Rủi ro đạo đức xảy ra trong mọi hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại, tác động đến khả năng tiếp cận vốn của các doanh nghiệp, từ đó tác động tiêu cực đến tăng trưởng và phát tr
Trang 1- -
TRẦN TRUNG DŨNG
QUẢN LÝ RỦI RO ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
HÀ NỘI - 2018
Trang 2- -
TRẦN TRUNG DŨNG
QUẢN LÝ RỦI RO ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành : Tài chính - Ngân hàng
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: 1 PGS TS ĐỖ THỊ PHI HOÀI
HÀ NỘI - 2018
Trang 3LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận án này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của tôi Các tài liệu, kết quả trình bày trong luận án là trung thực có nguồn gốc rõ ràng
Tác giả
Trần Trung Dũng
Trang 4MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan i
Mục lục ii
Danh mục các chữ viết tắt v
Danh mục các bảng vi
Danh mục các sơ đồ vii
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: QUẢN LÝ RỦI RO ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 13
1.1 RỦI RO ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 13
1.1.1 Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại 13
1.1.2 Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại 18
1.1.3 Rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại 22
1.2 QUẢN LÝ RỦI RO ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 30
1.2.1 Khái niệm quản lý rủi ro đạo đức 30
1.2.2 Chủ thể quản lý rủi ro đạo đức 30
1.2.3 Nhân tố ảnh hưởng đến quản lý rủi ro đạo đức 31
1.2.4 Quy trình và nội dung quản lý rủi ro đạo đức 34
1.2.5 Công cụ quản lý rủi ro đạo đức 51
1.3 KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ QUẢN LÝ RỦI RO ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG - BÀI HỌC CHO VIỆT NAM 54
1.3.1 Kinh nghiệm quốc tế 54
1.3.2 Bài học kinh nghiệm cho Ngân hàng thương mại Việt Nam 70
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 75
Trang 5Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO ĐẠO ĐỨC TRONG
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM 76
2.1 KHÁI QUÁT VỀ CÁC HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 76
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam 76
2.1.2 Hệ thống tổ chức Ngân hàng thương mại Việt Nam 81
2.1.3 Thực trạng hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại Việt Nam 82
2.2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 90
2.2.1 Thực trạng rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại Việt Nam 90
2.2.2 Thực trạng quản lý rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại Việt Nam 100
2.3 ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TRONG RỦI RO ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 121
2.3.1 Những kết quả đạt được 121
2.3.2 Những hạn chế 122
2.3.3 Nguyên nhân 127
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 133
Chương 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ RỦI RO ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 134
3.1 ĐỊNH HƯỚNG TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ RỦI RO ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 134
3.1.1 Điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức trong quản lý rủi ro đạo đức 134
Trang 63.1.2 Định hướng phát triển hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam
đến 2030 136
3.1.3 Định hướng tăng cường quản lý rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại Việt Nam đến 2030 140
3.2 GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ RỦI RO ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 140
3.2.1 Nhóm giải pháp vĩ mô đối với cơ quan quản lý 140
3.2.2 Nhóm giải pháp vi mô tại các Ngân hàng thương mại 158
3.3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 182
3.3.1 Nhà nước cần xây dựng đồng bộ khuôn khổ pháp lý, tiệm cận chuẩn mực quốc tế 182
3.3.2 Lựa chọn lộ trình tự do hóa tài chính thích hợp 184
3.3.3 Nhà nước nên có chính sách khuyến khích và hỗ trợ các Ngân hàng thương mại trong quá trình hiện đại hóa công nghệ 186
3.3.4 Tạo điều kiện xây dựng trung tâm thông tin tín dụng tư nhân 186
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 187
KẾT LUẬN 188
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 191
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 192
PHỤ LỤC 200
Trang 7DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AMA Phương pháp đo lường hiện đại CRO Bộ phận quản lý rủi ro
EAR Thu nhập chịu rủi ro
FTP Định giá điều chuyển vốn nội bộ
NHTM Ngân hàng thương mại
NII Thu nhập lãi ròng
NIM Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên
NLP Trạng thái thanh khoản ròng QLRR Quản lý rủi ro
ROA Tỷ suất sinh lời tài sản
ROE Tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu RRLS Rủi ro lãi suất
RRTD Rủi ro tín dụng
RRTK Rủi ro thanh khoản
TPS Hệ thống thông tin xử lý giao dịch VAR Giá trị chịu rủi ro
Trang 8DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Số lượng các NHTM Việt Nam từ năm 1997 đến năm 2017 78
Bảng 2.2: Số lượng chi nhánh, phòng giao dịch của một số NHTM Việt Nam giai đoạn 2011 - 2017 78
Bảng 2.3: Vốn chủ sở hữu của một số NHTM giai đoạn 2011 - 2017 79
Bảng 2.4: Hệ số CAR của một số NHTM Việt Nam giai đoạn 2011 - 2017 80
Bảng 2.5: Quy mô và tốc độ tăng trưởng tổng tài sản của một số NHTM Việt Nam giai đoạn 2011 - 2017 80
Bảng 2.6: Nguồn vốn tiền gửi của một số NHTM Việt Nam 2011 - 2017 83
Bảng 2.7: Thị phần huy động vốn của một số NHTM Việt Nam 2011 - 2017 84
Bảng 2.8: Cơ cấu dư nợ tín dụng / tài sản có của một số NHTM Việt Nam 2011 - 2017 85
Bảng 2.9: Thị phần cho vay của một số NHTM Việt Nam 2011 - 2017 86
Bảng 2.10: Tỷ lệ nợ xấu của một số NHTM Việt Nam 2011 - 2017 86
Bảng 2.11: Tỷ lệ dư nợ cho vay / huy động vốn của một số NHTM Việt Nam 2011 - 2017 87
Bảng 2.12: Tỷ lệ ROA của một số NHTM Việt Nam 2011 - 2017 88
Bảng 2.13: Tỷ lệ ROE của một số NHTM Việt Nam 2011 - 2017 89
Bảng 2.14: Danh sách 10 đại án liên quan rủi ro đạo đức được chỉ đạo 92
Bảng 2.15: Tổng số vụ án theo nghiệp vụ ngân hàng xét xử 2011 - 2017 93
Bảng 2.16: Thiệt hại từ rủi ro đạo đức 2011 - 2017 theo thành phần kinh tế 93
Bảng 2.17: Thủ đoạn vi phạm rủi ro đạo đức 2011 - 2017 của các bị cáo 94
Bảng 2.18: Tổng hợp tội danh tòa tuyên án 2011 - 2017 94
Bảng 2.19: Vụ án theo địa phương 2011 - 2017 95
Trang 9DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Trang
Sơ đồ 2.1: Hệ thống tổ chức tín dụng Việt Nam 81
Sơ đồ 2.2: Mô hình tổ chức điển hình của các NHTM cổ phần Việt Nam 82
Sơ đồ 2.3: Mô hình tổ chức quản lý rủi ro thị trường và đạo đức 100
Sơ đồ 2.4: Cơ cấu tổ chức QLRR tại một số NHTM 101
Trang 10MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính cung cấp vốn chủ yếu và đa dạng các dịch vụ tài chính cho phát triển kinh tế - xã hội Với những đặc tính riêng có trong hoạt động, Ngân hàng thương mại thường gặp phải nhiều rủi ro nhất trong hệ thống các tổ chức tài chính Bởi vậy mà, Ngân hàng thương mại cũng là tổ chức tài chính được các cơ quan chức năng nhà nước quản lý, giám sát chặt chẽ nhất trong hệ thống các tổ chức tài chính
Rủi ro đạo đức là một trong những rủi ro cần được quan tâm đặc biệt trong điều kiện ngày nay Hoạt động của Ngân hàng thương mại mang lại lợi nhuận luôn
đi cùng rủi ro.Trong hoạt động kinh doanh, Ngân hàng thương mại không thể loại
bỏ hoàn toàn rủi ro và thay vào đó là kiểm soát, quản lý và hạn chế rủi ro Vì vậy Ngân hàng thương mại cần chấp nhận rủi ro trong một mức độ nhất định cho mục tiêu lợi nhuận Rủi ro đạo đức là một trong rất nhiều rủi ro mà Ngân hàng thương mại có thể gặp phải Rủi ro đạo đức xảy ra trong mọi hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại, tác động đến khả năng tiếp cận vốn của các doanh nghiệp,
từ đó tác động tiêu cực đến tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế
Trong những năm qua, đóng góp của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam vào quá trình đổi mới và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá là rất lớn Các Ngân hàng thương mại không chỉ tiếp tục khẳng định là một kênh dẫn vốn quan trọng cho nền kinh tế, mà còn góp phần
ổn định sức mua đồng tiền
Cùng với quá trình cải cách và đổi mới, số lượng các Ngân hàng thương mại Việt Nam đã tăng nhanh, đã và đang từng bước chuyển dần hướng tới một hệ thống tương thích của các nền kinh tế đang nổi và mới phát triển Ngân hàng là ngành kinh doanh đặc biệt, nhạy cảm, gắn chặt với tiền, và luôn đối mặt với nhiều rủi ro Trong các vấn đề rủi ro, dường như rủi ro đạo đức đang là nguy cơ ngày càng lớn đối với ngân hàng
Trong hoạt động của mình, các ngân hàng đều gặp vấn đề về quản trị và vấn
đề quan trọng nhất và khó kiểm soát nhất là chuyên môn và đạo đức của người làm
Trang 11ngân hàng Tại Việt Nam, đến thời điểm này có chuyên gia đã nhận định rằng: “Sự
an toàn của hệ thống hiện nay nằm ở phạm trù đạo đức nhiều hơn là chuyên môn” Một chuyên gia từ Uỷ ban Giám sát tài chính quốc gia cũng đã nói: “Vấn đề rủi ro đạo đức của khối ngân hàng đã đến mức cảnh báo”
Ngân hàng hoạt động kinh doanh bằng đồng tiền của người khác, hoạt động của ngân hàng liên quan trực tiếp đến tiền cho nên đạo đức của người làm ngân hàng là phải có trách nhiệm bảo vệ đồng tiền của người dân gửi tại ngân hàng và coi
sự an toàn của đồng tiền đó trên cả mục tiêu lợi nhuận, tuyệt đối không được sử dụng tiền đó một cách vô trách nhiệm Mặc dù, rủi ro đạo đức “dễ hiểu” hơn là rủi
ro chuyên môn, nhưng các nhà quản trị ngân hàng đều nhận định trong các loại rủi
ro mà ngân hàng phải đối mặt thì rủi ro đạo đức là khó quản trị nhất
Những năm gần đây, trong hoạt động kinh doanh các Ngân hàng thương mại Việt Nam luôn đối mặt với các rủi ro về tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro tác nghiệp - rủi ro chịu nhiều tác động của đạo đức con người… Trong đó, rủi
ro đạo đức trong hoạt động ngân hàng là loại rủi ro khó nhận biết, khó đo lường, nhưng lại để lại hậu quả nặng nề
Không như những loại rủi ro khác, rủi ro đạo đức không chỉ cá biệt xảy ra ở một ngân hàng mà nó còn tiềm ẩn trong hoạt động kinh doanh của các NHTM, càng
có cơ hội phát triển đồng loạt tại nhiều NHTM và các định chế tài chính cùng một lúc khi có điều kiện phát sinh như có sự nới lỏng trong việc quản lý, sự xuất hiện của các bong bóng thị trường tạo cơ hội dễ dàng cho hoạt động đầu tư rủi ro Do
đó, hậu quả của rủi ro đạo đức gây ra sẽ không dừng lại ở mức độ hoạt động của một NHTM mà có tính lan truyền rộng khắp Nếu rủi ro đạo đức không được kiểm soát phù hợp, thì người đại lý (là các NHTM hoặc người sử dụng vốn của NHTM)
sẽ thực hiện đầu tư mạo hiểm với hậu quả do người ủy thác gánh vác Và do tính lây lan mạnh mẽ trong hệ thống ngân hàng, việc mất khả năng thanh toán của một
hệ thống ngân hàng sẽ liên quan tới những khoản chi phí khổng lồ mà các ngân hàng, khách hàng và chính phủ đều phải chịu tổn thất Sự thất bại của ngân hàng có thể dẫn tới việc phá hủy những mối quan hệ kinh tế đã được thiết lập lâu dài giữa ngân hàng và khách hàng Sự đổ vỡ trong hoạt động tín dụng của ngân hàng và của
hệ thống thanh toán này cũng có thể làm giảm các hoạt động đầu tư và các hoạt
Trang 12động kinh tế khác Hơn nữa, người gửi tiền sẽ bị tổn thất tài chính lớn hơn từ sự sụp
đổ của các NHTM Và chính phủ sẽ phải chịu những khoản chi phí khổng lồ nhằm cứu giúp cho hệ thống tài chính ngân hàng thoát khỏi sự sụp đổ hoặc phục hồi hệ thống tài chính ngân hàng Các khoản chi phí này của chính phủ không chỉ phải chi
ra trong những năm của cuộc khủng hoảng mà còn kéo dài nhiều năm sau đó vì chi phí tổn thất của những cuộc khủng hoảng tài chính ngân hàng là rất lớn Đơn cử là trong cuộc khủng hoảng tiết kiệm và cho vay tại Mỹ (S&L), người gửi tiền và người trả thuế bị tổn thất 150 tỷ đô la và chính phủ phải bỏ ra khoảng 350 tỷ đô la trong vòng 30 năm nhằm khắc phục hậu quả Vấn đề là trong các cuộc khủng hoảng rộng khắp như vậy, nguồn tiền của các chính phủ bỏ ra lại chủ yếu là nguồn từ thu thuế của những người trả thuế, nhằm phục vụ cho những thất bại thị trường do rủi
ro đạo đức gây ra
Như vậy, nhằm bảo đảm cho một hệ thống tài chính ngân hàng hoạt động
ổn định, bền vững, đồng thời với việc giảm thiểu nguy cơ sụp đổ hệ thống này và giảm thiểu tổn thất tài chính nếu sự sụp đổ cuối cùng vẫn xảy ra, cần phải xây dựng một mạng lưới an toàn tài chính nhằm đưa rủi ro đạo đức vào trong tầm kiểm soát Mạng lưới này bao gồm kết hợp sự quản lý của các cấp quản lý vĩ mô
và quản lý của từng định chế tài chính tham gia vào thị trường này Các biện pháp
từ cấp quản lý vĩ mô bao gồm thiết lập hệ thống giám sát, các quy định của chính phủ một cách chặt chẽ và nghiêm túc, một cơ chế bảo hiểm tiền gửi lành mạnh, một sự can thiệp phù hợp và đúng lúc của ngân hàng trung ương như người cho vay cuối cùng Kết hợp với các biện pháp này là các biện pháp quản lý tại mỗi NHTM như điều kiện cấp tín dụng và thực hiện đầu tư, yêu cầu về bảo đảm tiền vay, quy định về thẩm định xét duyệt cho vay và giám sát vốn vay, các yêu cầu quản lý thông tin
Xuất phát từ nhận thức quan trọng về lý luận và thực tiễn đó, tôi quyết định
chọn đề tài “Quản lý rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại Việt Nam” cho luận án tiến sỹ kinh tế, với mong muốn hoàn thiện lý
luận chuyên môn của bản thân, tiếp cận nghiên cứu thực trạng quản lý rủi ro đạo đức và đề xuất một số giải pháp nhằm quản lý rủi ro đạo đức tại các Ngân hàng
Trang 13thương mại Việt Nam, góp phần đẩy mạnh sự phát triển hoạt động kinh doanh trong điều kiện hội nhập
2 Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
2.1 Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Các công trình nghiên cứu nước ngoài có liên quan đến rủi ro đạo đức, quản
lý rủi ro đạo đức ở nước ngoài về nhận diện quản lý rủi ro đạo đức, khung quản lý rủi ro, công cụ đo lường, cảnh báo rủi ro, các biện pháp xử lý rủi ro, mối quan hệ giữa rủi ro đạo đức với các loại rủi ro khác như:
(1) Bliss, Robert R and Flannery, Mark J (2002): [75] “Market Discipline
in the Governance of U.S Bank Holding Companies: Monitoring versus Infuence”
Eropean Finance Review, đề cập đến những kỷ luật thị trường trong quản trị Ngân hàng Hoa Kỳ Holding
(2) Blum, Jurg (2002): [76] “The Limits of Market Discipline in Reducing
Bank’s Risk Taking”, forthcoming Journal of Banking and Finance, đã nghiên cứu
về các hạn chế của kỷ luật thị trường trong việc giảm rủi ro trong đó có rủi ro đạo đức của Ngân hàng thương mại
(3) Thomas F Hellmann, Kevin C Murdock and Joseph E.Stiglitz (2002):
[97]“Liberalization, Moral Hazard in Banking, and Prudential Regulation: Are
Capital Requirements Enough?”, American Economic Review đề cập đến tự do hóa,
nguy cơ rủi ro trong ngành ngân hàng và quy định thận trọng: Đủ yêu cầu về vốn?
(4) Beim&Calomiris, 2002 - David Beim and Charles Calomiris (2002) [73]
Emerging Financial Markets, McGraw Hill Custom Publishing Đề cập đến những
vấn đề liên quan đến “Thị trường tài chính mới nổi, McGraw Hill Custom Publishing” trong đó có những nghiên cứu về đạo đức, rủi ro, rủi ro đạo đức và những cảnh báo về rủi ro đạo đức khi thị trường tài chính phát triển, đặc biệt với những thị trường mới nổi
(5) Dembe, Allard E and Boden, Leslie I (2000) “Moral Hazard: A
Question of Moraliity?” New Solutions, Vol 10 [80] Trong tài liệu này, tác giả
Dembe, Allard E và Boden, Leslie I (2000) “Moral Hazard: đã đề cập đến nội dung “Một câu hỏi về đạo đức và các giải pháp mới? tác giả đề cập đến những rủi
Trang 14ro tiềm ẩn, trong đó nhấn mạnh yếu tố đạo đức và rủi ro đạo đức của con người trong kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng
(6) ErlendNier and Ursel Baumann 1, (2003), “Market discipline, disclosure
and moral hazard in banking” Cordella, Tito and Eduardo Levy Yeyati, (1998):
“Public Disclosure and Bank Failures”, CEPR Discussion Paper No 1886 [82]
Trong tài liệu “Kỷ luật thị trường, tiết lộ và nguy hiểm về mặt đạo đức trong ngân hàng” của tác giả ErlendNier và Ursel Baumann 1, (2003) và tài liệu “Tiết lộ công khai và thất bại ngân hàng” của tác giả Cordella, Tito và Eduardo Levy Yeyati, (1998) đã nghiên cứu về hoạt động của các Ngân hàng thương mại, những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại, những nguy cơ và tổn thất khi rủi ro đạo đức xảy ra đối với các Ngân hàng thương mại
(7) J.P.Niinimaki (2007), “Does collateral fuel moral hazard in banking?” Discussion Paper, No 181, Helsinki center of economic research, August 2007, ISSn 1795-0562 [91] Bài thảo luận, số 181 tại trung tâm nghiên cứu kinh tế Helsinki, tháng 8 năm 2007, ISSN tác giả J.P.Niinimaki (2007) với bài viết “Tài sản thế chấp có gây nguy hiểm về mặt đạo đức trong ngân hàng không?” đã đề cập đến những quy định về tài sản bảo đảm, những rủi ro xảy ra đối với các Ngân hàng thương mại khi bảo đảm tiền vay bằng hình thức thế chấp tài sản, tác giả phân tích sâu yếu tố đạo đức và những nguy hiểm, những tổn thất đối với các Ngân hàng thương mại và những khuyến nghị nhằm phòng ngừa rủi ro đạo đức
(8) Lewis, Holden (18 April 2007) “Moral hazard’ helps shape mortagemortages/ 20070418_subprime_mortage_morality_a1.Asp?caret=3c).Bankrate.com [94] Tác giả Lewis, Holden (18 tháng 4 năm 2007) với bài viết “Nguy hiểm về đạo đức” giúp định hình mortagemortages / 2007 đã đề cập đến rủi ro đạo đức và những tổn thất khôn lường khi xảy ra rủi ro đạo đức trong hoạt động ngân hàng
2.2 Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Tại Việt Nam có một số công trình khoa học nghiên cứu cả về mặt thực tiễn
và lý luận về quản lý rủi ro, quản trị rủi ro, rủi ro đạo đức Các đề tài có liên quan tới đo lường và phương pháp quản trị rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại có thể kể đến như:
Trang 15(9) ThS Lê Nam Thắng (2011), Vấn đề rủi ro đạo đức trong hoạt động ngân
hàng Việt Nam, thực trạng và giải pháp quản lý [64] Đề tài cấp ngành Ngân hàng
Nhà nước 2011 Đề tài này nhóm tác giả đã nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản
về rủi ro đạo đức, thực tiễn rủi ro đạo đức trong hoạt động ngân hàng ở Việt Nam đến năm 2011
(10) PGS.TS Hà Minh Sơn (2014), Rủi ro đạo đức trong hoạt động ngân
hàng - Thực trạng và khuyến nghị [56] Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Học viện
Tài chính, nhóm nghiên cứu đã phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại, những rủi ro xảy ra trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại, rủi ro đạo đức và thực trạng rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam giai đoạn
2010 đến 2014, từ đó đã đề xuất một số khuyến nghị về chính sách đối với Ngân hàng nhà nước và các cấp quản trị của các Ngân hàng thương mại nhằm phòng ngừa rủi ro đạo đức và hạn chế những tổn thất trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại Việt Nam
(11) TS Nghiêm Văn Bảy (2017), Tổng hợp những bài học quản trị rủi
ro trong hoạt động Ngân hàng thương mại qua một số vụ án hình sự đã được xét xử [4] Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Học viện Tài chính, Hà Nội Đề tài đã
nghiên cứu về 50 vụ án kinh tế xảy ra trong lĩnh vực ngân hàng đã được xét xử trong giai đoạn 2010 - 2015 Trong đề tài này nhóm nghiên cứu đã chỉ rõ những rủi
ro đạo đức xảy ra trong lĩnh vực ngân hàng, những thủ đoạn, những kẽ hở và bài học rút ra cho các nhà quản trị ngân hàng
(12) Xuân Anh (2015), Cảnh báo rủi ro đạo đức cán bộ ngân hàng, Báo Sài
Gòn đầu tư, ngày 09/07/2015 [3], trong bài báo này tác giả nghiên cứu về những hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại, những rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại, các nguyên nhân và biện pháp phòng ngừa
(13) Vân Giang (2016), Rủi ro đạo đức: dễ mắc, khó gỡ, Báo Việt ngày
11/11/2016 [14], trong bài viết này tác giả nghiên cứu khá chi tiết về rủi ro đạo đức
và những tổn thất do rủi ro đạo đức gây ra đối với các Ngân hàng thương mại, từ
Trang 16việc phân tích những nguyên nhân, tác giả nhận định những nguy cơ xảy ra rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh ngân hàng
(14) ThS Vũ Thị Thanh Hà (2012), Mối quan hệ giữa rủi ro đạo đức trong
hoạt động ngân hàng và tự do hóa tài chính, Tạp chí ngân hàng số 12 tháng 6/2012
[16] Từ những nghiên cứu về tự do hóa tài chính, những nguyên nhân dấn đến rủi
ro đạo đức trong bối cảnh tự do hóa tài chính và những hệ lụy của rủi ro đạo đức gây ra
(15) Các giáo trình sử dụng trong giảng dạy tại các trường đại học, cao đẳng
như: PGS TS Đinh Xuân Hạng, ThS Nguyễn Văn Lộc (chủ biên) (2012), “Giáo
trình Quản trị tín dụng Ngân hàng thương mại”, Nhà xuất bản Tài chính 2012
[17]; Phan Thị Thu Hà (2009) Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Giao thông
vận tải, Hà Nội [15]; Peter Rose, Giáo trình quản trị Ngân hàng thương mại, NXB
Tài Chính, năm 2004 [51]; PGS.TS Nguyễn Đăng Đờn (2009), Quản trị NHTM
hiện đại, Nhà xuất bản Phương đông [12]; TS Nguyễn Minh Kiều, Giáo trình nghiệp vụ Ngân hàng thương mại, NXB Thống Kê, năm 2006 [23]; Tiền tệ - Ngân
hàng và Thị trường Tài chính (1993) của Frederic S.Mishkin (NXB Khoa học và kỹ thuật)… đều đề cập tới quy trình và phương pháp quản trị rủi ro trong hoạt động hệ thống ngân hàng
Tóm lại, các biện pháp phòng ngừa và xử lý rủi ro đạo đức trong hoạt động ngân hàng đã được đề cập tới trong các công trình nghiên cứu về hoạt động của ngân hàng trong và ngoài nước, tuy nhiên chưa thực sự đi sâu vào nghiên cứu về cả
cơ sở lý luận, thực tiễn quy trình và phương pháp quản lý rủi ro đạo đức
2.3 Khoảng trống nghiên cứu
Các nghiên cứu ở trên đã góp phần quan trọng đưa ra những lí luận cơ bản về quản lý rủi ro đạo đức trong thời gian qua Song vẫn còn những “khoảng trống” trong nghiên cứu về quản lý rủi ro đạo đức mà điển hình là quản lý rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn
2011 - 2017
Các “khoảng trống” trong nghiên cứu lí luận về rủi ro đạo đức, quản lý rủi ro đạo đức và thực trạng rủi ro đạo đức, quản lý rủi ro đạo đức tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam:
Trang 17- Cơ sở lí luận chưa có tính hệ thống và cập nhật về rủi ro đạo đức, quản lý rủi ro đạo đức trong giai đoạn hiện nay, khi mà việc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang thực thi lộ trình quản trị rủi ro theo Hiệp ước Basel II Bên cạnh đó, Việt Nam
đã có sự phát triển và hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng với kinh tế các quốc gia trong khu vực và quốc tế
- Các nghiên cứu về rủi ro đạo đức, quản lý rủi ro đạo đức hầu hết chỉ đưa ra giải pháp trong từng khía cạnh quản lý rủi ro đạo đức như các giải pháp nhằm “ngăn ngừa” rủi ro, “hạn chế” rủi ro hay “kiểm soát” rủi ro chứ không đi vào “quản lý” rủi ro đạo đức một cách tổng thể, hệ thống
- Chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về rủi ro đạo đức và quản lý rủi ro đạo đức tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2011 - 2017 cũng như đưa ra các giải pháp để tăng cường quản lý rủi ro đạo đức tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
Vì vậy, đề tài “Quản lý rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại Việt Nam” được phát triển nhằm bổ sung phần nghiên cứu
về cơ sở lí luận và vận dụng trong điều kiện thực tiễn quản lý rủi ro đạo đức tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2011 - 2017, từ đó đề xuất các giải pháp tăng cường quản lý rủi ro đạo đức tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam đến năm 2030
Trang 184 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Xuất phát từ sự cần thiết của vấn đề cần nghiên cứu, trên cơ sở yêu cầu và với khả năng nghiên cứu, luận án lựa chọn đối tượng nghiên cứu chính là “Rủi ro đạo đức”, “Quản lý rủi ro đạo đức” và “Quản lý rủi ro đạo đức tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam”
- Về thời gian: Khảo sát, phân tích thực trạng quản lý rủi ro đạo đức tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2011 - 2017 Giải pháp thực hiện theo
lộ trình đến năm 2030
5 Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để đảm bảo việc nhận thức về quản lý rủi ro đạo đức theo chuẩn mực quốc tế tại Ngân hàng thương mại Việt Nam, luôn đảm bảo tính logic giữa nhận thức trực quan đến
tư duy và thực tiễn, trong mối quan hệ biện chứng giữa các bộ phận trong cùng hệ thống, giữa hệ thống với môi trường xung quanh và phù hợp với các qui luật vận
động vốn có của nó
Trên nền tảng của phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
để có các phân tích, đánh giá, lập luận có căn cứ khoa học về đề tài nghiên cứu, NCS sử dụng các phương pháp:
Các phương pháp tư duy khoa học: Qui nạp, diễn dịch, ngoại suy, phân tích,
tổng hợp, đối chiếu, so sánh, hệ thống hóa, khái quát hóa các dữ liệu NCS đã thu thập được để làm sáng tỏ các vấn đề lý luận cơ bản về quản lý rủi ro đạo đức tại Ngân hàng thương mại và thực trạng quản lý rủi ro đạo đức tại các Ngân hàng
thương mại Việt Nam
Trang 19Phương pháp thống kê: Thu thập dữ liệu sơ cấp, thứ cấp liên quan đến quản
lý rủi ro đạo đức tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam theo chuỗi thời gian từ các báo cáo nội bộ, báo cáo của các cơ quan quản lý Nhà nước và xuống quan sát trực tiếp ở Sở giao dịch, một số chi nhánh để thu thập thông tin và số liệu phục vụ cho nghiên cứu của luận án
Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn, xin ý kiến các chuyên gia, các cán bộ
nghiệp vụ và cán bộ quản lý tại một số chi nhánh của các Ngân hàng thương mại Việt Nam (trực tiếp, qua thư điện tử) để có thêm các thông tin cần thiết, hữu ích phục vụ cho quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận án
Phương pháp khảo sát bằng bảng hỏi: Phát phiếu khảo sát thực trạng quản lý
rủi ro đạo đức tại trụ sở và chi nhánh của các Ngân hàng thương mại Việt Nam như:
Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh… để có thêm thông tin cho việc đánh giá kiểm soát rủi ro đạo đức tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam Các Ngân hàng thương mại được NCS chọn khảo sát đảm bảo tính đại diện: Có chi nhánh thành phố lớn, chi nhánh khu vực nông thôn, chi nhánh có tỷ lệ nợ xấu cao, chi nhánh có tỷ lệ nợ xấu thấp Do các mô hình lượng hóa, các công thức đo lường vốn,
đo lường, đánh giá rủi ro đã được đề cập và thừa nhận tính chính xác và khoa học ở các công trình nghiên cứu liên quan trước đó Vì vậy, khi đề cập đến việc đo lường, đánh giá, lượng hóa rủi ro, NCS không đi sâu vào nghiên cứu các kỹ thuật tính toán
mà sẽ kế thừa kết quả nghiên cứu các công trình liên quan
Phương pháp, so sánh, phân tích, tổng hợp: Trên cơ sở số liệu các báo cáo
thống kê của các Ngân hàng thương mại Việt Nam, NCS tiến hành tổng hợp, so sánh, phân tích, nhằm đánh giá thực trạng rủi ro đạo đức và quản lý rủi ro đạo đức tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2011 - 2017
Phương pháp suy luận logic: Từ những cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn,
đặc biệt từ những tồn tại, yếu kém và nguyên nhân tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam về quản lý rủi ro đạo đức, NCS suy luận logic để đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường quản lý rủi ro đạo đức tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
Trang 206 Đóng góp mới của luận án
- Về mặt lý luận:
+ Rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại: Dựa trên lý thuyết về rủi ro nói chung và rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại, NCS suy luận một cách logic, biện chứng những vấn đề
cơ bản về rủi ro đạo đức: các hình thức biểu hiện, nguyên nhân và tác hại của rủi
ro đạo đức là phù hợp với đặc điểm hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường Đây là một thành công trong nghiên cứu lý luận
cơ bản
+ Quản lý rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại Do rủi ro đạo đức ảnh hưởng trong phạm vi rộng, với mức độ lan tỏa nhanh những tác hại đến nhiều tổ chức, cơ quan và khách hàng, nên NCS dựa vào cơ chế quản lý tổng thể để nghiên cứu về quản lý rủi ro đạo đức là rất khoa học Từ việc nghiên cứu khái niệm, chủ thể quản lý, công cụ quản lý, nội dung quản lý đến các biện pháp quản lý rủi ro đạo đức Các vấn đề đó được kế thừa những nguyên lý về quản lý rủi ro, những quy định của Hiệp ước Basel II và gắn kết với đặc điểm kinh doanh của Ngân hàng thương mại Bởi vậy, có thể coi đó là những lý luận cơ bản về quản lý rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại khá
hoàn chỉnh
- Về thực tiễn:
+ Nội dung và phương pháp đánh giá thực trạng quản lý rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại Việt Nam
Luận án đánh giá trên 3 nội dung: thực trạng cơ cấu quản lý, thực trạng quản
lý rủi ro đạo đức của cơ quan quản lý và thực trạng quản lý rủi ro đạo đức của các Ngân hàng thương mại Với các nội dung đó, luận án đánh giá khá đầy đủ, toàn diện công tác quản lý rủi ro đạo đức từ phía cơ quan quản lý và từ phía các Ngân hàng thương mại, mà chưa có một luận án, đề tài khoa học nào có thể làm được
+ Đề xuất các giải pháp mới:
* Tiếp cận chuẩn mực quốc tế trong hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng
* Đổi mới mô hình tổ chức quản lý ngân hàng
* Xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ gắn liền với quản lý rủi ro
Trang 21Ba giải pháp mới này dựa trên cơ sở khoa học lý luận và thực tiễn đầy đủ, có tác động mạnh đến việc tăng cường quản lý rủi ro đạo đức cả trên phương diện vĩ
mô (Ngân hàng Nhà nước) và vi mô (Ngân hàng thương mại), nên có tính khả thi cao so với các công trình về đề tài này đã công bố
Chương 2: Thực trạng quản lý rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh
của Ngân hàng thương mại Việt Nam
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý rủi ro đạo đức trong hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng thương mại Việt Nam
Trang 22Chương 1 QUẢN LÝ RỦI RO ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 RỦI RO ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại
1.1.1.1 Khái niệm về Ngân hàng thương mại
Ngay từ xa xưa người ta đã biết dùng tiền làm phương tiện thanh toán, làm trung gian trao đổi hàng hoá Thông qua tiền, việc trao đổi hàng hoá được tiến hành một cách thuận lợi, dễ dàng hơn nhiều, góp phần kích thích sản xuất Xã hội ngày càng phát triển thì vai trò của tiền tệ ngày càng được phát huy, đồng thời các nhu cầu về tiền tệ cũng bắt đầu nảy sinh và ngày càng trở nên đa dạng, chính điều này
đã thúc đẩy sự ra đời và phát triển của một loại hình trung gian tài chính chuyên kinh doanh về tiền tệ, đó là các ngân hàng
NHTM là một trong những loại hình ngân hàng trung gian lâu đời nhất Sự
ra đời của NHTM là kết quả tất yếu khách quan của quá trình sản xuất, trao đổi hàng hóa và phân công lao động xã hội NHTM là một sản phẩm độc đáo của sản xuất hàng hoá trong nền kinh tế thị trường, một tổ chức có tầm quan trọng đặc biệt trong nền kinh tế: Là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế
NHTM là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với hoạt động chính là huy động tiền gửi dưới các hình thức khác nhau của khách hàng, trên cơ sở nguồn vốn huy động này và vốn chủ sở hữu của ngân hàng để thực hiện các nghiệp vụ cho vay, đầu tư, chiết khấu đồng thời thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, môi giới, tư vấn và một số dịch vụ khác cho các chủ thể trong nền kinh tế
Tóm lại, Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ
mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của Khách hàng; sử
Trang 23dụng số tiền đó để cho vay, chiết khấu và thực hiện các dịch vụ cho Khách hàng trong nền Kinh tế quốc dân
1.1.1.2 Các hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại
Vai trò to lớn của ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế xã hội xuất phát từ chính đặc trưng của hoạt động kinh doanh ngân hàng NHTM giống như các tổ chức kinh doanh khác là hoạt động vì mục đích lợi nhuận song lại ở lĩnh vực kinh doanh đặc biệt: kinh doanh tiền tệ, một lĩnh vực cực kỳ nhạy cảm trong nền kinh tế
và có tác động tới mọi hoạt động khác Do nhu cầu tất yếu của nền kinh tế thị trường, các ngân hàng không ngừng tăng cường mở rộng các danh mục các sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng, sử dụng nguồn vốn có hiệu quả và thu lợi nhuận cao Tuy nhiên, về cơ bản chúng ta có thể sắp xếp các hoạt động đó vào một trong ba nhóm sau:
- Hoạt động huy động vốn
- Hoạt động sử dụng vốn
- Hoạt động cung cấp các dịch vụ tài chính
Ba hoạt động này có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau và có vai trò quan trọng quyết định đến sự thành công trong kinh doanh của ngân hàng
Hoạt động huy động vốn
Một đặc trưng quan trọng trong hoạt động kinh doanh của NHTM tạo nên sự khác biệt so với các doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực phi tài chính là hoạt động huy động vốn, một nghiệp vụ kinh doanh hết sức quan trọng của NHTM NHTM sử dụng uy tín và điều kiện sẵn có của mình để tiến hành huy động vốn Hoạt động này tạo nguồn vốn cho NHTM, vì thế đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng Mặc dù bị giới hạn về mức huy động vốn, song nếu các NHTM sử dụng tốt nguồn vốn này thì không những nguồn lợi của ngân hàng được tăng lên mà còn tạo cho ngân hàng uy tín ngày càng cao Qua đó ngân hàng có thể mở rộng được vốn và mở rộng qui mô hoạt động kinh doanh của ngân hàng Kết cấu nguồn vốn bao gồm: Vốn chủ sở hữu, vốn huy động, vốn vay và các nguồn vốn khác
Trang 24Hoạt động sử dụng vốn
Sử dụng và khai thác các nguồn vốn là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của NHTM vào mục đích nhằm đảm bảo an toàn trong thanh toán cũng như tìm kiếm lợi nhuận Nghiệp vụ này được thể hiện thông qua nhiều nghiệp vụ cụ thể như: cho vay, đầu tư, hoạt động ngân quỹ Trong đó, cho vay là nghiệp vụ cơ bản nhất trong sử dụng và khai thác nguồn vốn của NHTM
* Nghiệp vụ cho vay: Là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu và tạo khả năng
sinh lời cao cho ngân hàng Trong tổng tài sản có thì nghiệp vụ này chiếm tỷ trọng lớn nhất
* Nghiệp vụ đầu tư tài chính: Các NHTM thực hiện quá trình đầu tư bằng
vốn của mình thông qua các hoạt động hùn vốn, góp vốn, chứng khoán trên thị trường, đầu tư bất động sản, đầu tư thị trường vàng với mục đích kiếm lời, phân tán rủi ro qua việc đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh
* Nghiệp vụ ngân quỹ: Nghiệp vụ này phản ánh các khoản về dự trữ của
ngân hàng nhằm đảm bảo an toàn trong thanh toán và thực hiện qui định về dự trữ bắt buộc do NHNN đề ra
Hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính
Là nghiệp vụ của ngân hàng thực hiện các dịch vụ cho khách hàng thông qua đó nhận được các khoản thu dưới hình thức hoa hồng Các hoạt động trung gian này có độ rủi ro thấp hơn hoạt động cho vay và đầu tư trong khi vẫn mang lại nguồn thu lớn cho ngân hàng Nền kinh tế càng phát triển thì dịch vụ này càng mở rộng, bao gồm:
- Dịch vụ thanh toán, chuyển tiền: Tiến hành chuyển tiền cho khách, thanh toán hộ khách hàng về các khoản tiền mua bán dịch vụ thông qua việc thu hộ, chi
hộ khách hàng bằng hình thức séc, ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, thư tín dụng…
- Dịch vụ bảo lãnh: Là nghiệp vụ mà Ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của mình nếu khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết của họ đối với đối tác
- Dịch vụ kinh doanh ngoại hối: Tiến hành đồng thời mua một loại tiền tệ này và bán một loại tiền tệ khác
Trang 25- Dịch vụ chứng khoán: Ngân hàng làm đại lý phát hành và bán chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ …) cho khách hàng
- Dịch vụ ngân hàng điện tử:Hiểu theo nghĩa trực quan đó là một loại dịch
vụ ngân hàng được khách hàng thực hiện nhưng không phải đến quầy giao dịch gặp nhân viên ngân hàng Hiểu theo nghĩa rộng hơn đây là sự kết hợp giữa một số hoạt động dịch vụ ngân hàng truyền thống với công nghệ thông tin và điện tử viễn thông E-Banking là một dạng của thương mại điện tử (electronic commerce hay e-commerce) ứng dụng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng Cũng có thể hiểu cụ thể hơn, E-Banking là một hệ thống phần mềm tin học cho phép khách hàng có thể tìm hiểu thông tin hay thực hiện một số giao dịch ngân hàng thông qua phương tiện điện tử (công nghệ thông tin, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ tương tự)
Như vậy, NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, thông qua nghiệp vụ huy động vốn để cho vay, đầu tư và thực hiện các nghiệp vụ tài chính khác Thông qua các nghiệp vụ, NHTM đã chứng tỏ được sự cần thiết của hệ thống ngân hàng trong phát triển nền kinh tế thị trường, là đòn bẩy của nền kinh tế
1.1.1.3 Đặc điểm kinh doanh của Ngân hàng thương mại
Hoạt động NHTM là hình thức kinh doanh kiếm lời, theo đuổi mục tiêu lợi nhuận là chủ yếu Ngân hàng thực hiện hai hình thức hoạt động là kinh doanh tiền
tệ và dịch vụ ngân hàng Trong đó, hoạt động kinh doanh tiền tệ được biểu hiện ở nghiệp vụ huy động vốn dưới các hình thức khác nhau, để cấp tín dụng cho khách hàng có yêu cầu về vốn với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận
Thứ nhất, NHTM là tổ chức trung gian trong nền kinh tế nhằm mục đích
kiếm lời: Các hoạt động dịch vụ ngân hàng được biểu hiện thông qua các nghiệp vụ sẵn có về tiền tệ, thanh toán, ngoại hối, chứng khoán, để cam kết thực hiện công việc nhất định cho khách hàng trong một thời gian nhất định nhằm mục đích thu phí dịch vụ hoặc hoa hồng
Thứ hai, hoạt động NHTM phải tuân thủ theo quy định của pháp luật: nghĩa
là chỉ khi NHTM thoả mãn đầy đủ các điều kiện khắt khe do pháp luật qui định
Trang 26như điều kiện về vốn, phương án kinh doanh thì mới được phép hoạt động trên thị trường
Thứ ba, hoạt động NHTM là hình thức kinh doanh có độ rủi ro cao, cạnh
tranh khốc liệt: cạnh tranh gay gắt, rủi ro cao hơn nhiều so với các hình thức kinh doanh khác và thường có ảnh hưởng sâu sắc tới các ngành khác và cả nền kinh tế
Sở dĩ như vậy là do trong hoạt động ngân hàng đặc biệt là hoạt động kinh doanh tiền tệ do các ngân hàng tiến hành huy động vốn của người khác rồi đem vốn đó để cấp tín dụng cho khách hàng theo nguyên tắc hoàn trả vốn và lãi trong một thời gian nhất định, nên đã tạo rủi ro cho các hoạt động NHTM Rủi ro đến từ phía ngân hàng, khách hàng vay tiền, rủi ro đến từ những yếu tố khách quan Bởi vậy, NHTM phải đối mặt với rủi ro cao, kéo theo là rủi ro đối với những người gửi tiền ở NHTM cũng như rủi ro đối với nền kinh tế Để tránh rủi ro đáng tiếc xảy ra, nhằm kiểm soát, làm giảm nhẹ những tổn hại do ngân hàng vỡ nợ gây ra, chính phủ các quốc gia đặt ra những đạo luật riêng, nhằm đảm bảo cho hoạt động này được vận hành an toàn, hiệu quả trong nền kinh tế thị trường
Thứ tư, hoạt động NHTM có quy mô lớn, phạm vi rộng: Quy mô của các
NHTM dù vừa mới thành lập hay đã có bề dầy lịch sử thì quy mô hoạt động của các NHTM vẫn theo mô hình tập đoàn kinh tế đa năng, phạm vi hoạt động của các NHTM không chỉ bó hẹp trong phạm vi một địa phương, một quốc gia mà hoạt động của các NHTM mang tính toàn cầu
Thứ năm, sản phẩm dịch vụ tài chính đa dạng, khách hàng đông đảo: Mọi
chủ thể trong nền kinh tế đều là khách hàng của các NHTM nên số lượng khách hàng của các NHTM rất đông đảo, cả số lượng và doanh số Để phòng ngừa và hạn chế tối đa những rủi ro có thể gặp phải trong hoạt động kinh doanh rất đặc biệt của NHTM là kinh doanh tiền tệ nên các sản phẩm dịch vụ của NHTM vô cùng đa dạng, phong phú
Thứ sáu, doanh số hoạt động kinh doanh lớn: Doanh số hoạt động của các
NHTM vô cùng lớn, do khách hàng của NHTM đa dạng, phong phú, nhiều giao
dịch phát sinh…
Trang 271.1.2 Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại
Rủi ro có nghĩa khác nhau với người khác nhau và khái niệm rủi ro cũng thay đổi với các quan điểm, thái độ và kinh nghiệm khác nhau Một số học giả nhấn mạnh về hậu quả xấu của rủi ro và cho rằng rủi ro là phải xử lý, trong khi
đó, một số người khác cho rằng, rủi ro có 2 mặt của vấn đề: Mặt xấu là sự đe doạ với hậu quả xấu, mặt kia là cơ hội Hơn nữa, rủi ro đến từ sự không chắc chắn - bất trắc, vài định nghĩa đã liên hệ rủi ro tới sự không chắc chắn Knight cho rằng rủi ro có thể tính toán được khá chính xác trong khi sự không chắc chắn thì không thể tính toán được Tuy nhiên, một số học giả cho rằng có mối liên hệ giữa rủi ro và sự không chắc chắn vì khả năng xảy ra của sự không chắc chắn thường được dự tính chủ quan bởi sự xét đoán và rất khó để được ranh giới rõ ràng giữa niềm tin biết và không biết Hillson cho rằng sự không chắc chắn mà không ảnh hưởng đến mục tiêu thì không được coi là rủi ro
Hiện tại, một vài tiêu chuẩn quốc tế và khu vực về quản trị rủi ro đã chấp nhận 2 mặt của rủi ro, liên hệ giữa rủi ro và mục tiêu của tổ chức Ví dụ, ISO
đã định nghĩa rủi ro là “ảnh hưởng của sự không chắc chắn lên mục tiêu” (ISO31000:2009) Định nghĩa này cũng đã được chấp nhận ở BSI Tiêu chuẩn của Úc/NewZealand (AS/NZS 4630:2004) định nghĩa rủi ro là “khả năng xảy
ra việc gì đó làm ảnh hưởng đến mục tiêu” Trong luận văn này, tác giả chấp nhận sử dụng định nghĩa rủi ro của ISO31000:2009
- Ngày nay do dòng vốn tiền gửi của các thành phần kinh tế trong xã hội vào các NHTM bị hạn chế do tác động của lạm phát và lòng tin đã dẫn đến nhiều rủi ro thanh khoản Về phía các NHTM, điều kiện thuận lợi trong kinh doanh những năm gần đây đã làm nảy sinh tư tưởng chủ quan, tăng trưởng tín dụng quá nóng trong khi lại buông lỏng chính sách quản lý rủi ro làm mất cân đối một số tương quan cơ bản trong cơ cấu tài sản, không đảm bảo đúng các tỷ lệ an toàn theo tiêu chuẩn Chỉ cần một vài ngân hàng mất khả năng thanh toán sẽ gây hiệu ứng dây chuyền, nhanh chóng lan tỏa trong toàn hệ thống ngân hàng
- Khả năng dễ xảy ra rủi ro cao trong hoạt động ngân hàng là do:
+ Tiền tệ vừa là đối tượng vừa là phương tiện kinh doanh;
+ Khách hàng của NHTM rất đa dạng về năng lực tài chính, đạo đức kinh doanh cũng khác nhau;
Trang 28+ Hoạt động của ngân hàng có tính nhạy cảm cao với sự biến động của nền kinh tế;
+ Do sự phát triển của công nghệ và hội nhập quốc tế về ngân hàng
1.1.2.1 Các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại
a Rủi ro tín dụng
Đây được coi là loại rủi ro nguy hiểm nhất trong ngân hàng Nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ đặc biệt quan trọng trong hệ thống ngân hàng, nó chiếm nguồn vốn lớn trong tài sản có và trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng cả về khối lượng công việc cũng như mức độ tạo lợi nhuận Chính vì thế, tỷ lệ thuận với nó là mức độ tạo rủi ro trong hoạt động của ngân hàng
Rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu được đầy
đủ cả gốc và lãi của khoản vay Nói cách khác, “rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra
do khách hàng không thực hiện trả nợ theo các điều khoản đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng” Rủi ro tín dụng là loại rủi ro lớn nhất và thường xuyên xảy ra trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng Rủi ro tín dụng xảy ra khi bên đi vay, trong một giao dịch nào đó, không thực hiện được việc thanh toán tiền vay theo thời hạn và điều kiện trong hợp đồng làm cho người cho vay phải gánh chịu tổn thất tài chính
b Rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất là khả năng thu nhập giảm do chênh lệch lãi suất giảm khi lãi suất thị trường thay đổi ngoài dự kiến gắn với thay đổi nhiều nhân tố khác như cấu trúc và kỳ hạn của tài sản
Rủi ro này là hậu quả của những thay đổi lãi suất Trong nền kinh tế, lãi suất
là yếu tố rất nhạy cảm đối với biến động của nền kinh tế; hơn nữa, nó là công cụ trong việc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ Vì vậy, rủi ro lãi suất là rủi ro xuất hiện thường xuyên trong hoạt động kinh doanh ngân hàng
Rủi ro lãi suất có thể xảy ra trong những trường hợp sau đây:
- Lạm phát tăng, lãi suất buộc phải điều chỉnh theo xu hướng tăng lên, chi phí cho hoạt động ngân hàng cũng tăng lên, do đó làm giảm thu nhập của ngân
Trang 29hàng Khi lạm phát cao thì thường có lợi cho người vay vốn và bất lợi cho người cho vay
- Trình độ thấp kém, bị thua thiệt trong việc cạnh tranh lãi suất ở thị trường hoặc do nhiều yếu tố của nền kinh tế tác động đến lãi suất như cung, cầu, yếu tố khác của thị trường…
c Rủi ro hoạt động
Rủi ro hoạt động là những rủi ro xuất phát từ việc các quy định nội bộ, con người và hệ thống không đầy đủ hoặc xuất phát từ những yếu tố bên ngoài bao gồm rủi ro tác nghiệp, rủi ro pháp luật, thiên tai,… đều gọi chung là rủi ro hoạt động
Thị trường tài chính Việt Nam đang dần dần phát triển theo đà thế giới Kéo theo đó là các NHTM Việt Nam sẽ gặp phải nhiều rủi ro và thách thức khi mà dịch
vụ ngân hàng trong nước còn đơn điệu, chất lượng chưa cao, chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng và nặng nề dịch vụ ngân hàng truyền thống
d Rủi ro đạo đức
Rủi ro đạo đức là một thuật ngữ kinh tế học và tài chính được sử dụng để chỉ rủi ro phát sinh khi đạo đức của chủ thể kinh tế bị suy thoái Rủi ro đạo đức trong ngân hàng cùng với những hệ lụy do nó gây ra đang trở thành vấn đề nhức nhối được toàn xã hội quan tâm Số vụ vi phạm đạo đức bị truy tố và đưa ra xét xử ngày một tăng và vẫn chưa có dấu hiệu cải thiện Những thiệt hại mà nhà nước và nhân dân phải gánh chịu đã phần nào nói lên tầm quan trọng của đạo đức nghề nghiệp trong ngành ngân hàng
đ Rủi ro khác
- Rủi ro hệ thống: Là việc nhân viên làm việc không cẩn thận, thiếu kinh nghiệm dẫn tới hạch toán sai, nhầm lẫn dẫn đến dữ liệu sai, kiểm soát thay đổi kém, lỗi lập trình, lỗi dịch vụ…
- Rủi ro bên ngoài: Là các rủi ro nằm ngoài tầm kiểm soát của ngân hàng như hỏa hoạn, thiên tai, biểu tình, bạo loạn…
- Rủi ro pháp lý: Là rủi ro từ sự không rõ ràng của các hoạt động pháp lý hoặc không rõ ràng trong việc áp dụng và hiểu các hợp đồng, luật hay quy chế
Trang 301.1.2.2 Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại
Định nghĩa của quản lý rủi ro cũng được ghi trong tiêu chuẩn quản lý rủi
ro ISO31000:2009, ngắn gọn định nghĩa quản lý rủi ro là “các hoạt động phù hợp để chỉ đạo và kiểm soát một tổ chức liên quan đến rủi ro”; trong khi đó, Viện quản lý rủi ro (IRM, 2002) định nghĩa quản lý rủi ro là “quá trình trong đó các tổ chức có phương pháp giải quyết những rủi ro gắn liền với hoạt động của mình với mục tiêu đạt được lợi ích bền vững trong từng hoạt động và qua các
danh mục đầu tư của tất cả các hoạt động” Trong luận án này: Quản lý rủi ro
là quá trình được hỗ trợ bởi các nguồn lực để đối phó với nguy cơ bằng cách giám sát và kiểm soát khả năng và/hoặc tác động của các mối đe dọa hoặc tìm kiếm việc thực hiện thực hoá các cơ hội
Xu thế hội nhập quốc tế đòi hỏi các NHTM Việt Nam phải đáp ứng các yêu cầu quản trị nói chung và quản trị rủi ro nói riêng theo chuẩn mực quốc tế, đồng thời mở ra các cơ hội để ngành Ngân hàng có thể tiếp cận nhanh và gần hơn với các chuẩn mực đó Thời gian gần đây các ngân hàng đã ý thức được tầm quan trọng của
hệ thống quản trị rủi ro cũng như mối liên hệ giữa quản trị rủi ro và lợi nhuận Một ngân hàng phải có sức đề kháng tốt, ít bị tác động bởi những tác động không lường trước và có khả năng đưa ra những hành động kịp thời, hạn chế thấp nhất những rủi
ro thì ngân hàng đó là ngân hàng quản trị rủi ro tốt
Mục đích nỗ lực giải quyết các khoản nợ xấu từ hoạt động cho vay trong quá khứ, phòng ngừa rủi ro trong tương lai, các NHTM đã xây dựng hệ thống quản lý rủi ro tiên tiến Quản lý rủi ro vẫn là một chức năng khá mới mẻ đối với các NHTM Việt Nam trong bối cảnh các ngân hàng đang chật vật xây dựng “khẩu vị” rủi ro, khả năng chịu đựng và các giới hạn rủi ro, cũng như làm thế nào để nâng cao quy trình, kiểm soát và quản lý các nguồn lực Giải quyết các vấn đề rủi ro trong ngân hàng không chỉ đơn giản là chi phí thực hiện kinh doanh mà còn là con đường để hiểu rõ hơn hoạt động kinh doanh của ngân hàng Hơn thế nữa, sự kết hợp giữa giám sát của NHTW và sự sẵn sàng chủ động của các ngân hàng sẽ giúp xây dựng
hệ thống NHTM vững mạnh
Trang 31Quản lý rủi ro được xây dựng chủ yếu qua 4 nguyên tắc:
Nguyên tắc 1: Do hoạt động quản lý rủi ro hoạt động vẫn đang phát triển và môi trường kinh doanh thường xuyên biến động nên ban lãnh đạo ngân hàng cần đảm bảo rằng các chính sách, quy trình và hệ thống của khuôn khổ này đều phải đầy đủ và có hiệu lực Khả năng tăng cường công tác quản lý rủi ro hoạt động sẽ phụ thuộc rất nhiều vào việc những vấn đề quan ngại do cán bộ quản lý rủi ro hoạt động đưa ra được cân nhắc đến mức độ nào cũng như việc lãnh đạo cấp cao có sẵn sàng hành động nhanh chóng và thích hợp đối với những dấu hiệu cảnh báo đưa ra hay không
Nguyên tắc 2: Các ngân hàng cần xây dựng, triển khai và duy trì một khuôn khổ tích hợp toàn diện vào các quy trình quản lý rủi ro nói chung của toàn ngân hàng
Nguyên tắc 3: Hội đồng quản trị phải phê duyệt và rà soát lại “khẩu vị” cũng như khả năng chịu rủi ro hoạt động gắn với bản chất, loại hình và mức độ rủi ro hoạt động mà ngân hàng sẵn sàng chấp nhận
Nguyên tắc 4: Các ngân hàng cần có kế hoạch hồi phục và vận hành liên tục
để đảm bảo khả năng hoạt động bình thường và giảm thiểu tổn thất trong trường hợp gặp đổ vỡ nghiêm trọng hoạt động kinh doanh
Theo chuẩn mực quốc tế, một số khung quản trị rủi ro cho các NHTM như sau:
Chiến lược của ngân hàng và phương pháp quản lý rủi ro hoạt động phải ăn khớp với nhau
Xác định được các phương pháp quản lý và đo lường rủi ro hoạt động
Đưa ra các công cụ chuẩn mực về xác định, đo lường, kiểm tra, giám sát, báo cáo rủi ro hoạt động trong toàn hệ thống…
1.1.3 Rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại
1.1.3.1 Khái niệm
Đạo đức là một từ Hán Việt, chiết tự ra “đạo” có nghĩa là lẽ làm người,
“đức” trong đức hạnh, sống có đức là sống theo lẽ phải, sống hài hòa với mọi người Dịch ra đạo đức có nghĩa là đạo lí làm người chân chính Đối với mỗi ngành, mỗi
Trang 32nghề, khái niệm đạo đức lại mang một nét nghĩa riêng, đặc thù nhưng vẫn không xa rời nền tảng nghĩa gốc ban đầu Nếu như đạo đức nghề giáo là toàn tâm toàn ý vì học trò, “lương y như từ mẫu” là kim chỉ nam về chữ đức của nghề y, thì trong kinh
tế, đạo đức nghề nghiệp mang nhiều nét nghĩa đa chiều hơn Kinh doanh lấy chữ tín đặt đầu là đạo đức, làm đúng chức trách, quyền hạn và nhiệm vụ của mình là đạo đức, tôn trọng quyền lợi của khách hàng cũng là đạo đức
Đạo đức nghề nghiệp trong ngành ngân hàng có thể được hiểu thông qua các khía cạnh xét về chuyên môn của từng bộ phận hoạt động, đặc biệt là liên quan đến tín dụng, bảo lãnh, tiền gửi và ngân quỹ Đạo đức ngân hàng là sử dụng đúng chức
vụ quyền hạn của mình, không lợi dụng nó hoặc làm lơ đi những quy định, thủ tục nhằm làm lợi cho cá nhân mình
Tóm lại, rủi ro đạo đức là một thuật ngữ kinh tế học và tài chính được sử dụng để chỉ rủi ro phát sinh khi đạo đức của chủ thể kinh tế bị suy thoái;
Rủi ro đạo đức là một loại thất bại thị trường xảy ra trong môi trường thông tin phi đối xứng;
Rủi ro đạo đức là vấn đề chênh lệch thông tin diễn ra sau khi thực hiện giao dịch Rủi ro đạo đức nảy sinh khi bên có ưu thế thông tin hiểu được tình thế thông tin phi đối xứng giữa các bên giao dịch và tự nhiên hình thành động cơ hành động theo hướng làm lợi cho bản thân bất kể hành động đó có thể làm hại cho bên kém
ưu thế thông tin
1.1.3.2 Các hình thức biểu hiện của rủi ro đạo đức
a Rủi ro đạo đức do khách hàng
Trong hoạt động ngân hàng, rủi ro đạo đức của khách hàng thường thể hiện ở việc khách hàng thực hiện không đúng mục đích cam kết với Ngân hàng thương mại Từ sự thiếu thông tin và thiếu giám sát, NHTM sẽ dễ dàng gặp rủi ro đạo đức khi khách hàng vi phạm đạo đức
Ở mức độ nghiêm trọng hơn, rủi ro đạo đức biểu hiện ở những hành vi gian lận, lừa đảo của khách hàng Trên thực tế, để đạt được mục tiêu của mình, nhiều khách hàng đã làm giả hồ sơ, hợp đồng mua bán vòng vo Vậy đây chính là sự bất
Trang 33cân xứng về thông tin, mà nếu NHTM không nắm rõ được nguồn thông tin sẽ dẫn
tới tiềm ẩn rủi ro đạo đức sau khi kí kết hợp đồng giao dịch với khách hàng
b Rủi ro đạo đức do ngân hàng
Rủi ro đạo đức xảy ra đối với người quản lý ngân hàng: Chẳng hạn khi nhà quản lý hay bộ phận nhóm cán bộ quản lý đã có quan hệ lợi ích với khách hàng, mặc dù điều kiện khách hàng vay vốn có thể chưa hội tụ, thậm chí không đủ điều kiện và đã được cán bộ thẩm định ghi rõ là không duyệt, nhưng vì lý do lợi ích của
cá nhân, nhà quản lý hay nhóm cán bộ quản lý đã bằng mọi cách, hướng dẫn khách hàng hợp thức hoá hồ sơ, thậm chí còn yêu cầu cán bộ thẩm định phải thực hiện theo ý kiến chỉ đạo
Ngân hàng chạy theo mục tiêu lợi nhuận, nới lỏng quá mức các chính sách đầu tư và tín dụng nhằm đáp ứng và nắm bắt cơ hội thị trường mà bỏ qua các nguyên tắc cơ bản trong việc thẩm định, giám sát và đưa ra các điều kiện ràng buộc đối với khách hàng trước và trong khi sử dụng vốn Ngân hàng đầu tư, cho vay quá mạo hiểm; cấp tín dụng quá tập trung, thiếu các chính sách cho vay, thiếu sự kiểm soát chặt chẽ và khoa học Ngân hàng mở rộng nhanh chóng theo hướng đầu tư vào nhiều sản phẩm mới có tính phức tạp và đòi hỏi kỹ thuật cao, nhưng trình độ của ban lãnh đạo và nhân viên cũng như công nghệ ngân hàng chưa đáp ứng kịp thời và đồng bộ Khi các khoản đầu tư này gặp rủi ro thì thậm chí ban lãnh đạo cũng không hiểu đặc tính của sản phẩm mà nhân viên ngân hàng đang thực hiện, mức độ rủi ro
và nguyên nhân của rủi ro gắn với sản phẩm đó
Rủi ro đạo đức xuất phát từ phía nhân viên ngân hàng khi giao dịch với khách hàng Thường thấy nhất là hành vi nhận hối lộ của khách hàng để cấp tín dụng đảo nợ, cho vay dự án nhiều rủi ro, cố ý gây khó cho khách hàng để nhận bồi dưỡng Hoặc nhân viên ngân hàng thiếu trách nhiệm, không nắm bắt và tìm hiểu thông tin liên quan đến khoản vay một cách chính xác, thiếu thận trọng trong phân tích diễn biến thị trường liên quan tới khách hàng kinh doanh…dẫn đến việc ngân hàng quyết định cho vay những dự án, phương án không thực hiện được hay thực hiện không hiệu quả dẫn đến nợ quá hạn hoặc khách hàng không có khả năng trả nợ
Một trong những biểu hiện khác của rủi ro đạo đức trong hệ thống ngân hàng
là những khoản vay chính sách mà các ngân hàng lớn của Nhà nước áp dụng cho
Trang 34các doanh nghiệp nhà nước Có nhiều khoản vay chính sách được cho là rất không hiệu quả nhưng vẫn được duy trì
khách hàng, người đi vay luôn nắm được nhiều thông tin hơn người cho vay về quá trình sử dụng vốn vay, họ có thể che giấu thông tin và thực hiện những hoạt động gây rủi ro cho khoản vốn vay mà người cho vay không mong muốn Đây chính là hành vi rủi ro đạo đức từ phía khách hàng Nếu các ngân hàng thiếu sự giám sát chặt chẽ thì xu hướng rủi ro đạo đức từ phía khách hàng sẽ gia tăng, gây nguy cơ tổn thất nhiều hơn cho các ngân hàng Ngoài ra, nguyên nhân rủi ro đạo đức xuất phát từ việc lựa chọn, bố trí sử dụng cán bộ, không đánh giá đúng năng lực cũng như phẩm chất, tư cách đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng Từ đó dẫn đến
sự thông đồng giữa cán bộ quản lý và nhân viên ngân hàng với khách hàng, gây thiệt hại đến lợi ích chung của ngân hàng
Thứ hai, rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh ngân hàng xuất phát từ chính sự thiếu hiểu biết của nhà quản trị ngân hàng Với thị trường tài chính ngày
càng phát triển, nhiều sản phẩm tài chính mới phức tạp và đa dạng ra đời như các sản phẩm phái sinh, chứng khoán hóa… đòi hỏi ban điều hành các ngân hàng phải kịp thời nắm bắt và hiểu rõ bản chất, mức độ rủi ro của các sản phẩm tài chính, đồng thời có những chính sách quản trị rủi ro cũng như đủ nguồn lực về tài chính và nhân lực nhằm kiểm soát được mức độ rủi ro của sản phẩm tài chính được áp dụng Tuy nhiên, thực tế các cuộc khủng hoảng tài chính cho thấy nhiều ban lãnh đạo ngân hàng thậm chí không hiểu rõ các sản phẩm tài chính phức tạp, không đưa ra được các chính sách quản lý và kiểm soát phù hợp và cốt lõi là họ vẫn thực hiện đầu
tư các sản phẩm tài chính đó với cách thức kiểm soát không phù hợp Ngoài ra, việc
áp dụng những sản phẩm phái sinh tại một số ngân hàng trên thế giới cũng nhằm mục đích che giấu những khoản nợ xấu
Trang 35Thứ ba, là do sự thiếu giám sát từ phía cơ quan chính phủ, cổ đông và người gửi tiền Người gửi tiền thường tin tưởng vào mức độ tín nhiệm của các NHTM và
khả năng hoàn trả các khoản tiền gửi; đồng thời tin tưởng vào khả năng thực hiện bảo hiểm của các công ty bảo hiểm tiền gửi Từ góc độ ngân hàng, danh tiếng và vị trí trong xã hội được coi là những tiêu chí cơ bản nhằm xây dựng hình ảnh của ngân hàng trong mắt người gửi tiền Các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở thế kỷ 19, đầu thế kỉ 20 và 21 đã minh chứng rằng thậm chí đối với các ngân hàng có mức độ thanh khoản tốt cũng không thể thoát khỏi ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng tài chính làm cho người gửi tiền rút tiền ồ ạt Thực tế cho thấy hàng loạt các NHTM mất khả năng thanh toán mặc dù có tham gia bảo hiểm tiền gửi Khi có sự tham gia của bảo hiểm tiền gửi, mức độ rủi ro đạo đức không chỉ dừng lại ở hành vi của từng nhân viên ngân hàng mà ở chính sách kinh doanh với mức độ chấp nhận mạo hiểm cao trong đầu tư Ông Gary Stem, chủ tịch của ngân hàng dự trữ liên bang
Minneapolis, đã nhận định như sau: “khi một cá nhân hoặc một tổ chức được bảo
hiểm, thì các cá nhân hoặc tổ chức này sẽ có động cơ đầu tư vào các hoạt động rủi
ro hơn các cá nhân hoặc các tổ chức không được bảo hiểm” [79] Trong hoạt động
kinh doanh ngân hàng với khẩu ngữ “rủi ro cao lợi nhuận cao” thì động lực như
ông Gary Stem nói càng trở nên mạnh mẽ hơn
Như vậy, những hệ thống tài chính được giám sát chặt chẽ sẽ giúp giảm mức
độ thiệt hại cho ngân hàng, cũng như giúp cho cơ quan quản lý dự đoán hoặc ngăn chặn được trước những sự cố xảy ra
Thứ tư, rủi ro đạo đức của các tổ chức tài chính tín dụng nảy sinh từ chính
sự hậu thuẫn của chính phủ nhằm cứu giúp các tổ chức tài chính tín dụng lớn thoát khỏi sự sụp đổ, đây là một trong những yếu tố khiến các tổ chức này thực hiện các hành vi đầu tư ẩn chứa rủi ro đạo đức Có những nghiên cứu cho rằng, trong một
thị trường thậm chí không có hệ thống bảo hiểm tiền gửi chính thức thì bàn tay can thiệp của chính phủ cũng gây nên rủi ro đạo đức [97] Bài học thực tế tại nhiều cuộc khủng hoảng tài chính cho thấy, với nhiều chính sách nới lỏng quản lý của chính phủ nhằm giao quyền tự chủ và tăng tính cạnh tranh cho các tổ chức tín dụng, đồng thời với ý thức rằng chính phủ sẽ sẵn sàng ra tay cứu trợ cho các tổ chức tín dụng quy mô lớn nhưng đã mất khả năng thanh toán nhằm duy trì niềm tin của công
Trang 36chúng vào hệ thống tài chính ngân hàng (too big to be fail), nhiều tổ chức tín dụng
đã có những chính sách đầu tư rủi ro và nới lỏng điều kiện tín dụng với khách hàng vay vốn Đây chính là minh chứng của rủi ro đạo đức trong NHTM Nhưng hậu quả trầm trọng hơn là, một khi các tổ chức tín dụng này mất khả năng thanh toán, nhưng chính phủ vẫn ra tay cứu giúp hoặc vẫn cho các tổ chức này tồn tại và kinh doanh, thì mức độ rủi ro đạo đức trở nên tồi tệ hơn bao giờ hết, vì khi đó các tổ chức tín dụng này trở thành những con bạc mất trắng, sẽ liều lĩnh đầu tư vào các hoạt động
vô cùng rủi ro với hi vọng cứu vãn tình thế và biết rằng mình chẳng còn gì để mất Như vậy, việc loại bỏ bảo hiểm tiền gửi cũng không giải quyết được tình trạng rủi
ro đạo đức
Các nguyên nhân khác: Ngân hàng là ngành nghề kinh doanh dựa trên nền
tảng niềm tin, người dân tin tưởng ngân hàng mà gửi tiền, tạo nguồn vốn huy động cho ngân hàng Ngân hàng phát triển dựa trên uy tín của mình, một khi niềm tin đã mất thì khó lòng có thể khôi phục và tiếp tục tồn tại trong thương trường Do đó, đạo đức, uy tín nghề nghiệp đối với đội ngũ nhân viên - bộ mặt của ngân hàng lại càng trở nên quan trọng Theo sự phát triển của nền kinh tế, của công nghệ thông tin hiện đại, những giá trị vật chất ngày càng được coi trọng và đề cao, càng đẩy những chuẩn mực đạo đức trở nên thứ yếu, chìm dần sau ánh hào quang của sự giàu sang, địa vị và quyền lực Sức hút của đồng tiền ngày càng trở nên mạnh mẽ, cuốn theo
đó, chữ tâm trong kinh doanh cũng đang dần bị xem nhẹ Chính vì thế, nguyên nhân mấu chốt của sự gia tăng những vi phạm đạo đức là vấn đề con người Nguồn nhân lực yếu kém không chỉ tạo ra những hạn chế trong quản trị ngân hàng, ảnh hưởng
đến hiệu quả kinh doanh, mà còn tiềm ẩn rủi ro đạo đức rất lớn
Thêm vào đó, vấn đề tuyển dụng nhân sự của các ngân hàng cũng rất được quan tâm, nhất là bộ phận tín dụng và tái thẩm định Đa phần nhân sự ở bộ phận này
là các sinh viên mới ra trường, còn thiếu kinh nghiệm và bản lĩnh, cũng như tính độc lập và quyết đoán nhất định Họ rất khó đưa ra ý kiến hoặc từ chối sự chỉ định
“theo khuôn mẫu” của các lãnh đạo phòng ban Ý kiến của một bộ phận đơn lẻ không thể ảnh hưởng nhiều đến quyết định tín dụng, nhưng rủi ro đạo đức vẫn tồn tại, vẫn có thể đe dọa đến đạo đức kinh doanh của ngân hàng
Trang 37Xét về khách quan rất nhiều ngân hàng đã bắt đầu công cuộc tái cơ cấu, nhưng vấn đề các ngân hàng quan tâm là tập trung đi tìm mô hình tổ chức hợp lý cho mình, trong khi đó quy định nội bộ thì rất chung chung Ranh giới giữa đúng và sai rất mong manh Sự thiếu minh bạch, dễ gây hiểu nhầm là cơ hội cho nhiều cá nhân thực hiện những hành vi không đúng Quy định nội bộ chung chung rất dễ dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật để trục lợi
Trong khi đó, cơ chế kiểm soát tín dụng của nhiều ngân hàng tồn tại nhiều nhược điểm Với sự mở rộng mạng lưới hoạt động (chi nhánh, phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm) trên cả nước dẫn đến sự phân tán nhất định của các nguồn lực Sự quản lí
từ xa, thiếu tính giám sát trực tiếp và chặt chẽ của Hội sở chính đối với các chi nhánh rất dễ dẫn đến các vấn đề rủi ro đạo đức, đặc biệt trong công tác thẩm định tín dụng
Hiện nay, mới chỉ vài ngân hàng đã áp dụng được công tác quản lý tín dụng tập trung Trong đó, hội sở kiểm soát chặt chẽ được các hồ sơ tín dụng, lực lượng kiểm soát tín dụng được trao thực quyền, tổ chức tốt và đặc biệt là được nắm quyền hạch toán giải ngân nên đã hạn chế được nhiều rủi ro đạo đức Và một điều cũng khá nhạy cảm, là có dư luận cho rằng, một số ngân hàng lớn có uy tín trong xã hội
đã lạm dụng cụm từ “đổi mới, trẻ hóa nguồn nhân lực” để thay thế những cán bộ có
kinh nghiệm lâu năm, có đạo đức nghề nghiệp
1.1.3.4 Tác hại của rủi ro đạo đức
Đối với Ngân hàng thương mại
Thứ nhất, rủi ro đạo đức làm tổn hại trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của
chính NHTM Khi rủi ro đạo đức xảy ra đối với hoạt động tín dụng, có thể xuất phát
do khách hàng có rủi ro đạo đức, hoặc do rủi ro đạo đức trong chính hoạt động kinh doanh của ngân hàng tạo nên, ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã cấp và lãi cho vay, nhưng ngân hàng phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn, điều này sẽ làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi, vòng quay vốn tín dụng giảm làm cho ngân hàng kinh doanh không hiệu quả, chi phí của ngân hàng tăng lên so với dự kiến Nếu có một khoản vay bị mất khả năng thu hồi thì ngân hàng phải sử dụng các nguồn vốn của mình để trả cho người gửi tiền, đến một chừng mực nào đấy, ngân hàng không có đủ nguồn vốn để trả cho người gửi tiền thì
Trang 38ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, có thể dẫn đến nguy cơ gặp rủi ro thanh khoản Và kết quả là làm thu hẹp quy mô kinh doanh và năng lực tài chính giảm sút
Thứ hai, rủi ro đạo đức dẫn tới sự suy giảm uy tín trong kinh doanh của ngân
hàng Từ những phân tích trong phần trên cho thấy khi ngân hàng gặp rủi ro thanh khoản, năng lực tài chính giảm sút thì sẽ có ảnh hưởng không nhỏ tới uy tín của ngân hàng đó Lòng tin của người gửi tiền và cổ đông vào ngân hàng và mức độ an toàn của đồng vốn gửi vào ngân hàng bị suy giảm, cho dù mức độ rủi ro đó xuất phát từ phía khách hàng của ngân hàng Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng cạnh tranh và sự phát triển bền vững của ngân hàng
Đối với nền kinh tế
Bắt nguồn từ bản chất và chức năng của NHTM là một tổ chức trung gian tài chính chuyên huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho các tổ chức, các doanh nghiệp và cá nhân có nhu cầu vay lại Do đó, thực chất quyền sở hữu những khoản cho vay là quyền sở hữu của người đã gửi tiền vào ngân hàng Bởi vậy, khi rủi ro tín dụng xảy ra thì không những ngân hàng chịu thiệt hại mà quyền lợi của người gửi tiền cũng bị ảnh hưởng
Khi một ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người gửi tiền
ở các ngân hàng khác hoang mang lo sợ và kéo nhau ồ ạt đến rút tiền ở các ngân hàng khác, làm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng gặp phải khó khăn
Ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, không có tiền trả lương dẫn đến đời sống công nhân gặp khó khăn Hơn nữa, sự hoảng loạn của các ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh
tế Nó làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả biến động, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định
Ngoài ra, rủi ro đạo đức cũng được coi là một trong những nguyên nhân dẫn tới các cuộc khủng hoảng tài chính thế giới như khủng hoảng tài chính Châu Á (1997), cuộc khủng hoảng tài chính Nam Mỹ (2001-2002) và hiện nay là cuộc khủng hoảng xuất phát từ nợ dưới chuẩn từ Mỹ đã làm rung chuyển toàn cầu
Trên thực tế, khi định chế tài chính, NHTM sụp đổ, Chính Phủ thường đưa
ra các gói cứu trợ Đây không phải là sự ưu ái, mà chỉ để tránh một sự sụp đổ lớn
Trang 39hơn đối với cả một hệ thống, một nền kinh tế Chính câu chuyện này cũng dẫn đến một số định chế tài chính, NHTM có thể "làm ăn liều", bởi họ cho rằng, kiểu gì Chính Phủ cũng phải cứu khi họ có vấn đề, bởi nếu không cả hệ thống sẽ sụp đổ
Như vậy có thể khẳng định tác hại mà rủi ro đạo đức gây ra là nghiêm trọng đối với nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng Chính vì vậy đòi hỏi các nhà quản trị ngân hàng phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro đạo đức
1.2 QUẢN LÝ RỦI RO ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1 Khái niệm quản lý rủi ro đạo đức
Hoạt động kinh doanh của NHTM luôn tiềm ẩn nhiều loại rủi ro, rủi ro đạo đức có thể xảy ra tại bất kỳ loại hình kinh doanh dịch vụ nào của ngân hàng, do vậy
để giảm thiểu các loại rủi ro trước tiên phải quản lý tốt rủi ro đạo đức trong mọi hoạt động của ngân hàng
Quản lý rủi ro đạo đức là việc mà các chủ thể quản lý sử dụng hệ thống các chính sách, biện pháp để nhận dạng, đo lường, kiểm soát và theo dõi, giám sát rủi ro nhằm hạn chế thấp nhất các rủi ro đạo đức có thể xảy ra và xử lý khi rủi ro đạo đức xảy ra
1.2.2 Chủ thể quản lý rủi ro đạo đức
Hoạt động kinh doanh ngân hàng luôn được đặt dưới một hệ thống quy định chặt chẽ do Chính phủ, các cơ quan nhà nước ban hành nhằm kiểm soát hoạt động ngân hàng, kiểm soát việc cung cấp dịch vụ ngân hàng, chất lượng tín dụng, tình trạng vốn chủ sở hữu và cả cách thức ngân hàng phát triển, mở rộng hoạt động dịch
vụ với mục đích cuối cùng là nâng cao chất lượng phục vụ cộng đồng
Trong bối cảnh hiện nay tại Việt Nam, các NHTM hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước: Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hội, Chính phủ, NHNN và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều luật, văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động kinh doanh của NHTM mà trực tiếp là chịu sự quản lý chặt chẽ của NHNN Khi các ngân hàng trong hệ thống tài chính thực hiện nghiệp vụ nhận tiền gửi, cho vay và cung cấp các dịch vụ tài chính khác cho khách hàng, họ phải tiến hành những công việc đó trong
Trang 40một khung pháp lý chặt chẽ được xây dựng chủ yếu để bảo vệ lợi ích của toàn xã hội Việc các ngân hàng cung cấp dịch vụ nhận tiền gửi và các công cụ tài chính khác cho công chúng để huy động vốn đòi hỏi phải có sự cho phép của các cơ quan quản lý ngân hàng với mức lãi suất huy động được quy định từng thời kỳ Chất lượng danh mục cho vay và đầu tư cũng như sự hợp lý về vốn chủ sở hữu ngân hàng luôn được các thanh tra ngân hàng xem xét cẩn thận Khi một ngân hàng muốn mở rộng hoạt động bằng cách xây dựng một tòa nhà mới, sáp nhập với một ngân hàng khác, thiết lập văn phòng chi nhánh hoặc tiếp nhận hay bắt đầu một hoạt động kinh doanh phi ngân hàng thì đều phải có sự đồng ý của cơ quan quản lý Các NHTM không thể tự do tham gia hay rút lui khỏi ngành ngân hàng nếu không có sự
đồng ý của các cơ quan quản lý mà trực tiếp là Chính phủ và NHNN Việt Nam
Tuy nhiên, hệ thống giám sát thận trọng đã có nhiều sự thay đổi Thứ nhất, với việc xuất hiện nhiều giao dịch phức tạp, việc giám sát thận trọng đã tập trung nhiều vào giám sát hệ thống quản trị rủi ro của các NHTM và ít tập trung vào việc giám sát từng giao dịch Thứ hai, dưới làn sóng tự do hóa tài chính, kiểm soát lãi suất đã được nới lỏng và cũng như dỡ bỏ dần các hạn chế trong việc lựa chọn tài sản đầu tư của các NHTM Thứ ba, những nhà quản lý vĩ mô đã tập trung nhiều vào yêu cầu vốn tối thiểu sử dụng các chuẩn mực của Hiệp ước Basel
Như vậy, chủ thể quản lý rủi ro đạo đức bao gồm: (1) Cơ quan quản lý vĩ mô (NHTW) và (2) Các NHTM
1.2.3 Nhân tố ảnh hưởng đến quản lý rủi ro đạo đức
1.2.3.1 Nhân tố thuộc về cơ quan quản lý
Thứ nhất, mô hình tổ chức của thanh tra ngân hàng:
Mô hình tổ chức của cơ quan thanh tra ngân hàng là nhân tố ảnh hưởng đến quản lý rủi ro đạo đức của ngân hàng vì nếu mô hình tổ chức của cơ quan thanh tra ngân hàng hợp lý, việc điều phối hợp lý lực lượng cán bộ thanh tra trong toàn hệ thống để triển khai chương trình công tác thanh tra thực hiện được tốt và ngược lại, nếu mô hình tổ chức của cơ quan thanh tra ngân hàng không hợp lý, còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với yêu cầu thực hiện giám sát dựa trên
cơ sở rủi ro thì nhiều sai phạm của các NHTM không được thanh tra ngân hàng cảnh báo, có biện pháp ngăn chặn từ đầu