1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

QUAN NIỆM về NGƯỜI ANH HÙNG TRONG THƠ điếu của NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU

17 1,1K 7

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 17
Dung lượng 226,53 KB

Nội dung

Trong lịch sử văn học Việt Nam, Nguyễn Đình Chiểu có một vị trí trọng yếu, là lá cờ đầu của văn học yêu nước chống Pháp thế kỷ XIX, không chỉ của Nam Bộ mà của cả nước. Sáng tác của ông đã tạo được sự quan tâm, yêu thích của công chúng bình dân ở Nam Bộ. Văn thơ của Nguyễn Đình Chiểu đã gắn bó với giai đoạn nước sôi lửa bỏng của dân tộc nơi tuyến đầu tổ quốc. Ông đã dùng thơ văn của mình để làm vũ khí chống lại quân xâm lược, và đề cao ca ngợi những người “anh hùng” của dân tộc.Qua tìm hiểu, tôi nhận thấy hiện nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách tỉ mỉ, hệ thống về quan niệm người “anh hùng” trong thơ điếu của Nguyễn Đình Chiểu. Tuy nhiên, trong khi nghiên cứu lịch sử vấn đề, tôi nhận thấy quan niệm về người “anh hùng” trong những bài thơ điếu của ông luôn thu hút được sự quan tâm của giới nghiên cứu phê bình văn học.

Trang 1

KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



TIỂU LUẬN CUỐI KỲ

ĐỀ TÀI : QUAN NIỆM VỀ NGƯỜI ANH HÙNG TRONG THƠ ĐIẾU CỦA NGUỄN ĐÌNH CHIỂU.

Học phần : Nguyễn Đình Chiểu và tác phẩm

GVHD : Nguyễn Thị Bảo Anh SVTH : Nguyễn Phương Bích Thảo

Bình Dương, tháng 12 năm 2018



Trang 2

MỤC LỤC

A PHẦN DẪN NHẬP 1

1 Lý do chọn đề tài 1

2 Mục đích nghiên cứu 2

3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2

4 Các phương pháp nghiên cứu 2

5 Lịch sử vấn đề 2

6 Cấu trúc của luận văn 3

B PHẦN NỘI DUNG 3

CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẦN ĐỀ CHUNG 3

1.1 Tác giả Nguyễn Đình Chiểu 3

1.1.1 Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác 3

1.1.2 Quan niệm sáng tác 3

1.2 Thơ điếu 4

1.2.1 Thể loại thơ điếu là gì ? 4

1.2.2 Giới thiệu về thơ điếu Trương Định và Phan Tòng 4

1.2.2.1 Bối cảnh sáng tác 4

1.2.2.2 Nhân vật Trương Định là ai ? 5

1.2.2.3 Nhân vật Phan Tòng là ai ? 5

1.3 Khái niệm “anh hùng” 5

CHƯƠNG 2.HÌNH ẢNH NGƯỜI ANH HÙNG TRONG THƠ ĐIẾU NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 5 2.1 Quan niệm người “anh hùng” của Nguyễn Đình Chiểu 5

2.1.1 Người “anh hùng” Trương Định 6 2.1.2 Người “anh hùng” Phan Tòng 7

2.2 Ảnh hưởng của Nho giáo trong quan niệm về người “anh hùng” của Nguyễn Đình Chiểu 8

CHƯƠNG 3 NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH TƯỢNG NGƯỜI ANH HÙNG TRONG THƠ ĐIẾU CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 9

3.1 Vai trò của thể loại 9

3.2 Ngôn ngữ 10

3.3 Giọng điệu 11

C PHẦN KẾT LUẬN 12

D TÀI LIỆU THAM KHẢO 13

Trang 6

B PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẦN ĐỀ CHUNG

1.1 Tác giả Nguyễn Đình Chiểu

1.1.1 Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác

1.1.2 Quan niệm sáng tác

1.2 Thơ điếu

1.2.1 Thể loại thơ điếu là gì ?

1.2.2 Giới thiệu về thơ điếu Trương Định và Phan Tòng

1.2.2.1 Bối cảnh sáng tác

1.2.2.2 Nhân vật Trương Định là ai ?

1.2.2.3 Nhân vật Phan Tòng là ai ?

1.3 Khái niệm “anh hùng"

CHƯƠNG 2 HÌNH ẢNH NGƯỜI ANH HÙNG TRONG THƠ ĐIẾU NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU

2.1

Quan niệm người “anh hùng” của Nguyễn Đình Chiểu

2.1.1 Người “anh hùng” Trương Định

2.1.2 Người “anh hùng” Phan Tòng

2.2 Ảnh hưởng của Nho giáo trong quan niệm về người “anh hùng” của Nguyễn Đình Chiểu

CHƯƠNG 3 N GHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH TƯỢNG NGƯỜI ANH HÙNG TRONG THƠ ĐIẾU CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU

3.1 Vai trò của thể loại

3.2 Ngôn ngữ

3.3 Giọng điệu

C PHẦN KẾT LUẬN

D TÀI LIỆU THAM KHẢO

B PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẦN ĐỀ CHUNG

1.1 Tác giả Nguyễn Đình Chiểu

1.1.1 Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác

* Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu

Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) tự là Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai Ông xuất thân trong một gia đình nhà Nho

Năm 1843, ông đỗ tú tài Năm 1846, ông ra Huế học, nhưng chuẩn bị vào trường thi thì nhận tin mẹ mất ông phải bỏ thi về chịu tang (1849) Trên đường về, vì thương

mẹ mà ông khóc rất nhiều, sau đó ông bị đau mắt nặng và bị mù Tiếp theo đó, cuộc đời ông đã liên tiếp gặp phải hàng loạt những tai ươn, sóng gió và cuối cùng là ông bị bội hôn

2

Trang 7

Sau đó, ông mở trường dạy học, bốc thuốc chữa bệnh cho dân và sáng tác thơ văn Năm 1859, Pháp xâm lược, Nguyễn Đình Chiểu đã đứng trên tuyến đầu của cuộc kháng chiến chống ngoại xâm Dùng ngòi bút của mình làm vũ khí chống lại quân xâm lược

* Sự nghiệp sáng tác

Nguyễn Đình Chiểu bắt đầu sáng tác sau khi mù, hầu hết các tác phẩm đều viết bằng chữ nôm Căn cứ vào nội dung chúng ta có thể chia sáng tác của ông thành hai giai đoạn :

Trước khi Pháp xâm lược là những truyện thơ dài, truyền bá đạo lí làm người như truyện Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu, Sau khi Pháp xâm lược là những thơ văn yêu nước chống Pháp như : Chạy giặc( thơ), Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Thơ điếu Trương Định, Thơ điếu Phan Tòng, Ngư Tiều y thuật vấn đáp ( truyện thơ),

Trong toàn bộ các tác phẩm của ông không một tác phẩm nào mang tính du hí, vui chơi thanh nhàn mà đều mang một nỗi lòng của nhà nho Nguyễn Đình Chiểu từ thời bình đến thời chiến Cuộc đời và sự nghiệp văn học của ông là một bài học lớn về lòng yêu nước, về việc sử dụng văn chương là vũ khí chiến đấu không ngừng nghĩ, ông là tấm gương cho lớp lớp người dân tộc Việt Nam phấn đấu trở thành nhất là trong giai đoạn hiện nay

1.1.2 Quan niệm sáng tác

Nguyễn Đình Chiểu quan niệm “văn dĩ tải đạo”, nhà văn là phải lấy văn chương làm vũ khí bảo vệ đạo lí, đó chính là đạo lí của Nho gia : cương thường và truy hiếu Những nhà thơ, nhà văn như Nguyễn Đình Chiểu không thể cầm giáo để đánh giặc thì

họ sẽ cầm bút để tấn công địch trên mặt trận tư tưởng tinh thần Nó giống như con thuyền nhỏ bé kia, dẫu có chở bao nhiêu đạo thì cũng không đắm không chìm Đạo đức là một thứ văn chương thời bấy giờ luôn hướng đến và đem vào thơ ca để mang đến sự truyền tải đến với người đọc Thơ văn theo quan niệm của Nguyễn Đình Chiểu không phải là một thứ phù phiếm ngâm hoa vịnh nguyệt mà phải có tác dụng bổ ích cho con người, cho xã hội, qua việc biểu dương những điều hay, phê phán những việc

dở Thơ văn của ông nhằm mục đích chiến đấu, bảo vệ đạo đức, chính nghĩa và độc lập tự do của dân tộc

Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà ( Than đạo )

Quan niệm sáng tác này thể hiện nhất quán, xuyên suốt cả cuộc đời thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu

1.2 Thơ điếu

1.2.1 Thể loại thơ điếu là gì ?

Văn tế là một thể loại cơ bản trong văn học Việt Nam thời kì trung đại Văn tế vốn

có nguồn gốc lâu đời ở Trung Quốc và được phát triển thành một thể văn quan trọng, đặc sắc với nhiều bài văn tế có giá trị cao trong văn học Việt Nam thời kỳ này

Ở Việt Nam văn tế là một thể loại kiêm luôn cả Lỗi, Điếu văn, Ai từ Nó không bắt buộc phải tuân theo khuôn phép, lễ nghi nào cả Văn tế là một phương tiện hữu hiệu bày tỏ niềm tiếc thương với người đã mất mà không hề phân biệt trên dưới, xa gần, thân sơ

Trang 8

Ai từ là loại văn ai điếu người chết Điếu văn là văn viếng người đã chết, gọi là

“điếu từ”, “điếu thư”, nếu làm theo thể thơ thì gọi là “điếu thi” Điếu là “vấn chung”, tức là thăm hỏi người chết Điếu là đến, khách đến an ủi chủ (là người đã mất) Thể văn tế dùng để “tế trời đất, núi sông, còn gọi là kỳ văn hay chúc văn

* Khái niệm : Văn tế là một thể loại trữ tình bày tỏ niềm thương tiếc đối với người

đã mất mà không phân biệt trên dưới, xa gần, thân hữu Những bài văn tế thể hiện những tình cảm lớn của những trái tim lớn, trái tim mang tình cảm của nhân dân, tình cảm tiên tiến của thời đại; thường là những tiếng khóc đời, khóc nước, khóc đồng chí, đồng bào của tác giả Những bài văn tế như thế thường gây xúc động mãnh liệt trong lòng người đọc và trở thành những tác phẩm văn học có giá trị

1.2.2 Giới thiệu về thơ điếu Trương Định và Phan Tòng

Thơ điếu của Nguyễn Đình Chiểu có những nét rất riêng, các bài thơ điếu của ông viếng người chết, là sự thương xót của nhà thơ đối với các nhân vật lịch sử như : Phan Tòng, Trương Định Thông thường, các bài thơ điếu được viết theo thể thất ngôn bát

cú Đường luật Bố cục rất rõ ràng tự nhiên, đúng phép Hai câu đầu là nhập đề, nói tổng quát về giá trị người đã mất Tiếp theo là bốn câu thực và luận vạch lại những chiến công của các chí sĩ ấy Hai câu cuối là cảm tình của tác giả đối với người đã mất, lời nghiêm trang bình dị mà tình ý rất thiết tha

1.2.2.1 Bối cảnh sáng tác

* Mười hai bài thơ điếu Trương Định (1864) : Năm 1864, trước cái chết của Trương Định, Nguyễn Đình Chiểu đau đớn vì đã mất một người bạn chiến đấu đồng tâm đồng chí và tỏ ra ái ngại vì trước nạn nước mất nhà tan, khó có người đầy đủ nghị lực và uy tín như Trương Định để lãnh đạo nghĩa quân chống Pháp Cụ Đồ Chiểu đã bày tỏ lòng thương tiếc vô hạn của mình đối với người anh hùng một lòng vì dân đánh giặc qua cụm tác phẩm điếu Trương Định gồm một bài văn tế và mười hai bài thơ liên hoàn

* Mười hai bài thơ điếu Phan Tòng (1868) : Điếu Phan Tòng, hoàn cảnh ra đời của

10 bài thơ này chưa được xác định một cách rõ ràng và hiện cũng có rất nhiều ý kiến

về vấn đề này Về năm tháng Phan Tòng tử trận, có sách ghi là năm 1867, có sách ghi

1868 Cá biệt có những người nhầm lẫn với mức chênh lệch khá xa về năm tháng Nhưng khi qua bài thơ điếu của Nguyễn Đình Chiểu, chúng ta có thể phác họa vài nét

về Phan Tòng như sau: Phan Tòng tử trận năm 1868, lúc chết ông được 50 tuổi (Sinh năm mươi tuổi ăn chơi mấy) Do vậy có thể tính được, Phan Tòng sinh năm 1818

1.2.2.2 Nhân vật Trương Định là ai ?

Trương Định vốn là một quản cơ dưới thời Tự Đức Khi thành Gia Định thất thủ, ông dẫn lính cơ phối hợp với quân đội triều đình tấn công giặc Pháp Trương Định cùng với tri huyện Lưu Tấn Thiện, bát phẩm thơ lại Lê Quang Quyền tích trữ lương thực, rèn đúc súng đạn, chuẩn bị đối phó lâu dài Ông được cử làm phó lãnh binh Gia Định Về sau triều đình nhượng bộ, ký hòa ước cắt ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ dâng cho Pháp Trương Định một mặt được thăng làm lãnh binh, nhưng mặt khác có lệnh buộc phải giải binh để đi nhận chức mới ở An Giang Trương Định không thi hành lệnh của triều đình Ông kiên quyết ở lại nhận chức Bình Tây đại nguyên soái của nhân dân phong tặng, tiếp tục cuộc chiến đấu suốt bốn năm ròng rã

Ngày 19 tháng 8 năm 1864, Huỳnh Công Tấn phản bội dẫn đường cho quân Pháp bất ngờ bao vây đánh úp Bản doanh “Đám lá tối trời thất thủ”, Trương Định bị trọng thương (gãy xương sống) Để bảo toàn khí tiết, ông đã rút gươm tự sát tại Ao Dinh (Gò Công) vào rạng sáng ngày 20 tháng 8 năm 1864 Khi ấy, ông 44 tuổi

4

Trang 9

Hay tin Trương Định tuẫn tiết, vua Tự Đức sai truy tặng ông phẩm hàm, và năm 1871 lại cho lập đền thờ ông tại Tư Cung (Quảng Ngãi)

1.2.2.3 Nhân vật Phan Tòng là ai ?

Phan Tòng là người Bình Đông, quận Ba Tri, tỉnh Bến Tre Khi Pháp tấn công quê ông, Phan Tòng đang có tang mẹ ba tháng Không nỡ ngồi chờ mãn tang, trong khi nước nhà bị quân thù giày xéo, ông đã tham gia cuộc khởi nghĩa của Phan Tôn, Phan Liêm chống giặc Về sau Phân Tôn, Phan Liêm thất trận bỏ ra Huế, ông vẫn ở lại tiếp tục chiến đấu Nhưng cuộc chiến không ngang sức, nghĩa quân không được triều đình ủng hộ, cuối cùng đã thất bại Phan Tòng cũng như Trương Định, đã hy sinh một cách dũng cảm

1.3 Khái niệm “anh hùng”

“Anh hùng” là một khái niệm chỉ những người có khí phách lớn, có tài năng, có thể lực hơn người và một tinh thần dũng cảm gan dạ làm nên những việc lớn lao được mọi người kính phục Người anh hùng là biểu tượng của cái đẹp của những con người biết hiến dâng trái tim cháy bỏng của mình cho nhân loại Có anh hùng là có đạo lý Trong cuộc chiến đấu đầy thử thách, gian khổ của con người đã xuất hiện nhiều hành động phi thường Nó mang tính lý tưởng của những con người biết đặt lợi ích của cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân Như vậy, “anh hùng” là một hiện tượng xã hội mà vấn đề cốt lõi là đạo đức và cái đẹp

CHƯƠNG 2 HÌNH ẢNH NGƯỜI ANH HÙNG TRONG THƠ ĐIẾU NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU

2.1 Quan niệm người “anh hùng” của Nguyễn Đình Chiểu

2.1.1 Người “anh hùng” Trương Định

Nguyễn Đình Chiểu đã giới thiệu người “anh hùng” lãnh tụ nghĩa quân Trương Định trong hoàn cảnh rất cụ thể, khi nước nhà bị lâm nguy:

“Năm dài những mảng ngóng tin vua

Nín nhục thầm toan lẽ được thua”

(Thơ điếu Trương Công Định, bài 5)

Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa hình tượng người “anh hùng” lãnh tụ nghĩa binh mang hơi thở của tư tưởng Nho gia, một Trương Định sáng ngời trên phương diện lý

Trang 10

tưởng của Đạo Nho Trước hết, đó là một Trương Định trung quân, ái quốc, sẵn sàng tham gia chiến đấu để:

“Chí dốc ra tay nâng vạc ngã

Trước sau cho trọng nghĩa quân thân”

(Thơ điếu Trương Định, bài 3)

Từ thực trạng đất nước bị xâm lược, đứng trước cảnh “nước mất nhà tan” đầy đau thương ấy, người lãnh tụ nghĩa binh Trương Định đã sớm có ý thức về dân tộc và phất

cờ khởi nghĩa:

“Gian truân kể xiết bấy nhiêu lần

Vì nước đành trao một tấm thân”

(Thơ điếu Trương Định, bài 3)

Người “anh hùng” ở đây đã phải chịu nhiều hi sinh, thất bại nhưng trong thơ điếu của Nguyễn Đình Chiểu, Trương Định vẫn hiện lên là tấm gương vô cùng lạc quan Sắc màu bi tráng thể hiện đậm nét trên phương diện này Trương Định luôn nêu cao lý tưởng, ý chí quyết tâm dựng lại cơ đồ đã suy sụp, xây dựng lại đất nước Trương Định

là con người chính tà, ngay thẳng, luôn khẳng định mối quan hệ thống nhất vua - giang sơn, luôn muốn bày tỏ cho nhà vua hiểu việc mình làm:

“Phân bua trời đất biết cho lòng,

Công việc đâu đâu cũng muốn xong.”

(Thơ điếu Trương Định, bài 6)

Trở thành hình tượng lý tưởng trong những cuộc kháng chiến chống Tây nên người “anh hùng” lãnh tụ nghĩa binh Trương Định luôn nhận được sự ủng hộ của các tầng lớp nhân dân Sự tin tưởng của nhân dân đối với nghĩa quân và đối với thủ lĩnh Trương Định trong quá trình đánh giặc ngày càng cao:

“Lương tiền nhà ruộng ba mùa trước,

Thuốc đạn ghe buôn bốn biển ngoài.”

(Thơ điếu Trương Định, bài 4)

Người ‘anh hùng” vì hai chữ “quân thần” mà Trương Định luôn quyết tâm đền đáp

ơn vua và cha mẹ Đó cũng chính là phẩm chất tiêu biểu của người “anh hùng” lãnh tụ nghĩa binh Trương Định là người anh hùng bất chấp mọi khó khăn trước mắt, bất chấp trước sức mạnh của địch Tinh thần của Trương Định là lấy yếu chống mạnh Điều ấy được ông phản ánh một cách rõ nét trong hành động Trương Định đã phải tự mình vượt lên trên mọi khó khăn, gian khổ, luôn kiên trì vì sự nghiệp cứu nước và luôn quyết tâm đánh giặc đến cùng:

“Dẫu biết dụng binh nhờ đất hiểm

Chẳng đành xa bỏ cõi Gò Công”

(Thơ điếu Trương Định, bài 6)

Tiếng tăm của Trương Định sau trận thắng ở Gò Công được lưu truyền trăm họ để đời đời còn mãi với nhân gian Quyết tâm theo đuổi mục đích cứu nước của mình, Trương Định phải chịu hi sinh danh dự của bản thân, mang tiếng nghịch thần để đứng hẳn về phía nhân dân kháng chiến Vì nghe theo lòng dân, ông không chịu đi nhận chức mới của triều đình mà ở lại cùng nhân dân tổ chức kháng chiến Điều đó được Nguyễn Đình Chiểu xây dựng lên một cách đẹp đẽ và cảm động vô cùng:

“Giúp đời dốc trọn ơn nam tử

Ngay chúa nào lo tiếng nghịch thần”

(Thơ điếu Trương Định)

6

Trang 11

Mặc dù những cuộc khởi nghĩa mà Trương Định lãnh đạo chưa đi tới thắng lợi cuối cùng:

“Để ai dằn thúc lối sau này

Trời hãy chưa cho vội đánh Tây”

(Thơ điếu Trương Định, bài 10 )

Trương Định mất đi là một tổn thất rất lớn của nghĩa quân và non sông đất nước Nỗi niềm thương nhớ vị tướng quân “anh hùng” được nhà thơ phản ánh rất xúc động qua câu thơ:

“Cảnh ấy những mơ người ấy lại,

Hội này nào thấy tướng quân đâu?”

(Thơ điếu Trương Định, bài 8)

Người “anh hùng” Trương Định đã có công giết giặc, bảo vệ đất nước, vì nhân dân

mà chiến đấu oanh liệt Chính chiến thắng ở Gò Công đã khẳng định được tài cầm quân và tinh thần quả cảm của ông Viết về người “anh hùng” Trương Định, Nguyễn Đình Chiểu đã hồi tưởng lại những chiến công oanh liệt, lẫy lừng của ông Sự kiên trì chống chọi với những khó khăn, thử thách đó giúp ta hiểu thêm về người lãnh tụ nghĩa binh, người “anh hùng” luôn có thái độ kiên cường, bất khuất, dũng cảm, thấy việc nghĩa phải làm Đó là cái nghĩa đối với tổ quốc, đối với nhân dân Ông đã dùng những lời thơ hết mực bi tráng để ca ngợi người “anh hùng” Trương Định Người có vai trò

và vị trí đã ăn sâu vào tâm trí mỗi người dân Nam Bộ lúc bấy giờ

2.1.2 Người “anh hùng” Phan Tòng

Người “anh hùng” trong thơ điếu của Nguyễn Đình Chiểu là những con người vì nghĩa lớn sẵn sàng hi sinh, quyết chiến đến cùng, xem thường cái chết Đó là một Phan Tòng phải gác chuyện tình cảm riêng tư, những mất mát, đau thương sang một bên mà dốc toàn bộ lực lượng vào chiến đấu chống giặc ngoại xâm, bảo vệ độc lập, tự do cho dân tộc, cho nhân dân dù biết trước có thể mình phải hi sinh Đó mới chính là chí khí của người “anh hùng”:

“Đầu tang ba tháng trời riêng đội

Lòng giận ngàn thu đất nổi dày.”

( Thơ điếu Phan Tòng, bài 2)

Khi nói về Phan Tòng, ông dùng những lời lẽ thống thiết để nêu cao chí khí anh hùng của Phan Tòng, từ đó làm tấm gương cho những người yêu nước khác:

“Đặng danh vừa rạng bề nhà cửa

Vì nghĩa riêng đền nợ núi sông”

(Thơ điếu Phan Tòng, bài 1)

Phan Tòng là người có tấm lòng “trung nghĩa” của vị tướng quân chính Là một người vì nước giúp đời, xem thường cái chết, không bao giờ hàng giặc Một “anh hùng” Phan Tòng trọn chữ trung thần, và đối nghịch với bọn phản bội:

“Quan Phan thác trọn chữ trung thần,

Ôm tiết như người cũng nghĩa dân.”

(Thơ điếu Phan Tòng, bài 7)

Đạo lý Nho gia đã thấm nhuần trong tư tưởng của những người lãnh tụ nghĩa binh đã khiến họ chiến đấu vì dân, vì nước mà không hề nghĩ đến sự sống chết của bản thân Hình ảnh Phan Tòng hiện lên đầy sự uy nghi, đẹp đẽ:

“Làm người trung nghĩa đáng bia son,

Đứng giữa càn khôn tiếng chẳng mòn.”

Ngày đăng: 03/04/2019, 18:20

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Nguyễn Ngọc Thiện (1990), Nguyễn Đình Chiểu về tác gia và tác phẩm, Nhà xuất bản Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguyễn Đình Chiểu về tác gia và tác phẩm
Tác giả: Nguyễn Ngọc Thiện
Nhà XB: Nhà xuấtbản Giáo dục
Năm: 1990
2. Nguyễn Đình Chú (1998), Từ lý tưởng nhân nghĩa đến chủ nghĩa yêu nước, Nguyễn Đình Chiểu về tác gia và tác phẩm, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ lý tưởng nhân nghĩa đến chủ nghĩa yêu nước, NguyễnĐình Chiểu về tác gia và tác phẩm
Tác giả: Nguyễn Đình Chú
Nhà XB: Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam
Năm: 1998
4. Bàng Bá Lân (1971), Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ bình dân lớn của miền Nam, Kỷ yếu lễ kỉ niệm Nguyễn Đình Chiểu, Phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản, Sài Gòn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ bình dân lớn của miền Nam, Kỷyếu lễ kỉ niệm Nguyễn Đình Chiểu
Tác giả: Bàng Bá Lân
Năm: 1971
5. Nhiều tác giả (2002), Nguyễn Đình Chiểu tác phẩm và dư luận, Nhà xuất bản Văn học Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguyễn Đình Chiểu tác phẩm và dư luận
Tác giả: Nhiều tác giả
Nhà XB: Nhà xuất bản Vănhọc
Năm: 2002
6. Nhiều tác giả (2007), Văn học trung đại Việt Nam, Nguyễn Đình Chiểu và lời bình, Nhà xuất bản Văn học Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn học trung đại Việt Nam, Nguyễn Đình Chiểu và lời bình
Tác giả: Nhiều tác giả
Nhà XB: Nhà xuất bản Văn học
Năm: 2007
7. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt nam, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thi pháp văn học trung đại Việt nam
Tác giả: Trần Đình Sử
Nhà XB: Nhà xuất bản Đại họcQuốc gia
Năm: 2005
8. Nguyễn Quang Thắng (2012), Nguyễn Đình Chiểu và các bài văn tế, Nguyễn Đình Chiểu, thơ và đời, Nhà xuất bản Văn học Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguyễn Đình Chiểu và các bài văn tế
Tác giả: Nguyễn Quang Thắng
Nhà XB: Nhà xuất bản Văn học
Năm: 2012
9. Lã Nhâm Thìn (1997), Thơ Nôm Đường luật, Nhà xuất bản Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thơ Nôm Đường luật
Tác giả: Lã Nhâm Thìn
Nhà XB: Nhà xuất bản Giáo dục
Năm: 1997
10. Lã Nhâm Thìn (2009), Phân tích tác phẩm văn học trung đại Việt Nam từ góc nhìn thể loại, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phân tích tác phẩm văn học trung đại Việt Nam từ góc nhìnthể loại
Tác giả: Lã Nhâm Thìn
Nhà XB: Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam
Năm: 2009
3. Trần Đình Hượu (1995), Nho giáo và văn học Trung cận đại, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin Khác
11. vi.wikipedia.org/wiki/Nguyễn_Đình_Chiểu12. nguyendinhchieu.vn Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

w