1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức theo quy định của bộ luật dân sự năm 2015

108 399 5

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 108
Dung lượng 2,68 MB

Nội dung

Tuy nhiên, không phải lúc nào chủ thể cũng có điều kiện để hoàn thiện hình thức giao dịch một cách dễ dàng và không phải ai cũng hiểu được vai trò của hình thức giao dịch dân sự và hậu q

Trang 1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

- -

NGUYỄN THỊ TỐ TÂM

GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU DO KHÔNG TUÂN THỦ

QUY ĐỊNH VỀ HÌNH THỨC THEO QUY ĐỊNH CỦA

BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015

HÀ NỘI – 2017

Trang 2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

- -

NGUYỄN THỊ TỐ TÂM

GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU DO KHÔNG TUÂN THỦ

QUY ĐỊNH VỀ HÌNH THỨC THEO QUY ĐỊNH CỦA

BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015

Chuyên ngành: Luật Kinh tế

Mã số: 60380107

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS BÙI ĐĂNG HIẾU

HÀ NỘI – 2017

Trang 3

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi

Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đúng theo quy định

Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này

Tác giả Luận văn

Nguyễn Thị Tố Tâm

Trang 4

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLDS : Bộ luật Dân sự

Trang 5

MỤC LỤC Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ

HIỆU DO KHÔNG TUÂN THỦ QUY ĐỊNH VỀ HÌNH THỨC 9

1.1 Khái quát chung về giao dịch dân sự vô hiệu 9

1.1.1 Khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu 9

1.1.2 Đặc điểm của giao dịch dân sự vô hiệu 13

1.2 Khái quát chung về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức 17

1.2.1 Khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức 17

1.2.2 Đặc điểm của giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức 23

1.3 Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức trong pháp luật Việt Nam qua các thời kì và trong pháp luật của một số quốc gia trên thế giới 25

1.3.1 Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức trong pháp luật Việt Nam qua các thời kì 25

1.3.2 Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức theo pháp luật của một số quốc gia trên thế giới 31

Chương 2 QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU DO KHÔNG TUÂN THỦ QUY ĐỊNH VỀ HÌNH THỨC 35

2.1 Điều kiện của giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức 35

2.1.1 Pháp luật có quy định về hình thức bắt buộc của giao dịch dân sự 36

Trang 6

2.1.2 Chủ thể tham gia giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức bắt buộc 432.2 Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức 442.2.1 Không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên 452.2.2 Các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những

gì đã nhận 462.2.3 Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức 482.2.4 Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường 492.3 Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức 502.4 Trường hợp ngoại lệ của giao dịch dân sự không tuân thủ quy định

về hình thức 52

Chương 3

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU DO KHÔNG TUÂN THỦ QUY ĐỊNH VỀ HÌNH THỨC VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT 59

3.1 Một số hạn chế trong quy định pháp luật hiện hành về giao dịch dân

sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức 593.1.1 Về hình thức của giao dịch dân sự 593.1.2 Về quy định giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định

về hình thức tại Điều 129 Bộ Luật Dân sự 2015 623.1.3 Về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức 653.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức 67

Trang 7

3.2.1 Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vi phạm hình thức bắt buộc 683.2.2 Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất vi phạm hình thức bắt buộc 733.2.3 Di chúc vi phạm quy định về hình thức 763.3 Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hình thức giao dịch dân sự 82

Trang 8

LỜI MỞ ĐẦU

1 Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Giao dịch dân sự là hành vi pháp lý diễn ra phổ biến trong đời sống xã hội Nó đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, nhu cầu sản xuất, nhu cầu phát triển tư duy, khoa học kĩ thuật… đặc biệt trong bối cảnh đất nước ta đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế toàn cầu thì giao dịch dân sự càng có vai trò quan trọng Dù diễn ra một cách thường xuyên và phong phú nhưng giao dịch dân sự luôn được thể hiện dưới những hình thức nhất định, mà bằng hình thức đó, các bên chủ thể thể hiện nội dung quyền và nghĩa vụ dân sự được xác lập thông qua giao dịch

Trên cơ sở quyền tự do xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự, các bên có quyền chủ động lựa chọn hình thức giao dịch phù hợp Tuy nhiên, cũng có những trường hợp mà các bên không có quyền chủ động lựa chọn hình thức giao dịch mà buộc phải thực hiện giao dịch theo một hình thức nhất định được pháp luật dự liệu sẵn, hay còn gọi là hình thức bắt buộc của giao dịch Đối với những giao dịch đó, hình thức trở thành điều kiện có hiệu lực của giao dịch,

và nếu giao dịch không thỏa mãn yêu cầu về hình thức, giao dịch có khả năng

bị vô hiệu

Như vậy, hình thức từ đơn giản chỉ là phương tiện biểu hiện nội dung của giao dịch, trở thành điều kiện có hiệu lực của giao dịch Các bên tham gia giao dịch buộc phải tuân thủ điều kiện để giao dịch có hiệu lực pháp luật Tuy nhiên, không phải lúc nào chủ thể cũng có điều kiện để hoàn thiện hình thức giao dịch một cách dễ dàng và không phải ai cũng hiểu được vai trò của hình thức giao dịch dân sự và hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức Và đặc biệt, trong bối cảnh Bộ luật Dân sự năm 2015 vừa mới có hiệu lực ngày 01/01/2017, có những quy định mới về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức,

Trang 9

một mặt thể hiện sự tiến bộ nhưng mặt khác, vẫn tồn tại những khó khăn, vướng mắc cần khắc phục

Chính vì các lý do trên, em đã lựa chọn đề tài: “Giao dịch dân sự vô

hiêu do không tuân thủ quy định về hình thức theo quy định của Bộ luật Dân

sự năm 2015” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật dân sự và Tố tụng dân

sự với mong muốn nghiên cứu sâu hơn về lý luận và thực tiễn của đề tài, từ

đó đưa ra các giải pháp khắc phục một số hạn chế góp phần hoàn thiện pháp luật và thúc đẩy các giao dịch dân sự diễn ra thuận tiện, nhanh chóng, hiệu quả

2 Tình hình nghiên cứu đề tài

Giao dịch dân sự vô hiệu nói chung và giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức hay hình thức hợp đồng là đề tài không mới, đã được nhiều nhà khoa học pháp lý quan tâm và nghiên cứu trong suốt quá trình lập pháp từ Bộ luật Dân sự năm 1995 đến Bộ luật Dân sự năm 2015 Các nhà nghiên cứu thường tập trung xem xét vấn đề ở các góc độ bản chất của giao dịch dân sự vô hiệu, hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu cũng như phân loại các giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định pháp luật Sau mỗi lần Bộ luật Dân sự được thay thế, lại có những công trình nghiên cứu mới

về các vấn đề kể trên, có thể kể đến như

Về sách chuyên khảo có: Hình thức của hợp đồng của Lê Minh Hùng (chủ biên) Nxb Hồng Đức, năm 2015, Hiệu lực của hợp đồng của Lê Minh

Hùng (Chủ biên) Nxb Hồng Đức, năm 2015…

Một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành như:

- Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối và giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt

đối của Bùi Đăng Hiếu, tạp chí Luật học số 05/2001, tr.37-44;

- Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức của

Nguyễn Văn Cường, tạp chí Tòa án nhân dân, Số 01/2002, tr.29-31;

Trang 10

- Quy định “giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình

thức” những vướng mắc và kiến nghị của Hoàng Thị Thanh, tạp chí Tòa án

nhân dân, Số 9/2001, tr.14-16;

- Hình thức của hợp đồng kinh tế và hiệu lực của hợp đồng của Lê Thị

Bích Thọ;

- Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao

dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức của Phan Tấn

Pháp, tạp chí Tòa án nhân dân, Số 6/2002, tr.11-13;

- Xử lý hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu của Nguyễn Như Quỳnh,

tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 03/2005, tr.22-26;

- Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự theo quy định của Bộ luật

Dân sự năm 2005 của Nguyễn Thị Tình, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số

14/2011, tr.29-32,38;

Các khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ nghiên cứu về

đề tài giao dịch dân sự vô hiệu nói chung và giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức nói riêng như:

- Luận án tiến sĩ: Giao dịch dân sự vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý

của giao dịch dân sự vô hiệu của Nguyễn Văn Cường, 2005;

- Luận văn thạc sĩ: Giá trị của công chứng đối với hiệu lực của giao dịch

dân sự của Hoàng Khánh Phương, 2012;

- Khóa luận tốt nghiệp: Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự theo quy

định pháp luật hiện hành của Nguyễn Thị Hương, 2011

Như vậy, trước khi Bộ luật Dân sự năm 2015 ban hành và có hiệu lực,

có rất nhiều bài viết về đề tài giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức hoặc các công trình nghiên cứu khác về các đề tài có liên quan đến đề tài giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định Tuy nhiên, các bài viết nói trên được nghiên cứu dưới góc độ pháp luật tại thời điểm Bộ luật Dân sự 1995, Bộ luật Dân sự 2005 có hiệu lực

Trang 11

Khi Bộ luật Dân sự năm 2015 đang trong giai đoạn soạn thảo, đã có các công trình đóng góp cho dự thảo như:

- Kiến nghị hoàn thiện các quy định về giao dịch dân sự trong Dự thảo

Bộ luật Dân sự (sửa đổi) của Trần Thị Huệ, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số

15/2015, tr.25-28;

- Chế định giao dịch dân sự trong Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) của

Phan Thị Hồng, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 20/2015, tr.29-32,40

Có thể thấy, quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức là đề tài không mới, nhưng dưới góc độ nghiên cứu theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì đây là đề tài có nhiều vấn đề

để bàn luận và không bị trùng lặp với các công trình khoa học đã được công

bố trong những năm gần đây, đặc biệt là sau thời điểm Bộ luật Dân sự năm

2015 có hiệu lực

3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài

3.1 Đối tượng nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu về các quy định của pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức theo quy định tại Bộ luật Dân

sự năm 2015 So sánh quy định pháp luật hiện hành với quy định các quốc gia trên thế giới và quy định tại Bộ luật Dân sự 2005 từ đó chỉ ra những điểm hạn chế cần khắc phục của Bộ luật Dân sự 2015 và hướng hoàn thiện pháp luật về hình thức giao dịch dân sự

Trang 12

Bên cạnh đó, luận văn còn nghiên cứu pháp luật các quốc gia trên thế giới và pháp luật Việt Nam qua các thời kì về vấn đề giao dịch dân sự vô hiệu

do không tuân thủ quy định về hình thức

4 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

4.1 Mục đích nghiên cứu đề tài

Mục đích nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về hình thức giao dịch dân sự, các khái niệm, đặc điểm pháp lý của giao dịch dân sự

vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức Đồng thời, phân tích các quy định pháp luật hiện hành, so sánh với pháp luật của các quốc gia trên thế giới và sự phát triển các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức trong lịch sử lập pháp ở nước ta Từ đó, đánh giá các ưu, nhược điểm khi áp dụng quy định pháp luật trong thực tiễn Trên cơ

sở đó, người viết đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật, phù hợp với thực tiễn, bảo đảm tính khả thi khi áp dụng pháp luật

4.2 Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

Việc nghiên cứu đề tài này thực hiện các nhiệm vụ:

- Phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức

- Tìm hiểu quy định pháp luật Việt Nam qua các thời kì và Pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức

- Nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức gồm các nội dung điều kiện của giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức, Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức; Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự

vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức và các trường hợp ngoại lệ của giao dịch vi phạm hình thức được Tòa án công nhận hiệu lực

Trang 13

- Chỉ ra những bất cập trong quy định hiện hành và khó khăn khi áp dụng pháp luật, từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về hình thức giao dịch dân sự

5 Phương pháp nghiên cứu

Luận văn vận dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, so sánh, thống kê… để giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn của đề tài

6 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

Về mặt khoa học, luận văn đã bổ sung thêm những khái niệm mà pháp luật chưa có quy định cụ thể như khái niệm giao dịch dân sự do không tuân thủ quy định về hình thức; phân tích đầy đủ các khía cạnh lý luận của giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức Trên sự nghiên cứu quy định pháp luật hiện hành và so sánh đối chiếu với quy định của các quốc gia trên thế giới và pháp luật Việt Nam qua các thời kì, luận văn đã chỉ

ra những điểm hạn chế trong quy định của pháp luật Việt Nam về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức

Về mặt thực tiễn, khi hiểu đúng bản chất của giao dịch dân sự vô hiệu

do không tuân thủ quy định về hình thức sẽ có cách giải quyết hợp tình hợp lý đối với các giao dịch vi phạm hình thức Bên cạnh đó, luận văn còn chỉ ra những điểm bất cập và phương hướng hoàn thiện pháp luật giúp việc xác lập giao dịch diễn ra thuận tiện, đảm bảo tính pháp lý và việc áp dụng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hạn chế được khó khăn, vướng mắc

7 Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, lời cam đoan, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì nội dung chính của luận văn gồm 3 chương Cụ thể như sau:

Chương 1 Những vấn đề lý luận chung về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức

1.1 Khái quát chung về giao dịch dân sự vô hiệu

Trang 14

1.1.1 Khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu

1.1.2 Đặc điểm của giao dịch dân sự vô hiệu

1.2 Khái quát chung về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức

1.2.1 Khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định

1.3.1 Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức trong pháp luật Việt Nam qua các thời kì

1.3.2 Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức theo pháp luật của một số quốc gia trên thế giới

Chương 2 Quy định pháp luật hiện hành về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức

2.1 Điều kiện của giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức

2.1.1 Pháp luật có quy định về hình thức bắt buộc của giao dịch dân sự 2.1.2 Chủ thể tham gia giao dịch không tuân thủ quy định về hình thức 2.2 Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức

2.2.1 Không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân

sự của các bên

2.2.2 Các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận

Trang 15

2.2.3 Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức

2.2.4 Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường

2.3 Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức

2.4 Trường hợp ngoại lệ của giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức

Chương 3 Thực tiễn áp dụng pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

3.1 Một số hạn chế trong quy định pháp luật hiện hành về giao dịch dân sự

vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức

3.1.1 Về hình thức của giao dịch dân sự

3.1.2 Về quy định giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức tại Điều 129 BLDS 2015

3.1.3 Về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức

3.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức

3.2.1 Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vi phạm hình thức bắt buộc

3.2.2 Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất vi phạm hình thức bắt buộc 3.2.3 Di chúc vi phạm quy định về hình thức

3.3 Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hình thức giao dịch dân sự

Trang 16

Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU DO KHÔNG TUÂN THỦ QUY ĐỊNH VỀ HÌNH THỨC 1.1 Khái quát chung về giao dịch dân sự vô hiệu

1.1.1 Khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu

Giao dịch dân sự là nhu cầu thiết yếu hàng ngày của xã hội, là căn cứ quan trọng và phổ biến nhất làm phát sinh quan hệ pháp luật dân sự Đó là hành vi pháp lý (hành vi pháp lý đơn phương và hành vi pháp lý đa phương)

có ý thức thể hiện ý chí của các chủ thể nhằm xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự Định nghĩa giao dịch dân sự được BLDS 2015 quy

định khá cụ thể tại Điều 116: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi

pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”

Mặc dù giao dịch dân sự được hiểu một cách đơn giản là hành vi pháp

lý làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự nhưng chỉ những giao dịch dân sự hợp pháp mới được pháp luật bảo vệ Giao dịch dân

sự hợp pháp là giao dịch thỏa mãn tất cả các điều kiện có hiệu lực của giao dịch Hay nói cách khác, giao dịch dân sự hợp pháp là giao dịch thỏa mãn các yếu tố cần và đủ do pháp luật quy định, khi đó giao dịch dân sự được pháp luật công nhận và bảo đảm thực hiện quyền, nghĩa vụ của các bên Chỉ khi thỏa mãn tất cả các điều kiện pháp luật quy định thì giao dịch dân sự mới phát sinh hiệu lực

Tùy thuộc vào pháp luật quốc gia mà mỗi nước quy định những điều kiện

có hiệu lực của giao dịch khác nhau BLDS 2015 quy định điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự tại Điều 117:

“1 Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;

Trang 17

b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;

c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội

2 Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân

sự trong trường hợp luật có quy định.”

Như vậy, pháp luật Việt Nam quy định các điều kiện có hiệu lực của giao dịch gồm điều kiện về năng lực chủ thể, điều kiện về tự do định đoạt ý chí của chủ thể trong giao dịch dân sự, điều kiện về mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội Trong trường hợp, pháp luật có quy định về hình thức bắt buộc của giao dịch dân sự thì hình thức của giao dịch dân sự cũng là một điều kiện có hiệu lực của giao dịch

Việc quy định điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự là hết sức cần thiết Một mặt để ngăn chặn hành vi lạm dụng quyền dân sự để xác lập các giao dịch trái pháp luật, vi phạm các điều cấm của của pháp luật hoặc vi phạm đạo đức xã hội1 Mặt khác, điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự là yếu

tố đảm bảo tính ổn định trong giao lưu dân sự, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể không bị xâm phạm và là công cụ của Nhà nước nhằm quản

lý và bảo vệ lợi ích công khi thấy cần thiết

Hậu quả của giao dịch dân sự không thỏa mãn một trong các điều kiện

có hiệu lực được pháp luật quy định là giao dịch bị vô hiệu Thuật ngữ “Giao

dịch dân sự vô hiệu” được sử dụng rộng rãi nhưng chưa có tài liệu chính

thống nào định nghĩa thuật ngữ này một cách cụ thể Theo từ điển tiếng Việt,

vô hiệu được hiểu là “không có hiệu lực, không có hiệu quả 2” Điều 122 BLDS 2015 quy định giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật Dân sự có

1

Trần Thị Huệ (2017), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, tr 231

2

Viện ngôn ngữ học (1994), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Giáo dục Hà Nội, tr.1083

Trang 18

quy định khác Từ đó có thể hiểu một cách chung nhất, giao dịch dân sự vô hiệu là giao dịch dân sự không có hiệu lực pháp luật

Giao dịch dân sự vô hiệu không phát sinh hiệu lực đối với các bên, không phụ thuộc vào việc các bên đã, đang hay đã thực hiện giao dịch Bởi khi một giao dịch bị xem là vô hiệu thì mọi cam kết, thỏa thuận của các bên đều không được pháp luật ghi nhận, quyền và nghĩa vụ của các bên không bị phát sinh, thay đổi, chấm dứt theo nội dung giao dịch, dù là tại thời điểm tuyên bố giao dịch vô hiệu, các bên chưa hoặc đang thực hiện hoặc đã thực hiện xong nghĩa vụ theo thỏa thuận Việc giao kết của các bên không có kết quả như mong muốn nếu bị xem là vô hiệu Như vậy, giao dịch dân sự vô hiệu là giao dịch dân sự không đáp ứng đủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch do pháp luật quy định, không làm phát sinh hậu quả pháp lý mà các bên mong muốn

Giao dịch dân sự vô hiệu được phân biệt với giao dịch dân sự mất hiệu lực Giao dịch dân sự bị xem là vô hiệu là giao dịch vi phạm một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch, giao dịch đó không có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết, quyền và nghĩa vụ của các bên không được xác lập Còn giao dịch dân sự mất hiệu lực là giao dịch dân sự có hiệu lực tại thời điểm giao kết nhưng trong quá trình thực hiện, giao dịch bị mất hiệu lực do rơi vào tình trạng không thể thực hiện được Tình trạng mất hiệu lực của giao dịch dân sự

có thể do một bên vi phạm dẫn đến bên bị vi phạm yêu cầu hủy giao dịch hoặc do hai bên thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của giao dịch hay do một trở ngại khách quan nào khác3

Có nhiều cách phân loại giao dịch dân sự vô hiệu Tuy nhiên, trong phạm vi phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài, người viết chỉ tập trung phân loại giao dịch dân sự vô hiệu thành giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối và giao dịch

3

Lê Thị Bích Thọ (2002), Hợp đồng kinh tế vô hiệu và hậu quả pháp lý của nó, Luận án tiến sĩ Luật học,

Viện nghiên cứu KHPL, tr27-28

Trang 19

dân sự vô hiệu tương đối Việc phân loại này không được ghi nhận trong các văn bản pháp luật nhưng lại có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá bản chất của giao dịch dân sự vô hiệu và trình tự thủ tục tuyên bố một giao dịch dân sự vô hiệu

Thông thường, giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối gồm các trường hợp: Giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của pháp luật, trái với đạo đức xã hội; Giao dịch dân sự được xác lập một cách giả tạo nhằm che giấu giao dịch khác; Giao dịch dân sự vô hiệu khi hình thức của giao dịch không tuân thủ theo các quy định bắt buộc của pháp luật; Giao dịch dân sự vô hiệu khi giao dịch của pháp nhân xác lập vượt ra ngoài lĩnh vực hoạt động được cho phép, đăng kí; Giao dịch được xác lập bởi người không có năng lực hành vi dân sự (chưa đủ 6 tuổi); Giao dịch được xác lập bởi người mất năng lực hành vi dân

sự Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối gồm các trường hợp: Giao dịch dân sự được xác lập bởi người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi; Giao dịch dân sự được xác lập bởi người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; Giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn; Giao dịch dân sự được xác lập khi một bên chủ thể tham gia giao dịch bị lừa dối, đe dọa; Giao dịch dân sự được xác lập do người không nhận thức được hành vi của mình.4

Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối và giao dịch dân sự vô hiệu tương đối khác nhau một số điểm cơ bản như sau:

Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối là giao dịch dân sự không có hiệu lực ngay từ khi giao kết, không có giá trị về mặt pháp lý, không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên Các bên phải chấm dứt thực hiện và quay lại tình trạng ban đầu và hoàn lại cho nhau những gì đã nhận “Giao dịch này không có hiệu lực từ thời điểm kí kết dù Tòa án có tuyên bố vô hiệu hay không”5 Nghĩa là giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối là giao dịch dân sự

4

Bùi Đăng Hiếu (2001), “Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối và tương đối”, Tạp chí Luật học, (05), tr 37-38

5

Lê Thị Bích Thọ (2002), Hợp đồng kinh tế vô hiệu và hậu quả pháp lý của nó, Luận án tiến sĩ Luật học,

Viện nghiên cứu KHPL, tr.73-74

Trang 20

đương nhiên vô hiệu, quyết định của Tòa án công nhận giao dịch dân sự này

vô hiệu chỉ là hình thức công nhận sự vô hiệu của giao dịch dựa trên các quy định của pháp luật

Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối là loại giao dịch dân sự có khả năng khắc phục, “nó được coi là một loại giao dịch dân sự có thể có hiệu lực nhưng cũng có thể bị vô hiệu theo sự lựa chọn của một trong các bên tham gia giao dịch”6 Giao dịch này thường không xâm phạm đến trật tự công cộng và đạo đức xã hội Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối được coi là có hiệu lực pháp

lý đến đến khi nào bị tuyên bố vô hiệu Nếu một bên hoặc các bên không yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu thì giao dịch đó vẫn có hiệu lực pháp luật Đối với loại giao dịch này, quyết định của Tòa án là cơ sở duy nhất là cho giao dịch trở nên vô hiệu “Bên yêu cầu phải có nghĩa vụ chứng minh trước Tòa yêu cầu của mình là có căn cứ, dựa trên sự chứng minh của đương

sự, Tòa án cân nhắc để ra quyết định giao dịch đó có bị coi là vô hiệu hay không”7

Về thời hiệu yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, đối với các giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối thì thời hạn yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu không bị hạn chế còn đối với giao dịch dân sự vô hiệu tương đối thì thời hiện yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu là 02 năm (Điều 132 BLDS 2015)

Việc xem xét giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối hay giao dịch dân sự

vô hiệu tương đối có ý nghĩa trong việc nghiên cứu bản chất của giao dịch dân

sự vô hiệu, từ đó xây dựng hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh hợp lý

1.1.2 Đặc điểm của giao dịch dân sự vô hiệu

Giao dịch dân sự vô hiệu là các giao dịch dân sự không đáp ứng đủ các yêu cầu về điều kiện có hiệu lực của giao dịch do pháp luật quy định “Việc

6

Nguyễn Văn Cường (2005), Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân

sự vô hiệu, Luận án tiến sĩ Luật học, Hà Nội, tr.23

7

Bùi Đăng Hiếu (2001), Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối và tương đối, Tạp chí Luật học, (05), tr 39

Trang 21

dân sự cốt ở đôi bên”, tuy nhiên, các chủ thể chỉ được thực hiện quyền của mình khi được pháp luật cho phép và chỉ được thực hiện trong phạm vi pháp luật đề ra Chủ thể chỉ được tham gia giao dịch khi có năng lực pháp luật dân

sự và năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập, đó

là các quyền và nghĩa vụ pháp luật trao cho các chủ thể và khả năng chủ thể bằng khả năng tự có của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự Trong quá trình xác lập giao dịch dân sự, chủ thể phải hoàn toàn tự nguyện

Sự tự nguyện ở đây được hiểu là tự do định đoạt, thể hiện ý chí, không bị ép buộc, lừa dối, không bị người khác áp đặt ý chí; có sự thống nhất giữa ý chí bên trong và thể hiện ý chí ra bên ngoài Bên cạnh đó, mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội và trong trường hợp pháp luật có quy định điều kiện về hình thức thì giao dịch dân sự đó phải thỏa mãn yêu cầu về hình thức giao dịch Khi không đáp ứng các yêu cầu về điều kiện có hiệu lực của giao dịch thì việc giao kết sẽ không được pháp luật công nhận hiệu lực và giao dịch đó bị xem

là vô hiệu

Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên Tính vô hiệu của giao dịch dân sự được thể hiện ở chỗ nó không có hiệu lực pháp luật và không làm phát sinh hậu quả pháp lý mà các bên mong muốn đạt được khi tham gia xác lập giao dịch dân

sự đó Dù cho khi tham gia giao dịch dân sự, các bên mong muốn đạt được quyền lợi và nghĩa vụ nhất định, có thiện chí cùng nhau thực hiện để phát sinh quan hệ pháp luật dân sự nhưng do giao dịch mà các bên xác lập không đáp ứng đầy đủ yêu cầu của pháp luật nên quyền và nghĩa vụ của các bên phát sinh từ giao dịch này không được pháp luật công nhận Khi không được pháp luật công nhận thì quan hệ dân sự mà các bên xác lập sẽ không có giá trị về mặt pháp lý Như vậy, khi một giao dịch dân sự bị tuyên vô hiệu, quyền và

Trang 22

nghĩa vụ dân sự của các bên trong giao dịch sẽ không đạt được Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu được xem như giao dịch dân sự không được xác lập Giao dịch dân sự vô hiệu không phụ thuộc vào việc các bên đã thực hiện giao dịch hay chưa Đối với các giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối như giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội; Giao dịch dân sự được xác lập một cách giả tạo nhằm che giấu giao dịch khác; Giao dịch được xác lập bởi người không có năng lực hành vi dân sự (chưa đủ 6 tuổi); Giao dịch được xác lập bởi người mất năng lực hành vi dân

sự thì việc khắc phục là điều không thể, giao dịch mặc nhiên bị coi là vô hiệu tại thời điểm giao kết Do đó, việc các bên đã, đang thực hiện cũng không có

ý nghĩa trong việc xem xét hiệu lực của giao dịch Đối với các giao dịch tương đối thì theo yêu cầu của một bên tham gia giao dịch hoặc theo yêu cầu của người đại diện, Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu mà không phụ thuộc vào việc các bên đã thực hiện giao dịch hay chưa

Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu là việc các chủ thể cũng

sẽ phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi theo quy định của pháp luật, do không tuân thủ các quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự Theo từ điển Luật học, hậu quả pháp lý là “kết cục tất yếu mà cá nhân, tổ chức phải gánh chịu trong trường hợp vi phạm pháp luật”8 Khi pháp luật quy định điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, các chủ thể tham gia giao dịch đó có nghĩa vụ phải tôn trọng và tuân thủ Việc chủ thể không tuân thủ quy định về điều kiện có hiệu lực là lỗi của chủ thể khiến cho giao dịch bị vô hiệu, do đó, chủ thể phải gánh chịu hậu quả bất lợi do hành vi vi phạm gây ra Nội dung của hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu là giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên; Các bên có nghĩa vụ khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận, nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải

8

Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nxb Tư Pháp, Hà Nội

Trang 23

hoàn trả bằng tiền Hậu quả pháp lý bất lợi của việc vi phạm điều kiện có hiệu lực của giao dịch đó là mọi thỏa thuận, cam kết của các bên không được pháp luật thừa nhận, các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu khi chưa có giao dịch Vấn đề đặt ra là tại thời điểm xác lập giao dịch, mặc dù giao dịch không được pháp luật thừa nhận nhưng các bên đã chuyển giao tài sản hoặc lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần cho nhau Vì thế, hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận là biện pháp cần thiết nhằm giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân

sự vô hiệu Nhưng không phải đối tượng nào cũng có thể hoàn trả lại như hiện trạng ban đầu, ví dụ đối tượng của giao dịch là tài sản hao mòn hoặc đối tượng là công việc; chính vì thế, với những đối tượng không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì hoàn trả bằng vật ngang giá là tiền

Bên có lỗi khiến cho giao dịch dân sự vô hiệu phải bồi thường thiệt hại cho bên còn lại Đây không phải là trách nhiệm dân sự phát sinh do không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ dân sự theo hợp đồng Do đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác định trong trường hợp này là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh khi đủ các yếu tố luật định: 1) có thiệt hại xảy ra; 2) có hành vi trái pháp luật, hành vi trái pháp luật trong trường hợp này đó là hành vi không tuân thủ quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch; 3) có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật, hay thiệt hại xảy ra là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật; 4) người vi phạm phải có lỗi, lỗi ở đây được xem xét dưới góc độ lỗi làm cho giao dịch bị vô hiệu Khi xác định đầy đủ bốn yếu tố nói trên thì phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên có lỗi khiến cho giao dịch dân sự vô hiệu Như vậy, hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu là hậu quả pháp

lý bất lợi mà các bên phải gánh chịu khi giao dịch vô hiệu Do giao dịch dân

sự vô hiệu không được pháp luật công nhận, quyền và nghĩa vụ của các bên không được phát sinh nên việc các bên đã thực hiện giao dịch hay chưa cũng

Trang 24

không có ý nghĩa Các bên buộc phải hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận,

vì họ không phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với những gì đã chuyển giao cho nhau

Tòa án là cơ quan nhà nước có thẩm quyền tuyên bố giao dịch dân sự

vô hiệu Dù là giao dịch dân sự vô hiệu tương đối hay giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối thì quyết định của Tòa án là quyết định cao nhất trong việc xem xét hiệu lực của giao dịch dân sự

1.2 Khái quát chung về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức

1.2.1 Khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định

về hình thức

 Hình thức giao dịch dân sự

Theo từ điển Luật học, hình thức được hiểu là “cái bên ngoài, cái chứa đựng nội dung bên trong”9 Hay nói cách khác, hình thức là những gì làm thành bề mặt của sự vật, là cái chứa đựng biểu hiện nội dung Do đó, hình thức của giao dịch dân sự là cách thức thể hiện ý chí của các chủ thể tham gia giao dịch dân sự ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định

Điểm đặc trưng của giao dịch dân sự là chủ thể tự do bày tỏ ý chí, nguyện vọng của bản thân mình, trong trường hợp giao dịch dân sự là hành vi pháp lý đa phương thì giữa các chủ thể phải có sự thỏa thuận, bàn bạc và đi đến thống nhất ý chí về nội dung của giao dịch dân sự Tuy nhiên, ý chí tự nguyện đó của các chủ thể phải được thể hiện ra bên ngoài bằng một hình thức nhất định để chủ thể phía bên kia hoặc người thứ ba biết được nguyện vọng và nội dung của giao dịch dân sự Chỉ khi các chủ thể biết đến ý chí, nguyện vọng của nhau thì giao dịch dân sự mới có khả năng được xác lập Nếu chủ thể không thể hiện ý chí của mình ra bên ngoài bằng một hình thức nhất định thì ý chí đó, dù là ý chí tự nguyện, là nguyện vọng thiết thực không

9

Từ điển Luật học (1999), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr 809

Trang 25

bị pháp luật ngăn cấm, không trái với đạo đức xã hội nhưng cũng chỉ là ý chí nằm trong suy nghĩ, không biến thành hành vi thì pháp luật không thể can thiệp điều chỉnh Hình thức của giao dịch dân sự còn là phương tiện để ghi nhận nội dung chủ thể đã xác định, là chứng cứ thể hiện sự thống nhất giữa ý chí bên trong và ý chí thể hiện ra bên ngoài của chủ thể Như vậy, hình thức giao dịch dân sự là sự biểu hiện ra bên ngoài của nội dung giao dịch dân sự Trong giao lưu dân sự, trên cơ sở nguyên tắc “việc dân sự cốt ở đôi bên”, các chủ thể có thể tự do thể hiện ý chí của mình dưới các dạng hình thức khác nhau Hình thức thể hiện ý chí khá đa dạng như: lời nói; hành vi; hành động quy ước; văn bản không có công chứng, chứng thực; văn bản có công chứng, chứng thực Hình thức giao dịch dân sự còn là căn cứ xác định thời điểm có hiệu lực của giao dịch dân sự

Hình thức lời nói là hình thức mà ý chí của một bên hoặc các bên được thể hiện thông qua lời nói Đối với hành vi pháp lý đơn phương, một bên sẽ tuyên bố ý chí của mình bằng lời nói Đối với hành vi pháp lý đa phương, các bên thỏa thuận nội dung giao dịch bằng lời nói như về đối tượng, giá cả, phương thức thanh toán… và sau khi thỏa thuận xong thì giao dịch dân sự được xác lập… Giao dịch được giao kết bằng lời nói có hiệu lực ngay sau khi các bên thỏa thuận trực tiếp, do đó, khi lựa chọn hình thức này, các bên tham gia hợp đồng nhanh chóng đạt được mục đích của mình Hình thức này thông thường được áp dụng trong trường hợp các bên tham gia hợp đồng có độ tin tưởng lẫn nhau hoặc đối với những hợp đồng có giá trị nhỏ có đối tượng là hàng hóa tiêu dùng, lương thực, thực phẩm… hay đối với những hợp đồng mà sau khi giao kết thì hợp đồng sẽ được thực hiện và chấm dứt Khi có tranh chấp xảy ra, hình thức hợp đồng này không đảm bảo giá trị chứng cứ mà các bên phải tự chứng minh đã có giao kết trước đó

Hình thức giao dịch dân sự bằng văn bản là hình thức mà một bên hoặc các bên thể hiện ý chí bằng văn bản và kí tên vào đó Hình thức bằng văn bản

Trang 26

thể hiện nội dung giao dịch rõ ràng hơn, có tính minh thị hơn so với hình thức lời nói Ví dụ, một người viết di chúc để định đoạt di sản của mình sau khi chết, hay hai bên lập hợp đồng mua bán hàng hóa bằng văn bản để thể hiện những nội dung đã thỏa thuận được, làm căn cứ để mỗi bên biết được quyền lợi và nghĩa vụ của mình

Hình thức bằng văn bản có hai mức độ là văn bản không có công chứng, chứng thực và văn bản có công chứng, chứng thực Với những loại giao dịch dễ xảy ra tranh chấp, hay những loại tài sản mà nhà nước cần thiết phải quản lý thì việc công chứng, chứng thực đảm bảo giá trị chứng cứ cao nhất cho giao dịch dân sự và là công cụ hữu hiệu để Nhà nước quản lý Giao dịch dân sự bắt buộc phải lập thành văn bản có công chứng, chứng thực thì thời điểm có hiệu lực của giao dịch là thời điểm văn bản được công chứng, chứng thực Giao dịch dân sự được thể hiện bằng hình thức văn bản không có công chứng, chứng thực có hiệu lực vào thời điểm bên sau cùng kí vào văn bản

Hình thức giao dịch dân sự bằng hành vi cụ thể là loại hình thức xuất hiện do sự phát triển của công nghệ kĩ thuật Hình thức này thể hiện ở các máy bán hàng tự động, gọi điện thoại công cộng Hình thức này, người mua không cần thể hiện lời nói, không cần bằng văn bản, giá cả đã được định sẵn, người mua chỉ cần tuân thủ những thao tác nhất định trong việc trả tiền theo yêu cầu của máy bán hàng tự động là đáp ứng được nhu cầu mua hàng của mình Khi khách hàng thực hiện các thao tác đó, nghĩa là giao dịch dân sự được xác lập

Xã hội hiện đại cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin đã làm xuất hiện thêm một hình thức giao dịch mới Đó là giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử, nội dung của giao dịch được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu, thông điệp dữ liệu này được truyền tải, trao đổi bằng hình thức chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự

Trang 27

(Điều 10 Luật giao dịch điện tử năm 2005) Hình thức giao dịch điện tử được BLDS 2015 coi như là giao dịch bằng văn bản

Tóm lại, hình thức của giao dịch dân sự tồn tại khá đa dạng nhưng đều thể hiện ý chí của các bên trong giao dịch, ghi nhận sự tồn tại và nội dung của giao dịch dân sự

 Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức

Trên nguyên tắc các chủ thể có quyền tự do xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự thì các chủ thể tham gia giao dịch dân sự được tự do lựa chọn hình thức giao kết Các bên có quyền xác lập giao dịch dưới bất cứ hình thức nào

mà họ muốn, chỉ cần đạt được thỏa thuận, thống nhất ý chí của các bên hoặc thỏa mãn việc biểu đạt ý chí của hành vi pháp lý đơn phương Khi các bên thống nhất phương thức biểu đạt ý chí thì coi như hình thức giao dịch dân sự

đã được hình thành Tuy nhiên, trong một số trường hợp, việc giao kết giao dịch dân sự của các chủ thể có ảnh hưởng đến lợi ích chung của xã hội, ảnh hưởng đến công tác quản lý của Nhà nước, đồng thời, pháp luật muốn lưu ý

sự thận trọng của các bên khi tham gia giao lưu dân sự thì Nhà nước sẽ can thiệp về hình thức của giao dịch dân sự Khi đó, pháp luật sẽ quy định về hình thức bắt buộc của giao dịch dân sự Thông thường, các giao dịch dân sự có đối tượng cần sự quản lý của Nhà nước hoặc các giao dịch dân sự phức tạp,

dễ phát sinh tranh chấp và khó giải quyết tranh chấp sẽ là những giao dịch phải tuân thủ quy định bắt buộc về hình thức

Các giao dịch có đối tượng là những tài sản đặc biệt cần sự quản lý của Nhà nước ví dụ tài sản là Bất động sản hoặc hợp đồng mua bán có giá trị lớn

Ví dụ, “pháp luật Hoa Kì quy định hợp đồng mua bán có giá trị từ 5.000 USD phải được ký kết bằng văn bản”10 Bộ luật Dân sự Nga quy định giao dịch giữa các cá nhân với nhau mà giá trị của giao dịch này quá 10 tháng lương tối

10

Luật 101 mọi điều bạn cần biết về pháp luật Hoa Kì, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, 2015, tr 311

Trang 28

thiểu theo quy định của pháp luật thì phải lập bằng công chứng (Điều 161 Bộ Luật Dân sự Nga) Đối với những giao dịch có giá trị lớn, các nhà làm luật muốn lưu ý sự thận trọng của các bên khi tham gia kí kết, bằng hình thức văn bản, các bên trong hợp đồng có chứng cứ rõ ràng về việc giao kết, đảm bảo quyền lợi của mình tại tòa Bên cạnh đó, việc kiểm soát các giao dịch có giá trị lớn có ý nghĩa đảm bảo sự ổn định tài chính và lưu thông tiền tệ Còn đối với những tài sản là bất động sản như đất đai, nhà cửa, … không chỉ là những đối tượng giao dịch có giá trị lớn mà còn là những tài sản có liên quan đến công tác quản lý của Nhà nước Pháp luật Việt Nam, Thái Lan, Hoa Kì, Pháp đều có các quy định về việc giao dịch có đối tượng là bất động sản thì phải tuân thủ theo hình thức nhất định Đất đai là một loại tài nguyên của quốc gia, mang tính chất đặc thù vũng lãnh thổ của mỗi quốc gia Đó là một loại tài sản đặc biệt, nó không có khả năng gia tăng về số lượng vì quỹ đất chỉ có giới hạn nhất định Do đó, dù chế độ sở hữu đất đai là sở hữu tư nhân hoặc sở hữu toàn dân thì người có quyền cũng không thể tùy ý chuyển giao cho người khác mà phải có sự quản lý của Nhà nước

Bên cạnh những đối tượng của giao dịch đặc biệt cần sự quản lý của Nhà nước, thì đối với những giao dịch phức tạp, hay phát sinh tranh chấp, khó giải quyết, pháp luật các nước cũng thường yêu cầu các bên tham gia phải tuân thủ hình thức giao dịch nhất định Những giao dịch đó có thể là các giao dịch mua bán, tặng cho bất động sản, các giao dịch bảo đảm và các giao dịch

về thừa kế Với các giao dịch về bất động sản, tranh chấp có thể phát sinh từ việc xác định ranh giới bất động sản, từ việc xác định người có quyền đối với bất động sản… Do đó, hầu hết pháp luật của các quốc gia trên thế giới luôn có các yêu cầu về hình thức đối với các hợp đồng mua bán, tặng cho bất động sản

Giao dịch bảo đảm cũng là một loại giao dịch hay phát sinh tranh chấp

Trang 29

Giao dịch bảo đảm là sự thỏa thuận giữa một bên (được gọi là bên bảo đảm) với bên có quyền trong quan hệ nghĩa vụ được bảo đảm (được gọi là bên nhận bảo đảm), theo đó, bên bảo đảm cảm kết trước bên nhận bảo đảm về việc bằng tài sản thuộc sở hữu của mình, bằng việc thực hiện một công việc hoặc bằng uy tín của mình để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ dân sự.11Giao dịch bảo đảm chỉ được xác lập cùng với một giao dịch khác, hay còn gọi là giao dịch được bảo đảm và phạm vi bảo đảm chỉ nằm trong nghĩa

vụ được bảo đảm Do vậy, đối với loại giao dịch này, để xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ bảo đảm, tạo chứng cứ trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể tham gia giao dịch, các nhà làm luật cũng thường lưu ý về hình thức của giao dịch BLDS 2015 quy định việc thế chấp bất động sản, tín chấp, bảo lưu quyền sở hữu phải tuân thủ hình thức bắt buộc của giao dịch

Ngoài ra, thừa kế cũng là lĩnh vực dễ phát sinh tranh chấp Vì việc chia thừa kế chỉ được đặt ra kể từ thời điểm người để lại di sản chết Do đó, nếu pháp luật không quy định hình thức rõ ràng về di chúc sẽ rất khó để xác định được ý chí của người để lại di sản Pháp luật các nước Pháp, Thái Lan, Việt Nam… đều có những quy định cụ thể về hình thức của di chúc

Như vậy, khi pháp luật quy định một số loại giao dịch phải thỏa mãn hình thức nhất định hay còn gọi là hình thức bắt buộc của giao dịch thì hình thức trở thành điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự Nếu các chủ thể không tuân thủ quy định về hình thức bắt buộc của giao dịch dân sự thì giao dịch đó xem như bị vô hiệu

Hình thức giao dịch dân sự không phải là điều kiện bắt buộc của mọi giao dịch dân sự Nó chỉ là điều kiện bắt buộc trong những trường hợp pháp luật quy định Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình

11

Phạm Văn Tuyết, Lê Kim Giang, Hoàn thiện chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, Nxb Dân Trí,

Hà Nội, 2015, tr.49

Trang 30

thức là giao dịch dân sự không thể hiện theo hình thức bắt buộc mà pháp luật quy định, gây ra khả năng không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ mà các bên mong muốn

1.2.2 Đặc điểm của giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy

định về hình thức

Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức là một loại giao dịch dân sự vô hiệu, do đó, nó mang đầy đủ các đặc điểm của một giao dịch dân sự vô hiệu Ngoài ra, giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức còn mang các đặc trưng như sau:

Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức là giao dịch dân sự vi phạm quy định về hình thức bắt buộc Khi pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, nghĩa là các chủ thể bị giới hạn quyền lựa chọn hình thức giao dịch dân sự Chủ thể bắt buộc phải tuân thủ quy định về hình thức để giao dịch đó phát sinh hiệu lực Nếu chủ thể lựa chọn một hình thức giao dịch khác với hình thức bắt buộc của giao dịch do pháp luật quy định thì giao dịch đó bị thiếu đi một điều kiện có hiệu lực, hay giao dịch đó không mặc nhiên phát sinh hiệu lực Việc không tuân thủ quy định về hình thức trở thành căn cứ để cơ quan nhà nước có thẩm quyền tuyên bố giao dịch đó vô hiệu

Giao dịch dân sự không tuân thủ quy định bắt buộc về hình thức là giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối Các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý tồn tại hai quan điểm cho rằng: giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức là giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối, quan điểm khác cho rằng: giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức là giao dịch dân

sự vô hiệu tương đối Theo quan điểm của người viết, giao dịch dân sự vô hiệu

do không tuân thủ quy định về hình thức là giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối, bởi lẽ: một khi quy định về hình thức là quy định bắt buộc do pháp luật quy định thì các chủ thể không có quyền lựa chọn hình thức giao dịch như họ mong

Trang 31

muốn mà phải tuyệt đối tuân thủ Khi không thỏa mãn điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự thì giao dịch đó mặc nhiên được xem là không phát sinh hiệu lực kể từ thời điểm xác lập Bên cạnh đó, hình thức của giao dịch còn là yếu tố xác định thời điểm có hiệu lực của giao dịch Ví dụ, giao dịch dân sự mà nhà làm luật quy định giao dịch đó phải lập thành văn bản có công chứng, chứng thực thì giao dịch đó chỉ phát sinh hiệu lực tại thời điểm văn bản được công chứng viên kí và đóng dấu Điều đó có nghĩa là nếu giao dịch đó chỉ được lập thành văn bản mà không công chứng, chứng thực thì tại thời điểm các bên tham gia giao dịch kí vào văn bản cũng không làm phát sinh hiệu lực của giao dịch đó, bởi pháp luật chỉ công nhận thời điểm có hiệu lực của giao dịch khi văn bản được công chứng, chứng thực Do đó, giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức được xem như chưa có hiệu lực ngay tại thời điểm giao kết

Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức là một trường hợp ngoại lệ của giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối Về mặt lý thuyết, giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối là giao dịch dân sự mặc nhiên bị vô hiệu, thời hạn yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu không bị hạn chế, còn đối với các giao dịch dân sự vô hiệu tương đối thì pháp luật giới hạn thời gian

mà các bên được pháp yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu Tuy nhiên, đối với trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định

về hình thức, các nhà làm luật lại quy định thời hiệu yêu cầu tuyên bố giao dịch

vô hiệu như thời hiệu của giao dịch vô hiệu tương đối Cụ thể, BLDS 2015 quy định thời hiệu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức là 02 năm kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập Quy định xuất phát từ nguyên nhân, việc không hoàn thiện các thủ tục về hình thức giao dịch theo quy định của pháp luật là lỗi của các chủ thể Do đó, pháp luật chỉ đề ra một khoảng thời gian nhất định để các bên ý thức được trách nhiệm phải tuân thủ quy định bắt buộc về hình thức hoặc yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch vô

Trang 32

hiệu Hết khoảng thời gian đó, các bên phải tự gánh chịu hậu quả do lỗi không tuân thủ quy định về hình thức Bên cạnh đó, việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu cần quy định một khoảng thời gian nhất định để đảm bảo trật tự trong giao lưu dân sự, tránh những xung đột phát sinh do không tuân thủ quy định về hình thức mà thời gian đã quá lâu, gây khó khăn cho việc giải quyết tranh chấp của

cơ quan nhà nước có thẩm quyền

1.3 Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định

về hình thức trong pháp luật Việt Nam qua các thời kì và trong pháp luật của một số quốc gia trên thế giới

1.3.1 Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định

về hình thức trong pháp luật Việt Nam qua các thời kì

Dưới góc độ lịch sử khi xem xét quy định của pháp luật Việt Nam qua các thời kì, các nhà nghiên cứu thường xem xét ở các giai đoạn: pháp luật Việt Nam thời kì phong kiến, pháp luật Việt Nam thời kì Pháp thuộc và pháp luật Việt Nam hiện đại (từ năm 1945 đến trước năm 2015)

 Thời kì phong kiến

Ngay từ thời phong kiến, các nhà lập pháp đã nhận thấy rằng, đối với những giao dịch đặc biệt, các chủ thể cần phải tuân theo quy định bắt buộc về hình thức Đó là những giao dịch liên quan đến đối tượng như đất đai, nô tỳ hoặc những giao dịch dễ phát sinh tranh chấp mà khi phát sinh tranh chấp lại không có chứng cứ rõ ràng để các quan xét xử Với những giao dịch đó, khi các bên chủ thể không tuân thủ quy định về hình thức thì giao dịch sẽ không được các quan thừa nhận hay được xem như là vô hiệu Nổi bật cho pháp luật Việt Nam thời kì phong kiến là hai bộ Luật: Quốc triều hình luật dưới triều đại Nhà Lê Sơ và Bộ luật Gia Long dưới thời Nhà Nguyễn

Quốc triều hình luật (hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức) là bộ luật tiêu biểu cho hệ thống pháp luật phong kiến Việt Nam Ngay cả khi nhà Nguyễn ban hành Bộ luật Gia Long thì Quốc triều hình luật vẫn đóng vai trò to lớn

Trang 33

trong xã hội, những quy định trong Quốc triều hình luật trở thành những tập quán phổ biến trong xã hội Mặc dù có tên gọi là một bộ hình luật, tuy nhiên, Quốc triều hình luật thể hiện khá đầy đủ các mối quan hệ trong xã hội phong kiến đương thời, trong đó, có nội dung liên quan đến hình thức giao dịch dân

sự

Quy định pháp luật phong kiến chưa đề cập đến thuật ngữ giao dịch dân

sự mà nhà lập pháp sử dụng các khái niệm cụ thể như mua, bán, cầm, vay, chúc thư… và văn khế nghĩa là các khế ước được lập thành văn tự Hình thức khế ước khá đơn giản Thông thường, sau khi các chủ thể thỏa thuận xong về nội dung của khế ước thì khế ước được giao kết, làm phát sinh quyền và nghĩa

vụ của các bên mà không cần thiết phải giao kết dưới một hình thức nào Đặc biệt, đối với những khế ước không có thời hạn và các bên thực hiện ngay các quyền, nghĩa vụ của mình như các khế ước mua bán các vật phẩm thông thường hoặc sự vay mượn với số lượng tiền nhỏ giữa những người thân quen, không nhất thiết phải làm giấy tờ mà những khế ước này được xác lập trên cơ

sở lòng tin là chủ yếu12

Tuy nhiên, trong những trường hợp đặc biệt như đối tượng khế ước là đất đai, nô tỳ hoặc chủ thể là người không biết chữ thì pháp luật đòi hỏi việc giao dịch của các bên phải được thực hiện dưới hình thức bắt buộc

Điều 366 Quốc triều hình luật quy định: “Những người làm chúc thư,

văn khế mà không nhờ quan trưởng trong làng viết thay và chứng kiến thì phải phạt 80 trượng, phạt tiền theo việc nặng nhẹ Chúc thư văn khế ấy không

biết chữ khá ít, do đó, để đảm bảo có chứng cứ cho việc những người này để lại di chúc hoặc có khế ước với nhau, thì khi họ để lại di chúc hoặc lập khế ước phải nhờ đến quan trưởng trong làng viết di chúc thành văn bản hoặc lập

Trang 34

văn khế và chứng kiến Đây có thể được xem là yêu cầu về mặt hình thức đối với di chúc và khế ước của người không biết chữ Hậu quả của việc không

thỏa mãn yêu cầu về hình thức là: “chúc thức, văn khế ấy không có giá trị”

Hay có nghĩa là chúc thư, văn khế ấy bị vô hiệu Như vậy, dưới thời Lê, nhà nước đã hình thành nên những quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức

Điều 363 Quốc triều hình luật quy định: “Mua nô tỳ mà không đem văn

tự đến trình quan để xét hỏi lại mà tự ý thích chữ thì phải phạt tiền 10

được trình quan để quan xét hỏi lại Nếu không tuân thủ, trong trường hợp này pháp luật không nói rõ việc mua bán có giá trị hay không nhưng người mua phạt chịu phạt tiền 10 quan

Điều 313 Quốc triều hình luật quy định: “Con gái và những trẻ mồ côi

tự bán mình mà không có ai bảo lĩnh thì người mua cùng người viết văn khế, người làm chứng bị xử tội xuy, trượng như luật (đàn bà đánh 50 roi, đàn ông đánh 80 trượng), đòi lại tiền trả cho người mua và hủy bỏ văn khế Nếu những người cô độc, cùng khốn từ 15 tuổi trở lên tình nguyện bán mình thì cho phép” Việc mua bán người là một trường hợp đặc biệt dưới thời phong

kiến, để đảm bảo quyền lợi cho người tự bán mình và đảm bảo họ không bị cưỡng ép, đe dọa trong việc mua bán, pháp luật đã quy định thủ tục bắt buộc của việc mua bán con gái và trẻ mồ côi như sau: việc mua bán phải có người bảo lãnh, người làm chứng, việc mua bán phải lập thành văn khế Nếu không thỏa mãn quy định bắt buộc đó, không những việc mua bán bị hủy bỏ mà người mua, người viết văn khế, người làm chứng đều bị áp dụng hình phạt theo hình luật

Như vậy, pháp luật phong kiến thể hiện sự nghiêm khắc đối với các trường hợp áp dụng hình thức bắt buộc Trong Quốc triều hình luật không có

14

Viện sử học (2013), Quốc triều hình luật (Luật hình triều lê), Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr164

Trang 35

nhiều giao dịch phải tuân thủ quy định về mặt hình thức, nhưng khi một giao dịch đã được nhà lập pháp quy định cụ thể thì những người liên quan gồm người mua, người bán, người viết văn tự, người làm chứng bắt buộc phải tuân thủ Hậu quả của việc không tuân thủ là giao dịch không có giá trị và những người liên quan còn có thể bị áp dụng hình phạt

Bộ luật Gia Long (hay còn gọi là Hoàng Việt Luật Lệ) được ban hành năm 1813 dưới thời nhà Nguyễn cũng là một bộ luật có giá trị của pháp luật Việt Nam thời phong kiến Trong bộ luật này không có quy định nào về hình thức của khế ước Hình thức khế ước do các bên tự lựa chọn và hình thành do thói quen giao lưu dân sự trong xã hội

bộ luật này đều mang tinh thần của Bộ dân Luật Napoleon của Pháp, quy định một số vấn đề về hình thức của giao dịch dân sự và hậu quả vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức bắt buộc

Bộ dân luật Bắc kì, Bộ dân luật Trung kì, Bộ dân luật giản yếu Nam kì đều chưa đề cập đến khái niệm giao dịch dân sự mà chỉ sử dụng khái niệm khế ước Về phương diện hình thức, khế ước được phân thành ba loại: khế ước hiệp ý (les contrats consensuels), khế ước trọng thể (les contrats solennels), khế ước giao vật (les contrats réels) “Khế ước hiệp ý là khế ước được kết lập một khi ý chí của đôi bên đã gặp gỡ nhau và thỏa thuận, không cần phải kí kết một chứng thư gì cả”15 Khế ước giao vật là khế ước được xác

15

Vũ Văn Mẫu (1963), Việt Nam Dân luật lược khảo, quyển II, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, tr61-62

Trang 36

lập khi có sự chuyển giao vật (giao nộp đồ vật – la tradition), các nhà làm luật thời điểm này xem việc chuyển giao vật là điều kiện thiết yếu của khế ước giao vật, là quy định về hình thức của khế ước Khế ước trọng thể là loại khế ước mà nhà lập pháp hoặc bắt buộc khế ước ấy phải do chưởng khế hay một công lại có thẩm quyền soạn thảo, hoặc bắt buộc phải ghi một số điều khoản nhất định, mục đích để bảo vệ các đương sự trong trường hợp kí kết các khế ước quan trọng và lưu ý họ đặc biệt tới một số điều khoản thiết yếu Các khế ước cần phải do chưởng khế soạn thảo là khế ước giá thú hay hôn khế (le contrat de mariage), khế ước tặng dữ bất động sản (la donation d’immeublé), khế ước để đương (la constilution d’hypothèque)

Điều 105 Dân luật Bắc kì, Điều 103 Dân luật Trung kì đều quy định hôn khế phải lằm bằng chứng thư trước mặt chưởng khế hay do một viên chức có thẩm quyền thị thực Hôn khế là một chứng thư trọng thức nên nếu thiếu một điều kiện về hình thức thì hôn khế sẽ vô hiệu

Về khế ước tặng dữ bất động sản, pháp luật thời kì này quy định việc tặng dữ bất động sản phải lập thành văn bản, có chứng nhận của viên chức thị thực trước mặt người thụ tặng và người thụ nhận phải đồng ý mới có hiệu lực Khế ước tặng dữ có viên chức thị thực hoặc do người quản lý văn khế làm ra mới được đem làm tin ở Tòa án, ngoài ra, các bằng chứng khác không có giá trị Đối với những nơi có sổ bảo tồn điền trạch thì việc tặng dữ còn phải được đăng kí và thông báo cho người ngoài Có thể thấy, “với đối tượng là bất động sản, pháp luật thời kì Pháp thuộc quy định rất chặt chẽ, góp phần bảo vệ quyền lợi của những người có liên quan và thuận tiện cho việc giải quyết tranh chấp”16

 Thời kì từ năm 1945 đến trước năm 2015

16

Bộ tư pháp, viện nghiên cứu khoa học pháp lý (1998), Một số vấn đề về pháp luật dân sự Việt Nam từ thế

kỉ XV đến thời kì Pháp thuộc, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.86

Trang 37

Cách mạng tháng 8/1945 thành công, đất nước ta giành được độc lập, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời Cả nước ra bắt tay vào công cuộc xây dựng nhà nước mới về chính trị, kinh tế - xã hội, pháp luật Tuy nhiên, do tình hình xã hội lúc bấy giờ gặp những khó khăn nhất định, ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí sắc lệnh 90/SL cho phép tạm sử dụng một số luật

lệ ban hành ở Bắc Trung Nam với điều kiện những luật lệ ấy không trái với nguyên tắc độc lập của Nhà nước Việt Nam Chính vì thế, sau khi giành được độc lập, các quy định về hình thức và giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức vẫn tiếp tục sử dụng từ các văn bản pháp luật dân

sự thời Pháp thuộc

Tiếp sau đó, các sắc lệnh số 97/SL ngày 22-5-1950, chỉ thị số 4/DS ngày 14/10/1963 của Tòa án tối cao về đường lối giải quyết những giao dịch hợp pháp và bất hợp pháp thì hình thức của giao dịch dân sự không còn được

đề cập đến

Sau đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VI năm 1986, đất nước ta bước sang thời kì đổi mới cả về kinh tế, chính trị lẫn pháp luật Hình thức giao dịch dân sự bắt đầu được các nhà làm luật quan tâm tới Biểu hiện là sự

ra đời của Pháp lệnh hợp đồng dân sự có hiệu lực ngày 1/7/1991; Pháp lệnh nhà ở ngày 26/3/1991; Pháp lệnh thừa kế ngày 10/9/1990

Bộ luật Dân sự năm 1995 và Bộ luật Dân sự năm 2005 ra đời đánh dấu

sự tiến bộ trong kĩ thuật lập pháp, nhà làm luật đã soạn ra những quy định mới nhằm phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội thời điểm đó, xỏa bỏ hoàn toàn tàn dư của chế độ phong kiến mang tính cổ hủ, lạc hậu, tiếp thu những tinh hoa của pháp luật hiện đại Cả hai bộ luật đều có quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức tại Điều 139 BLDS

1995 và Điều 134 BLDS 2005 Hai bộ luật đều quy định theo hướng, giao dịch dân sự không thể hiện hình thức theo quy định của pháp luật thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác

Trang 38

quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức giao dịch trong một thời hạn, quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu Bên có lỗi làm giao dịch vô hiệu phải bồi thường thiệt hại Trong đó, BLDS 2005 đã thể hiện sự tiến bộ và chặt chẽ hơn khi quy định cụ thể hình thức giao dịch dân sự

là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định (khoản 2 Điều 122 BLDS 2005) Như vậy, đến thời kì này, các nhà làm luật

đã nhận ra sự cần thiết phải quy định hình thức bắt buộc cho những giao dịch

có giá trị lớn, hoặc giao dịch có đối tượng là tài sản đặc biệt như đất đai, góp phần ổn định trật tự xã hội và bảo vệ lợi ích của các bên chủ thể trong giao dịch

1.3.2 Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định

về hình thức theo pháp luật của một số quốc gia trên thế giới

Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có quy định bắt buộc về hình thức đối với một số giao dịch cụ thể, bao gồm các nước trong hệ thống pháp luật Civil Law, các nước thuộc hệ thống pháp luật Common Law, hay các nước trong khu vực như Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan…

Pháp là một nước thuộc Châu Âu lục địa, pháp luật Pháp có ảnh hưởng mạnh mẽ tới pháp luật Việt Nam Bộ luật Dân sự Pháp từng là hình mẫu cho nhiều BLDS ở Việt Nam như Bộ Pháp quy giản yếu áp dụng cho Nam kì thuộc Pháp (1883), Dân luật Bắc kì (1931), Bộ Dân luật Trung kì (1936-1939), Bộ Dân luật (1973) của chế độ Việt Nam công hòa ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975

Pháp luật Pháp có khá nhiều quy định về hình thức bắt buộc của hợp đồng như hợp đồng tặng cho tài sản (Điều 931 BLDS Pháp), hợp đồng thế chấp tài sản (Điều 2127 BLDS Pháp) phải tuân thủ thủ tục công chứng hay việc cầm cố chỉ có thể xác lập bằng văn bản (Điều 2085 BLDS Pháp) Mặc dù quy định khá chi tiết về hình thức bắt buộc của hợp đồng nhưng pháp luật Pháp lại cho rằng, hợp đồng chỉ có hiệu lực khi thỏa mãn bốn điều kiện chủ

Trang 39

yếu sau đây: Các bên giao kết hoàn toàn tự nguyện; Các bên giao kết có năng lực giao kết hợp đồng; Đối tượng của hợp đồng phải xác minh; Căn cứ của hợp đồng phải hợp pháp Như vậy, BLDS Pháp không coi hình thức là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng

Tuy nhiên, trong một số quy định, nhà làm luật đã thể hiện rõ hậu quả của việc không tuân thủ quy định về hình thức Ví dụ, Điều 931 BLDS Pháp:

“Mọi chứng thư tặng cho phải được lập trước công chứng viên, theo hình thức thông thường của hợp đồng và được công chứng viên lưu bản chính Nếu không tuân thủ các quy định này, chứng thư tặng cho sẽ vô hiệu”

Về di chúc, Bộ luật Dân sự Pháp cũng quy định hình thức chung của di chúc và hình thức cụ thể trong những trường hơp đặc biệt Người để lại di sản

có thể lựa chọn một trong số các hình thức di chúc để lập di chúc Khi sau khi lựa chọn, người để lại di sản phải tuân thủ đầy đủ quy định về hình thức di chúc nếu không di chúc sẽ vô hiệu (Điều 1001 BLDS Pháp) Chẳng hạn, Điều 970: “Di chúc viết tay sẽ không có giá trị nếu người lập di chúc không tự mình viết tay toàn bộ di chúc, ghi ngày, tháng và kí tên: di chúc viết tay không phải tuân thủ bất kì quy định nào khác về mặt hình thức.”; Điều 971:

“Di chúc bằng văn bản công chứng phải được hai công chứng viên hoặc một công chứng viên và hai người làm chứng xác nhận”

Hoa Kì cũng là quốc gia coi trọng về hình thức hợp đồng Pháp luật Hoa Kì quy định cụ thể một số loại hợp đồng phải tuân theo hình thức nhất định mới có hiệu lực Đạo luật chống gian lận đòi hỏi các loại hợp đồng sau phải lập thành văn bản: “hợp đồng về việc trả nợ, hợp đồng về hôn nhân, hợp đồng mua bán lợi ích liên quan đến đất đai, hợp đồng không được thực hiện trong thời gian một năm sau khi giao kết, Hợp đồng mua bán một tài sản có giá trị từ 500 đô trở lên”17 Để đảm bảo các hợp đồng này được thực thi,

17

Luật 101 mọi điều bạn cần biết về pháp luật Hoa Kì, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, 2015, tr 310-311

Trang 40

nguyên đơn phải xuất trình được văn bản được bên kia ký, trong đó, có bằng chứng về việc giao kết hợp đồng

Tuy nhiên, cũng có những hợp đồng không tuân thủ yêu cầu về mặt hình thức nhưng vẫn được xem là có hiệu lực như: khi đối tượng của hợp đồng là hàng hóa được sản xuất đặc biệt cho chính người mua đó mà không thích hợp khi bán cho bất cứ người mua nào khác trong quá trình kinh doanh bình thường cho người bán; khi bị đơn trong vụ kiện thừa nhận rằng mặc dù

có giao kết hợp đồng nhưng hợp đồng không thực hiện đối với số lượng hàng hóa vượt ra so với cam kết, hoặc đối với hàng hóa (người mua) đã thanh toán

và chấp nhận hoặc người mua đã nhận hàng và chấp nhận hàng hóa đó18 Thái Lan là nước cùng nằm trong khu vực Đông Nam Á với Việt Nam

và có những điểm tương đồng nhất định trong quy định về hình thức bắt buộc của giao dịch dân sự Bộ luật dân sự và Thương Mại Thái Lan, Điều 115:

“Một hành vi pháp lý không theo đúng hình thức quy định của pháp luật thì bị

vô hiệu” Điều 138: “Khi một hành vi có thể bị vô hiệu, bị hủy bỏ thì hành vi

đó coi như đã vô hiệu ngay từ khi mới bắt đầu… các bên kí kết phải được khôi phục lại điều kiện ban đầu và nếu không thể khôi phục như vậy được thì

họ phải được bồi thường tương ứng” Theo pháp luật Thái Lan, các loại giao dịch bắt buộc phải tuân thủ quy định về hình thức gồm: việc mua bán bất động sản, mua bán tàu thuyền có trọng tải lớn từ 6 tấn trở lên, mua bán sà lan

và thuyền máy có trọng tải từ 5 tấn trở lên, mua bán nhà nổi và gia súc lớn (Điều 456, Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan năm 1995); những tài sản

mà việc mua bán nó phải thể hiện bằng văn bản và được viên chức có thẩm quyền đăng kí thì việc cho tặng tài sản cũng phải tuân thủ hình thức như mua bán (Điều 525); Hợp đồng thuê mướn – mua bán sẽ vô hiệu nếu không được lập bằng văn bản (Điều 572) Về di chúc, pháp luật Thái Lan quy định các loại hình thức của di chúc như sau: di chúc bằng văn bản viết tay, di chúc

18

Lê Minh Hùng (chủ biên) (2015), Hình thức của hợp đồng, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, tr 68

Ngày đăng: 14/03/2019, 21:44

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
26. Bộ Tư pháp (1998), Một số vấn đề về pháp luật dân sự Việt Nam từ thế kỉ XV đến thời kì Pháp thuộc, Nxb chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề về pháp luật dân sự Việt Nam từ thế kỉ XV đến thời kì Pháp thuộc
Tác giả: Bộ Tư pháp
Nhà XB: Nxb chính trị quốc gia
Năm: 1998
27. Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ (2017), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ
Nhà XB: Nxb. Công an nhân dân
Năm: 2017
28. Nguyễn Văn Cường (2005), Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường đại học Luật Hà Nội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu
Tác giả: Nguyễn Văn Cường
Năm: 2005
29. Đỗ Văn Đại (2013), “Hình thức bắt buộc của hợp đồng trong pháp luật Dân sự Việt Nam: Những bất cập và hướng hoàn thiện”, Tạp chí Luật học, (02), tr3-14 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hình thức bắt buộc của hợp đồng trong pháp luật Dân sự Việt Nam: Những bất cập và hướng hoàn thiện”, "Tạp chí Luật học
Tác giả: Đỗ Văn Đại
Năm: 2013
30. Đỗ Văn Đại (2008), Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án
Tác giả: Đỗ Văn Đại
Nhà XB: Nxb. Chính trị quốc gia
Năm: 2008
31. Đỗ Văn Đại (2015), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ Luật dân sự năm 2015, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ Luật dân sự năm 2015
Tác giả: Đỗ Văn Đại
Nhà XB: Nxb. Chính trị quốc gia
Năm: 2015
32. Phạm Quý Đạt (2015), “Hình thức hợp đồng kinh nghiệm pháp luật của các nước và bài học cho Việt Nam”, Dân chủ và pháp luật, (03), tr45-49 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hình thức hợp đồng kinh nghiệm pháp luật của các nước và bài học cho Việt Nam”, "Dân chủ và pháp luật
Tác giả: Phạm Quý Đạt
Năm: 2015
33. Trần Thị Thu Hà (2014), “Về hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu do vi phạm điều kiện về hình thức”, Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao, (02), tr1-3,7 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Về hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu do vi phạm điều kiện về hình thức”, "Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao
Tác giả: Trần Thị Thu Hà
Năm: 2014
34. Phan Thị Hồng (2015), “Chế định giao dịch dân sự trong dự thảo bộ luật dân sự (sửa đổi)”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (20) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chế định giao dịch dân sự trong dự thảo bộ luật dân sự (sửa đổi)”, "Tạp chí nghiên cứu lập pháp
Tác giả: Phan Thị Hồng
Năm: 2015
35. Bùi Đăng Hiếu (2001), “Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối và vô hiệu tuyệt đối”, Tạp chí Luật học, (05), tr37-44 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối và vô hiệu tuyệt đối”, "Tạp chí Luật học
Tác giả: Bùi Đăng Hiếu
Năm: 2001
36. Bùi Đăng Hiếu (2015), “Góp ý về 10 vấn đề trọng tâm lấy ý kiến nhân dân trong dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi)”, Tạp chí Luật Học, (06), tr5- 11 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Góp ý về 10 vấn đề trọng tâm lấy ý kiến nhân dân trong dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi)”, "Tạp chí Luật Học
Tác giả: Bùi Đăng Hiếu
Năm: 2015
37. Trần Thị Huệ, Trần Thị Giang (2013), “Bàn về hình thức và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất”, Dân chủ và Pháp luật, (07), tr2-8 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bàn về hình thức và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất”, "Dân chủ và Pháp luật
Tác giả: Trần Thị Huệ, Trần Thị Giang
Năm: 2013
38. Lê Minh Hùng (chủ biên) (2015), Hình thức của hợp đồng, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hình thức của hợp đồng
Tác giả: Lê Minh Hùng (chủ biên)
Nhà XB: Nxb. Hồng Đức
Năm: 2015
39. Đoàn Đức Lương (2015), “Về hình thức và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng”, Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, (03), tr44-45,64 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Về hình thức và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng”, "Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Tác giả: Đoàn Đức Lương
Năm: 2015
40. Luật 101 mọi điều bạn cần biết về pháp luật Hoa Kì, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, 2015 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật 101 mọi điều bạn cần biết về pháp luật Hoa Kì
Nhà XB: Nxb Hồng Đức
41. Vũ Văn Mẫu (1963), Việt Nam Dân luật lược khảo, quyển II, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản Sách, tạp chí
Tiêu đề: Việt Nam Dân luật lược khảo
Tác giả: Vũ Văn Mẫu
Năm: 1963
42. Lê Đình Nghị (chủ biên) (2009), Giáo trình luật Dân sự Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình luật Dân sự Việt Nam
Tác giả: Lê Đình Nghị (chủ biên)
Nhà XB: Nxb. Giáo dục
Năm: 2009
45. Lê Thị Sơn (chủ biên) (2004), Quốc triều hình luật – Lịch sử hình thành nội dung và giá trị, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quốc triều hình luật – Lịch sử hình thành nội dung và giá trị
Tác giả: Lê Thị Sơn (chủ biên)
Nhà XB: Nxb Khoa học xã hội
Năm: 2004
46. Đinh Văn Thanh (2005), “Hiệu lực và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng dân sự”, Tạp chí Luật học, (Số chuyên đề về Bộ luật Dân sự), tr.53- 56 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hiệu lực và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng dân sự”, "Tạp chí Luật học
Tác giả: Đinh Văn Thanh
Năm: 2005
47. Lê Thị Bích Thọ (2002), Hợp đồng kinh tế vô hiệu và hậu quả pháp lý của nó, Luận án tiến sĩ Luật học, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hợp đồng kinh tế vô hiệu và hậu quả pháp lý của nó
Tác giả: Lê Thị Bích Thọ
Năm: 2002

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w