

Vì thế, bản thân là giáo viên giảng dạy môn công nghệ 8, tôi cần lựa chọn những phương pháp dạy học nào phù hợp nhất để giúp các em lĩnh hội tốt một số kiến thức,

kỹ năng cơ bản về kỹ thuật công nghiệp nhằm tạo mầm xanh thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế nhanh chóng Ngoài ra, nó còn góp phần hướng nghiệp cho các em sau khi tốt nghiệp THCS Một bộ phận sẽ vào học các lĩnh vực như giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, số còn lại sẽ đi vào cuộc sống lao động Trên tinh thần đó, môn công nghệ 8 cần trang bị cho học sinh một số kiến thức cơ bản về vẽ kĩ thuật, cơ khí, kĩ thuật điện, gắn liền với thực tiễn sản xuất và đời sống hằng ngày, nhằm hình thành cho các

em một số kĩ năng lao động nghề nghiệp Trong quá trình giảng dạy môn công nghệ 8 tôi đã hình thành cho các em tác phong làm việc theo qui trình công nghệ Mục đích của môn công nghệ ở lớp 8 là giúp học sinh bước đầu tìm hiểu, làm quen với một số qui trình công nghệ đơn giản của cơ khí và kĩ thuật điện, rèn luyện cho học sinh “Tư duy kĩ thuật”, hình thành tác phong công nghiệp trong lao động và trong cuộc sống, tạo cho các em hứng thú kĩ thuật, có thói quen lao động theo kế hoạch, tuân thủ qui trình công nghệ, an toàn lao động và bảo vệ môi trường, để góp phần ứng phó với biến đổi khí hậu

2 Cơ sở thực tiễn

Trong công tác giảng dạy, mỗi bài học có những phương pháp dạy học khác nhau, việc lựa chọn các phương pháp dạy học phù hợp cho từng bài, từng loại kiến thức, từng đối tượng học sinh và điều kiện thực tiễn của trường là rất quan trọng nhưng việc vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học còn gặp nhiều khó khăn

Hiện nay, bộ môn công nghệ ở trường trung học cơ sở vẫn còn xem là môn phụ, cho nên học sinh không có lòng đam mê, hứng thú với môn học vì nó quá khô khan không hấp dẫn, ít có sự ràng buộc như các môn khác như Toán học, Văn hoc, Vật lí,

Nhưng thực tế, bộ môn công nghệ mang tính thực tiễn cao, kiến thức gần gũi với cuộc sống, học sinh có thể vận dụng ngay vào cuộc sống sau khi đã được học Do đó,

là giáo viên giảng dạy môn công nghệ, tôi nhận thấy phải khai thác tối đa môn học này, phải làm cho học sinh cảm thấy hứng thú và yêu thích môn học, vận dụng kiến thức đã học vào thực tế sinh động của cuộc sống

Trang 3

Mặt khác, trong thực tế giảng dạy môn công nghệ 8 cho thấy nội dung của từng bài khá dài, có quá nhiều kiến thức cần truyền tải đến học sinh, học sinh cần phải quan sát tranh vẽ, mô hình để suy luận tìm ra kiến thức mới, đồng thời cần liên hệ thực tế nhằm

mở rộng kiến thức để học sinh hiểu sâu hơn và kích thích sự hứng thú của học sinh Để các đối tượng học sinh trung bình, yếu kém nắm được nội dung bài thì mất khá nhiều thời gian, thường xuyên giảng dạy bị “Cháy giáo án” Vì thế trong quá trình giảng dạy môn công nghệ 8 tôi thường “Tận dụng hết khoảng thời gian cho từng hoạt động lên lớp” thông qua việc chế tạo, sử dụng thiết bị, huy động được nhiều giác quan của học sinh để học sinh có thể tiếp thu được nhiều kiến thức trong cùng một khoảng thời gian ngắn Là một giáo viên được đào tạo theo chuyên ngành Công nghệ sau nhiều năm công tác tại trường THCS Tứ Yên, trực tiếp giảng dạy môn Công Nghệ 8 Bản thân tôi luôn trăn trở với việc làm như thế nào để học sinh hứng thú với môn học này và nâng cao chất lượng môn học, phục vụ tốt hơn cho cuộc sống tương lai của học sinh Từ những lý do trên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học ở bộ môn công nghệ 8”

II Mục đích

Tạo cho học sinh hứng thú với môn học và nâng cao chất lượng môn Công nghệ 8, phục vụ tốt hơn cho cuộc sống tương lai của học sinh

Nâng cao hiệu quả trong quá trình dạy môn công nghệ là một vấn đề luôn được sự quan tâm của nhiều giáo viên khi giảng dạy môn công nghệ ở lớp 8, đây là một vấn đề

đã được sự quan tâm nghiên cứu từ lâu nhưng thực tế hiệu quả giảng dạy môn này vẫn chưa cao vì vậy tôi đã tiếp tục nghiên cứu đề tài: “Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học ở bộ môn công nghệ 8”

III Phạm vi và đối tượng nghiên cứu

1 Phạm vi

Do thời gian có hạn tôi chỉ đề cập đến một khía cạnh nhỏ là “Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học ở bộ môn công nghệ 8”, cụ thể bài dạy:

“Tiết 43 bài 48: Sử dụng hợp lí điện năng”

2 Đối tượng nghiên cứu

- Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học ở bộ môn công nghệ 8

- Học sinh khối lớp 8, Trường THCS Tứ Yên

B GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

I Đặc điểm tình hình

1 Những mặt thuận lợi

- Được sự quan tâm sâu sát và chỉ đạo trực tiếp của Ban giám hiệu và các đoàn thể nhà trường, tạo điều kiện thuận lợi cho việc dạy của giáo viên và học của học sinh

Trang 4

- Thầy, trò rất nhiệt tình trong công tác dạy và học.

2 Những mặt khó khăn và tồn tại

* Về khách quan.

- Thiết bị chưa đảm bảo chất lượng, nên ảnh hưởng đến việc dạy của giáo viên và nhận thức của học sinh

* Về chủ quan

- Không đủ thời gian để làm nhiều thiết bị dạy học mới

- Sử dụng các phương pháp dạy học chưa phù hợp với đặc trưng của môn học hoặc các kiểu bài lên lớp

* Về phía học sinh.

- Đa số học sinh gia đình làm nông nghiệp nên sự quan tâm của gia đình tới HS sinh không nhiều nên kết quả học tập học sinh chưa cao

- Chưa tập trung quan sát, chưa tích cực hoạt động

- Học sinh chưa ý thức nghiên cứu bài mới trước khi đến lớp

- Học sinh không dám phát biểu do tính nhút nhát

- Các em vẫn còn có thói quen học theo phương pháp cũ, học vẹt, chỉ ngồi nghe giáo viên giảng sau đó về nhà học thuộc lòng

- Chưa chuẩn bị tư thế khi phát biểu xây dựng bài làm mất nhiều thời gian

- Trình độ của học sinh không đồng đều, có em giỏi, có em khá, có em trung bình,

có em quá yếu nên giáo viên chỉ hướng dẫn ở cấp độ trung bình khá, như vậy các em giỏi dễ bị nhàm chán trong học tập, các em yếu thì không theo kịp nội dung bài giảng,

II Một số phương pháp dạy học trong giảng dạy môn công nghệ 8

Cũng như bao môn học khác, có nhiều phương pháp dạy học để truyền thụ kiến thức cho học sinh Tuy nhiên, giáo viên không thể áp dụng theo một phương pháp nhất định, để học sinh tiếp thu tốt các kiến thức thì giáo viên cần phải lựa chọn, vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học thích hợp với từng kiểu bài, thiết bị dạy học, tình hình thực tế của nhà trường và phù hợp với đối tượng học sinh,…

Đối với môn công nghệ 8, thường được áp dụng các phương pháp như sau:

Trang 5

1 Phương pháp gợi mở- vấn đáp (đàm thoại).

Là quá trình tương tác giữa GV và HS, được thực hiện qua hệ thống câu hỏi và câu trả lời tương ứng về một chủ đề nhất định

Quy trình thực hiện:

Trước giờ học:

- Bước 1: Xác định mục tiêu bài học và đối tượng dạy học Xác định các đơn vị kiến thức kỹ năng cơ bản trong bài học và tìm cách diễn đạt các nội dung này dưới dạng câu hỏi gợi ý, dẫn dắt HS.

Trang 6

- Bước 2: Dự kiến nội dung các câu hỏi, hình thức hỏi, thời điểm đặt câu hỏi, trình tự của các câu hỏi Dự kiến nội dung các câu trả lời của HS, các câu nhận xét hoặc trả lời của GV đối với HS.

- Bước 3: Dự kiến những câu hỏi phụ để tuỳ tình hình từng đối tượng cụ thể mà tiếp tục gợi ý, dẫn dắt HS.

Trong giờ học:

- Bước 4: GV sử dụng hệ thống câu hỏi dự kiến (phù hợp với trình độ nhận thức của từng loại đối tượng HS) trong tiến trình bài dạy và chú ý thu thập thông tin phản hồi từ phía HS.

Sau giờ học:

Giáo viên chú ý rút kinh nghiệm về tính rõ ràng, chính xác và trật tự logic của hệ thống câu hỏi đã được sử dụng trong giờ dạy để rút kinh nghiệm cho các tiết học sau

Ưu điểm- Hạn chế của PP gợi mở – vấn đáp :

Ưu điểm:

- Là cách thức tốt để kích thích tư duy độc lập của HS, dạy HS cách tự suy nghĩ đúng đắn

- Lôi cuốn HS tham gia vào bài học, làm cho không khí lớp học sôi nổi, kích thích hứng thú học tập và lòng tự tin của HS, rèn luyện cho HS năng lực diễn đạt

- Tạo môi trường để HS giúp đỡ nhau trong học tập

- Duy trì sự chú ý của HS; Giúp kiểm soát hành vi của HS và quản lý lớp học

Hạn chế:

- Khó soạn thảo và sử dụng hệ thống câu hỏi gợi mở và dẫn dắt HS theo một chủ

đề nhất quán

- Giáo viên phải có sự chuẩn bị rất công phu, nếu không kiến thức mà HS thu nhận thiếu tính hệ thống, tản mạn, thậm chí vụn vặt

Một số lưu ý khi sử dụng phương pháp:

Giáo viên không trực tiếp đưa ra những kiến thức hoàn chỉnh mà hướng dẫn HS

tư duy từng bước để tự tìm ra kiến thức mới Câu hỏi phải có nội dung chính xác, rõ ràng, sát với mục đích, yêu cầu của bài học.Tránh tình trạng đặt câu hỏi không rõ mục đích, đặt câu hỏi mà HS dễ dàng trả lời có hoặc không

Câu hỏi phải sát với từng loại đối tượng học sinh, nếu không nắm chắc trình độ của học sinh thì sẽ đặt câu hỏi không phù hợp Vì thế khi dạy không nên bám sát giáo

án mà cần uyển chuyển cho phù hợp Cụ thể:

Loại câu hỏi có yêu cầu thấp, đòi hỏi khả năng tái hiện kiến thức, nhớ lại và trình bày lại điều đã học nên gọi những học sinh trung bình, yếu hoăc kém để tạo điều kiện

Trang 7

cho các em biểu hiện khả năng của chính mình đồng thời kích thích sự hăng say học tập của các em.

Loại câu hỏi có yêu cầu cao đòi hỏi sự thông hiểu, kỹ năng phân tích, tổng hợp,

so sánh…, thể hiện được các khái niệm, định lý nên gọi những em khá, giỏi để tránh nhàm chán,…

Học sinh phải trả lời cụ thể, đầy đủ theo yêu cầu nội dung câu hỏi Nếu học sinh trả lời thừa sẽ ảnh hưởng đến các câu sau dẫn đến học sinh không nắm vững nội dung của bài học.

Cùng một nội dung học tập, với cùng một mục đích như nhau, GV có thể sử dụng nhiều dạng câu hỏi với nhiều hình thức hỏi khác nhau Bên cạnh những câu hỏi chính cần chuẩn bị những câu hỏi phụ.

Hệ thống câu hỏi phải lôi cuốn học sinh vào tình huống có vấn đề để tìm cách giải quyết vấn đề nhằm kích thích các em say mê nghiên cứu khoa học.

2 Phương pháp dạy học giải quyết vấn đề.

Dựa vào mục tiêu của bài, giáo viên đưa ra một số tình huống có vấn đề như:

Dự đoán nhờ nhận xét trực quan, thực hành hoặc hoạt động thực tiễn; Lật ngược vấn đề; Xét tương tự; Khái quát hoá; Khai thác kiến thức cũ; Đặt vấn đề dẫn đến kiến thức mới; Giải bài tập mà chưa biết thuật giải trực tiếp, tìm sai lầm trong lời giải, phát hiện nguyên nhân sai lầm và sửa chữa sai lầm Tuỳ thuộc vào đặc điểm của môn học, bài học, vào đối tượng HS và hoàn cảnh cụ thể mà đưa ra các tình huống thích hợp Không nên yêu cầu HS tự khám phá tất cả các tri thức qui định trong chương trình Có thể có

sự giúp đỡ của GV với mức độ nhiều ít khác nhau HS được học không chỉ kết quả mà điều quan trọng hơn là cả quá trình phát hiện và giải quyết vấn đề Học sinh tìm tòi giải quyết được một số tình huống có vấn đề đó nhằm phát triển năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề của học sinh, tạo ra những hoạt động phong phú, hấp dẫn, nhằm khơi dậy hứng thú, lòng ham học tập, tìm tòi, kích thích tư duy sáng tạo của học sinh Để áp dụng được phương pháp này thì cả thầy và trò phải đảm bảo các yêu cầu sau:

- Người thầy phải có kiến thức sâu rộng, xác định được bản chất và trọng tâm của vấn đề, chuẩn bị tốt các điều kiện dạy học cụ thể, từ đó có thể lấy các tình huống xảy ra khi đang giảng dạy sẽ thu hút học sinh hơn

- Trò phải tập trung chú ý, có hứng thú học tập, có nhu cầu học tập, có trình độ, năng lực tiếp thu bài nhất định

3 Phương pháp trực quan.

- Giáo viên treo những đồ dùng trực quan hoặc giới thiệu về các vật dụng thí nghiệm, các thiết bị kỹ thuật…Nêu yêu cầu định hướng cho sự quan sát của HS

- Giáo viên trình bày các nội dung trong lược đồ, sơ đồ, bản đồ… tiến hành làm thí nghiệm, trình chiếu các thiết bị kỹ thuật, phim đèn chiếu, phim điện ảnh…

Trang 8

- Yêu cầu HS trình bày lại, giải thích nội dung sơ đồ, biểu đồ, trình bày những gì thu nhận được qua thí nghiệm hoặc qua những phương tiện kỹ thuật, phim đèn chiếu, phim điện ảnh

- Từ những chi tiết, thông tin HS thu được từ phương tiện trực quan, GV nêu câu hỏi yêu cầu HS rút ra kết luận khái quát về vấn đề mà phương tiện trực quan cần chuyền tải

Ưu nhược điểm của phương pháp trực quan:

- Nguyên tắc trực quan là một trong

những nguyên tắc cơ bản của lí luận

dạy học.

- Đồ dùng trực quan là chỗ dựa để

hiểu sâu sắc bản chất kiến thức.

- Đồ dùng trực quan có vai trò rất lớn

trong việc giúp HS nhớ kĩ, hiểu sâu

kiến thức

- Phát triển khả năng quan sát, trí

tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ của

HS

- PP này đòi hỏi nhiều thời gian.

- Nếu sử dụng đồ dùng trực quan không khéo sẽ làm phân tán chú ý của

HS, HS không lĩnh hội được những nội dung chính của bài học.

- Nếu giáo viên Không định hướng cho

HS quan sát sẽ dẫn đến tình trạngHS

sa đà vào những chi tiết nhỏ lẻ, không quan trọng

Một số lưu ý khi sử dụng phương pháp trực quan:

- Từng động tác và cử chỉ của giáo viên cũng là một phương tiện trực quan, vì thế giáo viên cần kết hợp các động tác giảng dạy của mình phù hợp với nội dung cần truyền đạt

- Phải căn cứ vào nội dung, yêu cầu GD của bài học để lựa chọn đồ dùng trực quan tương ứng thích hợp

- Có PP thích hợp đối với việc sử dụng mỗi loại đồ dùng trực quan

- HS phải quan sát đầy đủ đồ dùng trực quan Phát huy tính tích cực của HS khi sử dụng đồ dùng trực quan

- Đảm bảo kết hợp lời nói sinh động với việc trình bày các đồ dùng trực quan

- Tuỳ theo yêu cầu của bài học và loại hình đồ dùng trực quan mà có các cách sử dụng khác nhau

- Cần xác định đúng thời điểm để đưa đồ dùng trực quan, và cất đồ dùng trực quan khi không sử dụng

- Sử dụng các đồ dùng trực quan cần theo một quy trình hợp lý Cần chuẩn bị câu hỏi hệ thống câu hỏi dẫn dắt HS quan sát và tự khai thác kiến thức

- Cần chú ý tận dụng thời gian đặt câu hỏi hoặc định hướng quan sát trong khi trình bày đồ dùng trực quan hoặc chốt lại nội dung chính cần truyền tải đến học sinh trong khi thu dọn đồ dùng trực quan Hoặc làm bảng phụ sao cho học sinh có thể ghi câu trả

Trang 9

lời ngay trên đó mà có thể bôi xoá được để sử dụng cho các tiết khác và có đáp án để đối chiếu với kết quả của học sinh nhằm tiết kiệm thời gian

4 Phương pháp thảo luận.

Giáo viên chuẩn bị một hoặc vài câu hỏi, bản vẽ hoặc vấn đề nào đó cho học sinh thảo luận theo tổ, theo nhóm, thảo luận cặp để hoàn thành

Quy trình thực hiện:

Bước 1: Làm việc chung cả lớp.

- Nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức.

- Tổ chức các nhóm, giao nhiệm vụ cho các nhóm.

- Hướng dẫn cách làm việc theo nhóm.

Bước 2: Làm việc theo nhóm.

- Phân công trong nhóm, từng cá nhân làm việc độc lập

- Trao đổi ý kiến, thảo luận trong nhóm

- Cử đại diện trình bày kết quả làm việc của nhóm.

Bước 3: Thảo luận, tổng kết trước toàn lớp.

- Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả.

- Thảo luận chung.

- GV tổng kết, đặt vấn đề cho bài tiếp theo hoặc vấn đề tiếp theo.

Ưu nhược điểm của phương pháp thảo luận :

- HS được học cách cộng tác trên nhiều

phương tiện

- HS được trao đổi, bàn luận

- Kiến thức trở nên sâu sắc, bền vững,

dễ nhớ

- HS tự tin, hứng thú trong học tập và

sinh hoạt

- Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hợp tác

của HS được phát triển

- Nếu không phân công hợp lí, chỉ có một số học sinh khá tham gia còn số HS khác không HĐ

- Ý kiến các nhóm có thể quá phân tán hoặc mâu thuẫn với nhau

- Thời gian có thể bị kéo dài

- Với những lớp có sĩ số đông thì khó tổ chức hoạt động nhóm

- Khi tranh luận dễ dẫn tới ồn ào

 Một số lưu ý:

 Chỉ những hoạt động đòi hỏi sự phối hợp của các cá nhân để nhiệm vụ hoàn thành

nhanh chóng hơn, hiệu quả hơn hoạt động cá nhân mới nên sử dụng phương pháp này.

 Tạo điều kiện để các nhóm tự đánh giá lẫn nhau hoặc cả lớp cùng đánh giá.

 Không nên lạm dụng hoạt động nhóm và cần đề phòng xu hướng hình thức (tránh lối

suy nghĩ: đổi mới PPDH là phải sử dụng hoạt động nhóm).

 Tuỳ theo từng nhiệm vụ học tập mà sử dụng hình thức HS làm việc cá nhân hoặc hoạt

động nhóm cho phù hợp.

Trang 10

 Để tận dụng thời gian thì giáo viên cần chuẩn bị sẵn phiếu học tập.

5 Phương pháp luyện tập thực hành:

Ưu và nhược điểm của phương pháp luyện tập và thực hành:

- Là phương pháp có hiệu quả dễ mở

rộng sự liên tưởng và phát triển kĩ năng

- Luyện tập và thực hành có hiệu quả

trong việc củng cố trí nhớ, tinh lọc và

trau dồi các kỹ năng đã học, tạo cơ sở

cho việc xây dựng kỹ năng nhận thức ở

mức độ cao hơn

- Là PP dễ thực hiện và được thực hiện

trong hầu hết các giờ học như môn

Toán,Thể dục, Âm nhạc, Anh văn,

Công nghệ, Hoá học

- Dễ làm cho HS nhàm chán nếu GV không nêu mục đích một cách rõ ràng

và có sự khuyến khích cao Dễ tạo tâm

lí phụ thuộc vào mẫu, hạn chế sự sáng tạo

- Do bản chất của việc nhắc đi nhắc lại nên HS khó có thể đạt được sự lanh lợi

và tập trung, dễ tạo nên học vẹt, đặc biệt

là khi chưa xây dựng được sự hiểu biết ban đầu đầy đủ

 Một số lưu ý khi sử dụng phương pháp luyện tập, thực hành:

 Các bài tập luyện tập được nhắc đi nhắc lại ngày càng khắt khe hơn, nhanh hơn và

áp lực lên HS cũng mạnh hơn Tuy nhiên áp lực không nên quá cao mà chỉ vừa đủ để khuyến khích HS làm bài chịu khó hơn

 Thời gian cho luyện tập, thực hành cũng không nên kéo dài quá dễ gây nên sự nhạt nhẽo và nhàm chán

Xác định tài liệu cho luyện tập và thực hành

Thực hành hoặc luyện tập sơ bộ Giới thiệu mô hình luyện tập hoặc thực hành

Bài tập cá nhân

Bài tập cá nhân Thực hành đa dạng

Ngày đăng: 22/05/2019, 14:30

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w