1.Giới thiệu về kháng chấn nhà cao tầng: 2.Khái niệm: 3.Cấu tạo kháng chấn: 4.Giải pháp kháng chấn: 5.Tương tác với các dạng hình học kiến trúc: Trong thời gian gần đây, xu hướng phát triển các công trình xây dựng có kết cấu thanh mảnh bằng việc áp dụng các loại vật liệu cường độ cao đã tạo ra những cuộc chạy đua về chiều cao công trình, chiều dài nhịp cầu treo…Tuy nhiên, độ cản kết cấu của các công trình hiện đại này khá nhỏ do đó nó chịu tác dụng động khá mạnh của các yếu tố môi trường như gió bão, sóng biển và động đất... Chúng tạo ra những dao động không mong muốn và có thể gây mất ổn định công trình (sự cố sụp cầu Tacoma năm 1940) cũng như ảnh hưởng đến các hoạt động của con người và phương tiện trên công trình trong quá trình thi công cũng như khai thác sử dụng. Hiện nay việc xây dựng các tòa nhà cao tầng đang phát triển rất nhanh do nhu cầu nhà ở ngày càng tăng. Do đó việc nghiên cứu các biện pháp làm tính cản, giảm dao động công trình đã và đang được phát triển trong vài thập kỷ qua và đã đạt được những thành công không nhỏ. Sản phẩm của những nghiên cứu trong lĩnh vực này là các loại vật liệu cộng nghệ cao và các liên kết thông minh nhằm tăng tính cản của bản thân kết cấu. Bên cạnh đó là việc phát triển các thiết bị giảm chấn lắp đặt trên công trình.
Trang 1TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG KHOA KIẾN TRÚC VÀ QUY HOẠCH
MÔN HỌC:CẤU TẠO KIẾN TRÚC CHUYÊN ĐỀ:KHÁNG CHẤN NHÀ
CAO TẦNG.
Trang 2Nội dung chuyên đề:
• 1.Giới thiệu về kháng chấn nhà cao tầng:
Trang 3I.GIỚI THIỆU:
-Trong thời gian gần đây, xu hướng phát triển các công trình xây dựng có kết cấu thanh mảnh bằng việc áp dụng các loại vật liệu cường độ cao đã tạo ra những cuộc chạy đua về chiều cao công trình, chiều dài nhịp cầu treo…Tuy nhiên, độ cản kết cấu của các công trình hiện đại này khá nhỏ do đó nó chịu tác dụng động khá mạnh của các yếu tố môi trường như gió bão, sóng biển và động đất Chúng tạo ra những dao động không mong muốn và có thể gây mất ổn định công trình (sự cố sụp cầu Tacoma năm 1940) cũng như ảnh hưởng đến các hoạt động của con người và phương tiện trên công trình trong quá trình thi công cũng như khai thác sử dụng
-Hiện nay việc xây dựng các tòa nhà cao tầng đang phát triển rất nhanh do nhu cầu nhà ở ngày càng tăng
-Do đó việc nghiên cứu các biện pháp làm tính cản, giảm dao động công trình đã và đang được phát triển trong vài thập kỷ qua và đã đạt được những thành công không nhỏ Sản phẩm của những nghiên cứu trong lĩnh vực này là các loại vật liệu cộng nghệ cao và các liên kết thông minh nhằm tăng tính cản của bản thân kết cấu Bên cạnh đó là việc phát triển các thiết bị giảm chấn lắp đặt trên công trình
Trang 4I.GIỚI THIỆU:
Trang 5II.KHÁI NIỆM KHÁNG CHẤN:
thiết kế sao cho công trình xây dựng đảm bảo đủ khả
đất,sóng thần,gió bão….
Trang 6III.CẤU TẠO KHÁNG CHẤN NHÀ CAO TẦNG:
Cấu tạo kháng chấn nhà cao tầng có thể được chia làm hai phần :
-Cấu tạo kháng chấn nội tại bản thân của công trình : thiết kế các cấu kiện như dầm,cột ,móng có kết cấu chịu được những dao động bất lợi gây nguy hiểm cho công trình.
-Cấu tạo kháng chấn bên ngoài kết cấu công trình : các thiết bị được lắp thêm vào công trình để chống lại những dao động , có thể kể đến như:
Trang 72.TRIỆT TIÊU NGOẠI LỰC:
A.Tính cản của công trình
Khả năng tiêu tán năng lượng của kết cấu thông qua các ngoại lực là một trong những kiến thức nền tảng nhất trong phân tích dao động của công trình như tháp, nhà cao tầng, cầu
hay các công trình dân dụng khác
Năng lượng tiêu tán có thể do nhiều nguyên nhân như:
- Sự đàn hồi không đồng nhất của vật liệu công trình
- Sự suất hiện vùng dẻo và ma sát do chuyển vị nhỏ của các nút
- Nội ma sát của vật liệu
- Ma sát do sự co giãn của kết cấu sàn hoặc bệ móng
- Ma sát tại các gối di động của cầu
- Sự cản khí động lực
- Tính chất phi tuyến của kết cấu, ví dụ như các dây cáp
- Năng lượng tiêu tán thông qua nền, móng và các kết cấu chống đỡ khác
-Các thiết bị giảm chấn nhân tạo được lắp đặt trên kết cấu.
B.Tính cản của Khung BTCT và Khung Thép:
Khung bê tông cốt thép có tính cản lớn nên thích hợp với tải gió động hơn
Khung Thép có tính cản thấp nên thích hợp với tải trọng động đất hơn
Người ta làm thí nghiệm mô phỏng dưới tác động của động đất
+ khung BTCT do có tính cản lớn nên đã bị phá hủy tại nút khi có chuyển vị ngang
+ khung Thép do có tính cản thấp nên trước tác động của tải động đất khung Thép không bị phá hoại khi có chuyển vị ngang.
Trang 8Thí nghiệm với khung bê tông cốt thép
Trang 93.Cấu tạo kháng chấn nội tại bản thân công trình
Chính kết cấu cấu tạo nên công trình được thiết kế
để có khả năng kháng chấn trước dao động của công
trình dưới tác động của ngoại lực Nói cách khác là
thiết kế các bộ phận như dầm, cột , móng và các liên
kết được cấu tạo đặc biệt có khả năng kháng chấn.
a.Cấu tạo móng:
-Độ cứng của hệ móng phải đủ để truyền những tác
động nhận được từ kết cấu bên trên xuống nền đất
càng đều đặn càng tốt.
-Chỉ nên sử dụng một dạng móng cho một công
trình.
Ví dụ : -Tòa tháp Taipei 101 tầng ở Đài Bắc với hệ
móng gồm 360 cọc khoan nhồi sâu 80 m với đường
kính 1.5 m chịu được tải trọng 1000 đến 1320 tấn
-Tòa nhà Buji Dubai cũng sử dụng cọc khoan nhồi
đường kính 1.5 m.
Trang 10b.Cấu tạo cột:
-Kết cấu BTCT : Hàm lượng cốt thép cột tối đa : + Kết cấu thường : µmax = 5%
Trang 11Ví dụ về nút khung,dầm và liên kết dầm cột
Trang 12Kết cấu Thép :Các chi tiết liên kết giữa cột và dầm tạo thành liên kết cứng.
Ngoài ra trong kết cấu thép
nhà cao tầng còn bố trí hệ
giằng
Hệ giằng trong kết cấu thép.
Trang 134.Cấu tạo kháng chấn ngoài kết cấu công trình:
-Khi tính cản tự có của kết cấu công trình không đủ tiêu tán năng lượng do dao động gây ra,để tăng tính cản của công trình mà không phải thay đổi trạng thái ban đầu của nó là lắp đặt các thiết bị giảm dao động lên công trình nhằm kiểm soát dao động của công trình
-Một số thiết bị đã được nghiên cứu và đưa vào sử dụng rất hiệu quả trong các công trình nhà cao tầng như:
Thiết bị cản bị động : không cần năng lượng để kích hoạt
+ Gối đệm cao su
+ Piston thủy lực
+ Bể nước
Thiết bị cản khối lượng:
+ Con lắc
Thiết bị cản chủ động : cần năng lượng để kích hoạt
a.Gối đệm cao su :Cách ly công trình với nền đất khi có dao động xảy ra,điển hình
là thiết bị HDR ( High Damping Rubber bearing )
Trang 15c.Bể nước :
Thiết bị giảm chấn bằng chất lỏng.
Trang 16khối lượng mà tần số dao động riêng
của nó được điều chỉnh đến tần số
riêng ban đầu của công trình, qua đó
năng lượng dao động của công trình
sẽ được hấp thụ và tiêu tán thông qua
hệ thứ cấp.
TMDs đặc biệt phát huy tác dụng khi
công trình ở trạng thái dao động bình
ổn trước khi cần một khoảng thời
gian nào đấy để chuyển năng lượng
dao động trước khi tiêu tán nó Hiệu
quả giảm chấn của TMDs sẽ giảm khi
công trình dao động với lực kích
động thay đổi liên tục như tải trọng
Trang 17Hệ thống con lắc điều hòa (tuned mass damper) lắp đặt trên đỉnh tòa nhà Taipei 101 ở Đài Bắc.
Trang 18IV.Giải pháp kháng chấn:
• Quan niệm thiết kế kháng chấn truyền
thống:
Trước đây, trong các tiêu chuẩn kháng chấn người ta chỉ
mới xem xét đến yếu tố lực tác động mà chưa chú ý đến
phương diện năng lượng do động đất truyền vào công
trình Do đó, người ta chỉ quan tâm đến khả năng chịu lực
của kết cấu và thường quy định thiết kế công trình làm
việc trong miền đàn hồi Tuy nhiên, qua quan sát thực tế,
nội lực xuất hiện trong kết cấu thường lớn hơn từ ba đến
bốn lần nội lực xác định theo thiêu chuẩn kháng chấn hiện
hành cho một trận động đất có cùng cường độ Và mặc dù
nội lực gia tăng rất lớn nhưng công trình vẫn đứng vững
sau các trận động đất vượt cấp động đất thiết kế cho
phép Có thể giải thích đIều này như sau:
• Sự hình thành “khớp dẻo” ở một số cấu kiện chịu lực: các
biến dạng dẻo không những làm tăng chu kỳ dao động
riêng công trình mà còn hấp thụ phần lớn năng lượng
động đất đưa vào kết cấu.
• Khả năng phân tán năng lượng vốn bị bỏ qua khi tnh toán
kết cấu: chẳng hạn như khả năng phân tán năng lượng của
các cấu kiện không chịu tải (do nứt, hoặc do ma
sát…); hoặc biến dạng nền đất và sự tác dụng tương
hỗ giữa đất nền và công trình cũng hấp thụ và phân tán
một phần năng lượng do động đất truyền vào .
• Chính vì một số yếu tố nêu trên chưa được đề cập đến
trong thiết kế kháng chấn, nên việc quy định thiết kế các
công trình chỉ làm việc trong giai đoạn đàn hồi dưới tác
dụng của động đất là chưa hợp lý và có thể xem là
• Bảo đảm kết cấu có khả năng chiu lực lớn trong miền đàn
hồi.
• Bảo đảm cho kết cấu có khả năng phân tán năng lượng do
động đất truyền vào, thông qua sự biến dạng dẻo trong giới hạn cho phép hoặc các thiết bị hấp thu năng lượng.
• Một trong những quy định cơ bản của các tiêu chuẩn thiết
kế kháng chấn hiện đại là tạo cho kết cấu công trình một độ
bền đủ lớn và một độ cứng thích hợp.
• Độ bền đủ lớn nhằm gia tăng khả năng chịu lực của kết
cấu.
• Độ cứng thích hợp nhằm giúp công trình có sự cân bằng
hài hòa về mặt động lực học Bởi tác dụng rung lắc của động đất làm phát sinh chuyển vị và gia tốc trong công trình Nếu công trình có độ cứng quá lớn thì gia tốc sinh ra
sẽ vô cùng lớn, gây rơi vãi đồ đạc thiết bị bên trong nhà dẫn đến thiệt hại về mặt kinh tế Ngược lại, nếu công trình quá mềm thì chuyển vị tương đối giữa các tầng quá lớn, gây biến dạng đáng kể cho cả công trình, làm hư hại các nút liên kết của khung chịu lực, nứt tường, vênh cửa…, ngoài
ra dao động của công trình cũng phát sinh đáng kể gây ảnh hưởng đến tâm lý của người sinh sống và làm việc trong tòa nhà.
=>Như vậy, quan niệm thiết kế hiện đại đã lưu ý thêm phương diện năng lượng do động đất truyền vào công trình Việc thiết kế và tính toán sao cho kết cấu có khả năng phân tán phần năng lượng này có một ý nghĩa quan trọng nhằm giúp công trình làm việc hiệu quả nhất khi có động đất xảy ra.
Trang 19Các giải pháp thiết kế kháng chấn xem xét đến việc phân tán năng lượng
Để tránh hiện tượng suy yếu cục bộ dẫn đến phá hoại
công trình như trên, một số giải pháp thiết kế được
đưa ra nhằm hấp thụ bớt và phân tán đều năng
lượng động đất cho toàn bộ công trình
(a)-Đơn thuần; (b)-Cách chấn; (c)-Giảm chấn
Một công trình xây dựng bị phá hoại trong động đất
do hiện tượng suy yếu cục bộ tại một tầng (weak story mechanism)
Trang 20Giải pháp cách chấn (seismic isolated structure).
Do chấn động lan truyền trong đất
nền nên phương pháp hay nhất
để hạn chế tác động của động đất là
tách rời hẳn công trình khỏi đất nền
Tuy nhiên, do không thể tách rời
hoàn toàn, người ta bố trí lớp thiết
bị đặc biệt giữa công trình và đất
nền gọi là thiết bị cách chấn
(isolator) Thiết bị này có độ cứng
thấp nên khi nền đất dao động, thiết
bị có biến dạng lớn, kết cấu phía trên
nhờ có quán tnh lớn nên chỉ chịu
một dao động nhỏ Hư hại kết cấu và
thiết bị trong công trình do đó được
giảm thiểu.
Hiệu quả của giải pháp cách chấn so với kết cấu thông thường.
Trang 21Phương pháp cách chấn này không chỉ áp dụng để tách rời toàn bộ công trình khỏi đất nền, mà còn có thể áp dụng theo nhiều cách khác như tách rời một phần thân, đỉnh hoặc mái khỏi phần kết cấu phía dưới, tùy thuộc đặc điểm
từng công trình.
Biến dạng của kết cấu đơn thuần.
Khi cách chấn, năng lượng động đất
được hấp thụ và tiêu tán, dao động
của kết cấu phía trên cũng được
giảm đáng kể.
Trang 22Giải pháp giảm chấn (damped structure): trong trường hợp
năng lượng dao động truyền trực tiếp vào công trình do
không được tách rời, người ta có thể gia tăng độ cản
(damping) của bản thân công trình để giải phóng năng lượng
dao động này bằng cách lắp đặt các thiết bị giảm chấn
(damper) vào công trình Có nhiều hình thức giảm chấn: thụ
động, chủ động hay nửa chủ động.
Giảm chấn không điều khiển (passive control): đây là hình thức giảm chấn mà nguồn năng lượng hoạt động của các thiết bị giảm chấn được lấy từ chính năng lượng dao động của bản thân công trình Năng lượng có thể được tiêu tán
dưới dạng nhiệt năng của hiện tượng ma sát (friction
damper), biến dạng dẻo của kim loại (buckling restrained brace, stifened shear panel), tnh cản nhớt (viscous/visco- elastic damper) hoặc độ cản thủy lực (oil damper). Có nhiều
phương thức lắp đặt các thiết bị này trong công trình (xem hình dưới)
Các hình thức lắp đặt thiết bị “damper” trong
giảm chấn không điều khiển (passive control).
Hệ thống “tường/khung cứng chân khớp” (rocking wall/frame) cũng có khả năng giảm chấn và phân tán lực cho công trình.
Trang 23Giảm chấn có điều khiển (active control): các thiết bị
dạng này hoạt động được nhờ vào cấc nguồn năng
lượng từ bên ngoài (điện, khí nén…) Thông qua các
cảm biến, thông tin về tải trọng, về dao động của
công trình được đưa về bộ xử lý trung tâm Bộ điều
khiển trung tâm sẽ xử lý tn hiệu và phát lệnh cho bộ
phận thi hành để thực hiện việc tăng độ cản hay phát
lực điều khiển chống lại dao động, chẳng hạn như
các hệ thống TMD (Tuned Mass Damper), LTD (Liquid
Tuned Damper)…
Ngoài ra, người ta còn sử dụng kết hợp thiết bị giảm chấn với thiết bị cách chấn, cũng như đưa thêm khả năng chủ động vào hệ thống để tăng thêm hiệu quả kháng chấn cho công trình
Giải pháp cách chấn có điều khiển
(super-active base isolation) ở công trình Obayashi
Techno Station, Tokyo
Phối hợp cách chấn và giảm chấn (isolator và oil damper) trong một công trình.
Trang 24Thiết bị cản chủ động : (active control of structure vibrations)
Trang 25V.TƯƠNG TÁC,ẢNH HƯỞNG CỦA GIẢI PHÁP KHÁNG
CHẤN TỚI HÌNH THỨC KIẾN TRÚC:
Thiết kế kháng chấn – Buckling restrained brace.
tại trường Đại học Công nghệ Tokyo (Tokyo Institute of
30 năm, không đủ khả năng chịu động đất, do đó cần được cải tạo
Để gia cố tòa nhà này, người ta sử dụng các
thanh giằng có khả năng hấp thụ và tiêu tán
năng lượng do động đất truyền vào, nhờ cấu
tạo đặc biệt có thể nén giãn đúng tâm (tên tiếng
Anh của loại thanh giằng này là steel
energy-dissipation brace, hay buckling restrained
brace).
Trang 26Thí nghiệm cho thấy sự khác biệt giữa khung bê tông thông thường và khung bê tông đã gia cố
Sự phối hợp nhịp nhàng giữa kết cấu
và kiến trúc là ở đây: sau khi các
thanh giằng được lắp đặt, lớp lam
ngang được đặt ngoài cùng nhằm
hoàn thiện tnh thẩm mỹ cũng như
điều hòa dòng không khí đối lưu cho
toàn bộ công trình.
Trang 27Sự hòa quyện tuyệt vời giữa đường nét kiến trúc và chức năng kết cấu
Và đây là tòa nhà sau khi được cải tạo, với một dáng dấp hiện đại, tao nhã.
Trang 28Thiết kế kháng chấn – Rocking wall:tại trường Đại học Công nghệ Tokyo
(Tokyo Institute of Technology) ở tòa nhà G3 (Suzukakedai Campus).
Toàn cảnh Suzukakedai Campus của trường Đại học
Công nghệ Tokyo Tòa nhà G3 nằm ở góc trái hình
Tòa nhà được xây dựng năm 1979, chiều cao 39,7 m,
gồm 11 tầng và 1 tầng hầm, kết cấu bê tông cốt thép,
đã khá cũ kỹ cần được cải tạo
Quan niệm thiết kế cải tạo cho công trình này rất đơn giản Thay vì để một tầng bị phá hoại do sự suy yếu cục bộ của công trình, người ta khống chế sao cho chuyển vị ngang của các tầng là như nhau,
nhờ đó lực tác động của động đất vào các tầng được phân bố hài hòa hơn, biến dạng và phá hoại của công trình được giảm thiểu
Để tránh cho nhà khỏi bị sập người ta có thể gia cố bằng cách gắn thêm thanh giằng tại các tầng
Trang 29Ở đây, người ta đưa ra giải pháp khác, gắn vào cả tòa
nhà một dạng tường cứng có khả năng chuyển vị
tương đối (từ chuyên môn là rocking wall, tạm dịch
là “tường nhảy nhót” vì nó có thể nhún nhảy theo tòa
nhà!)
Vì tường ngăn theo phương cạnh ngắn giúp tòa nhà cứng hơn theo phương này Do đó, chỉ cần gia cố thêm theo phương cạnh dài
Hình ảnh minh họa cho việc lắp đật thêm hệ thống tường cứng “rocking wall” này Vì sao tường cần phải nhún nhảy? Vì cần phải tiêu tán bớt năng lượng do động đất truyền vào công trình Đây là điểm khác biệt lớn nhất so với tường cứng thông thường
Và tòa nhà đã được khoác áo mới sau khi cải tạo Không bị các thanh giằng xiên xiên làm cho xấu xí như phương pháp thông thường
Chi tiết cấu tạo nút khớp ở dưới đáy giúp
hệ tường có thể “nhún nhảy” Nút khớp này
có thể chịu cắt nhưng giải phóng được momen.
Trang 30Sau những mẫu thí nghiệm để lựa chọn ra cấu tạo thích hợp nhất cho thiết bị giảm chấn (damper).Và đây
là lựa chọn cuối cùng để áp dụng vào công trình.Thiết bị giảm chấn giúp cho công trình “dễ chịu” hơn
trước động đất, vì nó hấp thụ và tiêu tán bớt năng lượng
Nét thú vị khi nhìn vào tòa nhà này là sự hài hòa giữa ý tưởng kết cấu và tnh thẩm mỹ
Trang 31Thiết kế kháng chấn - Base isolation tại trường Đại học Công
nghệ Tokyo (Tokyo Institute of Technology)
Với tòa nhà J2 tại Suzukakedai Campus, kết cấu thép, áp dụng phương pháp cách chấn
nền (base isolation).
Tòa nhà J2, cao 20 tầng (91,3 m), kích thước nhịp 15,8 m và bước cột 6,6 m.
Nguyên lý thiết kế cách chấn được hiểu đơn giản như sau: thông thường công trình sẽ nhận toàn bộ lực động đất xô ngang, tuy nhiên khi có lớp cách chấn thì công trình được “tách rời” tương đối với mặt đất, nhờ đó giảm được ảnh hưởng bởi tác động xô ngang của động đất
Mô hình lớp cách chấn cho thấy toàn bộ các cột được tách rời khỏi
hệ móng và được đặt lên hệ thống gối đỡ cách chấn hay gọi tắt
là gối đệm (isolator) Có thể hình dung như tòa nhà được “bưng”
hẳn lên khỏi mặt đất bởi các gối đệm này Khi động đất xảy ra, tòa nhà sẽ dao động “êm ái” hơn vì được các gối đỡ “ẵm bồng” và hấp thụ bớt năng lượng.