Phức hệ Sông Đà là một phân vị địa tầng của các trầm tích - nguồn núi lửa gồm cát kết, đá phiến, porphyrit đôi khi có ryolit, tuf, cuội kết, tufit và đá vôi lộ chù yếu dọc thung lũng thư
Trang 15 Các bể Nông Sơn và An Khê
P h ứ c hệ S ô n g Đ à ( P -T 2 sd) - Hệ tầng Sông Đà: Dovjikov VÀ nnk 1965 (P - T |); Vũ Khúc, Bùi Phú Mỹ và nnk 1989 (C3 - Pj); Trần năng Tuyết và nnk 1994; Nguyễn Văn Hoành và nnk 2001 (C3 - P|) ■ Indosinias hạ (part.): Fromaget 1934, 1952 (C2 - T) - Hệ Permi (part.): Bùi Phủ MỸ và nnk 1971 Điệp Sông Dà (part.): Nguyền Văn Liêm 1985 (P -T|) - Hệ tằng Bo Lếch: Tràn Đăng Tuyết vỏ nnk 1994 (P3 - TO Phức hệ Sông Dà do A Dovjikov và rmk (1965) mô tả là hệ tầng Sông Đà theo diện phân bốờthirợng lưu sông Đà Phức hệ Sông Đà là một phân vị địa tầng của các trầm tích - nguồn núi lửa gồm cát kết, đá phiến, porphyrit đôi khi có ryolit, tuf, cuội kết, tufit và đá vôi lộ chù yếu dọc thung lũng thượng lưu sông Đà và trong thung lũng của những nhánh phải sông Đà, bên trên thị xã Lai Châu ở vùng cực Tây Bấc Bắc Bộ Theo Dovjikov và nnk (1965), phức hệ Sông Đà phân bố thành hai dải chính, một dái chạy dọc sông Đà và dải kia ở phía tây nam sông Đà Phức hệ thay đổi thành phần vật chất theo chiều ngang khá rõ Tại dải dọc sông Đà, phức hệ chứa nhiều thành phần nguồn núi lửa, còn ở dải phía lây nam sông Đà trong mặt cắt các đá trầm tích hạt thô và nguồn núi lửa giảm xuống mạnh, còn cát kết và đá phiến lại tăng lên Do có bề dày lớn, sự thay đổi thành phần vật chất theo chiều ngang, lại bị nhiều đút gãy chia cắt phức tạp nên mặt cắt đầy đù của phức hệ đến nay vẫn chưa được xác định chính xác Trong dài chạy dọc theo thượng lưu sông Đà, có lẽ phần thấp nhất của phức hệ lộ ra trong vùng bản Nậm Khao, gồm đá phiến sét silic dạng tẩm bị sừng hoá màu phớt lục xen các lớp kẹp đá vôi (50 - 60 m) Tiếp lên trên là cát kết và đá phiến xen porphyrit, ryolit, tuf, cuội kết màu đen chứa các mảnh vụn ryolit Tại cửa Nậm Khao, mặt cắt kết thúc bằng một tầng ryolit phân phiến màu xám lục dày gần 100 m Be dày chung của phần dưới gần 600 ITI Phần cao nhất của phức hệ Sông Đà có !ẽ là phần mặt cắt lộ ra giữa các cửa Nậm Pô và Nậm Bun, gồm đá phiến màu lục và đen xen các lóp kẹp đá vôi màu xám, porphyrit và cát kết tu f màu lục 227
Ở phía tây nam thượng lưu sông Đà, phần dưới cùa phức hệ lộ ra ở thượng lưu Nậm Ma Hô, gồm cuội kết với cuội là thạch anh, đá vôi và đá phiến đen; xi m ăng tuf Chuyển lên trên là cát kết chặt sít hạt thô, xám sẫm và xám lục, cao hơn là đá phiến màu đen Be dày chung của phần này là 600 - 700 m Phần tiếp theo cùa mặt cắt là đá vôi phân lớp và đá phiến màu đen xen một ít lớp kẹp cát kết màu xám thẫm, chứa hoá thạch dạng Permi - Trias nhu
Anodontophora Sp., N eoschizodus sp.(?), dày gần 400 m Phần trên cùng gồm đá phiến tuf màu tím đỏ và xám lục, cát kết và đá phiến Trong thung lũng Nậm Pô, cách cửa suối 4 km, phức hệ gồm đá phiến sét - silic - vôi dạng tấm màu xám nâu bị vò nhàu mạnh, xen các lóp kẹp cát kết màu xám lục và một ít lóp kẹp đá vôi vỡ vụn màu xám sẫm (1 - 2 m) nằm ở đáy các nhịp lớn (100 - 200 m) Bề dày dự đoán khoảng 1000 m Theo Bùi Phú Mỹ Vữ nnk (1971) m ặt cắt suối Nậm K eng, tây nam Lai Châu như sau: 1 Cuội kết màu xám tím, phân lóp dày từ 0.5 đến 1 m, với cuội là cát kết, quarzit, thạch anh kích thước 5 - 1 0 mm, khá tròn,
xi măng là cát kết màu nâu tím, dày khoảng 100 m Cao hơn có xen đá phiến silic màu xám, hạt mịn, giòn và ít phun trào mafic Bề dày cliung 300 - 350 m 2 Dá phun trào mafic hạt mịn, màu xám tím và tu f của chúng, xen ít đá phiến silic màu xám; dày 200 - 300 m 3 Bột kết, cát kết, đá phiến chứa vôi và những lớp đá vôi màu xám sáng hạt mịn, dày khoảng 50 m Các lớp đá vôi chứa hóa thạch Trùng lồ tuổi Permi sớm: Pseudofusulina sp„ Nodosaria sp., Eotuberìtina sp.; bột kết và đá phiến chứa Tay cuộn do Dương Xuân Hào xác định và cho tuổi Carbon - Permi, gồm D ictyoclostus sp., Chonetes sp., Orthida Tổng bề dày khoảng 600 -
700 m Q uan hệ địa tầng và tuổi Phức hệ Sông Đà phủ không chỉnh hợp trên phức hệ Nậm Cười và bị hệ tầng Suối Bàng phù không chỉnh hợp (Trần Đăng Tuyết vờ nnk 1994) Hóa thạch chủ yếu được tìm thấy trong các lớp kẹp vôi ở phần trên của phức hệ Tại vùng bà Ma
Trang 2Ký đã tìm thấy Mísellìna ovalis, M minor, M termieri, Pseudofusulina sp.,
Pseudoschwagerim sp (Trần Đăng Tuyết và nnk 1994) Tại phía dưới cửa Nậm Pô 5 km đã thu thập được Fusulinida Pseudofusulina cf complicata, Parafusulina ex gr japonica, M isellina ovalis, M cf aliciae, Cancellina (?) sp Tại phía bac Mường Tòng 7 km (thượng lưu Nậm Nưa) cũng tìm thấy Pseudofusulina cf com plicata, p sp., Parafusulina aff gigantea, p
ex gr japonca, Pachyphloia sp., v.v (Dovjikov A và nnk 1965) Các hóa thạch nêu trên thuộc đới M isellina và Cancelỉim tuổi Permi sớm phần cao và Permi giữa phần thấp, không
có yếu to Carbon muộn Ngoài các hoá thạch tuổi Permi sớm - Permi giữa, gần đây trong phức hệ còn tìm được hoá thạch Trùng lỗ tuổi Permi muộn như Codono/usiella minuta, Coỉaniella minima, Sichotenella sp., Nankinella sp., Frondicularia sp và Pachyphloia sp Trong đá sét vôi, đá vôi ờ vùng bàn Gò Cứ đã gặp hoá thạch tuổi Trias sớm-giữa như
Agathammina ex gr fudicariensis, Ophthaỉmidium sp., Arenovidalina sp., Glomospira sp Hoá thạch Trias sớm - giữa cũng được tìm thấy trong đá vôi màu xám trắng phân lớp dày ở vùng bản Nậm Chà gồm Glomospira tenuifisnela, G articulosa Ophthalmidium sp., Amm odiscus sp (Trần Đăng Tuyết vổ nnk 1994) Với những dẫn liệu địa tầng và hoá thạch nêu trên, phức hệ được định tuổi Permi - Trias giữa N hận xét Khi mô tả hệ tầng Sông Đà trong mục “Hệ Perm i - thong hạ hệ Trias" cùa đới Điện Biên Phủ, D ovjikov và nnk (1965) đã nhận xét rằng do tài liệu thu thập còn rời rạc ờ 228 một vùng hiểm trờ nên còn nhiều vấn đề chưa rõ về khối lượng, về trật tự địa tầng và quan hệ địa tầng cùa hệ tầng Sông Đà với các hệ tầng khác được nghiên cứu trong vùng N hư vậy hệ tầng Sông Đà được mô tả trong
Dovjikov và nnk (1965) ứng với khái niệm về phức hệ theo “Ọuy phạm địa tầng V iệt N am
” (1994) Cho đến nay hiểu biết về phức hệ Sông Đà vẫn còn nhiều hạn chế, Trần Đ ăng Tuyết và nnk (1994) đã tách một phần của phức hệ để xác lập hệ lầng Bô Lecli nhưng do thiếu những cơ sở địa chất cần thiết nên hệ tầng Bô Lếch không có sức thuyết phục Vì vậy, trong công trình này chúng tôi sử dụng mô tả ban đầu của A Dovjikov và nnk (1965) về phân vị với tên gọi phức hệ Sông Đà
H ệ tầng T ú Lệ (Jr K , tỉ) - Hệ tầng Tú Lệ: N guyên Vĩnh (in Phan C ự Tiến vá nnk 1977), N guyền V ĩnh vá nnk 1978 - Phức hệ Văn Chấn (part.): Nguyễn Vĩnh (in Phan Cự Tiến và nnk 1977) - Hệ tầng Văn Chấn (part.): Nguyền Vĩnh 1978, (in Vũ Khúc, Bùi Phú Mỹ và nnk 1990), Vũ Khúc và nnk 1998 - Série de Phu Sa Phin (part.): Dusault L., 1921 - Các trầm tích Jura hầu như không phân chia: Đ o v ịik o v A (in D o v jik o v A vờ nnk 1965) -
Hệ Jurer Phạm Đức Lương (in Trần Văn Trị và nnk 1977) M ặt Cắt ch u ẩ n
(Holostratotyp): trên đường ô tô Tú Lệ - Gia Hội, bờ phải thượng nguồn Ngòi Hút (x = 21°44’; y = 104°22’) Nguyễn Vĩnh và nnk 1978 330 Khi thành lập phân vị này, Nguyễn Vĩnh (in Phan Cự Tiến và nnk 1977) coi nó là một hợp phần của một “phức hệ” gồm 3 hệ tầng là Nậm Qua, Tú Lệ và Bản Hál Các hệ tầng này đều có cấu trúc hai phần, phần dưới là
đá phiến sét, bột kết màu xám tới xám đen chứa tu f xen ít cát kết tuf, chuyển lên phần trên chủ yếu là dá phun trào axit (orthophyr thạch anh, felsit, ryolit porphyr) Do cliíing có cùng một loại đá phun trào nên trên Bản đồ địa chất Việt Nam tỷ lệ 1:500.000 (Trần Đức Lương, Nguyễn Xuân Bao và nnk 1988) chúng đã được gộp chung cùng với hộ tầng Suối Bé vào một hệ tầng mang tên là hệ tầng Văn Chấn gồm 4 pha phun trào, mỗi pha là một hệ tầng xếp theo trật tự kể trên, có bề dày chung lên tới 3000-5000 m Cách phân chia này được giữ cho đến khi đo vẽ bản đồ địa chất 1:50.000 nhóm lờ Trạm Tấu do Nguyễn Đắc Đồng chủ biên (2000) thì có sự thay đổi rất cơ bản: trong đá phiến sét giàu vật chất hữu cơ thuộc phần dưới các pha của “hệ tầng Văn Chấn” đã tìm được hóa thạch thực vật Pcrtni, do đó phần trầm tích lục nguyên màu xám tới xám đen thuộc phần dưới các pha này đã được coi là cùng một mức
Trang 3địa tầng và tách ra thành một hệ tầng độc lập, và phần đá phun trào nằm trên còn lại của các pha cũng được coi là thuộc một mức địa tầng, mà nhóm tác giả bản đồ nói trên mô tả là phức
hệ núi lửa Tú Lệ Gần đây, các tác giả Bản đồ địa chất tỷ lệ 1:50.000 nhóm tờ Ọuvnh Nhai (chủ biên: Bùi Công Hóa 2004) lại mô tả các đá phun trào này là phức hệ Nậm Kim Để phù hợp với Ọuy phạm địa tầng (1994) và Quy chế tạm thòi về lập bàn đồ địa chất và diều tra khoáng sản tỷ lệ 1:50.000 (2001) hiện hành của ngành Địa chất nên mô tả các đá phun trào trên là một phân vị địa tầng, vì đó là một thể đá phân tầng, chịu sự chi phối của luật cơ bán cùa địa tầng học là: lớp hình thành trước nằm dưới, lớp hình thành sau nằm trên và cũng có các quan hệ địa tầng như các thế đá trầm tích Tuy nhiên, điều rất khó hiện nay là chưa có một mô tả cluiẩn xác nào về thành tạo này ở dạng địa tầng học, do đó dựa vào mô tà cùa Nguyễn Vĩnli và nnk (1978) chúng tôi tạm chọn mặt cắt chuẩn cho hệ tầng ờ vùng Tú Lệ, từ
đó giữ lại tên gọi Tú Lệ cho hệ tầng trong khi chờ đợi một nghiên cứu đầy đù về thể địa tầng này Do chưa có một mô tả đầy đủ về hệ tầng Tú Lệ, ta chưa thể nói chính xác về sự phân bố của nó Nhưng dựa vào các công trình đo vẽ bản 4Ồ địa chất tỷ lệ 1:50.000 đã tiến hành trong phạm vi võng núi lửa Tú Lệ, ta có thể thấy là hệ tầng này chiếm phần lớn diện tích cùa võng cùng tên Theo nhóm địa chất Nguyễn Vĩnh, mặt cắt của hệ tầng trên đường ô tô Tú Lệ - Gia Hội, đoạn nằm bên phải thượng nguồn ngòi Hút, gồm hai phần: • Phần dưới 1 Felsit trắng xám, xám đen, phân lớp mỏng xen thấu kính ryolit porpliyr (10 m) xám trắng; dày 1 50 111
2 Felsit trắng đục xen thấu kính bột kết tuf (2 m) xám nhạt, phân dải; dày 120 m • Phần trên
ỉ Orthophyr xám đến xám sáng, cấu trúc dòng chảy xen thấu kính ryolit porphyr (] m) sáng màu; dày 250 111 4 Orthophyr thạch anh sáng màu, phân phiến, ở giữa xen thấu kính bột kết tuf xám sáng bị sericit hóa mạnh; dày 70 m 5 Orthophyr xám, xám đen, đôi chỗ phân dải, phân lớp dày; dày 120 m Bề dày chung cùa hệ tầng ở mặt cắt này là 710 m 331 Hiện nay, thuật ngữ thạch học “orthophyr” không còn được dùng, theo mô tả cùa các tác giả nhóm tờ Trạm Tấu nằm ờ phía đông võng Tú Lệ, “phức hệ núi lửa Tú Lệ” gồm các đá tướng phun trào như ryotrachyt porphyr, trachyryolit porphyr xen với một khối lượng ít hơn cùa ryolit
porphyr Theo các tác giả nhóm tò' Quỳnh Nhai nằm ở phía tây võng Tú Lệ, “phức hệ núi lừa Nậm Kim” gồm các đá ryolit porphyr, comendit-ryolit porphyr, porphyr thạch anh Các đá này thuộc loại á kiềm chuyển sang kiềm, trội kali, tưong ứng với kiểu A-granit Chúng thuộc nauồn vỏ lục địa và là kiểu đá phun trào nội mảng Q u a n hệ địa tần g v à tuổi Hệ tầng Tú
Lệ hình thành trong bối cành rift nội lục Cho đến nay, chưa có công trinh nào trình bày rõ các ranli giới dưới và trên của hệ tầng Theo Nguyễn Đắc Đồng vờ nnk (2000) tuổi đồng vị Rb-Sr cùa mẫu đá phun trào Tú Lệ cho giá trị là 128 + 3 tr.il., ứng với Creta sớm Do đó, nhóm tác giả này cho rằng tuổi của thành tạo này có thể là Jura muộn - Creta sớm Nhóm Bùi Công Hóa cho rằng tuổi của thành tạo này là Creta sớm Đối sánh với các pha hoạt động phun trào đầu tiên trong Mesozoi muộn ở các khu vực khác của Việt Nam, định tuổi Jura muộn - Creta sớm cho hệ tầng là hợp lý