1. Trang chủ
  2. » Giáo án - Bài giảng

cau hoi TN va TL 11

132 1,9K 30
Tài liệu đã được kiểm tra trùng lặp

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 132
Dung lượng 0,93 MB

Nội dung

Câu thứ ba không chỉ đơn giản xác nhận sự có mặt của nhân vật trừ tình ở trên đời mà có hàm chứa một tâm niệm: ta hiện diện không phải như một sự kiện ngẫu nhiên, vô ích vì vậy, ta phải

Trang 1

LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG

PHẦN TRẮC NGHIỆM

Câu 1: Biệt hiệu nào sau đây không phải của nhà thơ Phan Bội Châu?

Câu 3: Vì sao Phan Bội Châu còn được gọi là "ông già Bến Ngự"?

A Vì ông bị bắt giam và mất ở đấy

B Vì ông sống nhiều ở đấy

C Vì ông hoạt động cách mạng chủ yếu ở đấy

D Vì ông rất nặng tình nghĩa với nơi ấy

Câu 4: Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương được sáng tác vào năm nào?

A 1903

B 1904

C 1905

D 1906

Câu 5: Nét tiến bộ trong "chí làm trai" của Phan Bội Châu là gì?

A Từ bỏ con đường quan quyền

B Nổi tiếng để được lưu danh thiên cổ

C Không màng đến việc học hành theo kiểu Nho giáo

D Thấy rõ trách nhiệm của mình với cộng đồng, với đất nước

Bảng đáp án:

Trang 2

Nghệ An Cha là Phan Văn Phổ một nhà nho không đỗ đạt, sống bằng nghề : “lấy nghiên làm ruộng, lấy bút làm cày” Mẹ là Nguyễn Thị Nhàn cũng là con nhà nho, một người mẫn tiệp và

đôn hậu Phan Bội Châu từ nhỏ đã nổi tiếng thần đồng: khoảng bốn, năm tuổi đã thuộc lòng mấy thiên “Chu Nam” trong kinh thi qua tiếng ru của mẹ Sáu tuổi bắt đầu đi học chữ Hán, học sách

“Tam tự kinh” (kinh 3 chữ) chỉ vài ba ngày Tám tuổi đã biết làm văn bài và đậu đầu một số kì thi hạch ở xã, ở huyện Mười ba tuổi thành thạo các thể văn cử tử : thơ, phù, binh nghĩa

Mặt khác, Phan Bội Châu là người được nuôi lớn từ nhỏ trong không khí sôi sụt chống pháp của cả nước, đặc biệt là vùng Nghệ – Tĩnh, sống có tinh thần yêu nước Năm 17 tuổi, nghe tin ở Bắc

kì phong trào Cần Vương “nổi dậy như ong” liền nửa đêm viết hịch Bình Tây thu Bắc đem dán ở

cây to bên đường các lời lẽ rất thống thiết Năm 19 tuổi nghe tin vua phát hịch Cần Vương, cùng bạn thân là Trần văn Lương thành lập sĩ tử Cần Vương , đội bị giặc khủng bố, nghĩa quân tan rả.Năm 1901 mưu cuộc đánh chiếm thành Vinh nhân ngày quốc khánh của Pháp nhưng không thành Năm 1904 vận động thành lập Hội Duy Tân Năm 1905 bí mật sang Trung Hoa, rồi Nhật Bản, phát động phong trào Đông Du,… con đường cứu nước của Phan Bội Châu đã đi qua nhiều khuynh hướng hính trị phản ánh quy luật của lịch sử đấu tranh dân tộc

Riêng con đường văn chương, Phan Bội Châu là người có tài năng lỗi lạc nhưng ông không hề lấy văn chương làm lẽ sống Có điều, trên bước đường cachs mạng thấy văn chương là vũ khí đắc lực thì Phan Bội Châu sáng tác và sáng tác một cách tự giác, say sưa, không mệt mỏi, có thể chia sự nghiệp sáng tác của Phan Bội Châu làm ba thời kì :khi còn trong nước, lúc ở nước ngoài, lúc bị bắt về nước

Văn chương của ông là tiếng nói kết tinh được những tư tưởng, tình cảm , ý chí của dân tộc, của thời đại Trong văn chương Phan Bội Châu có tiếng thét căm hờn dữ dội và những bản cáo trạng hùng hồn, đanh thép về tội ác của thực dân cướp nước và phong kiến tay sai… Phan Bội Châu đã đưa đến cho lịch sử văn học dân tộc nhiều mẫu văn chương tuyên truyền, cổ vũ chiến đấu Ở

đây, con người chiến sĩ và con người nghệ sĩ là một Các tác phẩm chính : Bái thạch vi huynh phú (1897) Việt Nam phong quốc sử (1905) Hải ngoại huyết thư (1906) Ngục trung thư (1914), Trùng quang tâm sử (1921-1925), Văn tế Phan Châu Trinh (1926), Phan Bội Châu niên biểu (1937- 1940) Phan Sào Nam tiên sinh, quốc văn thi tập…

Câu 2: Hãy nêu hoàn cảnh ra đời bài thơ Lưu biệt khi xuất dương?

nghiệp khôi phục giang sơn Phong trào Đông Du được nhóm lên cùng với bao hy vọng… Lưu biệt khi xuất dương được viết ra trong bữa cơm ngày tết mà Phan Bội Châu tổ chức tại nhà mình để

chia tay các đồng chí trước khi lên đường

Câu 3: Giải nghĩa bốn câu đầu của bài thơ và làm rõ ý thức sứ mệnh, hoài bão của nhân vật trữ

tình – người thanh niên trước thời cuộc?

Trả lời:

Trang 3

Bốn câu đầu của bài thơ nhắc lại quan niệm về “chí làm trai” của các nhà nho xưa với tinh thần

khẳng định Theo đó, khát vọng làm những việc lớn của nhân vật trữ tình cũng được thể hiện một cách sâu sắc Câu thứ nhất đã được bản dịch nghĩa làm rõ ý Câu thứ hai có thể được thể hiện một lời tự nhắc nhở, một phản vấn: lẽ nào để trời đất tự vần xoay tới đầu thì tới mà mình là kẻ đứng ngoài, vô can? Câu thứ ba không chỉ đơn giản xác nhận sự có mặt của nhân vật trừ tình

ở trên đời mà có hàm chứa một tâm niệm: ta hiện diện không phải như một sự kiện ngẫu nhiên, vô ích vì vậy, ta phải làm được một việc gì đó có ý nghĩa cho đời Câu thứ tư có tài liệu dịch

nghĩa: Còn như chuyện ngàn năm sau thì có người sắp tới Có thể nói rõ ý hơn là: Ngàn năm sau

lẽ nào chẳng có người nối tiếp công việc của người trước? Như vậy, hai câu 3 – 4 cho thấy rõ cái tôi đầy trách nhiệm của nhà thơ: thấy việc không thể không làm, không ỷ lại cho ai Hơn thế, cái tôi ấy thấy rõ lịch sử là một dòng chảy liên tục, có sự góp mặt, sự tham gia gánh vác công việc của nhiều thế hệ

Hai từ hi kì (hiếm, lạ, khác thường) ở câu 1 cần được hiểu như những từ nói về tình chất lớn lao,

trong đại, kỳ vĩ của công việc mà kẻ làm trai phải gánh vác Trước Phan Bội Châu, đã có nhiều

người phát biểu về vấn đề này trong thơ: “Bay thẳng cánh muôn trùng tiêu hán – Phá vòng vây bạn với kim ô” (chim trong lồng – Nguyễn Hữu Cầu); “Đã mang tiếng ở trời đất – Phải có danh

gì với núi sông” (Đi thi tự vịnh – Nguyễn Công Trứ); “Chí làm trai nam bắc tây đông – Cho chỉ sức vẩy vùng trong bốn bể” (Chí khí anh hùng – Nguyễn Công Trứ), … từ lạ trong bản dịch thơ rõ ràng chưa thể hiện được hết ý tứ của hai từ hi kì trong nguyên tác.

Câu 4: Tìm những từ ngữ trong hai câu 5 - 6 thể hiện thái độ quyết liệt và tình cảm đau đớn của

nhà thơ trước thực trang đất nước Riền trong câu 6, nhân vật trữ tình đã bày tỏ thái độ như thế nào đối với nền tư tưởng, học vấn cũ của nước nhà?

Trả lời:

Từ ngữ thể hiện thái độ quyết liệt và tình cảm đau đớn của nhà thơ trước thực trạng đất nước: tử

hĩ (đã chết), nhuế (nhục), si (ngu)

Thái độ của nhân vật trữ tình đối với nềng học vấn cũ là thái độ chối bỏ đầy tinh thần cách mạng Phải biết đặt bài thơ vào hoàn cảnh ra đời của nó ta mới có thể hiểu sâu sắc nguyên nhân của thái độ này Mang trong lòng ý chí giải phóng dân tộc cùng nỗi nhục mất nước, lại chịu ảnh hưởng của Tân thư (sách báo tuyên truyền cho tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây, tư tưởng cải cách xã hội theo mô hình Âu – Mĩ, … được dịch qua học được viết bằng hán văn, đưa tới từ Trung Quốc), Phan Bội Châu nhìn thấy sự vô ích của cái học, kiểu học cũ trước những đòi hỏi mới của đất nước, thời đại Ông thực sự dè bỉu kiểu ứng xử “nhắm mắt làm ngơ” trước thực tại, chỉ biết tụng niệm giáo lí “thánh hiền” trong khi linh hồn của nó thì đã tiêu vọng tự đời nào

Trước đây, Nguyễn Khuyến từng than: “Sách vở ích gì cho đuổi ấy – Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già” (Ngày xuân dặn các con) Câu thơ đầy chiêm nghiệm, có niềm tủi thẹn và thoáng nghi ngờ

về tính hữu dụng của cái học từ chương “nhai văn nhá chữ” trong bối cảnh đất nước đã lọt vào tay giặc (mà nhà thơ gọi bóng gió là ngày loạn) Với Phan Bội Châu, thái độ không dừng ở mức nghi ngờ Tình thế đất nước vào buổi ông lên đường đã khác nhiều, hơn nữa, với cá tính mạng mẽ của một con người ưu hành động, tràn đây nhiệt huyết, ông đã đưa vào bài thơ của mình từ đầy cảm hứng phủ định, tật quyết liệt và rất gây ấn tượng Phải nói rằng với những từ dùng mạnh bạo như thế, thơ ông có khả năng tác động tới độc giả rất sâu sắc Đằng sau sự hấp dẫn

của cách nói là sự hấp dẫn của cốt cách một con người! Các từ nhục, hoài trong bản dịch thơ chưa thực sự truyền lại đầy đủ khí lực dồi vào của các từ đồ nhuế, si trong nguyên tác.

Câu 5: Hai câu thơ 7 – 8 thể hiện mong muốn gì của tác giả? Dựa theo bản dịchnghĩa, hãy phân tích vẻ đẹp hào hùng của hình tượng Muôn lớp sóng bạc cùng bay theo?

Trả lời

Trang 4

Với câu cuối cùng của bài thơ, bản dịch không hoàn toàn bám sát ý nguyên tác, đã chuyển một khát vọng, một dự cảm, một liên tưởng bất chợt, một hình ảnh giàu tính biểu tượng thành sự tường thuật – miêu tả thực tế, do vậy, chưa truyền đạt được phong độ hào hùng, niềm hăm hở dấn thân cùng trí tưởng tượng bay bổng của nhà thơ Tâm thế cùng tư thế của nhân vật trữ tình lúc này là muốn lao ngay vào một trường hoạt động mới mẻ, sôi động; bay lên làm quẩy sóng đại dương hay bay lên cùng những đợt sóng trào sôi vừa thoáng hiện trong tâm tưởng.

Câu 6: Tìm hiểu các nguyên nhân khiến bài thơ có được sức lôi cuốn mạnh mẽ đối với thế hệ

thanh niên yêu nước đầu thế kỷ XX?

Đây là bài thơ từ biệt mà cũng là bài thơ mời gọi lên đường Nó hoàn toàn tương xứng với tầm vóc của một con người được cả dân tộc ngưỡng vọng và tin tưởng vào thời điểm lịch sử khi đó

Câu 8: “Chí làm trai” đã được nhân vật trữ tình khẳng định dựa trên những cơ sở nào? Nêu nét

tương đồng và khác biệt trong quan niệm về “chí làm trai” giữa bài thơ Lưu biệt khi xuất dương

của Phan Bội Châu với một số tác phẩm thơ thời trung đại đã được học?

Trả lời:

Chí làm trai đã được nhân vật trữ tình khẳng định trên cơ sở:

- Nhận thấy nó phù hợp với khát vọng khẳng định cái tôi cá nhân giữa cuộc đời

- Nhận thấy nó phù hợp với yêu cầu của đất nước, của thời cuộc về một thế hệ thanh biên biết

“Xúm vai vào xốc vác cựu giang san”, khôi phục lại chủ quyền dân tộc đã mất.

- Nhận thấy nó là điều kiện cần thiết để kéo những kẻ còn bị cầm tù bởi nền học vấn cũ ra khỏi cơn mê để tìm hướng đi mới cho lịch sử

- Quan niệm về “chí làm trai” của Phan Bội Châu về cơ bản vẫn nằm trong vòng ý thức hệ nha

gia Nó thật gần gũi với những điều đã được phát biểu trong các bài thơ của Phạm Ngũ Lão, đặng Dung, Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Công Trứ, … Nó cũng gắn liền với mấy chữ “công danh”, mà các bậc chính nhân quân tử xưa vẫn ao ước tạo dựng Mặc dù vậy, không thể không nhận

Trang 5

yếu nhờ sự nhạy cảm của chính nàh thơ trước những đòi hỏi mới của đất nước, của thời đại Đối với Phan Bội Châu, chuyện lưu danh thiên cổ của một cá nhân chưa phải là mục đích tối hậu Đích nhắm đến của ông là khôi phục chủ quyền của đất nước Kẻ làm trai, trước hết phải thấy rõ trách nhiệm của mình với cộng đồng, thấy việc không thể không làm , không cần phải băn

khoăn nhiều về khả năng về sự nghiệp bị bỏ dở dang, bởi “Sau này muôn thuở há không ai?”

Điều quan trọng là phải biết dứt khoát từ bỏ cái học từ chương, sách vở đã trở thành một lực cản trên đường đi của kẻ mang hoài bão cứu dân, cứu nước Xét ở mức độ nào đó, quan niệm về “chí làm trai” của Phan Bội Châu đã có phần vượt lên quan niệm cũ từng được khẳng định trong suốt đời trung A1

HẦU TRỜI PHẦN TRẮC NGHIỆM

Câu 1: Vì sao nhà thơ lại lấy bút danh là Tản Đà?

A Nhà thơ lấy tên của quê mình

B Nhà thơ ghép tên của cha và mẹ mình

C Nhà thơ lấy tên của một ngọn núi và con sông quê mình ghép lại

D Nhà thơ chọn ngẫu nhiên vì thấy nó hay!

Câu 2: "Hầu Trời" nằm trong tập thơ nào của Tản Đà?

D Đàn bà Tàu

Bảng đáp án:

Trang 6

Tản Đà thuộc dòng dõi khoa bảng, từng theo đòi con đường cử nghiệp nhưng thi Hương hai lần đều không đẫ Ông chuyển sang viết báo, viết văn, làm thơ và trở thành một trong những người Việt Nam đầu tiên sinh sống bằng nghề viết văn, xuất bản

Tản Đà từng ôm mộng cải cách xã hội theo con đường hợp pháp, dùng báo chí làm phương tiện Oâng là con người có tính cách phóng túng, ông đi đ1o đi đây rất nhiều, nếm đủ múi cay đắng ngọt bùi, vinh nhục ở đời Tuy nhiên, trước sau Tản Đà vẫn giữ cốt cách nhà nho và phẩm chất trong sạch Ông mất tại Hà Nội trong một cảnh nghèo túng bần hàn

Tản Đà là người đi tiên phong ở nhiều lĩnh vực văn hoá, là một cây bút tiêu biểu của nền văn học Việt Nam giai đoạn giao thời, có thành tựu trên nhiều thể loại nhưng tản Đà thực sự thành công với thơ Ông đã đặt được dấu gạch nối giữa nền văn học truyền thống và văn học hiện đại

Tản Đà đã để lại khá nhiều tác phẩm Về thơ, tiêu biểu là Khối tình con I (1916); Khối tình con

II (1918); Khối tình con III (1932); Còn chơi (1921); Thơ Tản Đà (1925) Về văn xuôi, Giấc mộng lớn (1928); Giấc mộng con I (1916) Giấc mộng con II (1932); Tản Đà văn tập (1932) Ngoài ra, tản Đà còn chú giải Truyện Kiều, dịch Kinh Thi, thơ Đường, Liêu Trai chí dị và soạn một số vở tuồng như Tây Thi, Thiên Thai

Bài thơ "Hầu Trời" đưa vào sách lần đầu trong tập Còn chơi (1921), gồm tất cả 120 câu Trong Tuyển tập Tản Đà, bài thơ chỉ còn 114 câu.

Câu 2 : Thuật lại chuyện “Hầu trời” của Tản Đà trong bài thơ và làm rõ tài hư cấu của tác giả

(chú ý phân tích cách tạo tình huống, chọn chi tiết, dựng đối thoại, bố trí các cảnh, miêu tả tâm lí

đa dạng của nhân vật )

Trả lời:

Tóm tắt chuyện:

- Lí do cùng thời điểm được “gọi lên” hầu Trời

- Cuộc đọc thơ đầy “đắc ý” cho Trời và chư tiên nghe giữa chốn “thiên môn đế khuyết”

- Trần tình với Trời về tình cảnh khốn khó của kẻ theo đuổi nghề văn và thực hành “thiên lương” ở hạ giới

- Cuộc chia tay đầy xúc động giữa trời và chư tiên

Tình huống truyện bắt đầu từ tiếng ngâm thơ “vang cả sông Ngân Hà” khiến Trời “mất ngủ” Rõ

ràng cái duyên lên hầu Trời gắn liền với cái chuyện văn thơ, gắn liền với những phút cao hứng của nhà thơ Chuyện bịa hoàn toàn mà xem chừng rất tự nhiên, hợp lý!

Bài thơ có rất hiều chi tiết cụ thể được xếp đặt logíc: nằm một mình -> buồn -> đun nước nóng -> ngâm văn; tiên xuống -> nêu lí do-> đưa lên trời; được đón tiếp trọng vọng, được mời đọc thơ -> chư tiên xúm vào khen ngợi, tán thưởng -> Trời truyền hỏi danh tính -> kể lễ tình cảnh, bày tỏ nỗi lòng -> Trời “đả thông” tư tưởng -> lạy tạ ra về,… Dường như tác giả muốn người đọc xác

Trang 7

nhận đây là một câu chuyện thật để tiếp tục theo dõi phần còn lại.

Nhà thơ rất khéo tả bối cảnh, từ bối cảnh thanh đạm của phòng văn nơi hạ giới tới bối cảnh rực rỡ, oai nghiêm của chốn thiên đình Nhờ vậy , không gian của câu chuyện trở nên có nhiều tầng lớp, tương khớp với trường hoạt động của các nhân vật

Các đoạn đối thoại và miêu tả những phản ứng tâm lí đa dạng của từng loại nhân vật được cài vào nhau thật linh họat, khiến người đọc cảm tưởng mình tham gia thực sự vào câu chuyện, cùng nếm trải những phút “sướng lạ lùng”, “đắc ý”, cao hứng tột bậc của nhân vật trữ tình

Việc hư cấu nên cả một câu chuyện trong bài thơ này có ý gnhĩa cách tân nhất định Nó như muốn đưa thơ trữ tình thoát dần nhiệm vụ tỏ chí nghiêm trang, khắc khổ để tiện giải bày cảm xúc phóng khoáng của con người cá nhân và xây dựng một quan hệ giao tiếp mới đối với độc giả thành thị khi đó

Câu 3: Chuyến “Hầu Trời” bằng tưởng tượng đã giúp nhà thơ nói được gì về bản thân cùng quan

niệm mới của ông về văn và nghề văn?

Trả lời:

Chuyến “Hầu Trời” bằng tưởng tượng đã giúp nhà thơ nói được nhiều về bản thân, về nghề văn

trong những thập niên đầu của thế kỉ thứ XX và về “sứ mệnh” xã hội mà ông tự đứng ra gánh vác

Nhà thơ hào hứng khoe cái tài của mình:

- Văn dài hơi tốt ran cung mây!

Trời nghe, trời cũng lấy làm hay.

- Văn đã giàu thay, lại lắm lối

- Trời lại phê cho : “Văn thật tuyệt!

Văn trần được thế chắc có ít!

Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!

Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!

Êm như gió thoảng tinh như sương!

Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết! ”

Các nhà nho tài tử trước Tản Đà đều thị tài (cậy tài, khoe tài), nhưng chữ tài mà họ nói tới nhiều

khi mang một nội hàm khá rộng, gắn liền với khả năng “kinh bang tế thế” Có lẽ trước Tản Đà ít

ai nói trắng ra cái “hay”, cái “tuyệt” của văn thơ mình như vậy, hơn nữa, lại nói trước mặt Trời Rõ ràng ý thức cá nhân của nhà thơ phát triển rất cao và Tản Đà không hề vô lối khi tự khen mình (để cho Trời khen cũng là một hình thức tự khen) Nhà thơ đã thấy được “dài”, “giàu”,

“lắm lối” là “phẩm hạnh” đặc thù của văn thời mình, bên cạnh những “phẩm hạnh” mang tính

chất truyền thống như: “nhời văn chuốt đẹp”, “khí văn anh hùng”, “êm”, “tinh”,… Tình huống

“hầu Trời” quả đã cho nhà thơ một cơ hội tuyệt vời để phô bày một cách sảng khoái tài năng của bản thân Thật dễ thông cảm khi mọi nhân vật đều đang ở trong tình trạng cao hứng, từ nhà thơ đến chư tiên và sau hết là … Trời!

Nhà thơ chỉ cao hứng như thế khi gặp được người hiểu và thông cảm (là Trời) mà thôi Ở hạ giới dễ đâu tìm được người tri âm như vậy! Lời khen hẳn là sự khẳng định có sức nặng nhất, không thể bác bỏ, nghi ngờ Đúng là một lối tự khẳng định rất “ngông” của vị “trích tiên”!

Trong bài thơ, Tản Đà không trực tiếp phát biểu quan niệm của mình về văn và nghề văn Tuy vậy, ẩn sau các câu chữ, ta vẫn thấy có một sự hình dung khác trước về hoạt động tinh thần đặc

Trang 8

biệt này Trong mắt Tản Đà, văn chương là một nghề kiếm sống mới, có người bán, kẻ mua, có thị trường tiêu thụ và bản thân thị trtường cũng hết sức phức tạp, không dễ chiều Dường như Tản Đà đã ý thức được sự cần thiết phải chuyên tâm với nghề văn, phải “trường vốn” để theo đuổi

nó dài dài (“Nhờ Trời văn con còn bán được – Chữa biết con in ra mấy mươi”, “Vốn liếng còn một bụng văn đó “) Sau cùng, phải thấy rằng Tản đà đã chớm nhận ra: đa dạng về loại, thể là

một đòi hỏi thiết yếu của hoạt động sáng tác và những sáng tác mới, tiêu chí đánh giá hẳn nhiên là phải khác xưa, …

Câu 4: Tìm các chi tiết thể hiện ý thức cá nhân của tác giả.

Trả lời:

Trong hẳn một khổ thơ (từ câu 65 đến câu 68), tác giả đã “tâu trình” rõ ràng về họ tên, “xuất xứ” của mình cho Trời nghe Việc xưng danh của Tản Đà đã diễn ra khá tự nhiên, phù hợp hoàn toàn với mạch truyện và đây không phải là hiện tượng chưa từng có trong văn học trung đại hay trong các sinh hoạt văn nghệ dân gian (như hát chèo chẳng hạn) Nhưng dấu ấn Tản Đà trong cung cách xưng danh vẫn thể hiện khá rõ: Tách tên, họ theo một kiểu cung khai lí lịch rất hiện đại, lại còn nói rõ bản quán, quốc tịch, châu lục, tên của hành tinh, … Có một nụ cười hóm hỉnh ẩn đằng sau vẻ thật thà, thành khẩn trước “đấng chí tôn”, nhưng điều đáng nói hơn hết vẫn là ý thức cá nhân, ý thức dân tộc của nhà thơ Một cái tên – tên thật chứ không phải tự hay hiệu – mà được nói ra trịnh trọng đến vậy hẳn nhà thơ phải thấy có một giá trị không thể phủ nhận gắn liền với nó Hơn nữa, ông còn muốn Trời thấy được Nguyễn Khắc Hiếu chính là con người của Châu

Âu, của xứ sở có một nền “văn minh tinh thần” cao quý, đáng tự hào (“Văn minh Đông Á trời thu sạch”) Cụ thể thêm một mức nữa, ông kiêu hãnh khai mình là đứa con đích thực của “Sông Đà núi Tản nước Nam Việt” Khi trong thời hiện đại, hai chữ “thiên hạ” đã trở thành một khái niệm

mở (điều này Tản Đà ý thức được rất rõ), đặc biệt là khi đất nước đã mất chủ quyền, kiểu nói như vậy của nhà thơ rõ ràng chứa đựng một thái độ tự tôn dân tộc, một “tình cảm non nước” đáng quý

Câu 5: Chỉ ra nét cách tân của bài thơ ở giọng điệu và cách dùng các yếu tố thuộc khẩu ngữ.

Trả lời:

Lối kể chuyện đầu tính chất bình dân và giọng khôi hài trong bài thơ (cụ thể là hai đoạn thơ này) hoàn toàn thống nhất với nhau, hỗ trợ cho nhau Chúng lộ rõ trước hết ở thái độ hào hứng của người kể trước một đối tượng nghe (giả định) đồng đẳng, rất mực thân tình Ngay trong chuyện kể, quan hệ giữa nhân vật trữ tình và chư tiên xem ra cũng suồng sã, thân mật (chư tiên gọi nhân vật trữ tình là anh) Từ dùng ở đây nôm na, bình dị, như được tiện tay lấy từ đời sống thường nhật, lại được đặt trong ngữ điệu nói nên càng có ý vị: “Văn dài hơi tốt ran cung mây”; “Văn đã giàu thay, lại lắn lối – Trời nghe trời cũng bật buồn cười”; “Chư tiên ao ước tranh nhau dặn”, …

Đặc biệt, dưới ngòi bút theo một cung cách rất đỗi … bình dân: lè lưỡi, chau mày, lắng tai đứng, vỗ tay, bật buồn cười, tranh nhau dặn, … Cứ tưởng tượng hình ảnh các đấng siêu nhiên vốn không

thuộc cõi người mà có những cử chỉ điệu bộ ngộ nghĩnh như thế, độc giả không thể không cảm thấy buồn cười, không thể không phục cách kể chuyện “xôm trò” của tác giả

Nếu như không có lối kể “bình dân” và nụ cười hóm hỉnh, các đoạn thơ trên (rộng ra là cả bài thơ) sẽ mất đi một ý vị thẩm mĩ đặc trưng, bởi sự hấp dẫn của tác phẩm văn học nói chung không hẳn nằm ở chuyện mà ở cách kể, giọng kể Hơn thế, trong bài thơ này, lối kể ấy, nụ cười ấy làm nên nội dung trữ tình chính, giúp ta hiểu về con người tác giả hơnbất cứ cái gì khác Nói tóm lại, những yếu tố vừa nêu là một phần tất yếu của bài thơ, hoàn toàn xứng hợp với câu chuyện “hầu Trời” mà tác giải đã hư cấu

Câu 6: Nhận xét chung về giá trị tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ.

Trang 9

Trả lời:

“Hầu Trời” là bài thơ hay, độc đáo, có nhiều nét mới về mặt thi pháp, rất tiêu biểu cho tính chất

“giao trời” trong nghệ thuật thơ Tản Đà

Qua bài thơ, có thể nhận ra được nhiều điều về xu hướng phát triển của thơ Việt Nam trong những năm hai mươi của thế kỷ trước

Câu 7: Cái mà người ta thường gọi “ngông” ở Tản Đà được thể hiện như thế nào trong bài thơ?

Hãy nêu những điểm gần gũi và khác biệt giữa cái “ngông” của Tản Đà với cái “ngất ngưỏng” của Nguyễn Công Trứ trong Bài ca ngất ngưởng?

Trả lời:

Trong bài “Hầu Trời”, cái “ngông” của Tản Đà có những biểu hiện nổi bật:

- Tự cho mình “văn hay” đến mức Trời cũng phải tán thưởng

- Không thấy có ai đáng là kẻ tri ân với mình ngoài Trời và chư tiên

- Xem mình là một “trích tiên” bị đày xuống hạ giới vì tội ngông

- Nhận mình là người nhà Trời, được sai xuống hạ giới thực hiện một sứ mệnh cao cả (thực hành

“thiên lương”)

Ngoài ra, nguyên việc nhà thơ bịa ra chuyện “hầu Trời”, nói như thể đó là chuyện thật đã hàm chứa một sự khiểu khích nhất định đối với cái nhìn tôn ti, đẳng cấp đang thống trị xã hội lúc ấy Đó là chưa kể việc Tản Đà “dám” hình dung các đấng siêu nhiên như những đối tượng rất đỗi bình dân, thậm chí ngàng hàng với mình, …

Cái “ngông” của Tản Đà có nhiều điểm gặp lại cái “ngông ” của Nguyễn Công Trứ (thể hiện

qua Bài ca ngất ngưởng): ý thức rất cao về tài năng của bản thân; dám nói giọng bông lơn về

những đối tượng như Trời, Tiên, Bụt; dám phô bày toàn bộ con người “vượt ngoài khuôn khổ” của mình trước thiên hạ, như muốn “giỡn mặt” thiên hạ, …

Nói về điểm khác giữa hai người, có thể thấy : “ngông” ở Tản Đà là cái “ngông” của kẻ tuy

không phải sống vô trách nhiệm với xã hội nhưng không còn xem vấn đề “Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung” (Nguyễn Công Trứ) là chuyện hệ trong nữa Hơn nữa, cái tài mà Tản Đà muốn

khoe về cơ bản là cái tài thuộc phạm trù văn chương Rõ ràng, ở đây nhà thơi đã rũ bỏ được khá nhiều gánh nặng trách nhiệm (mà thông thường các nhà nho vẫn đặt lên trên vai mình) để sống thoải mái hơn với cái tự do cá nhân mới mẻ mà thời đại đưa tới

THAO TÁC LẬP LUẬN BÁC BỎ PHẦN TRẮC NGHIỆM

Câu 1: Dịng nào sau đây khơng đúng khi muốn bác bỏ một ý kiến sai nào đĩ?

A Tuyên bố với mọi người là ý kiến đĩ sai

B Trích dẫn ý kiến ấy một cách đầy đủ khách quan

C Làm rõ ý kiến đĩ sai chỗ nào

D Làm rõ vì sao như thế lại sai

Câu 2: Để bác bỏ một ý kiến sai tối đa cĩ thể sử dụng bao nhiêu cách?

A Hai cách

B Ba cách

C Bốn cách

Trang 10

D Năm cách

Câu 3: Thế nào là bác bỏ luận cứ?

A Vạch ra tính chất sai lầm, giả tạo trong lí lẽ và dẫn chứng được sử dụng

B Vạch ra tính chất sai lầm đã được sử dụng

C Vạch ra những thiếu sót trong lí lẽ đã được sử dụng

D Vạch ra tính chất giả tạo trong dẫn chứng

Câu 4: Thế nào là bác bỏ lập luận?

A Vạch ra sự mâu thuẫn, không nhất quán, phi lô gic của đối phương

B Vạch ra sự mâu thuẫn, không nhất quán, phi lô gic trong lập luận của đối phương

C Vạch ra sự mâu thuẫn, không nhất quán, phi lô gic trong lập luận của đối phương, chỉ ra sự đổi thay, đánh tráo khái niệm trong quá trình lập luận

D Vạch ra sự đổi thay, đánh tráo khái niệm trong quá trình lập luận

Câu 5: Nhất Chi Mai phê bình Vũ Trọng Phụng khi đọc văn của Vũ Trọng Phụng: "phẫn uất, khó

chịu vì cảm thấy tư tưởng hắc ám, căm hờn, nhỏ nhen ẩn trong đó!", sự chỉ trích của Nhất Chi Mai bao gồm những luận cứ nào?

để người đọc thấy ý kiến đó sai ở luận điểm, luận cứ hay lập luận rồi mới tiến hành bác bỏ cái sai

ấy Bác bỏ ý kiến sai thực chất là dùng lí lẽ và dẫn chứng để phân tích, lý giải tại sao như thế là sai (tức là trả lời câu hỏi thứ hai) Chẳng hạn, để chứng minh một luận cứ sai, có thể bác bỏ bằng cách chỉ ra trong luận cứ đó, người viết đã trích dẫn sai, cố ý cắt xén ý tứ, câu chữ của người khác, hoặc trích dẫn đúng nhưng phân tích, giải thích lại sai

Câu 2: Hãy nêu cách sử dụng thao tác lập luận bác bỏ?

Trả lời:

Bác bỏ một ý kiến sai có thể thực hiện bằng nhiều cách: bác bỏ luận điểm, bác bỏ luận cứ, bác bỏ cách lập luận hoặc kết hợp cả ba cách thật linh hoạt

Trang 11

- Bác bỏ luận điểm: có nhiều cách bác bỏ luận điểm, nhưng thông thường vẫn là hai cách sau đây

Dùng thực tế để bác bỏ

Dùng phép suy luận để để làm cho cái sai của luận điểm cần phải bác bỏ được bộc lộ đầy đủ

- Bác bỏ luận cứ: tức là vạch ra tính chất sai lầm, giả tạo trong lí lẽ và dẫn chứng được sử dụng

- Bác bỏ lập luận: tức là vạch ra sự mâu thuẫn, không nhất quán, phi lô gic trong lập luận của đối

phương, chỉ ra sự đổi thay, đánh tráo khái niệm trong quá trình lập luận

Câu 3: Đọc đoạn đối thoại sau và cho biết lập luận bác bỏ được vận dụng theo thao tác nào?

Bớc-na Sô khi đã nổi tiếng, có một vũ nữ đề nghị ông cưới cô ta với lí do: “Nếu ông và em lấy nhau thì con của chúng ta sẽ thông minh như ông và xinh đẹp như em, thật là tuyệt vời”.

Bớc-na Sô hóm hỉnh đáp lại: “Nếu tôi và em lấy nhau, mà con cái chúng ta lại đẹp như tôi và thông minh như em, thì đáng sợ biết bao!”

Trả lời:

Trong đoạn đối thoại trên, ta thấy Bớc-na Sô không bác bỏ đề nghị, tức là không bác bỏ luận điểm

mà chỉ bác bỏ cách lập luận Lập luận của cô vũ nữ chỉ đề cập đến một khả năng “con của chúng ta

sẽ thông minh như ông và xinh đẹp như em”; còn Bớc-na Sô vạch ra khả năng thứ hai, là khả năng xấu hơn “con cái chúng ta lại xinh đẹp như tôi và thông minh như em”

Câu 4: Lập luận để phản bác sai lầm trong luận điểm sau: Có tiền là có hạnh phúc!

Trả lời:

Tham khảo ý kiến của nhà văn Anh Thác-cơ-rây để bác bỏ luận điểm “Có tiền là có hạnh phúc”

Trước tiên, chúng ta xem xét ý nghĩa của câu văn trên Câu ấy có nghĩa là có tiền thì muốn gì được nấy Đó chỉ là câu nói bóng gió nhằm đề cao sức mạnh vạn năng của đồng tiền Điều đó chỉ đúng một phần, vì sức mạnh ấy có giới hạn Thực tế cho thấy không phải cái gì cũng mua được bằng tiền

Như thế là bác bỏ luận điểm (cần xem thêm các câu nói của Thác-cơ-rây trong SGK)

Câu 5: Đọc các đoạn trích a, b, c trang 41, 42, 43/ SGK và cho biết tác giả đã sử dụng thao tác lập

luận bác bỏ nào?

Trả lời:

Nhận xét thao tác lập luận bác bỏ trong các đoạn văn:

a/ Ở đoạn văn này tác giả đã bác bỏ luận điểm Dùng luận cứ phản bác luận điểm

b/ Ở đoạn văn này tác giả đã bác bỏ luận điểm Dùng lập luận phân tích để bác bỏ

c/ Ở đoạn văn này tác giả đã bác bỏ luận điểm Dùng luận cứ và lập luận bác bỏ

Câu 6: Lập dàn ý cho luận điểm sau:

Chỉ có vào đại học thì cuộc đời mới có tương lai

Trả lời:

Luận điểm này sai ở chỗ có cái nhìn cực đoan, phiếm diện Vào đại học đúng là có tương lai đầy hứa hẹn Song, không phải ai vào đại học là sẽ có tương lai sáng lạng và ai không vào đại học là không

có tương lai Bằng chứng là có rất nhiều người không vào đại học nhưng vẫn có sự thành đạt đáng tự

hào Đại học chỉ là một trong những con đường để lập nghiệp chứ không phải là con đường duy nhất để lập nghiệp Những con đường khác cũng sẽ đem lại tương lai sáng sủa cho mọi người nếu

có ý chí, nghị lực và tinh thần cầu tiến

Câu 7: Hãy bác bỏ ý cũ và tìm ra ý mới trong hai câu thành ngữ sau:

a/ Múa rìu qua mắt thợ

Trang 12

b/ Bới lông tìm vết

Trả lời:

a/ Hai thành ngữ này hàm ý chê bai một thái độ sống, một cách ứng xử Nếu ai cũng coi "thợ" là

đỉnh cao, sợ "múa rìu qua mắt thợ" thì làm sao có thể nảy sinh ra thế hệ "thợ" mới, làm sao mà tiến

bộ được Đâu hẳn "thợ" cũ này đã là hoàn mỹ, là tuyệt đối đúng, tuyệt đối hay đâu!

b/ Cũng như câu trên, tìm hiểu nghĩa của "Bới lông tìm vết" – một thành ngữ có ý xấu Nhưng đối

với những người cầu tiến bộ, muốn khắc phục sai sót của mình thì họ không sợ ai "bới lông tìm vết"

cả, thậm chí thấy sự bới móc kia là có lợi cho họ (tuy nhiên, phải là với mục đích tiến bộ chứ không phải làm như thế để hạ uy tín, danh dự, hãm hại nhau!)

ĐỌC THƠ PHẦN TRẮC NGHIỆM

Câu 1: Thể loại nào có thể cho là nghệ thuật xuất hiện sớm nhất trong lịch sử loài người?

Trang 13

- Thơ là thể loại xuất hiện sớm nhất trong lịch sử loài người, là kết tinh của bản chất nghệ thuật.

- Thơ có hai đặc điểm: tính nhạc và tính họa Vẻ đẹp nhịp nhàng do có tiết tấu, sự hài hòa, sự hiệp vần và ngắt nhịp Vẻ đẹp trầm bổng do đối lập các thanh bằng với thanh trắc, thanh dấu huyền với thanh không dấu Vẻ đẹp luyến láy do sự điệp vần, song thanh, từ láy tạo nên Tất nhiên ở đây chỉ nói đến vẻ đẹp trong thơ Tiếng Việt, thơ chữ Hán Thơ dịch thì do phải chuyển ngữ nên đã hạn chế rất nhiều hai phương diện nói trên

Nhìn sâu vào văn bản, ta sẽ thấy hình thúc bên trong đó là hình thức nhận ra bằng trí tưởng tượng, liên tưởng Lới thơ khác hẳn với lời nói thường Thực chất đó là lời nói bên trong cõi lòng của con người, lời độc thoại, lời mình nói với mình Chính là tiếng lòng nên thơ có thể nói bằng những giá trị

thẫm mỹ và có tính khái quát cao Ví dụ: Tương tư – Nguyễn Bính; Vội vàng – Xuân Diệu; Việt Bắc

– Tố Hữu dù có sắc thái khác nhau nhưng về cơ bản vẫn là lời độc thoại

- Trong thơ tuy ít kể về sự kiện nhưng mỗi bài thơ vẫn thấp thoáng một sự kiện nào đấy đã gợi lên

dòng cảm xúc trong bài thơ Ví dụ: Hình tượng nhân vật trong thơ như em Lượm (Lượm); Bác Hồ

(Sáng tháng năm, Bác ơi ) trong thơ Tố Hữu đều là những sự kiện gợi lên cảm xúc, tư tưởng của

mỗi bài thơ Để hiểu đuộc nội dung, cảm xúc trong bài thơ, người ta phải suy đoán ra từ các sự kiện nhiều khi ẩn chìm

- Cuối cùng là đặc điểm ngôn ngữ thơ, phân biệt với ngôn ngữ văn xuôi Ý nghĩa mà văn bản thơ muốn biểu đạt thường không đồng nhất với nội dung thông báo trực tiếp của lời thơ

Cấu tứ tức là tạo ra một hình thức gợi cảm, độc đáo để biểu đạt ý Tứ thơ là hình thức biểu hiện ý thơ Thơ có tứ toàn bài, có tứ từng khổ, có tứ từng câu

Câu 2: Hãy nêu cách đọc thơ?

- Phân tích hình tượng thơ: hình tượng thơ bao gồm hình tượng nhân vật trữ tình và hình tượng con người, cảnh vật trong thơ, các chi tiết (hình ảnh) thơ

Câu 3: Hãy xác định "sự kiện" và tứ thơ trong ácc bài thơ: Tự tình (bài II), Chạy giặc, Tiến sĩ giấy,

Thương vợ, Câu cá mùa thu Hình dung ngữ cảnh tình huống trong mỗi bài thơ giúp cho việc đọc –

hiểu bài thơ như thế nào?

Trang 14

Trả lời:

"Sự kiện" trong bài thơ Tự tình II là tiếng trống canh khuya báo hiệu thời gian trôi qua và cuộc đời

"trơ trọi" "Sự kiện" trong Chạy giặc là tiếng súng của giặc Pháp làm tan chợ "Sự kiện" trong Tiến

sĩ giấy là việc phát hiện ý nghĩa "tiến sĩ giả" trong thứ đồ chơi "Sự kiện" trong Thương vợ chính là

sự nhận thức về người vợ tảo tần Trong bài Mùa thu câu cá là bài tả cảnh nhưng cũng có "sự kiện" Cảnh này không nhất thiết là cảnh có thực hoàn toàn mà có phần tưởng tượng và ước lệ Nhà thơ có

phần cực tả cái tâm cái tình Câu thơ "Tựa gối ôm cần lâu chẳng được" hàm một ý là yên tĩnh

không được lâu, vì cá đâu đó đã đớp động dưới chân bèo "Sự kiện" có người hiểu là lũ cá ham mồi, phá vỡ cảnh yên tĩnh của nhà thơ cũng có cách hiểu đó là dấu hiệu sự sống trong yên tĩnh, nhưng cách này không giúp làm sáng tỏ vì sao mà "lâu chẳng được" ở câu trên

Các sự kiện nêu trên làm thành ngữ cảnh cụ thể của mỗi bài thơ Dùng thời gian trôi qua để nói ý sốt

ruột về cuộc sống không hạnh phúc là tứ toàn bài của bài Tự tình II Hình ảnh trong mỗi cặp đối trong bài làm nên tứ của từng câu hoặc cả cặp câu đối Chẳng hạn, trong câu "Chén rượu hương đưa say lại tỉnh" là tứ biểu hiện cái ý: Không cách gì làm nguôi ngoa được nỗi cô đơn Tứ trong bài thơ Thương vợ là sự trách mình của Tú Xương

Câu 4: Sự phân biệt nhân vật trữ tình và nhân vật gây cảm hứng cho nhà thơ có ý nghĩa như thế nào

đối với việc đọc thơ?

Trả lời:

Nhân vật trữ tình khác nhân vật trong thơ (tức là nhân vật gây hứng thú cho nhà thơ) ở chỗ: nhân vật trữ tình là người bộc lộ cảm xúc, là người phát ngôn trong bài thơ, còn nhân vật trong thơ là đối

tượng miêu tả, là sự kiện gây cảm xúc cho nhà thơ Chẳng hạn, trong bài thơ Ông đồ của Vũ Đình

Liên nhân vật trữ tình là nhà thơ, người bộc lộ nỗi buồn nuối tiếc một nét đẹp của văn hóa truyền thống dần dần bị khuất lấp trong lớp bụi thời gian, còn ông đồ là nhân vật trong thơ, là biểu tượng

thể hiện nét đẹp văn hóa Hoặc: Bài Lượm, nhân vật trữ tình là người xưng chú, còn Lượm là nhân

vật được miêu tả mà cuộc sống, hành động, tinh thần cach mạng của em đã gây cho nhà thơ cảm xúc mãnh liệt

Câu 5: Lời của nhân vật trữ tình có ý nghĩa như thế nào đối với việc đọc – hiểu tư tưởng, tình cảm

của bài thơ?

Trả lời:

Lời của nhân vật trữ tình chính là lời của bài thơ Đây là phương tiên dùng để miêu tả cảnh vật và bộc lộ cảm xúc trong bài thơ Ngoài chức năng thuật sự, tả cảnh, nó còn thể hiện trực tiếp tư tưởng, tình cảm của nhân vật trữ tình, cũng tức là tư tưởng, tình cảm của bài thơ Vì thế, khai thác từ ngữ, giọng điệu sẽ giúp nhiều cho việc đọc – hiểu bài thơ

NGHĨA CỦA CÂU PHẦN TRẮC NGHIỆM

Câu 1: Nghĩa của câu có thể chia ra thành mấy thành phần?

A Hai thành phần

B Ba thành phần

C Bốn thành phần

D Năm thành phần

Câu 2: Đọc câu văn sau đây:"Nếu làm con cháu mà quên gia phổ, thời chắc là con cháu bất hiếu"

Từ "nếu" trong câu giúp chúng ta hiểu điều gì?

Trang 15

A Các sự việc liên quan đã xảy ra

B Các sự việc liên quan chưa xảy ra

C Các sự việc liên quan sắp xảy ra

D Các sự việc liên quan chỉ là giả thuyết chứ chưa là hiện thực

Câu 3: Đọc câu văn sau đây:"May ra đôi ba nơi có phong trào trồng tre chắn sóng ven triền đê" Từ

"may ra" trong câu giúp chúng ta hiểu điều gì?

A Các sự việc liên quan chỉ là giả thuyết

B Các sự việc liên quan không thể xảy ra

C Các sự việc liên quan đã xảy ra

D Các sự việc liên quan có khả năng xảy ra

Câu 4: Đọc câu văn sau và cho biết thuộc loại nghĩa tình thái nào "Tôi sống với Cửu Trùng Đài,

chết cũng với Cửu Trùng Đài Tôi không thể xa Cửu Trùng Đài một bước" (Nguyễn Huy Tưởng –

Vũ Như Tô)

A Nghĩa tình thái chỉ sự việc đã xảy ra

B Nghĩa tình thái chỉ sự việc chưa xảy ra

C Nghĩa tình thái chỉ sự việc được nhận thức như là một đạo lý

D Nghĩa tình thái chỉ khả năng xảy ra của sự việc

Câu 5: Có mấy loại nghĩa tình thái quan trọng?

“nó”, “đọc” và “thư” Nếu ta thực hóa một nhận định theo hướng nghĩa tình thái về khả năng xảy ra

của sự việc, ta sẽ có câu: Nó có thể đọc thư Nếu ta thêm vào các chất liệu ấy một nghĩa tình thái phủ định ta sẽ có câu: Nó không đọc thư Nếu ta thêm vào các chất liệu ấy một nghĩa tình thái chỉ sự việc

có xảy ra, ta sẽ có câu: Nó đọc thư Như thế, không một câu nào không có nghĩa tình thái.

Về nghĩa sự việc (còn gọi là nghĩa biểu hiện, nghĩa miêu tả “nghĩa biểu hiện phản ánh cái sự tình của thế giới được nói lên trong câu Dĩ nhiên câu nói (câu văn) không sao phỏng y nguyên cái sự tình ấy Khi đã được sắp xếp lại theo cách tri giác của người nói, được tổ chức lại thành một cấu trúc lô gích ngôn từ, được tuyến tính hóa lại theo những quy tắc ngữ pháp của câu, được tình thái hóa ở nhiều cấp tùy theo thái độ của người nói, cái hình ảnh mà người nói dùng để truyền đạt sự tình cho người

Trang 16

nghe một mặt lược đi và mặt khác lại được trang trí thêm nhiều yếu tố chủ quan của người nói.Tuy nhiên, trong tất cả các nội dung được truyền đạt vẫn có thể phân xuất ra một bộ phận tương ứng với sự tình được phản ánh sau khi đã gạt bỏ tất cả các yếu tố khác không tham gia trực tiếp vào việc phản ánh này.

Và ta có được một phần nội dung hầu như không lệ thuộc vào phần khác và có được tính đồng nhất

và bất biến qua nhiều cách diễn đạt có thể hết sức khác nhau , thậm chí bằng những tính mã khác nhau - bằng nhiều thứ ngôn ngữ”

Các phương tiện biểu đạt nghĩa tình thái:

Các phương tiện biểu đạt nghĩa tình thái rất đa dạng Chẳng hạn, để biểu đạt loại nghĩa tình thái chỉ

khả năng xảy ra của sự việc, tiếng Việt có lẽ, chắc, chắc chắn, nhất định, phải, hẳn, ngờ đâu, không thể không tránh được, không còn nghi nghờ gì nữa, đi đằng đầu…Mặt khác, một câu thường có

nhiều lọai nghĩa tình thái chỉ khả năng xảy ra của sự việc lẫn nghĩa tình thái chỉ sự việc chưa xảy ra Tình thái là nghĩa của câu Nhưng về mặt ngữ pháp, nghĩa tình thái có thể biểu hiện bằng từ tình thái

cuối câu (à, ư, nhỉ, nhé…), động từ (cần, phải, nên,…), phó từ (cũng, bèn, vẫn…), liên từ (nên, vì…), kiểu câu (câu trần thuật khẳng định, nếu không chứa những từ chỉ sự việc chưa xảy ra như toan, định, suýt… thì chỉ sự việc đã xảy ra; câu cầu khiến của sự việc được nhận thức như là một đạo lí,

…),…; từ ngữ biểu đạt những tình thái có thể tác động đến cả câu (ví dụ : Hình như trời mưa), hay

vị ngữ (Anh nên về), hoặc chỉ một bộ phận của vị ngữ (Việc ấy phiền lụy đến cả ông),…

Câu 2: Hãy nêu những loại nghĩa tình thái quan trọng?

Trả lời:

Nghĩa tình thái rất phong phú đến mức khó quy tất cả vào một số loại nhất định Tuy nhiên, một cách khái quát có thể nói đến hai trường hợp sau:

1 Nghĩa tình thái hướng về sự việc:

Đây là loại nghĩ tình thái thể hiện thái độ và sự đánh giá của người nói đối với sự việc được nói đến trong câu Trong loại nghĩa tình thái hướng về sự việc, đáng chú ý là những phân biệt sau:

- Nghĩa tình thái chỉ sự việc đã xảy ra hay chưa xảy ra

- Nghĩa tình thái chỉ khả năng xảy ra của sự việc

Nghĩa tình thái chỉ sự việc được nhận thức như một đạo lý

2 Nghĩa tình thái hướng về người đối thoại

Đây là loại nghĩ tình thái thể hiện thái độ, sự đánh giá của người nói đối với người đối thoại Trong tiếng Việt, nghĩ tình thái hướng về người đối thoại thường được biểu đạt nhờ các từ ngữ tình thái cuối câu

Câu 3: Chỉ ra sự khác biệt về nghĩa tình thái giữa các câu (a), giữa các câu (b), và giữa các câu (c)

sau đây:

a/ Trời mưa mất!; Trời mưa chắc?

b/ Xong rồi nhỉ!; Xong rồi mà!

c/ Ăn rồi nhỉ!; Ăn đi mà!

Trả lời:

a/ Mất và chắc:

Trong Trời mưa mất, mất phỏng đoán về một nguy cơ hầu như chắc chắn xảy ra Lưu ý: mất hàm ý

đánh giá tiêu cực, nên không thể đi với những trường hợp tích cực: có thể nói Thế này thì tán gia

Trang 17

bại sản mất, chứ không thể nói Thế này thì giàu mất Nếu mất dùng với những sự việc tích cực, thì

về chủ quan vẫn là tiêu cực: thông thường chỉ có thể nói Không khéo hỏng mất, chứ không thề nói Không khéo đỗ mất; nhưng nếu có người cố tình nói Không khéo đỗ mất thì chính người nói về một

lí do nào đó, xem đỗ là chuyện không hay.

- Trong Trời mưa chắc?, Từ chắc phỏng đoán về một sự việc mà người nói còn nữa tìn nữa ngờ

Lưu ý: chắc không hàm ý tích cực hay tiêu cực: có htể nói: Đọat giải nhất chắc? mà cũng có thể

nói: Đứng bét chắc?

b/ Nhỉ và mà:

- Trong Xong rồi nhỉ! chỉ có sắc thái thân mật, mà hàm ý người nói hầu như tin chắc vào nhận định

của mình, và có ý chờ đợi một sự đồng tình cuả người nghe về nhận định ấy

- Trong Xong rồi mà!, mà khẳng định một sự việc để đáp lại một thái độ nghi ngại Lưu ý: nếu ở câu

cầu khiến thì mà có sắc thái năng nỉ và hàm ý có sự trái ngược giữa ý muốn của người nói và thực

tế Chẳng hạn, Ăn đi mà? Là năn nỉ một người tỏ ra không muốn ăn.

Câu 4: Đọc các câu sau đây và thực hiện nhiệm vụ nêu ở dưới.

- Kể ra nếu đem những chương giảng dẫn như thế vào một cuốn sách phê bình văn chương, thì

cũng vô lí thật[…] (Đinh Gia Trinh – Hoài vọng của lí trí).

- Trường hợp ngược lại, nếu đam mê được chọn trước tiên bằng tình, đam mê ấy có nguy cơ sa lầy

(Bửu Ý – Đam mê)

- Giá các nhà thơ mới cứ viết những câu như hai câu vừa trích trên này thì tiện cho ta biết mấy

(Hoài Thanh - Một thời đại trong thi ca)

- Giá cứ như thế này thì thích nhỉ? (Nam Cao – Chí Phèo)

- Giá thử đêm qua không có thị thì hắn đã chết (Nam Cao – Chí Phèo)

- Giá như, do một trớ trêu nào đó của hoàn cảnh, tôi đam mê cờ bạc bốn mươi năm thì giờ đây tôi

ra sao? (Bửu Ý – Đam mê)

a/ Các từ ngữ in đậm diễn đạt lọai nghĩa tình thái gì?

b/ Thay nếu trong hai câu đầu bằng giá thì câu văn có chấp nhận được không? Tại sao?

c/ Thay giá trong hai câu giữa bằng nếu thì nghĩa của câu có khác biệt ra sao?

d/ Thay giá thử/giá như trong hai câu cuối bằng nếu thì nghĩa của câu sẽ thay đổi như thế nào?

Trả lời:

a/ Các từ ngữ in đậm đều chỉ giả thiết hay điều kiện, nên đều thuộc lọai nghĩa tình thái chưa xảy ra

b/ Nếu chỉ là điều kiện đơn thuần trong khi giá chỉ điều kiện trái ngược với sự việc đã xãy ra; cho nên không thể nói với một người đã thi đỗ rằng Giá anh thi đỗ…, vì chắc chắn sẽ bị phản đối chẳng hạn : Tôi có hỏng thi đâu! , Mặt khác, giá thể hiện sự ao ước; vì thế trong hai câu đầu, thay nếu bằng giá sẽ là chuyện không chấp nhận được vì mâu thuẩn với nội dung câu văn : không ai lại ao

ước xảy ra việc đưa những chương giảng dẫn vô lý trong một cuốn sách phê bình văn chương, hay chọn lựa đam mê thế nào để đam mê ấy có nguy cơ sa lầy

c/ Chính vì thế ở hai câu giữa, thay giá bằng nếu thi tuy chấp nhận được, nhưng nghĩa sẽ khác biệt:

mất đi cái hàm ý “trái ngược với sự việc đã xảy ra + ao ước”

d/ Giá thử / giá như nêu một giả thuyết trái ngược với sự việc đã xảy ra nhưng khác với giá ở chổ không có hàm ý ao ước Như thế, câu của Nam Cao giá thử đêm qua không có thị thì hắn đã chết hàm ý đêm qua Chí Phèo ốm thì thị Nở có mặt; câu của Bửu Ý: Giá như, do một trớ trêu nào đó của hoàn cảnh, tôi đam mê cờ bạc bốn mươi năm thì giờ đây tôi ra sao? Hàm ý truyện “tôi đam mê cờ

Trang 18

bạc bốn mươi năm” là khơng cĩ thực Nĩi tĩm lại , thay giá thử và giá như bằng nếu là đã khiến

cho câu văn mất đi cái hàm ý giả thuyết trái ngược với sự việc đã xảy ra

VỘI VÀNG PHẦN TRẮC NGHIỆM

Câu 1: Tập thơ "Thơ Thơ" ra đời vào năm nào?

Câu 4: Trong bài thơ, Xuân Diệu hình dung về thời gian như thế nào?

A Như một vòng tròn liên tục tái diễn

B Như một dòng chảy xuôi chiều, một đi không trở lại

C Cố định

D Cả ba ý trên đều sai

Câu 5: Vì sao Xuân Diệu lại rất quý trọng từng thời khắc của thời gian?

A Vì Xuân Diệu là người ham sống

B Vì Xuân Diệu rất ý thức về giá trị của sự sống

C Vì Xuân Diệu quý trọng tuổi trẻ

D Cả ba ý trên

Bảng đáp án:

Trang 19

- Được mệnh danh là “mới nhất trong các nhà thơ mới”, Xuân Diệu là tiếng thơ thể hiện đầy đủ

nhất cho ý thức cá nhân của cái tôi thơ mới đồng thời mang đậm bản sắc riêng Trước hết, nó hiện ra trong hình tượng một cái tôi tích cực mãnh liệt Cái tôi ấy bám riết lấy trần gian, chạy đua với thời gian, lúc nào cũng thèm yêu khát sống, với triết lí “Làm sao sống được mà không yêu – Không nhớ không thương một kẻ nào” với chủ trương “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối – Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm” Vì thế, lúc nào cái tôi ấy cũng khát khao tận hưởng và

tận hiến ngay trên thiên đường trần thế này Đồng thời nó hiện ra trong một giọng điệu sôi nổi, bồng bột, vồ vập cuống quýt, cả khi vui lẫn khi buồn

- Cái nhìn của Xuân Diệu về thiên nhiên là cái nhìn tình tứ, nên thiên nhiên thường hiện ra với vẻ đẹp xuân tình Cụ thể là những sự vật, hiện tượng cảnh sắc thiên nhiên đều trẻ trung, xuân

sắc và gợi cảm Vạn vật đều tình tứ – “Vạn vật nức xuân tâm”, “Tình thổi gió màu yêu lên phấp phới” Mà cảnh vật htường được quy chiếu về vẻ đẹp của những giai nhân, tình nhân và thành những cặp đôi Ví như vầng trăng : “Trăng từ viễn xứ – Đi khoan thai lên ngự đỉnh trời tròn” (Lời

kĩ nữ), hay mùa thu đến : “Đây màu thu tới, mùa thu tới – Với áo mơ phai dệt lá vàng” (Đây màu thu tới), hoặc con đường : “Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu – Lả lả cành hoang nắng trỏ chiều”

(Thơ duyên), v.v

- Thơ Xuân Diệu cũng rất tiêu biểu cho tinh thần lãng mạn ở chỗ mỗi tiếng thơ như một cơn lũ cảm xúc tuông chảy ào ạt Câu này gọi câu kia, hình ảnh này gọi hình ảnh khác trong một hơi thở dồi dào, trào cuốn Tuy nhiên, mỗi thi phẩm của Xuân Diệu đều có một cấu tứ khá chặt chẽ Không chỉ giải bày cảm xúc, phơi trãi tâm tình một cách đơn thuần, thi sĩ còn nêu ra những quan niệm, những triết lí Quan niệm về tuổi trẻ, hạnh phúc, tình yêu, về thời gian, trần gian, về thi

ca, thi sĩ, về sắc đẹp, về cái đẹp,… Mỗi quan niệm và triết lí ấy đều được triển khai một mạch luận lí song hành với mạch cảm xúc Cả hai mạch này thường xuyên quyện chặt vào nhau, xuyên thấm vào nhau

Câu 2: Bài thơ được viết như một dòng cảm xúc hối hả tuôn troà, nhưng vẫ tuôn theo một bố cục

khá rõ ràng, thể hiện mạch luận lí sâu sắc và chặt chẽ Hãy tìm bố cục ấy?

Trả lời:

Chia thành 2 phần:

- Phần đầu: (từ “Tôi muốn tắt nắng đi”cho đến “Mùa chưa ngã chiều hôm”): Ở đây thi sĩ xưng

“tôi” là muốn bộc bạch với mọi người, với cuộc đời Nội dung cảm xúc là niềm ngất ngây trước

trần gian đang bày ra trước mặt như một bữa tiệc lớn giành cho giác quan và tâm hồn Nội dung

luận lí và việc “lập thuyết” : trình bày những lí lẽ vì sao phải sống “vội vàng”, mà chủ yếu là

xuất phát từ nhận thức và quan niệm về hạnh phúc trần gian, thời gian và tuổi trẻ Lo gíc của nó là: trần thế như một thiên đường ngay trên mặt đất sẵn bày bao niềm hạnh phúc kì thú Những cảnh sắc ấy cũng chỉ thật sự thần tiên trong cái thì xuân của nó Con người chỉ có thể tận hưởng được những hạnh phúc ấy khi còn trẻ thôi Trong khi đó tuổi trẻ lại vô cùng ngắn ngủi Thời gian có thể cướp đi tất cả Vậy chỉ có một cách là chạy đua với thời gian Là phải “vội vàng” Đây là một triết lí tích cực

- Phần hai là phần còn lại Thi sĩ xưng “ta” là muốn đối diện với toàn thể sự sống trần gian – đối tượng cần tận hưởng Nội dung cảm xúc là những vồ vập chếnh choáng của một cái tôi đầy ham

hố, đang muốn tận hưởng cho thật nhiều, thật đã đầy những hương sắc trần thế Nội dung luậm lí

lại nghiêng về “thực hành” : “Vội vàng”là phải thế nào? Là nhanh chóng, khẩn trương, là mở

rộng lòng ôm chứa, thâu tóm ghì riết để tận hưởng khôn cùng khôn thoả

Hai phần này chuyển tiếp rất tự nhiên về cảm xúc, rất chặt chẽ về luận lí Nó khiến cho bài thơ liền mạch và hoàn chỉnh cứ như một dòng chảy ào ạt, hoàn toàn hồn nhiên của tâm trạng Ngỡ như thi sĩ không phải dụng công trong việc cấu tạo, thiết lập, sắp xếp gì vậy Đây chính là một

Trang 20

tành công đáng kể cả thi phẩm.

Câu 3: Đọc toàn bài chúng ta có cảm nhận như thế nào về nhạc điệu của bài thơ? Nhạc điệu ấy

được tạo ra bằng những thủ pháp gì?

(“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn – Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”…), mật độ dày những từ nghiêng về khẩu ngữ: từ để trỏ, tạo nhịp điệu cho những động thái của chủ thể (Này đây…này đây), lối cắt nghĩa liên tục (Nghĩa là… nghĩa là), liên từ dùng cấp tập (Và… và… và )

- Nhưng phổ biến nhất là thủ pháp trùng điệp, gồm cả điệp cú, điệp ngữ, điệp từ,… Mà thủ pháp này được dùng rất linh hoạt biến hoá, chứ không hề đơn điệu, khiến cho mạch thơ tuôn chảy rất

tự nhiên Điệp lại những kiểu câu (bộc bạch ao ước : “Tôi muốn tắt nắng đi – Cho màu đừng nhạt mất” “Tôi muốn buộc gió lại – Cho hương đừng bay đi” Xác định sở hữu: Của… này đây, đảo lại Này đây… của, rồi lại nhấn mạnh Và này đây… hay lối cắt nghĩa : “Xuân đương tới nghĩa là… Xuân còn non nghĩa là…”) Điệp lại các cụm từ, các từ (Ta muốn…ta muốn…, cho…cho…, và …và… ),v.v.

- Cách chuyển tiếp các thể thơ và ngắt nhịp cũng khá đa dạng và linh hoạt Bốn câu đầu là thơ năm chữ Phần còn lại là thơ tám chữ Phần cuối lại có sự phá cách bằng việc tách ra một câu

riêng chỉ gồm ba chữ “ta muốn ôm” Nhịp điệu trong toàn bài không thể không bị chi phối bởi

những chuyển đổi lớn Nó tạo ra những bước ngoặc trong mạch thơ, những đột biến trong cảm xúc, tựa như việc chuyển điệu, chuyển làn, khiến hơi thơ tràn đi thành những cao trào liên tiếp

Nhịp điệu trong câu thơ tám chữ cũng được ngắt theo dạng phổ biến là :3 / 3/ 2 (Này đay lá / cành tơ / phơ phất) rồi đảo nhanh sang 3 / 2/ 3 (Của yến anh/ này đây / khúc tình si), có lúc câu thơ tám tiếng bỗng biến thành mười tiếng với nhịp giãn rộng 5/ 5 (“Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng”) tựa như những cú đảo phách trong âm nhạc, vứa hoà hợp với những bước

trùng điệp về cú, về từ, lại vùa linh hoạt và tiết tấu Tất cả khiến cho nhịp điệu cứ sôi nỗi , bồng bột, chuyển tải được tâm hồn say sưa chếnh choáng

Câu 4: Tác giả đã cảm nhận về thời gian như thế nào? Phân tích đoạn từ câu 14 đến câu 24 để

làm nổi bật cảm nhận ấy?

Trả lời:

Thời gian trong vũ trụ này thì muôn đời vẫn thế Chỉ có quan niệm của con người về thời gian thì

đổi thay Sự đổi thay này có thể do trình độ nhận htức khoa học, ý thức triết học, ý thức thẩm mĩ,

… của mỗi thời một khác

Trong bài thơ này, Xuân Diệu đã dưa ra một quan niệm mới của mình về thời gian

- Cách thức trình bày của Xuân Diệu là “chống đối”, “tranh cãi” lại quan niệm xưa, đồng thời trình bày qun niệm của mình bằng một cảm xúc sôi nổi cuồng nhiệt – nghĩa là bằng một dạng ý thức triết học đã được thấm nhuần cảm xúc

- Cụ thể: Quan niệm cũ về thời gian mà Xuân Diệu chống đối là thời gian tuần hoàn Nghĩa là

thời gian được hình dung như một vòng tròn liên tục tái diễn, hết một vòng lại quay về điểm xuất phát, cứ trỏ đi rồi trở lại mãi mãi Mà đã là vòng tuần hoàn thì những thời khắc , thời đoạn của

nó có ra đi rồi cũng quay trở về (Xuân đi thì xuân lại quay lại) Quan niệm đó xuất phát từ cái

Trang 21

nhìn tĩnh có phần siêu hình, lấy sinh mệnh vũ trụ để làm thước đo thời gian.

Xuân Diệu lựa chọn cho mình một quan niệm khác, là thời gian tuyến tính Nghĩa là thời gian

được hình dung như một dòng chảy xuôi chiều, một đi không trở lại Vì thế mỗi khoảnh khắc trôi

đi là mất đi vĩnh viễn Quan niệm này xuất phát từ cái nhìn động, rất biện chứng về vũ trụ, về thời gian :

Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,

Lấy sinh mệnh cá nhân làm thước đo thời gian Tức là lấy cái quỷ thời gian hữu hạn của đời người đẻ đo đếm thời gian vũ trụ Thậm chí, lấy quãng ngắn nhất, giàu ý nghĩa nhất trong sinh mệnh con người là tuổi trẻ ra để làm thước đo:

Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.

Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,

Không cho dài thời trẻ của nhân gian,

Nói làm chi rằg xuân vẫn tuần hoàn,

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!

Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi,

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;

Vì thế, cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu là cảm nhận đầy tính mất mát Mỗi khoảnh khắc trôi qua là một sự mất mát, đó chính là một phần đời trong sinh mệnh cá thể đã mất đi vĩnh viễn, thấm thía hơn, là một phần vô cùng quý giá của tuổi trẻ mình đã mất đi vĩnh viễn

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,

Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…

Hai câu thơ này thể hiện rất rõ cách cảm nhận tinh vi về thời gian của Xuân Diệu Mỗi khoản khắc đang lìa bỏ hiện tại để trở thành quá khứ được hình dung như một cuộc chia lìa Khoảnh khắc nào cũng là một sự chia lìa, một mất mát Và dòng thời gian được nhìn như một chuỗi vô tận của những mất mát chia phôi, cho nên thời gian tấm dẫm hương vị của chia lìa Và dậy lên đó đây khắp sông núi là những lời than thở tiễn biệt Đó là lời than của vạn vật Là không gian đang tiễn biệt thời gian Mà sâu xa hơn, là mỗi một sự vật thiên nhiên đang ngậm ngùi tiễn biệt một phần đời của chính nó Những phần đời của sinh mạng mình đang ra đi không thể nào cưỡng lại, nó tạo nên sự trôi chảy không ngừng, tạo nên sự phôi pha phai tàn của từng cá thể :

Con gió xinh thì thào trong lá biếc,

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,

Phải chăng sựo độ tàn phai sắp sửa?

Cách cảm nhận về thời gian như vậy, xét đến cùng là xuất phát từ ý thức sâu xa về giá tị của sự sống cá thể Mỗi khoảnh khắc trong đời cá thể đều vô cùng quí giá Nó quí giá chính ì một khi đã mất đi là mất đi vĩnh viễn Quan niệm ấy khiến cho con người biết quí từng giây phút của đời mình Và biến thành cho mỗi khoảnh khắc của đời mình cần phải tràn đầy ý nghĩa Có như thế mới là biết sống Đây là cơ sở sâu xa của thái độ sống “vội vàng”

Rõ ràng, toàn bộ quan niệm về thái độ ấy đã thể hiện sự tích cực rất đáng trân trọng của tư tưởng Xuân Diệu

Trang 22

Câu 5: Hình ảnh thiên nhiên, sự sống quen thuộc quanh ta được tác giả cảm nhận và diễn tả một

cách hấp dẫn như thế nào? Điều ấy thể hiện quan niệm gì của Xuân Diệu về cuộc sống, tuổi trẻ và hạnh phúc?

Trả lời :

- Xuân Diệu đã làm sống dậy nét quyến rũ, điệu tình tứ, vẻ kì thú và ngon lành ngay trong những cảnh sắc sự vật thiên nhiên quen thuộc:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật;

Này đây hoa của đồng nội xanh rì

Này đây lá của cành tơ phơ phất;

Của yến anh này đây khúc tình si

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,

Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa;

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;

- Đem đến những cảnh vật tinh vi về thời gian, không gian, làm sống dậy vẻ thơ mộng và cả những tình thái thật bất ngờ:

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi

Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…

Con gió xinh thì thào trong gió biếc,

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi.

Phải chăng sợ độ tàn phai sắp sửa

- Bao trùm lên tất cả là cái nhìn tình tứ về sự vật Nhờ đó mà từng cảnh vật đều tình tứ, mọi cảnh tượng đều tràn ngập xuân tình Cái nhìn ấy đã quy chiếu thiên nhiên về vẽ đẹp của giai nhân Từ những hình sắc cụ thể theo lối đặc tả toàn cảnh đến toàn thể thiên nhiên rộng lớn theo lối bao quát toàn cảnh thường hiện ra trong dáng nét của giai nhân, tình nhân tràn trề xuân sắc:

- Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;

- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

Đó là những yếu tố cơ bản khiến cho những cảnh sắc quanh ta vốn thân quen bình dị mà qua cách cảm nhận của Xuân Diệu, nó lại thơ mộng và hấp dẫn đến thế

- Hình ảnh thiên nhiên quen thuộc bỗng trở nên hấp dẫn là nhờ Xuân Diệu có một lối cảm nhận riêng, mới lạ Có thể nói, Xuân Diệu đã cảm nhận nó bằng cảm xúc và cái nhìn trẻ Cái nhìn

này có hai biểu hiện: một là cảnh vật htiên nhiên hiện lên trong cái thời tươi (“Cho no nê thanh sắc của thời tươi”) của nó; mặt khác, cảnh sắc thiên nhiên cũng hiện ra trong cái độ tàn phai

(phải chăng độ tàn phai sắp sửa?) của nó

Cụ thể: Xuân Diệu đã khơi dậy vể tinh khôi, thanh tân, gợi tình trong sự vật; đồng thời, thi sĩ cũng đã nhìn các sựu vật ấy không phải bằng cái nhìn thường thức mà bằng cái nhìn luyến ái

chứa đựng khát khao chiếm hữu Nghĩa là ông chú ý đến vẻ xuân tình của cảnh vật và trút vào

mỗi cảnh vật cả xuân tình của lòng mình Vì thế, nét hấp dẫn trong hình ảnh thiên nhiên Xuân

Diệu, về thực chất, là vẻ hấp dẫn của xuân và tình thôi Bởi vì, tình là nội dung, xuân là hình thức ; tình dậy men bên trong phát lộ thành vẻ xuân bên ngoài Vẻ xuân của vạn vật chỉ là hiện thân của tình mà thôi, tất cả đều huy hoàng, tươi thắm :

Trang 23

- Của ong bướm này đây tuần tháng mật;

… này đây khúc tình si

- Tháng giêng ngon như một cặp môi gần ;

- Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;

… Cho no nê thanh sắc của thời tươi;

- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi.

Trái lại, bước vào độ phai tàn, cảnh sắc xung quanh còn xuân tình hơn nữa Đây là mặt tương phản của cái nhìn trẻ Vạn vật đều buồn bã, u ám :

Con gió xinh thì thào trong gió biếc,

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi.

Phải chăng sợ độ tàn phai sắp sửa?

- Cách nhìn nhận thiên nhiên ấy cho thấy Xuân Diệu ý thức rất sâu sắc rằng: giá trị lớn nhất của

đời người là tuổi trẻ, mà hạnh phúc lớn nhất của tuổi trẻ chính là tình yêu Một cách nhìn nhận

thật tích cực, với một tinh thần nhân văn mới

Câu 6: Phân tích nghệ thuật sử dụng ngôn từ ( điệp từ, tính từ,…) trong đoạn thơ từ câu 31 đến

câu 39, qua đó làm nổi bật tuyên ngôn về lẽ sống của nhà thơ Xuân Diệu?

Trả lời:

Nghệ thuật sử dụng ngôn từ trong đoạn thơ :

Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng,

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,

Cho no nê thanh sắc của thời tươi;

- Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi!

Có thể thấy cảm xúc tràn trề ào ạt đã khiến Xuân Diệu tìm đến một phép sử dụng ngôn từ khá đặc biệt Đó là tạo ra những làn sống ngôn từ đan xen nhau, cộng hưởng với nhau theo chiều tăng tiến, cùng lúc cùng dâng lên cao trào Trong đó, việc phối hợp các hệ thống trùng điệp đống vai trò rất chủ đạo

- Toàn bộ đoạn thơ được tổ chức thành tiếng lòng của nỗi khao khát mãnh liệt Tiếng lòng ấy là

một chuỗi điệp cú, hình thái thì điệp nguyên vẹn, động thái và cảm xúc thì điệp lối tăng tiến :Ta muốn ôm, Ta muốn riết, Ta muốn say, Ta muốn thâu, và cuối cùng Ta muốn cắn Vì thế tính cao

trào rất rõ nét

- Trong đó là sự hỗ trợ của hệ thống những điệp từ khác: liên từ - Và non nước , và cây, và cỏ rạng ; giới từ điệp nguyên vẹn, gắn với những trạng thái càng lúc càng mãnh liệt : ch chếnh choáng, cho đã đầy, cho no nê,…

Bên cạnh đó, phải kể đến những hệ thống những tính từ chỉ xuân sắc, động từ chỉ động thái đắm

Trang 24

say, những danh từ chỉ vẻ đẹp thanh tân tươi trẻ tạo ra những hình ảnh tình tứ quyễn rũ: bắt đầu mơn mởn, mây đưa gió lượn, cái hôn nhiều, cỏ rạng, mùi thơm, ánh sáng, thanh sắc, thời tươi, xuân hồng,…

Tất cả những phương tiện ngôn từ ấy đều được dùng thuần thục tinh vi, chuyển tải được nhuần

nhuyễn những tình ý mãnh liệt và táo bạo của cái tôi thi sĩ, chứng tỏ Xuân Diệu ngay từ khi còn

trẻ đã thực sự là bậc thầy về tiếng Việt

Câu 7: Qua bài thơ có thể hình dung cái tôi của Xuân Diệu như thế nào ?

- Một niềm thiết tha với cuộc sống trần thế

- Một khát khao sống mãnh liệt và một tâm thế sống cuồng nhiệt tích cực

XUÂN DIỆU PHẦN TRẮC NGHIỆM

Câu 1: Xuân Diệu được bầu làm Viện sĩ thơng tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật Cộng hịa dân chủ Đức

vào năm nào?

A Năm 1982

B Năm 1983

C Năm 1984

D Năm 1985

Câu 2: Vì sao từ nhỏ Xuân Diệu đã luơn khao khát tình yêu và sự thơng cảm của người đời?

A Vì Xuân Diệu là người đa tình

B Vì Xuân Diệu muốn mọi người hãy quan tâm mình nhiều hơn

C Vì Xuân Diệu sợ sự cơ đơn

D Vì Xuân Diệu phải xa mẹ từ nhỏ, thường bị hắt hủi, rất cơ đơn

Câu 3: Hai câu thơ "Sống tồn tim, tồn trí, sống tồn hồn Sống tồn thân và thư nhọn giác quan"

của bài thơ nào?

A Xuân khơng mùa

Trang 25

Câu 1: Hãy cho biết mối quan hệ giữa tiểu sử, môi trường gia đình, xã hội, thiên nhiên, văn hoá của

Xuân Diệu thời niên thiếu với những đặc điểm cơ bản của con người nhà thơ?

Trả lời:

Xuân Diệu tên thật là Ngô Xuân Diệu, sinh năm 1916 mất năm 1985 Ông thân sinh của Xuân Diệu

là một nhà nho, quê xã Trảo Nha, tỉnh Hà Tĩnh Ông đồ Nghệ vào dạy học ở Bình Định, lấy bà hai người làng Gò Bồi, xã Tùng Giản, huyện Tuy Phước và sinh ra Xuân Diệu Ít lâu sau, bà cả vào Bà

mẹ của Xuân Diệu không ở được phải về sốmng với bà Ngoại của Xuân Diệu Là một con người có trái tim nhạy cảm, lại phải xa mẹ từ nhỏ và bị hắt hủi (vì là con vợ lẽ), Xuân Diệu luôn khát khao tình thương Xuân Diệu lớn lên ở Qui Nhơn, học hết bậc Thành chung thì ra Hà Nội, rồi vào Huế

học tiếp, tâm hồn vốn dào dạt sóng biển, nồng nàn ngọn gió nồm Quy Nhơn “Quê mẹ nồm thổi lên tươi mát” lại được bừng tỉnh trước cảnh và người lộng lẫy đất Thăng Long, cùng vẻ đẹp đầy mộng

mơ của xứ Huế Xuân Diệu càng thêm yêu đời đắm say Tốt nghiệp tú tài, ông đi dạy học tư và làm viên chức một thời gian ở Sở Đoan, Mĩ Tho, nhưng chủ yếu là hoạt động văn học

Xuân Diệu bắt đầu có thơ đăng báo từ năm 1935, 1936 Ông là một người có đầy tài năng nhất là từ

khi Thơ thơ (1938) và Phấn thông vàng (1939) được xuất bản thì tên tuổi ông càmng nổi, càng vang

xa

Xuân Diệu tham gia Mặt trận Việt Minh từ cách mạng tháng Tám 1945 Từ đó cuộc đời ông gắn với cách mạng và nền văn học cách mạng Xuân Diệu có rất nhiều đong góp cho nền văn học nước nhà Ông xứng đáng đựơc xem là một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hoá lớn Năm 1983, ông được bầu là Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật Cộng hoà dân chủ Đức Ông được nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996

Xuân Diệu ảnh hưởng đức tính cần cù, siêng năng, kiên nhẫn trong học tập và lao động nghệ thuật ở cha mình Với Xuân Diệu, học tập, rèn luyện và lao động sáng tạo vừa là một quyết tâm khắc khổ, vừa là một lẽ sống một niềm say mê lớn

Về quá trình đào tạo, Xuân Diệu một mắt là trí thức tây học, đã hấp thụ ảnh hưởng của tư tưởng và văn hoá Pháp một cách có hệ thống trên ghế nhà trường, mặt khác do xuất thânn trong một gia đình nhà nho nên lại tiếp thu ảnh hưởng một cách tự nhiên của nền văn hoá truyền thống Vì thế, có thể tìm thấy ở nhà thơ sự kết hợp hai yếu tố cổ diển và hiện đại, Đông và Tây trong tư tưởng và tình cảm thẩm mỹ Tuy nhiên, văn hoá, văn học phương Tây vẫn có ảnh hưởng sâu đậm hơn

Mặt khác, Xuân Diệu lại có một trái tim lớn, một nguồn tình cảm yêu đời, yêu cuộc sống trần thế

Trang 26

một cách mãnh liệt đến cuồng nhiệt Trước khi mất Xuân Diệu còn để lại cho đời những vần thơ rất cảm động:

“Hãy để cho tôi được giã từ

Vẫy chào cõi thực để vào hư

Trong hơi thở chót dâng trời đất

Cũng vẫn si tình đến ngất ngư”

(Không đề) Câu 2: Thơ mới là tiếng nói thơ ca của cái tôi cá nhân Các nhà thơ mới nói chung đều có ý thức

khẳng định cái tôi cá nhân của mình Ở Xuân Diệu, sự khẳng định ấy có gì đặc biệt?

Trả lời:

Thoát khỏi hệ thống ước lệ của thơ cũ thời trung đại, các nhà thơ mới như lần đầu tiên nhìn cuộc đời

và vũ trụ bằng con mắt của chính mình Nhưng sự “thoát xác” ấy đến Xuân Diệu mới thật sự trọn vẹn Với cặp mắt “xanh non”, cặp mắt “biếc rờn” ngơ ngác và đầy sung sường, nhà thơ đã phát hiện

ra bao vẻ đáng yêu, đáng say đằm của thế giới và con người nơi trần thế rất đỗi bình dị này:

Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng,

Cho chếnh choáng mùi hương, cho đầy ánh sáng,

Cho no nê thanh sắc của thời tươi;

- Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi

(Vội vàng)

Với Xuân Diệu tất cả đều là : “tình thứ nhất”, đều là “mùa xuân đầu” Bởi vì trong con mắt ông

“tình không tuổi và xuân không ngày tháng” (Xuân không mùa) Tất nhiên, đẹp nhất vui nhất vẫn

là mùa xuân và tuổi xuân Một thế giới như thế kêu gọi con người ta phải biết sống mãnh liệt, sống

hết mình với nó: “Sống toàn tim, toàn trí, sống toàn hồn Sống toàn toàn thân và thức nhọn giác

quan” (Thanh niên) Và không thể dửng dưng trước thời gian một đi không trở lại (Vội vàng, Giục giã) Với một hồn thơ yêu đời, yêu sống như vậy, Xuân Diệu đã thổi vào phong trào Thơ mới một

luồng gió nồng nàn, sôi sục ít có trong thơ cxa truyền thống

Xuân Diệu là nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới nghĩa là có ý thức rất sâu sắc khẳng định cái tôi cá nhân của mình bằng nghệ thuật thơ ca Nhưng kha1xc với các cây bút kah1c trong phong trào Thơ mới, ông không đem cái tôi của mình đối lập với đời và tìm cách thoát ly cuộc sống này, trái lại ông muốn khẳng định nó trong quan hệ gắn bó với đời Xuân Diệu không chỉ làm thơ mà còn viết văn, nghiên cứu, phê bình văn học và dịch thuật Ông là người đa tài, luôn luôn yêu đời, khát khao giao cảm với đời

Câu 3: Hiểu thế nào về mâu thuẫn bi kịch trong thơ Xuân Diệu nói chung, thơ tình trước cách mạng

tháng Tám của ông nói riêng? Mâu thuẫn ấy thể hiện cụ thể trong thế giối hình tượng của ông như thế nào?

Trả lời:

Trang 27

Xuân Diệu có một tâm hồn khát khao giao cảm với đời, mang trong con người mình sự say đắm yêu thương và tình yêu bao giờ cũng đòi hỏi vô biên, khát khao tuyệt đích và vĩnh viễn Một tình yêu như thế, Xuân Diệu cảm thấy không thể tìm được trong thực tế Xuân Diệu thấy tình cảm mãnh liệt

của mình chỉ như “nước đổ lá khoai”, càng yêu càng thấy “Dại khờ”, thậm chí “Yêu là chết ở

trong lòng một ít” (Yêu).

Hay:

- Yêu tha thiết thế vẫn còn chưa đủ

Phải nói yêu trăm bận đến nghìn lần

(Phải nói)

- Làm sao sống được mà không yêu

Không nhớ, không thương một kẻ nào

(Bài thơ tuổi nhỏ)

Vì thế nội dung của hầu hết các bài thơ tình của Xuân Diệu là một nỗi đau của một trái tim đắm say, nồng nhiệt mà không được đền đáp xứng đáng, là cảm giác cô đơn giá lạnh trước thái độ lạnh nhạt của người đời Điều đó giúp ta hiểu vì sao trong thế giới nghệ thuật của Xuân Diệu, mùa xuân

và bình minh đi liền với những chiều thu tàn và những đêm trăng lạnh; sự nồng nàn đi liền với cảm giác bơ vơ; sự ham hố vồ vập với cuộc đời đi liền với nhu cầu thoát li tất cả, thậm chí muốn trốn

tránh cả chính bản thân mình (Cặp hài vạn dặm)

Câu 4: Xuân Diệu coi con người giữa tuổi trẻ và tình yêu là hoàn mỹ nhất Điều ấy có ảnh

hưởng gì đến những đổi mới trong cách sáng tạo hình ảnh thơ của ông so với nghệ thuật thơ ca truyền thống?

Diệu những hình tượng giàu sức sống và đầy xuân tình, xuân sắc

Câu 5: hãy cho biết những sự thay đổi tích cực của Xuân Diệu sau cách mạng tháng Tám? Trả lời:

Cách mạng tháng Tám thành công, hồn thơ Xuân Diệu nhanh cho1mng hòa nhập vào cách mạng, hòa nhập vào cuộc sống rộng lớn, sôi động của nhân dân Trước biển đời bao la ấy, những chuyện tâm tình của cái tôi tiểu tư sản dù phong phú thế nào cũng trở thành bé nhỏ, nghèo nàn Vì thế Xuân Diệu muốn mở rộng hồn thơ để ôm ấp lấy tất cả Ông say sưa viết về Tổ Quốc, nhân dân, Đảng, Bác Hồ, về hai cuộc kháng chiến vĩ đại chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, về sự nghiệp xây dựng đất nước với một tinh thần lạc quan sôi nổi Tài năng của ông được phát huy trên nhiều lĩnh vực

Với nhiệt tình cách mạng, từ tháng Tám năm 1945 Xuân Diệu đã đóng góp cho nền văn học Việt Nam một khối lượng sáng tác đồ sộ: mười ba tập thơ, năm tập bút kí, sáu tác phẩm dịch thơ nước ngoài

Trang 28

Sau cách mạng tháng Tám 1945, tài năng Xuân Diệu đặc biệt phát triển mạnh về nghiên cứu, phê bình văn học Ơng để mười sáu tập nghiên cứu, phê bình viết về hầu như đủ loại đối tượng: từ thơ Hồ Chí Minh, thơ tố Hữu, Huy Cận, Chế Lan Viên đến thơ Phạm Tiến Duật, Hồng Nhuận cầm rồi cả thơ ca quần chúng bộ đội, cơng nhân, nơng dân trong kháng chiến Nhưng Xuân Diệu đặc biệt dồn sức vào việc nghiên cứu, phê bình các nhà thơ cổ điển như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du,

Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Tú Xương Ơng muốn độc gỉ muơn đời sau vẫn đọc ơng và giao cảm với ơng khi tìm hiểu những thiên tài bất tử của dân tộc Ơng rất chú ý các già trị nhân văn, nhân bản của các nhà thơ này

LUYỆN TẬP VỀ THAO TÁC LẬP LUẬN BÁC BỎ

Câu 1: Hãy đọc hai đoạn trích của A L Ghéc-xen và Ngô Thì Nhậm và phân tích cách bác

bỏ trong hai đoạn trích sau:

Trả lời:

a) Nghệ thuật bác bỏ trong đoạn văn của Ghéc- xen:

- Nội dung: bác bỏ một quan niệm sai lầm - sống bó hẹp trong ngưỡng cửa nhà mình

- Cách bác bỏ: dùng lí lẽ bác bỏ trực tiếp, kết hợp so sánh bằng hình ảnh sinh động (mảnh

vườn rào kín, đại dương mênh mông bị bảo táp làm nổi sóng) để vừa bác bỏ vừa nêu ý đúng,

động viên người đọc làm theo

- Diễn đạt: từ ngữ giản dị, có mức độ, phối hợp câu tường thuật và câu miêu tả khi đối chiếu, so sánh khiến đoạn văn sinh động, thân mật, có sức thuyết phục cao

b) Nghệ thuật bác bỏ trong đoạn văn của Ngô Thì Nhậm :

- Nội dung: Vua Quang Trung (trẫm) bác bỏ thái độ e ngại, né tránh của những hiền tài (người học rộng tài cao) không chịu ra giúp nước trong buổi đầu nhà vua dựng nghiệp.

- Cách bác bỏ: không phê phán trực tiếp mà phân tích những khó khăn trong sự nghiệp chung,

nỗi lo lắng và lòng mong đợi người tài của nhà vua đồng thời khẳng định trên dải đất văn hiến

của nước ta không hiếm người tài để bác bỏ thái độ sai lầm nói trên, động viên người hiền tài ra giúp nước

- Diễn đạt: từ ngữ trang trọng mà giản dị; giọng điệu chân thành, khiêm tốn; sử dụng câu tường

thật, kết hợp câu hỏi tu từ; dùng lí lẽ kết hợp hình ảnh so sánh (Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn),… Đoạn văn có tác dụng vừa bác bỏ, vừa động viên, khích lệ, thuyết phục đối tượng (người tài danh) ra giúp nước.

Câu 2: Trong buổi hội thảo về kinh nghiệm học môn Ngữ văn của lớp có hai quan niệm:

a Muốn học giỏi môn Ngữ văn chỉ cần đọc nhiều sách, học thuộc nhiều thơ văn

b Không cần đọc nhiều sách, không cần học thuộc nhiều thơ văn, chỉ cần luyện nhiều về tư duy, về cách nói cách viết là có thể học giỏi môn Ngữ văn

Hãy bác bỏ một trong hai quan niệm đó, rồim đề xuất một vài kinh nghiệm học Ngữ văn tốt nhất

Trả lời:

Khi tiến hàng thao tác lập luận bác bỏ, cần chú ý:

- Không nên phủ định hoàn toàn Đọc nhiều sách, học thuộc nhiều thơ văn cũng như rèn luyện để có một cách tư duy, cách nói, cách viết tốt đều là những yếu tố rất quan trọng có thể học giỏi môn Ngữ Văn Đó đều là các điều kiện cần

Trang 29

- Tuy nhiên, vẫn có cơ sở để có thể bác bỏ cả hai cách hiểu trên Bởi các cách ất tuy không phải hoàn toàn sai, nhưng cũng không hoàn toàn đúng.

Mỗi cách hiểu đều nêu được những điều kiện cần, nhưng lại chưa phải là những điều kiện đủ.Bởi học môn Ngữ văn là công việc không đơn giản Ngữ văn là khoa học về tiếng nói, trước hết là tiếng nói của dân tộc (ngữ), và khoa học về con người trong đời sống (văn) Muốn học giỏi môn Ngữ văn, người học trước hết phải biết yêu tiếng mẹ đẻ, biết yêu con người và đời sống, khao khát tìm hiểu đời sống, con người và chính bản thân mình để có thể sống tốt đẹp hơn và giải bày tư tưởng, cảm xúc của mình một cách chân thực hơn Từ đó, người học mới có động cơ đúng đắn và nghị lực để đọc sách, học thuộc nhiều thơ văn để rèn luyện cách suy nghĩ đúng đắn, chặt chẽ, cách nói, cách viết chính xác, hấp dẫn

Câu 3: Hãy luyện viết những đoạn văn có thao tác lập luận bác bỏ.

Trả lời:

Có thể tham khảo các đoạn văn có sử dụng thao tác lập luận bác bỏ sau đây:

a) Thời chiến tranh, bom đạn, thuốc hoá học,… đã huỷ hoại tàn khốc môi trường Nay thời bình, môi trường vẫn bị huỷ hoại không kém…

Đành phải nói đấy là sự thật Nông dân Việt Nam vẫn còn rất nhiều người nghèo Cái nghèo buộc họ phải khai thác thiên nhiên để sống Cứ thấy nhiều vùng, nhiều người giàu lên vì con tôm sú, nên họ cũng ào ạt đi theo Nuôi tôm, nhưng đất đai hạn chế, sinh ra chuyện phá rừng ngập mặn, bỏ lúa, lập vuông nuôi

Dân mình vẫn còn nhiều người có tâm lí: cứ lợi dụng được gì, lợi dụng nấy Chặt một vạt rừng, thải một mớ rác, mà cứ nghĩ không ảnh hưởng đến ai Hình như họ không thấy rằng, rừng giảm dần tiện ích, điều đó đồng nghĩa với một môi trường sinh sản của nhiều loài thủy sản, động vật sinh sống tạiđó bị ảnh hưởng Nguồn lợi thiên nhiên suy giảm đã đành, huyện chắn gió, chống sạt lở bờ biễn cũng ảnh hưởng theo

Có nơi, nông dân còm làm áp lực để Nhà nước cho họ bỏ lúa nuôi tôm mà chưa tính đến chuyện mình có vững kỹ thuật nuôi hay không, đất vùng đó có thích hợp không Đất nuôi tôm nhiễm mặn, dễ nhiễm mầm bệnh Cộng thêm lượng thức ăn cho tôm bị dư, lâu ngày hoá thành chất sunfic, vô tình tạo môi trường tốt cho các vi khuẩn gây bệnh bám vào tôm Nhiều nơi, có vuông tôm chết sạch vì bệng đốm trắng Đâu dừng lại ở đó! Nhà nước hiện thiếu kinh phí đầu từ thủy lợi hợp lý cho nuôi thủy sản, nên ở các vùng nuôi tôm, nước từ vuông tôm bị bệnh Rồi sự di chuyển của nguồn nước ấy, cảnh báo kéo theo sự tàn phá thảm thực vật ven kênh rạch, rừng ngập mặn ven biển, diệt cat nhiều loại thủy sản quý trong tự nhiên

Nông dân có tâm lý “hễ thua phải gỡ” Thất vụ này, gầy vụ khác Có người chỉ cho đá là do con giống, do thời tiết chứ không ngờ tôm chết có thể hính từ ảnh hưởng môi trường Thậm chí, nhiều người chưa nhận thức rõ việc nuôi tôm của họ ảnh hưởng đến môi trường như thế nào? Đất nuôi tôm, nước mặn đã phá cấu trúc đất Muốn chuyển trở lại trồng lúa, phải mất 5 – 6 năm, thậm chí

10 năm mới thực sự ngọt hoá trở lại để lúa phát triển tốt

Thực ra giải pháp khắc phục đã có từ lâu, nhưng thực hiện được hay không mới khó Ở xi-a, Chính phủ đứng ra vay tiền của Ngân hàng Thế giới, đầu tư hệ thống thủy lợi phù hợp cho hàng ngàn hec – ta Nước vào vuông hay thải ra, có hệ thống xử lý riêng biệt, không gây ảnh hưởng môi trường Nông dân chỉ việc đến nhận đất, nuôi tôm theo định hướng, kế hoạch cụ thể theo sự hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật

In-đô-nê-Còn ở ta, trước mắt có thể nuôi tôm theo mô hình tôm- lúa Nước mặn chỉ xâm xấp ở tầng trên, chất thả qua quá trình nuôi, đến mùa mưa khi gieo trồng lúa có thể “nhờ” cây lúa xử lý

Trang 30

(Theo Võ Tòng Xuân, Đang quên môi trường, tạp chí Tia Sáng,

ngày 5 – 1 - 2007)b/- Đọc Thạch Lam, có người chê câu văn Thạch Lam và nói chung văn phẩm Thạch Lam là ít

động tác, ít hành động và kết luận : “Cho nên Thạch Lam viết truyện dài không thành công” Tôi đồng ý là truyện dài “Ngày mới” của Thạch Lam không thành công, nhưng rất dè dặt về cái điểm “Câu văn và văn phẩm nhất thiết phải có động tác, phải nhiều hành động”, bởi vì nhiều khi,

nhiều động tác quá thì hoá ra túi bụi Cái chính trong truyện là nhân vật có làm, phải làm cái này cái kia, nhưng nhân vật còn phải có cảm có nghĩ, có suy nghĩ nữa Và cái thế giới bên trong đó của một nhân vật của những nhân vật rất là cần thiết cho sinh khí tiểu thuyết Cái phần ấy mới đem đến cho nhân vật một cái chiều sâu và do cái thâm thúy đó mới thoả mãn được người bạn đọc và giúp gì cho người bạn đọc

ĐÂY THÔN VĨ DẠ PHẦN TRẮC NGHIỆM

Câu 1: Tập Thơ Điên của Hàn Mặc Tử đổi tên thành Đau thương vào năm nào?

A Năm 1938

B Năm 1939

C Năm 1940

D Năm 1941

Cââu 2: Câu thơ "Sao anh khơng về chơi thôn Vĩ?" mang sắc thái ý nghĩa như thế nào?

A Vừa hỏi han vừa hờn trách

B Là lời trách giận

C Là một sự hồi nghi

D Là lời ướm hỏi mang đậm mối hồi nghi

Câu 4: Qua ba khổ thơ ta thấy tâm trạng thi sĩ diễn biến như thế nào?

A Hồi vọng phấp phỏng – mơ tưởng hồi nghi – ao ước đắm say

B Ao ước đắm say - hồi vọng phấp phỏng – mơ tưởng hồi nghi

C Ao ước đắm say - mơ tưởng hồi nghi - hồi vọng phấp phỏng

D Mơ tưởng hồi nghi - hồi vọng phấp phỏng - ao ước đắm say

Câu 5: Hình nào sau đây không có trong bài thơ?

A Nắng mới lên

B Hàng cau

C Nón Huế

D Thuyền

Trang 31

Hàn Mặc Tử có nhiều bút danh như Phong Trần, Lệ Thanh ông nổi tiếng là thần đồng thơ từ nhỏ Đến năm 1935 thì ông đổi bút danh thành Hàn Mặc Tử Hàn Mặc Tử được xem như là hiện tượng thơ kì lạ bậc nhất của phong trào Thơ mới.

Cuộc đời tuy ngắn ngủi nhưng những gì Hàn Mặc Tử để lại cho nền văn học nước nhà thì thật là

vô cùng có ý nghĩa, to lớn Tác phẩm chính: Thơ Điên (về sau đổi thành Đau thương, năm 1938); Xuân như ý; Thượng thanh khí; Cẩm châu duyên và kịch thơ: Duyên kì ngộ (1939); Quần tiên hội (1940) Ngoài tập Gái quê in lúc sinh thời, toàn bộ những phần còn lại chỉ được in sau khi Hàn

Mặc Tử đã qua đời

Trong thơ Hàn Mặc Tử có sự đan xen của các hình ảnh, những gì thân thuộc, thanh khiết, thiêng liêng nhất và cả những gì ghê rợn, ma quái, cuồng loạn nhất Ngay cả những hình ảnh ấy cũng không hề thuần nhất mà có khi biến tướng mỗi lúc một khác Thậm chí từng hình ảnh cũng có sự phân thân khác nhau, đối lập nhau Tuy nhiên, đằng sau thế giới hình ảnh phức tạp kia, vẫn hiện rõ một con người chứa chan lòng yêu sống đó là căn cốt lành mạnh trong thơ Hàn Mặc Tử

Câu 2: Hãy nêu xuất xứ bài thơ?

Trả lời:

Hồi còn làm ở Sở Đạc điền Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử có mối tình đơn phương với Hoàng Thị Kim Cúc, con gái chủ sở, người Huế Chưa ngã ngũ vào đâu thì Hàn Mặc Tử vào Sài Gòn làm báo, lòng vẫn nuôi hi vọng Lúc trở lại Quy Nhơn thì Hoàng Cúc đã theo cha về hẳn ngoài Huế, thi sĩ rất đau khổ Về sau, khi được biết Hàn Mặc Tử mắc bệnh hiểm nghèo, phải xa lánh mọi người để chữa bệnh, Hoàng Cúc đã gửi vào cho ông một tấm thiếp kèm theo vài lời động viên Tấm thiếp là bức phong cảnh in hình dòng sông với cô gái chèo thuyền bên dưới những cành lá trúc loà xoà, phía xa xa là ráng trời có thể là rạng động cũng có thể là hoàng hôn Nhận được tấm thiếp ở một xóm vắng Bình Định, nơi cách li để chữa bệnh, xa xứ Huế, Hàn Mặc Tử rất nghẹn ngào Tấm thiếp đã có một tác động rất mạnh đến hồn thơ Hàn Mặc Tử: những ấn tượng về xư Huế lập tức thức dậy cùng với một niềm yêu đời vô bờ bến Thi sĩ đã cầm bút viết ngay bài thơ này

Theo tài liệu gần đây của Phạm Xuân Tuyển thì bài thơ ban đầu có tên là “Ở đây thôn Vĩ Dạ”

Theo nhà sưu tầm này, thì ở cái nơi Hàn Mặc Tử đang điều trị, vào thời điểm viết bài thơ, có

những cảnh gần với tấm thiếp kia Cùng với chữ “ở đây” của nhan đề, điều này cũng cung cấp

thêm một căn cứ để khẳng định miền sông Hương xứ Huế Mà cảnh có sự giao chuyển trộn lẫn cả chốn kia (Vĩ Dạ) với nơi này (ở đây)

Trang 32

Câu 3: Hãy giới thiệu đôi nét về tập Đau Thương?

Trả lời:

Tập thơ này vốn có tên là Thơ Điên hoàn thành năm 1938, về sau tác giả đổi thành Đau Thương

Không nên hiểu “điên” như một trạng thái bệnh lí (tương ứng với bệnh loạn thần kinh), mà cần hiểu “điên” như một trạng thái sáng tạo (nghệ sĩ lâm vào một cơn sáng tạo miên man mãnh liệt, gần với trạng thái xuất thần) Đồng thời cần hiểu “điên” như một quan niệm thẩm mĩ độc đáo về

một lối thơ ca mà Hàn Mặc Tử đã chịu ảnh hưởng từ thơ Pháp Lối Thơ Điên của Hàn Mặc Tử

nổi lên những đặc trưng cơ bản sau:

- Điệu cảm xúc đặc thù của Thơ Điên là đau thương

- Hình tượng chủ để của Thơ Điên là cái li hợp bất định (vừa làm mình, vừa phần thân ra cùng

một lúc nhiều mình khác nữa)

- Kênh hình ảnh đặc thù của Thơ Điên là những hình ảnh kỳ dị, kinh dị

- Mạch liên kết trong Thơ điên là dòng tâm tư bất định với những đứt nối đầy bất ngờ, khiến cho mạch thơ thường có vẻ “đầu Ngô mình Sở”

- Lớp ngôn từ nổi bật của Thơ Điên là lớp từ cực tả (có thiên hướng biểu tả ở mức cực điểm) Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ thật trong trẻo, nhưng chính Hàn Mặc Tử đã xếp nó trong tập Thơ Điên này Bài thơ không có những đặc trưng đầy đủ của lối Thơ Điên, nhưng đạng cảm xúc ở đây

là nỗi khát khao đã nhuốm màu đau thương với những uẩn khúc của nó, rồi mạch liên kết đây đứt nối, cùng những ngôn từ thơ có thiên hướng biểu tả ở mức cực điểm rải rác trong đó nữa đã cho thấy Hàn Mặc Tử xếp nó vào tập thơ này không hoàn toàn vô cớ

Câu 4: Bài thơ có ba khổ, mỗi khổ nghiêng về một cảnh sắc, một tâm tình Hãy nêu nhận xét về

sắc thái khác nhau ở mỗi khổ thơ?

Trả lời:

- Khổ 1: Cảnh vườn thôn Vĩ tươi sáng trong nắng mai, với cảnh sắc bình dị mà tinh khôi, đơn sơ mà thanh tú, nghiêng về cõi thực Cảm xúc ẩn trong cảnh là nỗi ước ao và niềm đắm say mãnh liệt

- Khổ 2: Cảnh sông nước đêm trăng huyền ảo Nét thực nét ảo cứ chấp chờn chuyển hoá Cảm xúc nghiêng về mong ngóng lo âu

- Khổ 3: Hình bóng “khách đường xa” và chốn sương khói mông lung Cảnh chìm trong mộng ảo

Cảm xúc nghiêng về mơ tưởng và hoài nghi (không dám hi vọng)

Tóm lại, về cảnh, ba khổ thơ liên kết với nhau không tuân theo tính liên tục của thời gian và tính duy nhất của không gian Nhưng về cảm xúc thì mạch vận động lại nhất quán trong cùng dòng tâm tư Cụ thể là dòng chảy đầy những đức nối của một niềm thiết tha gắn gò với đời, thiết tha sống đến khắc khoải

Vì thế, bố cục có vẻ “đầu Ngô mình Sở” nhưng lại liền mạch, liên khối Đây là một nét độc đáo của thi phẩm

Câu 5: Mỗi khổ thơ trong bài đều chứa đựng câu hỏi Hệ thống câu hỏi góp phần tạo nên âm

điệu riêng của bài thơ Aâm điệu ấy đã thể hiện mạch tâm trạng gì của tác giả?

Trả lời:

- Xác định các câu hỏi trong bài thơ:

Khổ 1: Sao anh không về chơi thông Vĩ? Và một câu không có dấu hỏi (?), nhưng ngữ điều cũng có phần nghiêng về hỏi: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc …

Trang 33

Khổ 2: Thuyền ai đậu bến sông trắng đó – Có chở trăng về kịp tối nay?

Khổ 3: Ai biết tình ai có đậm đà?

- Xác định tính chất của các câu hỏi:

Nhìn chung, đây không phải là những câu hỏi vấn đáp Nghĩa là những câu hỏi không đợi câu trả lời Hỏi chỉ là hình thức bày tỏ nỗi niềm tâm trạng Các câu hỏi ấy phân bố khắp toàn bài Vì thế âm điệu toàn bị chi phối bởi ngữ điệu của những câu hỏi ấy Nó cách khác, cảm xúc trong khi phẩm một phần lớn đã được chuyển tải trong âm điệu của những câu hỏi kia

Cụ thể: Câu hỏi thứ nhất Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Là câu hỏi nhiều sắc thái: vừa hỏi han,

vừa hờn trách, vừa nhắc nhớ, vừa mời mọc Tác giả đang tự phân thân để hỏi chính mình về một việc cần làm, đáng ra phải làm từ lâu mà giờ đây không biết có còn cơ hội để thực hiện nữa không, là về lại thôn Vĩ, thăm lại cảnh cũ chốn xưa là nơi Hàn Mặc Tử từng lui tới hồi còn là học sinh trường Pellerin Huế, hơn thế nữa, đó bây giờ đang là nơi Hoàng Cúc về ở và tấm thiếp vừa đến tay Hàn Mặc Tử đã được gửi đi từ đó Sự phân thân và những sắc thái phức tạp đan xen trong cùng một câu hỏi đã cho thấy nỗi ước ao trở về thôn Vĩ vừa mãnh liệt vừa uẩn khúc, không dễ bày tỏ thẳng ra Nghĩa là ao ước nhưng cũng đầy mặc cảm về khả năng thực hiện ao ước của mình

Câu hỏi thứ hai Thuyền ai đậu bến sông trắng đó – Có chở trăng về kịp tối nay? Ngữ điệu hỏi thể hiện trong các từ “thuyền ai” … “đó”, “có chở”…”kịp” trong câu đã toát lên một niềm hi vọng

đầy khắc khoải và phấp phỏng trong tâm trạng thi sĩ

Câu hỏi thứ ba Ai biết tình ai có đậm đà? Là lời ướm hỏi, dò hỏi mang đậm một mối hoài nghi.

Chiều hướng diễn biến trong tâm trạng của thi sĩ qua ba khổ thơ là: ao ước đắm say – hoài vọng phấp phỏng – mở tưởng hoài nghi Càng về sau càng có phần âm u sầu muộn Tất cả đều chỉ là những cung bậc khác nhau của một mối u hoài Song, phải thấy rằng cốt lõi của mối u hoài đó vẫn là một niềm thiết tha với đời, một khát khao gắn bó khôn nguôi Nghĩa là nỗi u hoài tích cực một tâm hồn trong trẻo, lành mạnh, chứ không phải nỗi chán chường tiêu cực

Câu 6: Hình ảnh “nắng hàng câu nắng mới lên” thật giản dị, cũng thật giàu sức gợi Hãy dùng

những hiểu biết và trí tưởng tượng của mình để cảm nhận và tái tạo vẻ đẹp của hình ảnh ấy

Trả lời:

Hình ảnh “nắng hàng cau nắng mới lên” thật giản dị cũng giàu sức gợi về thôn Vĩ trước tiên là

để được “nhìn” hình ảnh “nắng hàng cau nắng mới lên” Rõ ràng, hình ảnh này là ấn tượng hàng đầu về thôn Vĩ, nó đã in rất đậm trong kí ức của người đi xa, đến nỗi vườn thôn Vĩ hiện lên trước tiên là bằng hình ảnh ấy

Có thể so sánh với hình ảnh nắng trong các câu thơ Hàn Mặc Tử ở bài Mùa Xuân chín: “Trong

làn nắng ửng khói mơ tan” hay “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang” Trong các câu đó, nắng

đều được tả khá trực quan, lập tức gây ấn tượng đối với người đọc Còn trong câu này, không có

chữ nào như thế Tác giả chỉ gợi chứ không tả: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên” Nhưng hình

ảnh vẫn có sức ám ảnh người đọc, bởi nó gián tiếp gợi lên vẻ tinh khôi, thanh khiết và thanh thoát của thứ nắng ấy Tóm lại, hình ảnh trong câu thơ thuộc dạng hình ảnh giản dị nhưng rất giàu sức gợi Nó thú vị không chỉ bởi những gì chứa sẵn, mà còn bởi những gì có thể gợi ra trong ký ức người đọc

Câu 7: Có cảm nhận gì về ý nghĩa của hai câu thơ: “Gió theo lối gió mây đường mây – Dòng

nước buồn thiu hoa bắp lay”?

Trả lời:

Sự chia lìa li tán trong hai câu thơ “Gió theo lối gió, mây đường mây – Dòng nước buồn thiu hoa

Trang 34

bắp lay” được gợi lên qua cả hình ảnh và nhịp điệu Đáng chú ý là tính chất khác thường, ngang

trái của nó

Về hình ảnh, có thể thấy ngay vẻ phi lí Nhìn theo lô gích hiện thực thì mây gió làm sao có thể

tách rời Gió có thể bay “theo lối gió”, nhưng mây làm sao có thể tự bay theo đường mây được

Gió có thổi và mây, mỗi đằng đi một ngả Sự chia lìa này là ngang trái, phi hiện thực, phi lí Vậy thì sao có thể có hình ảnh như thế? Thi sĩ tạo ra hình ảnh này không phải bằng cái nhìn thị giác, mà bằng cái nhìn của mặc cảm: mặc cảm chia lìa Mang nặng mặc cảm của một người thiết tha gắn bó với đời mà đang có nguy cơ phải chia lìa với cõi đời, nên thi sĩ nhìn đâu cũng thấy chia lìa Thậm chí, thấy cả những chia lìa ở những thứ tưởng không thể chia lìa

Về nhịp điệu, cũng có sự khác thường Câu thơ thất ngôn thường đi nhịp 2 / 2/ 3 ở đây, nó được cát thành nhịp 4 / 3 mỗi đối tượng bị cách li trong một khuôn nhịp riêng biệt, làm nổi bật sự lia

xa nhau Nhịp thơ cắt đôi tựa như sự chia rẽ, chia phôi ngang trái

Cả hai yếu tố này quyện vào nhau khiến cho cuộc chia lìa gió mây càng sắc nét, gây nên cảm xúc đâu buồn

Câu 8: Khổ thơ thứ hai có hai câu: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó – Có chở trăng về kịp tối

nay?” Chữ “kịp” gợi lên điều gì về mối tâm tư đầy uẩn khúc của tác giả?

đi, dòng nước buồn thiu cũng đang chảy trôi đi … Tất cả đều như đang chia lìa, rời bỏ chốn này mà đi, khiến cho hồn thi sĩ quá nhạy cảm thấy như mình đang bỏ lại, bỏ rơi bên bờ quên lãng Trong khoảnh khắc đơn coi ấy, dường như chỉ còn biết bám víu, trông chờ vào trăng nữa thôi Trăng là điểm tựa, là sự cứu rỗi duy nhất Cho nên thi sĩ đã đặt toàn bộ hi vọng vào trăng, vào con thuyền chở trăng về “kịp ” tối nay Trong khổ thơ, chỉ có một mình trăng là đi ngược lại xu

thế chảy đi đó để về với thi sĩ “Thuyền ai đậu bén sông trăng đó – Có chở trăng về kịp tối nay?”

Ta thấy rõ lời thơ chứa đựng bao phấp phỏng lo âu khắc khoải

Song yếu tố thể hiện sâu xa và kín đáo hơn cả về tâm tư và thân phận của Hàn Mặc Tử lại chính

là chữ “kịp” Chính nó hé mở cho người đọc về cảm nhận và tâm thế sống của Hàn Mặc Tử:

Cảm nhận về một hiện tại ngắn ngủi và sống là chạy đua với thời gian, tranh thủ từng ngày, từng buổi trong cái quỹ thời gian còn quá ít ỏi của số phận mình Có thể so sánh với Xuân Diệu để làm rõ hơn điều này Cũng là chạy đua với thời gian, nhưng tâm thế của cái tôi Xuân Diệu khác Xuân Diệu cảm nhận về cái chết luôn chờ mỗi con người ở cuối con đường, nên cần tranh thủ sống mà tận hưởng tối đa những hạnh phúc vô song rồi Có lẽ vì vậy mà chữ “kịp” nghe thật phấp phỏng, khắc khoải gây nổi xót thương sâu sắc ở người đọc Chừng như không “kịp”, thì thi

sĩ sẽ vĩnh viễn rơi vào cô đơn và đau thương

Câu 9: Câu thơ “Ai biết tình ai có đậm đà?” có chút hoài nghi Đó là nỗi hoài nghi của lòng chán

đời hay của niềm tha thiết với cuộc đời? Tại sao?

Trả lời:

Câu thơ “Ai biết tình ai có đậm đà?” là câu thơ nhuốm màu hoài nghi Hoài nghi về sự đậm đà trong tình cảm của “ai” đó Chữ “ai” thứ nhất chỉ là chủ thể thi sĩ Chữ “ai” thứ hai trong câu có

Trang 35

thể hiểu nghĩa hẹp là “khách đường xa” kia, cũng có thể hiểu theo nghĩa rộng là tình người trong cõi trần ai này Nhìn kĩ, sắc thái tâm lý ở đây không phải không tin vào sự “đậm đà” của “ai”

đó, mà không dám tin thì đúng hơn Không tin thì nghiêng về sự lạnh lùng là hoàn toàn không mong đợi gì, là thái độ chán đời; còn không dám tin thì vẫn bao hàm cả một hi vọng sâu kín, chỉ không biết mình có thể tin và có quyền được tin thế không thôi Nghĩa là hoài nghi của một người yêu đời, yêu sống Có thể thế mới thấy được những uẩn khúc của lòng thiết tha với cuộc đời những cũng đầy mặc cảm của Hàn Mặc Tử

Câu 10: Câu thơ “Aùo em trắng quá nhìn không ra” đã dẫn tới các cách hiểu khác nhau:

a/- Do lẫn vào sương khói nên nhìn không rõ;

b/- Đây là một cách ca tụng sắc áo trắng đến lạ lùng

Hãy đưa ra cách hiểu của mình và bác bỏ những cách còn lại

Trả lời:

Trong hai cách hiểu thì cách hiểu thứ hai phù hợp hơn cả Vì:

- Theo phong cách ngôn ngữ rất đặc thù của tác giả Thơ Điên là cực cả, nghĩa là có thiên hướng

biểu tả ở mức cực điểm, thì trong bài thơ này, không phải đây là lần duy nhất Hàn Mặc Tử kể

lên như vậy Ở khổ 1, đã có câu Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Đó cũng là cáhc cự tả về sắc

xanh kỳ lạ của mảnh vườn

- Trong hệ thống hình ảnh của thi phẩm; vườn nắng, thuyền trăng, áo trắng tất cả đều ánh lên sắc thái lạ lùng Chúng hợp thành diện mạo một cõi trần giân tuyệt đẹp mà thi sĩ càng mang nặng mặc cảm chia lìa bao nhiêu càng thiết tha gắn bó hơn bao giờ hết

- Trong quan niệm của Hàn Mặc Tử, trinh bạch, thanh khiết là vẻ đẹp ấy thường hiện ra trong sắc trắng lạ lùng Sắc áo trắng tinh khôi loá sáng đó của người thiếu nữ – khách đường xa mà ông đang khát khao mơ tưởng ấy, chính là một hiện tượng của vẻ đẹp kia Nó là một trong những lý do khiến thi sĩ thèm được sống mãi với cõi đời này

Tuy nhiên, hai cách hiểu trên vẫn chưa thật phù hợp vì chỉ dựa vào những căn cứ bề ngoài (như

bị ám ảnh và ngộ nhận vì màn sương khói – trắng quá nhìn không ra chứ đâu phải mờ quá nhìn

không ra, hay chỉ dựa thuần tuý vào nghĩa sơn khai của cụm từ “nhìn không ra”), nên khó nhìn

thoả đáng được hình ảnh thư trong mối liên hệ với những khía cạnh sâu xa thuộc về phong cách ngôn ngữ, cấu trúc hình tượng trong văn bản và tư tưởng của Hàn Mặc Tử

TRÀNG GIANG PHẦN TRẮC NGHIỆM

Câu 1: Bài thơ Tràng giang được in trong tập thơ nào?

A Lửa thiêng

B Trời mỗi ngày lại sáng

C Đất nở hoa

D Bài thơ cuộc đời

Câu 2: Bài thơ nào sau đây không có những thi liệu, hình tượng giống với bài thơ Tràng giang?

A Đăng cao

B Tỳ bà hành

C Hoàng Hạc lâu

Trang 36

D Phong Kiều dạ bạc

Câu 3: Bài thơ nào sau đây không có gửi gắm tình yêu nước thầm lặng giống với bài thơ Tràng

giang?

A Gánh nước đêm

B Nhớ rừng

C Thề non nước

D Đây mùa thu tới

Câu 4: Ai là người đã khen hình ảnh củi một cành khô – là "một chi tiết văn xuôi sống sít"?

A Hoài Thanh

B Tản Đà

C Đặng Thai Mai

D Xuân Diệu

Câu 5: Câu thơ "Thuyền về nước lại sầu trăm ngả Củi một cành khô lạc mấy dòng" sử dụng thủ

pháp gì nổi bật?

A Nhân hóa

B Ẩn dụ

C Tương phản

D Lập cấu trúc

Bảng đáp án:

1942, ông tham gia mặt trận Việt Minh ở tổ chức Văn hòa cứu quốc, rồi tham dự Quốc dân đại hội Tân trào Tại đây ông được bầu vào Ủy ban dân tộc giải phóng toàn quốc Sau cách mạng tháng Tám 1945 ông luôn giữ các chức vụ chính phủ và trong Hội Liên hiệp văn học – Nghệ thuật Việt Nam Ông được nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí minh về văn học nghệ thuật năm 1996

Từ khi còn đi học, Huy cận đã bắt đầu làm thơ Với tập Lửa thiêng (1940), ông được biết đến như

một thi sĩ hàng đầu của phong trào Thơ mới Sau Cách mạng tháng Tám, Huy Cận phải mất một khoảng thời gian dài để đổi mới tiêng thơ Từ năm 1958, nguồn thơ ông lại tuôn chảy dồi dào,

các sáng tác liên tiếp ra đời: Trời mỗi ngày lại sáng (1958); Đất nở hoa (1960); Bài thơ cuộc đời (1963); Hai bàn tay em (1967); Những năm sáu mươi (1968); Chiến trường gần đến chiến trường

xa (1973); Ngày hằng sống, ngày hằng thơ (1975) Huy Cận luôn lắng nghe và khát khao sự hòa

điệu giữa lòng người với tạo vật, giữa cá thể với quần chúng nhân dân

Tràng giang in trong tập Lửa thiêng, là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Huy Cận.

Trang 37

Câu 2: Hãy nêu phong cách thơ Huy Cận?

Trả lời:

Xuất hiện vào giai đoạn toàn thịnh của phong trào Thơ mới, Huy Cận là một trong những thi sĩ có công lao đưa phong trào này lên đỉnh cao Ở độ chín nhất, phong cách thơ Huy Cận có sự kết hợp nhuần nhuyễn những yếu tố cổ điển, nhất là cổ điển Đường thi, với yếu tố thơ mới Cụ thể là

hoà hợp trong cái “sầu vạn kỉ” của Huy Cận cả mối sầu vũ trụ và thế nhân từng chan chứa trong thơ Đường với nỗi cô đơn của cái tôi cá nhân cá thể trong cái thời thơ mới Nỗi niềm ấy thời chung đúc vào hình ảnh điển hình nhất của cái tôi trong Lửa thiêng : kẻ lữ thứ bơ vơ trong không

gian vô cùng vô tận, trôi dạt trong thời gian vô thuỷ vô chung Đồng thời là sự hoà hợp giữa hệ thống thi pháp thơ Đường với những nét thi pháp của thơ tượng trưng Pháp Vì những lẻ đó mà bước vào mỗi thi phẩm Huy Cận, người ta đều thấy bàng bạc một phong vị Đường thi

Trong bài Tràng giang này cũng htế, chất Đường thi thấm đượm từ thi đề, thi tứ đến thi liệu và

những thủ pháp nghệ thuật Viết về tạo vật thiên nhiên cổ kính, hoang sơ với tầm vóc mênh mang vô biên là thi đề rất phổ biến trong thơ Đường, nhất là thi đề “cao sơn, lưu thuỷ” Trong đó, tạo ra hình tượng một cá thể lẻ loi hoặc bơ vơ trước tạo vật vô cùng, hoặc mất hút giữa thiên

nhiên vô tận là cách tạo tư thơ khá phổ biến Những hình tượng như bóng chim mỏi, chòm mây lẻ, ánh tà dương, dải non ngàn, miền gò bãi, bóng thuyền đơn, đám bèo dạt, con nước dâng, màn khói sóng, đã trở thành những thi liệu hết sức quen dùng.

Câu 3: Hãy nêu cảm nhận của mình về âm điệu chung của toàn bài thơ? Aâm điệu ấy đã góp

phần thể hiện tâm trạng gì của tác giả trước thiên nhiên?

Trả lời:

Bài thơ viết theo thể thất ngôn, nên âm điệu về căn bản là âm điệu thơ thất ngôn Aâm điệu này được tạo bởi sự hoà hợp của cả nhịp điệu và thanh điệu Thực ra, nhịp thơ trong toàn bài, về căn bản, vẫn là những khuôn nhịp 2/ 2/ 3 Tuy nhiên, điều đáng nói là nhịp thơ luôn có thiên hướng trải dài, nhịp 2/ 2/ 3 nhiều khi muốn nở dài ra thành nhịp 4/ 3 Thiên hướng này vừa do nhu cầu tạo hình: muốn gợi những nét mênh mang, những khoảng rộng ra, những miền diệu viễn, vừa do nhu cầu biểu cảm : bày tỏ sự tương thông, đồng điệu giữa hồn người và hồn tạo vật hoang sơ vô biên Ví như phần đầu :

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song

Hai câu này, theo cách quen thuộc có thể phân nhịp 2/ 2/ 3, nhưng độ dư vang và sức gợi hình của âm điệu như vừa nói trên đây sẽ giảm sút rất nhiều so với nhịp 4/ 3 Còn hai câu tiếp theo thì khác hơn:

Thuyền về / nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô / lạc mấy dòng.

Câu trên có thể phân nhịp theo lối quen thuộc là 2/ 2/ 3, hoặc cùng khuôn nhịp với hai câu trước là 4/ 3 Nhưng vừa căn cứ vào cách ngắt vế bằng dấu câu của tác giả (dấu phẩy), vừa căn cứ vào thiên hướng giãn rộng nhịp thơ trong toàn bài, thì ngắt theo nhịp 2/ 5 có lẽ âm điệu thơ se dư vang hơn nhiều Câu cuối khổ thơ trở lại với nhịp 4/ 3, và chỉ có thể là 4/ 3 thôi, nghĩa là trở lại nhịp chủ đạo như hai câu mở đầu

Về thanh điệu,trên cái nền thanh điệu quen thuộc của thơ thất ngôn cổ điển với sự luân phiên

bb / tt / tbb – tt / bb/ btt, Huy Cận đã có những hoà điệu riêng Nhờ khai thác hiệu quả âm thanh

của những từ lái nguyên: điệp điệp, song song, lớp lớp, dợn dợn, và của những tổ chức ngôn từ theo nguyên tắc song song trùng điệp: Thuyền về – nước lại, nắng xuống – trời lên, sông dài –

Trang 38

trời rộng, sâu chót vót – bến cô liêu, hàng nối hàng, bờ xanh tiếp bãi vàng,…Hiệu quả về thanh

điệu từ những yếu tố ấy đã tạo ra được một sự lặp lại đều đặn, miên man bám đuổi, gợi ra được sự âm hưởng trôi chảy xuôi chiều Thanh điệu này hoà hợp với thanh điệu trên kia tạo nên một âm điệu thơ mênh mang xao xuyến, rong ruổi triền miên Tựa như nhiïp trôi chậm chạp miên mang vô hình của dòng thời gian trong tạo vật Có thể nói, âm điệu là một biểu hiện của sự cảm thông sâu xa của hồn người với thiên nhiên, sự đồng điệu tinh vi giữa hồn thi nhân với hồn tạo vật

Câu 4: Hãy nêu cảm nhận của mình về bức tranh thiên nhiên được thể hiện trong bài thơ Câu

đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” có mối liên hệ gì đối với hình ảnh tạo vật thiên

nhiên và tâm trạng của tác giả được thể hiện trong bài ?

Trả lời:

- Bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang được diễn tả bằng một hệ thống hình ảnh sinh

động với những cảm giác tinh vi, phong phú Nhưng có thể thấy tạo vật được khắc sâu ở hai bình

diện: mênh mông vô biên và hoang sơ hiu quạnh.

Không gian ở đây luôn luôn vươn xa tới vô biên ở mọi chiều hướng Ví như hai câu thơ đầu đặc tả cái mênh mang của con sông lớn:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song,

Nếu câu trên sự vô biên đượcmở ra về bề rộng với hình ảnh những vòng sóng cứ trôi lên rồi cứ thế tiếp nối nhau, ô đuổi nhau, điệp điệp loang xa như đến tận chân trời, thì câu dưới sự vô biên được mở ra về chiều rộng với hình ảnh những vòng sóng cứ trồi lên cứ thế tiếp nối nhau, xô đuổi nhau, điệp điệp lan xa như đến tận chân trời , thì câu dưới sự vô biên lại được mở ra về chiều dài với hình ảnh con thuyền thả mình buông xuôi theo những luồng nước song song ruổi về mãi cuối trời Hay hai câu:

Nắng xuống, tròi lên sâu chót vót;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Cũng như cặp câu trên, nếu câu trước là sự vô biên được mở ra về chiều cao (thực ra chiều cao

của đỉnh trời đã chuyển hoá thành chiều cao của vu trụ) qua hình ảnh “nắng xuống”, “trời lên” và “sâu chót vót” thì câu dưới là sự vô biên được mở mãi ra theo một chiều sâu khác: chiều sâu

hút mắt cảu tầm nhìn ngang

Ngoài ra, để gợi sự mênh mông vô biên, thi si còn mô tả những tạo vật khác theo quan hệ tương

phản Vô hạn, lớn lao: sông dài, trời rộng, bờ xanh bãi vàng, lớp lớp mây cao đùn núi bạc,… Hưũ hạn, nhỏ nhoi: củi một cành khô, lơ thơ cồn nhỏ, chim nghiêng cánh nhỏ, Trong thế tương phản,

cái nhỏ cang thêm nhỏ bé đáng thương, cái lớn càng thêm mênh mông rợn ngập Bởi thế, bước

vào Tràng giang, con người như hoáng ngợp trước một tạo vật vô cùng.

Đồng thời Tràng giang còn một không gian hoang sơ hiu quạnh Bóng dáng con người thưa thớt,

mờ nhạt rồi mất hút Ban đầu còn thoáng thấy hình bóng con người trong hình ảnh con thuyền:

“Con thuyền xuôi mái nước song song” Nhưng ngay sau đó, con thuyền cũng khuất mình vào bờ bãi nào, hoàn toàn mất hút trên sông nước: “Thuyền về nước lại sâu trăm ngã” Tiếp đó, mọi tính hiệu về sự có mặt của con người càng vắng bặt “Đâu tiếng làng xa vãng chợ chiều” – vắng thiếu âm thanh của con người, “Mênh mông không một chuyến đò ngang - Không cầu gợi chút niềm thân mật” – vắng thiếu những phương tiện giao lưu Và cuối cùng Không khói hoàng hôn – tín

hiệu thông thường của sự đoàn tụ con người trong thời điểm hoàng hôn, cung không có nốt Trong bức tranh này dường như chỉ có sự ngự trị tuyệt đối của một thiên nhiên cổ sơ lặng lẽ

Trang 39

Trước một tạo vật như thế, cái tôi thi sĩ làm sao tránh khỏi cảm giác bơ vơ lạc loài sầu tủi.

- Câu thơ đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”

Đề từ trong một tác phẩm không phải một thứ trang sức nghệ thuật, mà thường là một điểm tựa cho cảm hứng, cho ý tưởng của tác giả triẻn khai trong tác phẩm ấy Cho nên chúng thường có mối liên hệ riêng, đôi khi rất mật thiết, với thế giới nghệ thuật của tác phẩm

Câu đề từ này cũng thế Cả hình tượng lẫn cảm xủctong câu thơ đều có thể xem là những gợi hứng, gợi ý khá trực tiếp đối với việc hình thành thị phẩm.có thể hiểu theo hai nghĩa Thứ nhất,

chủ đề ở câu thơ là con người, cả bâng khuâng và nhớ đều là động thái của chủ thể Nghĩa là con

người sẽ bâng khuâng nhớ nhung trước trời rộng sông dài ; hoặc chi li hơn: do bâng khuâng trước

trời rộng mà thấy nhớ sông dài Thứ hai, chủ thể là tạo vật, cả bâng khuâng và nhớ đều là động

thái của tạo vật Nghĩa sẽ là trời rộng bâng khuâng nhớ sông dài Cái độc đáo của câu thơ này chính là giao thoa của cả hai nghĩa ấy Nó khiến cho không chỉ chủ thể nặg trĩu nhớ nhung, mà sông núi trời đất cũng ngập tràn bâng khuâng nhung nhớ Như thế, ngay từ câu đề từ, tâm trạng thơ đã là nổi buồn sầu và niềm cảm thông với nỗi buồn sông núi

Câu 5 : Hãy phát biểu nhận xét về hình thức tổ chức câu thơ về việc sử dụng lời thơ trong các cặp

câu sau:

- Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

con thuyền xuôi mái nước song song.

- Nắng xuống tròi lên sâu chót vót ;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Trả lời:

Cả hai cặp này, về hình thức tổ chức câu thơ cũng như sử dụng lời thơ, đều có sự vận dụng và

phát huy một cách sáng tạo những yếu tố cổ điển Đường thi để thể hiện tâm tư của cái tôi thơ

mới

- Cách tổ chức câu thơ tuân theo phép đối ngẫu khá phổ biến của thơ Đường Chúng đều là những cặp câu đối nhau Tuy nhiên, dạng thức mẫu mực của đối, theo quan niệm cổ điển, là phải đối chọi nhau triệt để Ở đây, Huy Cận chỉ mượn cái nguyên tắc tương xứng cảu đối, chứ không đẩy klên thành đối chọi Vì thế, câu thơ tạo ra vẻ cân xứng trang trọng mở ra được các chiều kích vô biên của không gian, mà không gây cảm giác gò bó, nệ cổ Nghĩa là, một nét thi pháp cổ điển Đường đã được cách tân để phù hợp với tâm lí hiện đại

- Cách sử dụng lời thơ cũng như vậy Có những ngôn từ được dùng theo lối thơ Đường, cụ thể là

học theo lối dùng từ láy, theo lối song đối của Đỗ Phủ trong bài Đăng cao ở cặp câu:

Vô biên lạc một tiêu tiêu hạ

Bất tận trường giang cổn cổn lai.

Có lối dùng những cụm từ theo cấu trúc thành ngữ bốn tiếng , cả về âm thanh, cả về ý nghĩa :

sóng gợn tràng giang, con thuyền xuôi mái, nắng xuống tròi lên, sông dài trời rộng,…Có lối tạo từ theo phong cách cổ điển: Bến cô liêu Có lối “lạ hoá” ngôn từ: Sâu chót vót Chót vót vốn là tính

ttừ thường dùng diễn tả chiều cao Ơû đây được dùng để biểu đạt chiều sâu Trước Huy Cận, chưa thấy dùng như thế Điều này có vẻ phi lí Nhưng cái lí ở việc sáng tạo này là ở chỗ: tác giả

không muốn dừng tầm nhìn ở vòm trời, đỉnh tròi mà xuyên sâu vào đáy vũ trụ Cái tôi ấy ngày

càng thấy bơ vơ hơn trước cái vô biên đều rợn ngợp như thế Vì vậy, chiều cqao đã chuyển hoá thành chiều sâu thật tự nhiên Chiều kích ây nhập vào nhau, chuyển hoá sang nhau Cao cũng là sâu, mà sâu cũng là cao Đồng thời, đây là chiều sâu thuộc cái nhìn ngước lên (chứ không phải

Trang 40

cúi xuống), nên nó cho phép thi sĩ diễn thành sâu chót vót Một sáng tạo bất ngờ, mới mẽ, mà

cũng thật hợp lí và hàm súc

Những cách sử dụng lời thơ như thế khiến cho các câu thơ này nói riêng vag toàn bài thơ nói chung có được vẽ hiện đại mà vẫn đượm một phong vị cổ điển Đường thi

Câu 6: Hình ảnh “Củi một cành khô lạc mấy dòng” và hình ảnh “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng

chiều sa” gợi cho ta những cảm nghĩ gì?

Trả lời:

Những hình ảnh “Củi một cành khô lạc mấy dòng” và “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”

được dùng thật sáng tạo Nó vừa gợi hình vừa gợi cảm, vừa giàu tính thể hiện vừa có tính biểu hiện

- Trước hết, đó là những hình ảnh nghiêng về tả thực, bằng những chi tiết sống động Chúng giúp cho thi sĩ tái hiện diện chân thực của sông nước tràng giang cũng như cảnh không trung lúc hoàng hôn Thủ pháp bao trùm đều là tương phản: hữu hạn – vô hạnh, nhỏ nhoi – lớn lao hữu

hình – vô hình Cụ thể : “củi một cành khô” với “nước sầu trăm ngã”, “lớp lớp mây cao” với

“chim nghiêng cánh nhỏ” Nhờ đó, người đọc hình dung được cảnh tượng một tạo vật thiên nhiên

thật sinh động và sắc nét

- Cả hai chi tiết này đều gợi ra thân phận bơ vơ, chìm nổi, vô định của những cá thể nhỏ nhoi giưũa tạo vật thiên nhiên mênh mông hiu quạnh Đối diện với những cá thể ấy, con người không khỏi chạnh lòng nghĩ đến thân phận mình Nó cũng là một cá thể bơ vơ trôi dạt trên dòng đời, trôi dạt trong cái vô cùng, vô tận của không gian, cái vô thuỷ vô chung của thời gian Vì thế những hhình ảnh ấy cũng có ý nghĩa biểu hiện của nó

Câu 7: Tại sao có thể nói tình yêu thiên nhiên ở đây cũng chứa đựng lòng yêu nước thầm kín?

Trả lời:

Về cách biểu hiện cảm xúc:

Thời 1930 – 1945, văn học công khai tuy được lưu hành hợp pháp nhưng bị chính quyền thực dân Pháp kiểm duyệt rất khắc khe Tinh thần yêu nước khó bộc bạch trục diện thoải mái Những nghệ sĩ chân chính thường phải bày tor tấc lòng gắn bó với nước non một cách gián tiếp, kính

đáo, bóng gió Có khi phải mượn chuyện sinh hoạt đời thường (Gánh nước đêm – Á Nam Trần Tuấn Khải), mượn chuyện tình yêu đôi lứa (Thề non nước – Tản Đà), có khi phải khéo léo gửi vào tâm tư của loài vật (Nhớ rừng – Thế Lữ), mượn xưa để nói nay (Chữ người tử tù – Nguyễn Tuân) Trong bài Tràng giang, Huy Cận đã kính đáo gửi lòng yêu nước vào nỗi buồn và niềm

thiết tha trước tạo vật thiên nhiên Đó là nỗi buồn sầu cảu một người dân thuộc địa trước giang sơn bị mất chủ quyền (nỗi buồn sông núi) đã hoà lẫn vào nổi buồn bơ vơ trước tạo vật vô biên hoang vắng Đối với học sinh, điều này có thể khó nhận ra, vì nó không thể hiện qua ngôn từ cụ thể nào, mà nó khuất sau cảm giác bơ vơ và thái độ thiết tha Bởi tâm trạng buồn vong quốc bao trùm trong tâm lí người dân lúc bấy giờ đã khiến cho con người sống trên quê hương mà luôn

thây Thiếu quê hương, luôn thấy bơ vơ ngay trên quê hương Nên ẩn sau nỗi bơ vơ của một cá thể

trước trời hoang vắng quạnh hiu, có tâm trạng bơ vơ của người dân vong quốc Và thiết tha với tạo vật ở đây cũng chính là thiết tha với giang sơn Tổ quốc mình

LUYỆN TẬP VỀ NGHĨA CỦA CÂU

Câu 2: Đọc những câu sau và thực hiện các nhiệm vụ nêu ở dưới:

- Anh bèn dùng búa đập vào bức tường; vơi vữa bay tung tĩe.(1a)

Ngày đăng: 30/08/2013, 06:10

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng đâp ân: - cau hoi TN va TL 11
ng đâp ân: (Trang 10)
Cađu 4: Trong baøi thô, Xuađn Dieôu hình dung veă thôøi gian nhö theâ naøo? - cau hoi TN va TL 11
a đu 4: Trong baøi thô, Xuađn Dieôu hình dung veă thôøi gian nhö theâ naøo? (Trang 18)
PHẦN TỰ LUẬN - cau hoi TN va TL 11
PHẦN TỰ LUẬN (Trang 25)
Bảng đâp ân: - cau hoi TN va TL 11
ng đâp ân: (Trang 31)
Cađu 4: Ai laø ngöôøi ñaõ khen hình ạnh cụi moôt caønh khođ – laø "moôt chi tieât vaín xuođi soâng sít"? - cau hoi TN va TL 11
a đu 4: Ai laø ngöôøi ñaõ khen hình ạnh cụi moôt caønh khođ – laø "moôt chi tieât vaín xuođi soâng sít"? (Trang 36)
Cđu 4: Hình ảnh năo không có trong băi thơ? - cau hoi TN va TL 11
u 4: Hình ảnh năo không có trong băi thơ? (Trang 43)
4. Về hình tượng. Chùm ca dao yíu thương, tình nghĩa chủ yếu diễn tả tđm trạng của tìng yíu đôi - cau hoi TN va TL 11
4. Về hình tượng. Chùm ca dao yíu thương, tình nghĩa chủ yếu diễn tả tđm trạng của tìng yíu đôi (Trang 47)
Bảng đâp ân: - cau hoi TN va TL 11
ng đâp ân: (Trang 49)
Bảng đâp ân: - cau hoi TN va TL 11
ng đâp ân: (Trang 53)
Bảng đâp ân: - cau hoi TN va TL 11
ng đâp ân: (Trang 56)
Bảng đâp ân: - cau hoi TN va TL 11
ng đâp ân: (Trang 61)
Bảng đâp ân: - cau hoi TN va TL 11
ng đâp ân: (Trang 67)
A. Hình thöùc vaín bạn B. Noôi dung vaín bạn C. Phöông tieôn dieên ñát D. Múc ñích ñát ñöôïc - cau hoi TN va TL 11
Hình th öùc vaín bạn B. Noôi dung vaín bạn C. Phöông tieôn dieên ñát D. Múc ñích ñát ñöôïc (Trang 76)
Bảng đâp ân: - cau hoi TN va TL 11
ng đâp ân: (Trang 88)
Bảng đâp ân: - cau hoi TN va TL 11
ng đâp ân: (Trang 112)
Bảng đâp ân: - cau hoi TN va TL 11
ng đâp ân: (Trang 119)
B. Tieâng Vieôt thuoôc loái hình ñôn laôp vôùi ba ñaịc tröng cô bạn: ađm tieât laø ñôn vò cô sôû, töø khođng bieân ñoơi hình thaùi, yù nghóa ngöõ phaùp theơ hieôn chụ yeâu nhôø phöông thöùc traôt töï töø vaø hö töø. - cau hoi TN va TL 11
ie âng Vieôt thuoôc loái hình ñôn laôp vôùi ba ñaịc tröng cô bạn: ađm tieât laø ñôn vò cô sôû, töø khođng bieân ñoơi hình thaùi, yù nghóa ngöõ phaùp theơ hieôn chụ yeâu nhôø phöông thöùc traôt töï töø vaø hö töø (Trang 121)
Bảng đâp ân: - cau hoi TN va TL 11
ng đâp ân: (Trang 131)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

w